Tải bản đầy đủ (.doc) (154 trang)

Đổi mới cơ cấu chi NSNN nhằm thúc đẩy phát triển KT XH ở CHDCND lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (663.81 KB, 154 trang )

-1-
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trải qua nhiều năm tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng Nhân dân
cách mạng (NDCM) Lào khởi xướng và lãnh đạo đất nước; nhất là từ năm
1986 đến nay đã có những thành tựu nổi bật, như: Quốc phòng, an ninh được
giữ vững; kinh tế-xã hội (KT-XH) liên tục phát triển; đời sống nhân dân đã
được cải thiện rõ rệt; hệ thống chính trị được củng cố; quan hệ đối ngoại đã
được mở rộng, vai trò, uy tín của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
(CHDCND) Lào ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Đạt được những thành tựu trên đây có phần đóng góp quan trọng của
ngân sách nhà nước (NSNN) - công cụ tài chính quan trọng của Nhà nước.
Chi NSNN ở CHDCND Lào trung bình hàng năm tăng ở mức độ đáng kể.
Tốc độ tăng chi NSNN ở CHDCND Lào cao như vậy đã tạo ra cơ hội để đổi
mới cơ cấu chi NSNN nhằm thúc đẩy phát triển KT-XH, tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, thực tiễn điều hành NSNN ở CHDCND Lào trong thời gian
qua còn có nhiều bất cập, như: Cơ cấu chi NSNN chưa góp phần phân bổ
nguồn lực tài chính công hiệu quả hơn giữa các loại hình chi; Giữa các ngành,
các lĩnh vực; chưa đảm bảo phân bổ công bằng và hướng về người nghèo
nhiều hơn. Mặt khác, do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ảnh
hưởng đến việc thực hiện cơ cấu chi NSNN, mà hậu quả là phải cắt giảm một
số khoản chi, dẫn đến không đạt mục tiêu phát triển KT-XH đã đề ra. Nhận
thức được điều đó, trong quá trình phát triển đất nước để thực hiện được các
mục tiêu và giải quyết vấn đề đặt ra, Nhà nước phải có chủ trương, chính
sách, giải pháp tích cực để từng bước nâng cao chất lượng điều hành chi
NSNN, trong đó có giải pháp đổi mới cơ cấu chi NSNN.
Để góp phần giải quyết những vấn đề cấp bách đã nêu trên, tác giả đã
mạnh dạn chọn đề tài: “Đổi mới cơ cấu chi NSNN nhằm thúc đẩy phát triển
KT-XH ở CHDCND Lào” để nghiên cứu và làm luận án tiến sĩ kinh tế.
-2-


2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, đã có nhiều tiếp cận nghiên cứu về lý luận và thực
tiễn có liên quan đến chi và quản lý chi NSNN. Sản phẩm của mỗi cách tiếp
cận đó có thể là các luận văn ở trình độ Thạc sĩ; có thể là các luận án ở trình
độ Tiến sĩ; hoặc cũng có thể là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học, hay
các bài báo thuộc các cấp khác nhau quản lý;…Tuy nhiên, với các mục đích
nghiên cứu khác nhau thì kết quả kỳ vọng đối với sản phẩm nghiên cứu khác
nhau. Nên tác giả của mỗi công trình đó cũng đã biết giới hạn lại phạm vi
nghiên cứu cho phù hợp. Có thể khái quát nội dung của các công trình trên
qua một số nét sau:
2.1. Các nghiên cứu trong nước
Cùng với quá trình đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế, đổi mới quản lý
NSNN ở CHDCND Lào cũng đã được Đảng NDCM và Chính phủ CHDCND
Lào đặc biệt quan tâm. Chính yếu tố này đã thúc đẩy các nhà quản lý, các nhà
nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế nói chung và tài chính công nói riêng đầu tư
công sức để nghiên cứu, tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho tiến trình đổi
mới cơ chế quản lý NSNN ở CHDCND Lào trong những năm vừa qua.
Thực tế cho thấy có khá nhiều các bài báo được đăng tải trên tạp chí
của ngành Tài chính Lào xuất bản hàng tháng cũng có đề cập đến từng khía
cạnh riêng, nhỏ lẻ có liên quan đến xu hướng đổi mới quản lý NSNN, như:
Khamkeo Chanthavong với bài “Đổi mới phân cấp quản lý ngân sách địa
phương ở tỉnh Luangnamtha” đăng trên Tạp chí Tài chính tháng 4/2010;
Khamtanh Phommaseng với bài “Tăng cường quản lý chi ngân sách Thành
phố Viêng chăn” đăng trên Tạp chí Tài chính tháng 2/2009; Sisouphan với bài
“Đổi mới cách thức phân bổ kinh phí NSNN cho giáo dục phổ thông ở
CHDCND Lào” đăng trên Tạp chí Tài chính tháng 5/2011;.v.v… Điểm chung
nhất của các bài báo là chủ yếu đề xuất những ý kiến mang tính tác nghiệp
-3-
gắn liền với vị trí mà các tác giả đang phải thực thi trách nhiệm trong quản lý
NSNN ở một ngành, hay ở một địa phương cụ thể. Do vậy, những thông tin từ

quản lý NSNN trên một giác độ nào đó của thực tiễn ở mỗi địa phương hay
mỗi ngành đã được trình bày có giá trị tham khảo cho các nhà hoạch định
chính sách về quản lý NSNN ở Bộ Tài chính CHDCND Lào, hay các quan
chức trong bộ máy Chính phủ có trách nhiệm trong quản lý kinh tế của đất
nước. Mặt khác, đây cũng là diễn đàn thể hiện tính dân chủ trong luận bàn,
đánh giá và tham vấn chính sách về quản lý NSNN một cách rộng rãi, thể
hiện quan điểm phát huy dân chủ của Chính phủ trong quản lý kinh tế nói
chung và NSNN nói riêng. Tuy nhiên, hàm lượng nghiên cứu mang tính lý
luận và những đòi hỏi trình bày phải có tính lôgic cho các đề xuất, kiến nghị
hoặc các luận giải về hiện tượng đã và đang diễn ra trong thực tiễn thì còn rất
thiếu hoặc rất nông cạn.
Gần đây đã có những công trình mang tầm lý luận và có tính khoa học
cao hơn xuất hiện trong lĩnh vực nghiên cứu về NSNN ở CHDCND Lào, như:
Luận văn Thạc sĩ kinh tế về đề tài: “Giải pháp tăng cường quản lý chi
NSNN tại nước CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay” của học viên
Phonexay Phongsavanh năm 2010. Tác giả của bản luận văn này đã đạt được
những thành công sau:
Đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận xoay quanh các khâu của chu
trình quản lý chi NSNN;
Đã thực hiện đánh giá thực trạng quản lý chi NSNN ở CHDCND Lào
giai đoạn 2001-2009 và chỉ ra các ưu, nhược điểm trong quản lý chi theo từng
khâu của chu trình đó;
Đã đề xuất được hệ thống giải pháp (gồm 06 nhóm giải pháp) nhằm
tăng cường quản lý chi NSNN ở CHDCND Lào cho các năm 2010 trở đi.
-4-
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một bản luận văn ở trình độ Thạc sĩ
nên nội dung cũng chủ yếu tập trung vào đánh giá những hoạt động quản lý
chi NSNN trên giác độ tuân thủ pháp luật của quản lý NSNN hiện hành, hầu
như chưa biết gắn giữa quản lý chi NSNN với trách nhiệm của các cơ quan
công quyền trong việc dùng tiền của NSNN vào việc thực hiện các nhiệm vụ

xây dựng phát triển KT-XH mà chính các cơ quan đó phải làm. Cũng chính từ
việc không biết ràng buộc giữa sử dụng tiền với nhiệm vụ các cơ quan công
quyền phải làm nên cái mà luận văn gọi là các giải pháp cũng mới chỉ dừng
lại như là các khuyến nghị mang tính chất định tính đáp ứng tăng cường quản
lý chi NSNN cho thời gian đã qua.
Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài: “Phân cấp quản lý NSNN ở
CHDCND Lào - Thực trạng và giải pháp” do NCS Pangthong Luangvanxay
hoàn thành đầu năm 2011, lại chọn cách tiếp cận thúc đẩy đổi mới quản lý
NSNN ở CHDCND Lào theo hướng gắn kết với đổi mới về thể chế.
Những thành công nổi bật của luận án là:
Đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về phân cấp quản lý NSNN và
thống nhất nhận thức: Phân cấp quản lý NSNN nhất thiết phải gắn liền và bị
các yêu cầu của phân cấp quản lý về KT-XH chi phối;
Đã phân tích và làm sáng tỏ được mô hình phân cấp quản lý NSNN ở
CHDCND Lào từ năm 1986-2009 qua 4 giai đoạn gắn liền với những thay đổi
về cơ chế phân cấp quản lý về KT-XH qua mỗi giai đoạn đó;
Trên cơ sở đánh giá thực trạng của phân cấp quản lý NSNN qua 4 giai
đoạn nêu trên, kết hợp với chủ trương, đường lối về phân cấp quản lý KT-XH
những năm tới, luận án đã đề xuất 06 nhóm giải pháp nhằm tăng cường phân
cấp quản lý NSNN ở CHDCND Lào những năm 2010-2015.
Mặc dù những thành công của luận án là không thể phủ nhận, nhưng
những thành công đó cũng mới chỉ được nhìn nhận trên giác độ phân cấp về
-5-
quản lý nguồn thu, nhiệm vụ chi gắn với cơ quan công quyền các cấp ở
CHDCND Lào trong thời gian đã qua. Tác giả của bản luận án vẫn chưa làm
rõ được trách nhiệm của chính các cơ quan công quyền các cấp đó trong việc
sử dụng công cụ ngân sách để thúc đẩy sự phát triển KT-XH trên mỗi địa bàn
mà mình đã được phân cấp quản lý. Hay nói cách khác, những quan hệ kinh tế
và lợi ích, chưa được làm sáng tỏ cả về cơ sở lý luận cũng như thực tiễn quản
lý thông qua cơ chế phân cấp quản lý NSNN ở CHDCND Lào thời gian qua.

Thay vào đó là những mô tả nặng về diễn biến tình hình thu, chi NSNN qua
các giai đoạn nghiên cứu để rồi rút ra các nhận xét đánh giá nặng về cảm tính.
Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài:“Giải pháp thực hiện cân đối NSNN ở
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn 2011-2015” do NCS Phanxay
Thammasith hoàn thành cuối năm 2011, lại có cách tiếp cận nghiên cứu về
NSNN ở CHDCND Lào trên giác độ cân đối.
Những thành công đáng ghi nhận của bản luận án này là:
Đã trình bày có hệ thống những vấn đề lý luận về cân đối NSNN trên
các giác độ cân đối giữa thu, chi bằng tiền, và cân đối ở tầm vĩ mô theo cơ
cấu ngành kinh tế;
Đã phân tích thực trạng cân đối thu, chi NSNN và khả năng gây ra các
tác động của nó tới sự phát triển của nền kinh tế ở CHDCND Lào những năm
1999-2010;
Đã đề xuất hệ thống các giải pháp gồm 03 nhóm theo cách tiếp cận từ
hoàn thiện chính sách quản lý thu, chi đến hoàn thiên về nguyên tắc và
phương pháp cân đối, và hoàn thiện về tổ chức các biện pháp mang tình
nghiệp vụ để cân đối thu, chi NSNN giai đoạn 2011-2015.
Do quá quan tâm đến các số liệu về cân đối thu, chi nên mối quan hệ
ràng buộc tất yếu giữa cân đối thu, chi NSNN với các cân đối lớn trong nền
kinh tế lại chưa được tác giả của bản luận án này khai thác và làm cho sáng
-6-
tỏ. Chính vì vậy, người ta vẫn thấy thiếu vắng những trách nhiệm của các cơ
quan công quyền trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giải quyết các mối quan
hệ cân đối lớn trong nền kinh tế thông qua cân đối thu, chi NSNN này.
2.2. Các nghiên cứu ngoài nước co liên quan đến đề tài
Là đất nước láng giềng có nghĩa tình sâu đậm, có nhiều nét tương đồng
với CHDCND Lào, CHXHCN Việt Nam cũng đã và đang nỗ lực thực hiện
cải cách quản lý NSNN-cốt lõi của quản lý tài chính công, từ năm 2001 đến
nay. Chính vì vậy, những công trình khoa học liên quan đến đổi mới quản lý
NSNN ở CHXHCN Việt Nam rất nhiều. Trong đó, sát thực với tên đề tài luận

án mà NCS đang thực hiện nghiên cứu tại Lào, thì ở CHXHCN Việt Nam đã
có những công trình lớn sau:
2.2.1. Các luận án Tiến sĩ kinh tế
(1) Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài: “Đổi mới cơ cấu chi NSNN trong
điều kiện hiện nay ở Việt Nam” do NCS Nguyễn Khắc Đức hoàn thành năm
2002. Những thành công đáng ghi nhận của luận án này, bao gồm:
Đã đưa ra những vấn đề lý luận về NSNN và cơ cấu chi NSNN, trong
đó nhấn mạnh về nội dung, đặc điểm của cơ cấu chi NSNN, các nhân tố ảnh
hưởng đến cơ cấu chi, một số mô hình cơ cấu chi NSNN;
Đã sử dụng hệ thống số liệu để phân tích cơ cấu chi NSNN ở CHXHCN
Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thời kỳ 1989-
2000 gắn với hai giai đoạn: giai đoạn 1989-1995, trước khi có Luật NSNN năm
1996 và giai đoạn 1996-2000, sau khi có Luật NSNN năm 1996;
Căn cứ trên các nhận xét về thực trạng cơ cấu chi NSNN ở CHXHCN
Việt Nam tác giả đưa ra các quan điểm về đổi mới cơ cấu chi NSNN trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường và làm chỗ dựa cho đề xuất hệ
thống giải pháp đổi mới cơ cấu chi NSNN ở CHXHCN Việt Nam giai đoạn
2001-2010 theo 03 nhóm giải pháp lớn.
-7-
Những giới hạn của luận án:
Luận án được hoàn thành từ năm 2002, nên hệ thống số liệu, hệ thống
giải pháp đã bộc lộ nhiều điểm không còn phù hợp trong tiến trình đổi mới
không ngừng về quản lý chi NSNN ở CHXHCN Việt Nam những năm qua;
Đề tài tác giả viết về đổi mới cơ cấu chi NSNN nhưng không gắn với
một mục tiêu cụ thể nào đó trong phát triển KT-XH, nên không có tác động
và mối quan hệ của đổi mới cơ cấu chi NSNN với sự thay đổi của nền kinh tế
trên các lĩnh vực, khía cạnh phát triển khác nhau.
(2) Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài: “Đổi mới cơ cấu chi NSNN góp
phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” do NCS Bùi
Đường Nghiêu hoàn thành năm 2003.

Những thành công của luận án:
Đã làm rõ các vấn đề lý luận về NSNN, vai trò của NSNN trong nền
kinh tế thị trường, các vấn đề cơ bản về cơ cấu chi NSNN trong đó tác giả đưa
ra cơ sở xác định cơ cấu định tính và cơ cấu định lượng của chi NSNN và
phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến các cơ cấu đó;
Đã phân tích vai trò của NSNN nói chung và chi tiêu NSNN nói riêng
đối với việc thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa (CNH-HĐH) ở
CHXHCN Việt Nam;
Đã phân tích thực trạng chi NSNN từ đó có những nhận xét, đánh giá
về cơ cấu chi NSNN tác động tới tiến trình thực hiện CNH-HĐH cả trên góc
độ định tính và định lượng;
Đã sưu tầm được các kinh nghiệm của thế giới về tổ chức hệ thống
NSNN trong giai đoạn 1991-2000 và rút ra những bài học cho CHXHCN Việt
Nam khi sử dụng chi NSNN như là một trong những công cụ quan trọng để
tiến hành CNH-HĐH đất nước;
Hệ thống giải pháp mà tác giả đề xuất được tập trung vào các nội dung:
Tổ chức lại ngân sách thành ngân sách chung và ngân sách đặc biệt; cơ cấu lại
-8-
bảng cân đối ngân sách làm nổi bật thặng dư ngân sách, tạo nguồn tài lực và
động lực cho phát triển kinh tế,…đã có những khả năng gây ra tác động tích
cực tới tiến trình CNH-HĐH nền kinh tế ở CHXHCN Việt Nam những năm
2004-2010.
Những giới hạn của luận án:
Đề tài tác giả viết về đổi mới cơ cấu chi NSNN gắn với một mục tiêu
của tăng trưởng và phát triển kinh tế là CNH-HĐH đất nước. Do đó, các vấn
đề khác của tăng trưởng ngoài phạm vi CNH-HĐH chưa được tác giả nghiên
cứu và đề cập trong luận án;
Mặt khác, theo thời gian các luận cứ; đặc biệt là các đề xuất, khuyến
nghị của luận án cũng đã bộc lộ nhiều điểm không còn phù hợp với hoàn cảnh
KT-XH của những năm hậu khủng hoảng toàn cầu này.

(3) Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài: “Đổi mới quản lý chi NSNN trong
điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” do NCS Nguyễn Thị Minh hoàn
thành năm 2008.
Những thành công của luận án:
Đã khái quát hóa và thống nhất nhận thức về chi và quản lý chi NSNN;
Đã làm sáng tỏ được tính tất yếu phải đổi mới quản lý chi NSNN ở
CHXHCN Việt Nam trong những năm mà tác giả luận án tiến hành nghiên cứu;
Đã phân tích được thực trạng quản lý chi NSNN ở CHXHCN Việt Nam
kể từ khi thành lập nước CHXHCN Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945
đến 2006 có gắn liền với những đánh giá theo các phương thức chi. Trên cơ
sở đó chỉ ra những bất cập của quản lý chi NSNN theo phương thức truyền
thống mà CHXHCN Việt Nam vẫn đang áp dụng;
Hệ thống các giải pháp đổi mới quản lý chi NSNN trong điều kiện kinh
tế thị trường ở CHXHCN Việt Nam do tác giả xây dựng dựa trên 05 nhóm
giải pháp chủ yếu đã có tính khả thi trong bối cảnh ở CHXHCN Việt Nam
những năm 2008-2010.
-9-
Những giới hạn của luận án:
Với mục đích nghiên cứu khá rộng, nên tác giả của bản luận án trên
ngoài việc trình bày các nghiên cứu của mình trên diện rộng bao phủ toàn bộ
các khâu của chu trình quản lý chi NSNN; đồng thời có dành ưu tiên nhiều
hơn cho các đề xuất đổi mới quản lý chi NSNN theo hướng đổi mới các
phương thức quản lý chi, như: đổi mới phương thức lập và phân bổ ngân
sách; đổi mới phương thức từ truyền thống theo “đầu vào” sang “đầu ra”;…
Chính vì vậy, vấn đề đổi mới cơ cấu chi NSNN hầu như chưa được đề cập.
(4) Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài: “Hoàn thiện quản lý chi NSNN
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” do
NCS Trần Văn Lâm hoàn thành năm 2010.
Những thành công của luận án:
Đã khái quát hóa nhận thức về phát triển KT-XH; đặc biệt nhấn mạnh

đến yêu cầu phát triển bền vững trong điều kiện hiện nay;
Đã luận giải được những vấn đề lý luận về quản lý chi NSNN trong
mối quan hệ với phát triển KT-XH, coi đó là nền tảng lý luận cho phân tích
đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp về quản lý chi NSNN;
Đã phân tích khá thấu đáo tình hình quản lý chi ngân sách tỉnh
Quảng Ninh gắn với các yêu cầu phát triển KT-XH của tỉnh này những năm
2001-2007;
Với 03 nhóm giải pháp lớn được sắp xếp theo thứ tự lựa chọn thứ tự ưu
tiên, đến chú trọng hiệu quả, công bằng trong chi ngân sách tỉnh Quảng Ninh
những năm 2010-2015 đã làm cho khả năng sử dụng ngân sách tỉnh thúc đẩy
phát triển KT-XH có tính khả thi cao.
Những hạn chế:
Luận án chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu trong 1 tỉnh và chủ yếu gắn
với nguồn ngân sách cấp tỉnh nên giá trị tham khảo trên quy mô quốc gia bị
-10-
hạn chế. Đặc biệt, gắn với hoàn cảnh tỉnh Quảng Ninh- một địa phương được
thiên nhiên ưu đãi khá nhiều các điều kiện thuận lợi, thì việc sử dụng chi ngân
sách rất dễ gây ra những hiệu ứng tích cực cho tiến trình phát triển hơn các
địa phương khác.
2.2.2. Khảo cứu có liên quan
Một công trình nghiên cứu khá công phu của TS Phạm Thế Anh-Trung
tâm nghiên cứu và chính sách-Trường Đại học kinh tế-Đại học quốc gia Hà
Nội năm 2008 với tiêu đề “ Chi tiêu Chính phủ và tăng trưởng kinh tế; Khảo
sát lý luận tổng quan”, đã có những đánh giá khá sâu sắc về tương quan giữa
2 lĩnh vực này. Cụ thể như:
Bài viết của tác giả được thực hiện dưới hình thức phân tích, đánh giá
về lý thuyết mối quan hệ chi tiêu Chính phủ và tăng trưởng kinh tế dựa trên
nghiên cứu các mô hình đã có của các tác giả trên thế giới. Các mô hình lý
thuyết về chi tiêu Chính phủ có tác động đến tăng trưởng như mô hình kinh tế
của Robert Barro năm 1990, Devarajan, Swaroop, và Zou năm 1996, Davoodi

và Zou năm 1998. Bên cạnh việc đánh giá nhận định các mô hình nói trên tác
giả đưa ra các nghiên cứu thực nghiệm của các tác giả ví dụ như: Tư bản nhân
lực (Mankiw, Romer và Weil năm 1992), tích luỹ bí quyết công nghệ
(Nonnerman và Van năm 1996), Grier và Tullock năm 1989, Barro năm 1989
và năm 1991, Hansson và Henrekson năm 1994,
Bên cạnh những thành công đáng kể, kết quả khảo cứu trên cũng bộc lộ
những hạn chế, như: Chưa hệ thống được các lý luận về tác động của thay đổi
chi tiêu NSNN tới tăng trưởng kinh tế. Tác giả có sử dụng hệ thống số liệu cho
mô hình thực nghiệm nhưng những kết luận sau khi có kết quả mô hình chưa
phản ánh rõ những biến động của chi NSNN tác động tới tăng trưởng kinh tế.
Từ kết quả khảo sát các công trình có liên quan đến quản lý chi NSNN
ở các trong nước và ngoài nước, tác giả của luận án về đề tài: “ Đổi mới cơ
-11-
cấu chi NSNN nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội ở CHDCND Lào ”, có
thể khẳng định rằng:
Cho tới nay ở CHDCND Lào chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt
nào trùng hợp với tên đề tài mà tác giả đã lựa chọn. Mặt khác, kết quả kỳ vọng
mà đề tài luận án của NCS hướng tới là phân tích và làm sáng tỏ được quan hệ
tương tác giữa cơ cấu chi NSNN gắn với các mục tiêu phát triển KT-XH ở
CHDCND Lào qua các giai đoạn; trên cơ sở đó chỉ rõ trách nhiệm của các cơ
quan công quyền khi sử dụng NSNN như là một trong những công cụ quan
trọng phục vụ cho việc thực hiện các nhiệm vụ của mình, đã mang lại những
kết quả đích thực nào? Xu hướng đổi mới tất yếu trong việc ràng buộc giữa cơ
cấu chi NSNN với cơ cấu phát triển KT-XH mà Chính phủ đã lựa chọn.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu những cơ sở lý luận về phát triển KT-XH và cơ cấu chi
NSNN nhằm thúc đẩy phát triển KT-XH.
- Phân tích đánh giá tác động của cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào
tới phát triển KT-XH giai đoạn 2001-2012.
- Đề xuất giải pháp đổi mới cơ cấu chi NSNN trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là cơ cấu chi NSNN và tác động của
nó tới sự phát triển KT-XH ở CHDCND Lào.
Phạm vi nghiên cứu của luận án là thực trạng cơ cấu chi NSNN ở
CHDCND Lào và tác động của cơ cấu chi đó tới sự phát triển KT-XH giai
đoạn 2001-2012. Qua đó đề xuất giải pháp đổi mới cơ cấu chi NSNN nhằm
thúc đẩy phát triển KT-XH ở CHDCND Lào giai đoạn 2015-2020. Tuy nhiên,
do tác động của cơ cấu chi NSNN tới sự phát triển KT-XH rất rộng, nên phạm
vi nghiên cứu của đề tài cũng chỉ tập trung làm rõ các tác động đó trên 3 tiêu
chí lớn như: (i) Những thay đổi về cơ sở vật chất kỹ thuật; (ii) Những thay đổi
-12-
về cơ cấu kinh tế ; (iii) Những thay đổi về đói, nghèo và cải thiện công bằng
xã hội.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng kết hợp các phương pháp: Duy vật biện chứng; duy
vật lịch sử; điều tra, thống kê; phân tích kinh tế các phương pháp khác.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Ý nghĩa khoa học: Luận án hệ thống hoá, phân tích và bổ sung nhận
thức về ý nghĩa, vai trò của chi NSNN đặc biệt là cơ cấu chi NSNN nhằm
thúc đẩy phát triển KT-XH. Từ đó giúp cho nghiên cứu đề xuất các giải pháp
đổi mới cơ cấu chi NSNN phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường.
Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng cơ cấu
chi NSNN ở CHDCND Lào, luận án đưa ra những giải pháp đổi mới cơ cấu
chi NSNN ở CHDCND Lào trong thời gian tới, làm cho chi NSNN trở thành
công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong công cuộc điều hành nền KT-XH theo
xu hướng thế giới thời kỳ hội nhập.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần bìa phụ, lời cam đoan, mục lục, danh mục các chữ viết tắt,
danh mục các bảng, lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
nhận xét của cán bộ hướng dẫn. Luận án được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1 : CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VỚI PHÁT
TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI.
Chương 2 : TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở CHDCND LÀO GIAI
ĐOẠN 2001-2012.
Chương 3 : GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC ĐỂ THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở CHDCND
LÀO GIAI ĐOẠN 2015-2020.
-13-
Chương 1
CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHÁT TIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI
1.1.1. Nhận thức chung về phát triển kinh tế
Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy, mỗi quốc gia đều lựa chọn những
con đường phát triển riêng, phù hợp với điều kiện của mỗi nước. Nhìn một
cách tổng thể, có thể hệ thống sự lựa chọn đó theo ba con đường như: Thúc
đẩy tăng trưởng nhanh; coi trọng vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội và mô
hình phát triển toàn diện.
Các nước phát triển theo khuynh hướng tư bản chủ nghĩa trước đây
thường lựa chọn con đường thúc đẩy tăng trưởng nhanh. Theo cách lựa chọn
này, Chính phủ đã tập trung chủ yếu vào các chính sách đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế mà bỏ qua vấn đề xã hội. Các vấn đề bình đẳng, công
bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư chỉ được đặt ra khi tăng
trưởng thu nhập đã đạt được một trình độ khá cao. Thực tế cho thấy nhiều
quốc gia thực hiện theo mô hình này đã làm cho nền kinh tế rất nhanh khởi
sắc, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm rất cao. Hiện nay, mọi quốc gia
đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế là quá trình tăng
tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế được xem như là quá trình
biến đổi cả về lượng và về chất; là một sự kết hợp chặt chẽ quá trình hoàn

thiện của hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Theo cách hiểu phát
triển kinh tế cả về lượng và chất, thì phát triển kinh tế bao gồm: Tăng trưởng
kinh tế và cải biến cơ cấu kinh tế.
1.1.1.1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế
và mức gia tăng thu nhập bình quân trên đầu người. Đây là tiêu thức thể hiện
-14-
quá trình biến đổi về lượng của nền kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao
mức sống vật chất của một quốc gia và thực hiện những mục tiêu khác của
phát triển.
Theo mô hình kinh tế thị trường, thước đo tăng trưởng kinh tế được xác
định theo các chỉ tiêu thuộc hệ thống tài khoản quốc gia như sau:
a. Tổng giá trị sản xuất (GO - Gross output) là tổng giá trị sản phẩm
vật chất và dịch vụ được tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong
một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
b. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross domestic product) là tổng giá
trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do kết quả hoạt động kinh tế trên
phạm vi lãnh thổ của một quốc gia tạo nên trong một thời kỳ nhất định.
c. Tổng thu nhập quốc dân (GNI-Gross national income) là chỉ tiêu
xuất hiện trong bảng Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) năm 1993 thay cho
chỉ tiêu GNP sử dụng trong bảng SNA năm 1968. Về nội dung thì GNI và
GNP là như nhau, tuy vậy khi sử dụng GNI là muốn nói theo cách tiếp cận từ
thu nhập chứ không phải nói theo góc độ sản phẩm sản xuất như GNP.
d. Thu nhập quốc dân (NI-National income) là phần giá trị sản phẩm
vật chất và dịch vụ mới sáng tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định. NI
chính là tổng thu nhập quốc dân (GNI) sau khi đã loại trừ đi khấu hao vốn cố
định của nền kinh tế (D
P
).
NI=GNI-D

p
e. Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI-National disposable income) là
phần thu nhập của quốc gia dành cho tiêu dùng cuối cùng và tích lũy thuần
trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này được hình thành sau khi thực hiện
phân phối thu nhập lần thứ hai, thực chất đó là thu nhập quốc dân (NI) sau khi
đã điều chỉnh các khoản thu, chi về chuyển nhượng hiện hành giữa các đơn vị
thường trú và không thường trú.
-15-
f. Thu nhập bình quân đầu người là có ý nghĩa phản ánh thu nhập, chỉ
tiêu GDP và GNI còn được sử dụng để đánh giá mức thu nhập bình quân trên
đầu người của mỗi quốc gia (GDP/người, GNI/người). Chỉ tiêu này phản ánh
tăng trưởng kinh tế có tính đến sự thay đổi dân số.
1.1.1.2. Cải biến cơ cấu kinh tế
Cải biến cơ cấu kinh tế là quá trình làm thay đổi tỷ trọng giá trị sản
lượng của các ngành trong tổng giá trị sản lượng của cả nền kinh tế theo định
hướng của nhà nước. Tùy theo điều kiện KT-XH cụ thể mà Chính phủ của
mỗi quốc gia sẽ xác định mục tiêu và lộ trình cải biến cơ cấu kinh tế của quốc
gia đó cho phù hợp. Trong hoàn cảnh hiện nay, mục tiêu cải biến cơ cấu kinh
tế của quốc gia ngoài việc phải cân nhắc dựa trên những điều kiện của chính
quốc gia đó; còn phải cân nhắc đến các điều kiện KT-XH cụ thể của các nước
khác trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy, cải biến cơ cấu kinh tế
được coi là tiêu thức phản ánh sự biến đổi kinh tế về chất của một quốc gia.
Để phân biệt các giai đoạn phát triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển
kinh tế giữa các nước với nhau, người ta thường dựa vào dấu hiệu và dạng cơ
cấu ngành kinh tế mà quốc gia đạt được.
Cơ cấu kinh tế được hiểu là tương quan giữa các bộ phận trong tổng thể
kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất
lượng giữa các bộ phận với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành trong
những điều kiện KT-XH nhất định, luôn luôn vận động và hướng vào những
mục tiêu cụ thể. Nếu các thước đo tăng trưởng phản ánh sự thay đổi về lượng

thì xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế là thể hiện mặt chất kinh tế trong quá
trình phát triển.
Đánh giá sự phát triển kinh tế cần xem xét một cách toàn diện các góc
độ của cơ cấu kinh tế theo các tiêu chí chủ yếu sau:
-16-
a. Cơ cấu ngành kinh tế
Về lý thuyết, cơ cấu ngành kinh tế thể hiện cả mặt định lượng và định
tính. Mặt định lượng chính là quy mô và tỷ trọng chiếm trong GDP, lao
động, vốn của mỗi ngành trong tổng thể kinh tế quốc dân. Ví dụ: Giá trị sản
lượng ngành công nghiệp chiếm X% trong GDP. Giá trị sản lượng ngành
nông nghiệp chiếm Y% trong GDP,…mặt định tính thể hiện vị trí và tầm
quan trọng của mỗi ngành trong hệ thống kinh tế quốc dân. Các nước đang
phát triển có xuất phát điểm thấp, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp,
tỷ trọng nông nghiệp của các nước này thường chiếm từ 20-30% trong GDP.
Trong khi đó, ở các nước phát triển, tỷ trọng thu nhập từ nông nghiệp chỉ
chiếm từ 1-7% trong GDP. Trong quá trình phát triển, cơ cấu ngành kinh tế
của mỗi quốc gia đều có sự chuyển đổi theo một xu hướng chung là tỷ trọng
nông nghiệp có xu hướng giảm đi, trong khi đó tỷ trọng của các ngành công
nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên.
b.Cơ cấu kinh tế theo mức độ đô thị hóa-Thành thị và nông thôn
Sự phát triển kinh tế còn được thể hiện ở cơ cấu kinh tế theo mức độ đô
thị hóa-Thành thị và nông thôn. Đây là tiêu chí phản ánh rõ nét nhất, sinh
động nhất trình độ phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung, của từng địa
phương nói riêng. Xu hướng chung, ở các nước trình độ phát triển thấp thì
mức độ đô thị hóa thấp và ngược lại. Ở các nước đang phát triển, kinh tế nông
thôn thường chiếm tỷ trọng cao.
Chỉ tiêu định lượng để phản ánh cơ cấu kinh tế theo mức độ đô thị hóa
thường được dùng là tỷ lệ dân số nông thôn so với tổng dân số ở cùng một
thời điểm nào đó. Nơi nào tỷ lệ dân số nông thôn cao thì bị coi là kinh tế nông
thôn vẫn đang chiếm ưu thế về cơ cấu. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới

(WB), vào cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, 45 nước có mức thu nhập thấp, tỷ
trọng dân số nông thôn chiếm 72%, còn 63 nước có mức thu nhập tiếp theo,
-17-
con số này là 65%. Trong khi đó, các nước phát triển có hiện tượng đối ngược
lại, 80% dân số sống ở khu vực thành thị.
Một xu hướng khá phổ biến của các nước đang phát triển là luôn có
một dòng di dân từ nông thôn ra thành thị. Đó là kết quả của cả “lực đẩy” từ
khu vực nông thôn bởi sự nghèo khổ cũng như sự thiếu thốn đất đai ngày
càng nhiều và cả “lực hút” từ sự hấp dẫn của khu vực thành thị. Dòng di dân
ngày càng lớn đã tạo ra áp lực rất mạnh đối với chính phủ các nước đang phát
triển. Mặt khác, việc thực hiện các chính sách công nghiệp hóa nông thôn, đô
thị hóa, phát triển hệ thống công nghiệp, dịch vụ nông thôn làm cho tỷ trọng
kinh tế thành thị ở các nước đang phát triển ngày càng tăng lên, tốc độ tăng
dân số thành thị cao hơn so với tốc độ tăng trưởng dân số chung và đó chính
là xu thế hợp lý trong quá trình phát triển.
c. Cơ cấu thành phần kinh tế
Đây là dạng cơ cấu phản ánh tính chất xã hội hóa về tư liệu sản xuất và
tài sản của nền kinh tế. Xét về nguồn gốc thì có 2 loại hình sở hữu là sở hữu
công cộng và sở hữu tư nhân. Nhìn chung các nước phát triển và xu hướng ở
các nước đang phát triển, khu vực kinh tế tư nhân thường chiếm tỷ trọng cao
và nền kinh tế phát triển theo con đường tư nhân hóa. Hiện nay đang tồn tại 6
thành phần kinh tế là: Thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế tập
thể, thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, thành phần kinh tế tư bản tư nhân,
thành phần kinh tế tư bản nhà nước và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Các thành phần kinh tế nói trên không có sự phân biệt về thái độ đối
xử, đều có môi trường và điều kiện phát triển như nhau, trong đó kinh tế Nhà
nước đóng vai trò chủ đạo.
d. Cơ cấu khu vực thể chế
Theo dạng cơ cấu này, nền kinh tế được phân chia dựa trên cơ sở vai
trò các bộ phận cấu thành trong sản xuất kinh doanh và qua đó đánh giá được

-18-
vị trí của mỗi khu vực trong vòng luân chuyển của nền kinh tế và mối quan hệ
giữa chúng trong quá trình phát triển kinh tế. Các đơn vị thể chế thường trú
trong nền kinh tế được chia thành 5 khu vực: Khu vực chính phủ bao gồm tất
cả các hoạt động được thực hiện bằng NSNN, khu vực tài chính, khu vực phi
tài chính, khu vực hộ gia đình và khu vực vô vị lợi phục vụ hộ gia đình bao
gồm các tổ chức hoạt động với mục đích từ thiện, phi lợi nhuận. Mục tiêu của
khu vực chính phủ là bảo đảm các hoạt động công cộng, tạo điều kiện bình
đẳng cho các khu vực thể chế và thực hiện công bằng xã hội. Các đơn vị
thuộc khu vực phi tài chính thực hiện chức năng sản xuất hàng hóa và dịch vụ
bán trên thị trường và với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận trên thị trường hàng
hóa và dịch vụ. Khu vực tài chính cũng thực hiện mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận nhưng ở trên thị trường tài chính. Các hộ gia đình hoạt động theo mục
tiêu khác với các khu vực trên, chức năng và hành vi của họ là tiêu dùng, tuy
vậy họ cũng có thể tham gia vào các hoạt động sản xuất dưới hình thức cung
cấp sức lao động cho các doanh nghiệp hoặc tự sản xuất dưới dạng các đơn vị
sản xuất cá thể. Các tổ chức vị lợi phục vụ hộ gia đình với nguồn tài chính
quyên góp tự nguyện như các tổ chức từ thiện, cứu trợ, các tổ chức giúp đỡ
người tàn tật,…theo đuổi mục tiêu phục vụ không vì lợi nhuận, cung cấp hàng
hóa và dịch vụ thẳng cho các hộ gia đình không lấy tiền hoặc lấy với giá
không có ý nghĩa kinh tế.
e. Cơ cấu tái sản xuất
Đây là cơ cấu kinh tế hiểu theo góc độ phân chia tổng thu nhập của nền
kinh tế theo tích lũy và tiêu dùng. Phần thu nhập dành cho tích lũy tăng lên và
chiếm tỷ trọng cao là điều kiện cung cấp vốn lớn cho quá trình tái sản xuất
mở rộng của nền kinh tế. Tỷ trọng thu nhập dành cho tích lũy ngày càng cao
chính là xu thế phù hợp trong quá trình phát triển. Tuy vậy, việc gia tăng tỷ
trọng thu nhập dành cho tích lũy tái đầu tư phải có tác dụng dẫn đến gia tăng
-19-
mức thu nhập dành cho tiêu dùng cuối cùng trong tương lai thì mới được đánh

giá cao.
f. Cơ cấu thương mại quốc tế
Nhìn chung tất cả các nước giàu hay nghèo đều tham gia một cách đáng
kể vào thương mại quốc tế. Tuy vậy, hoạt động ngoại thương là dấu hiệu đánh
giá sự phát triển của mỗi nước. Các nước đang phát triển thường xuất khẩu
những sản phẩm thô như: Nguyên liệu, nông sản, thực phẩm hay những sản
phẩm thuộc các ngành dệt may, công nghiệp nhẹ còn các nước phát triển
thường thì xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm chế biến, các hàng hóa vốn hay
những hàng hóa lâu bền. Cơ sở lý giải cho xu hướng này chính là lý thuyết về
lợi thế so sánh. Theo đó, các nước đó có lợi thế tương đối về chi phí sản xuất
chủ yếu là sản phẩm thô với giá trị thấp thì lại phải nhập khẩu một khối lượng
lớn các hàng hóa là nguyên liệu đầu vào, hàng hóa vốn cũng như số hàng hóa
tiêu dùng cuối cùng. Kết quả là các nước này luôn phải chấp nhận tình trạng
thâm hụt thương mại quốc tế. Theo xu thế phát triển của mỗi nước, nền kinh
tế có xu hướng mở ngày càng đa dạng, mức độ thâm hụt thương mại quốc tế
ngày càng giảm đi theo xu thế giảm dần tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa thô,
hàng hóa có dung lượng lao động cao và tăng dần các hàng hóa có giá trị kinh
tế lớn.
Ngoài các dạng trên, cơ cấu kinh tế của đất nước còn được hiểu theo
những góc độ khác như: Cơ cấu theo tính chất xã hôi, cơ cấu theo tính chất kỹ
thuật, theo quy mô sản xuất,…mỗi dạng đều phản ánh những khía cạnh và
tính chất của quá trình phát triển kinh tế mỗi quốc gia.
1.1.2. Nhận thức chung về phát triển xã hội
Phát triển xã hội của các quốc gia là sự đi lên, sự tiến bộ của xã hội một
cách toàn diện, bao gồm sự tổng hợp của các nhân tố: Tăng trưởng kinh tế
cao, thu nhập quốc dân tính trên đầu người tăng liên tục, mức sống của đại đa
-20-
số dân cư được cải thiện, các giá trị tinh thần được đề cao, việc xóa bỏ nghèo
đói, suy dinh dưỡng, sự tăng lên của tuổi thọ bình quân, khả năng tiếp cận các
dịch vụ y tế, nước sạch trình độ dân trí giáo dục của quảng đại quần chúng

nhân dân,…
Theo mô hình kinh tế thị trường, thước đo phát triển xã hội được xác
định theo các chỉ tiêu thuộc hệ thống tài khoản quốc gia như sau:
1.1.2.1. Chỉ tiêu phản ánh nhu cầu cơ bản của con người
Việc đáp ứng nhu cầu về phát triển con người là mục tiêu cơ bản nhất
của quá trình phát triển. Đó bao gồm các nhu cầu xã hội cơ bản và những nhu
cầu xã hội chất lượng cao trên các lĩnh vực chủ yếu như: Nhu cầu mức sống
vật chất, nhu cầu giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe, nhu cầu việc làm. Các
chỉ tiêu cụ thể của từng lĩnh vực bao gồm:
Thứ nhất, các chỉ tiêu phản ánh mức sống: Nhu cầu mức sống vật chất
thể hiện ở nhu cầu hấp thụ calori tối thiểu bình quân trên một ngày của con
người (ví dụ: từ 2.100-2.300 calori) đảm bảo khả năng sống và làm việc bình
thường, có xét tới cơ cấu nam, nữ, trọng lượng cơ thể cũng như điều kiện khí
hậu, môi trường.
Thứ hai, nhóm chỉ tiêu phản ánh giáo dục và trình độ dân trí: Liên
Hiệp Quốc (LHQ) đã đưa ra những chỉ tiêu đánh giá về trình độ dân trí và
giáo dục như: Tỷ lệ người lớn biết chữ (tính cho những người từ 15 tuổi trở
lên) có phân theo giới tính, khu vực; tỷ lệ nhập học các cấp tiểu học, trung
học cơ sở, phổ thông trung học; số năm đi học trung bình (tính cho những
người từ 7 tuổi trở lên); tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục so với tổng chi ngân
sách hoặc so với mức GDP. Kinh tế càng phát triển thì các chỉ tiêu trên ngày
càng tăng lên.
Thứ ba, nhóm chỉ tiêu về tuổi thọ bình quân và chăm sóc sức khỏe bao
gồm: Tuổi thọ bình quân tính từ thời điểm mới sinh; tỷ lệ trẻ em chết yểu có
thể tính cho những trẻ em chết trong vòng 1 năm hoặc trong thời gian 5 năm;
-21-
tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng theo các tiêu chuẩn chiều cao, cân nặng; tỷ lệ các
bà mẹ tử vong vì lý do sinh sản được tính bằng số bà mẹ chết trong thời gian
mang thai hoặc sau khi sinh so với 1.000 trẻ em sinh ra còn sống; tỷ lệ trẻ em
được tiêm phòng dịch, tỷ lệ chi ngân sách cho y tế.

Thứ tư, nhóm chỉ tiêu về dân số việc làm bao gồm: Tốc độ tăng trưởng
dân số tự nhiên, tỷ lệ thất nghiệp thành thị, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở
khu vực nông thôn.
Các chỉ tiêu nói trên chỉ phản ánh từng lĩnh vực khác nhau của phát
triển xã hội. Để đánh giá tổng hợp và xếp loại trình độ phát triển KT-XH
chung giữa các quốc gia hay giữa các địa phương, năm 1990 Liên Hiệp Quốc
đưa ra một chỉ tiêu tổng hợp có tên gọi là Chỉ số phát triển con người - HDI
(Human development index). HDI chứa đựng 3 yếu tố cơ bản: Tuổi thọ bình
quân được phản ánh bằng số năm sống; trình độ giáo dục được đo bằng cách
kết hợp tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ đi học đúng độ tuổi; mức thu nhập
bình quân trên đầu người tính theo sức mua tương đương. HDI được tính theo
phương pháp chỉ số và nhận giá trị lớn nhất bằng 1, nhỏ nhất là 0. Quốc gia
nào có HDI càng gần 1 thì được đánh giá là càng phát triển cao. Chỉ số phát
triển con người tính chung cho cả quốc gia nhưng cũng cần thiết phải tính cho
một nhóm quan trọng như: giới tính, thu nhập, địa phương. Việc tính toán và
phân tích HDI chi tiết nhằm chỉ ra sự chênh lệch về việc bảo đảm các vấn đề
xã hội giữa các vùng, giới tính, giữa thành thị, nông thôn, giữa các dân tộc,
trên cơ sở đó có chính sách ưu tiên đầu tư, chi tiêu công cộng hay viện trợ cho
các vùng và các nhóm có HDI thấp.
1.1.2.2. Chỉ tiêu nghèo đói và bất bình đẳng
Ngoài chỉ tiêu phát triển con người, một vấn đề quan trọng nằm trong
tiêu thức đánh giá sự phát triển xã hội là các chỉ tiêu liên quan đến nghèo đói
và bất bình đẳng. Đây là vấn đề phụ thuộc, một mặt vào tổng khả năng thu
-22-
nhập của nền kinh tế; mặt khác vào chính sách phân phối và phân phối lại
nhằm điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội theo hướng bảo
vệ người nghèo, giúp đỡ người nghèo cũng như giải quyết vấn đề công bằng
xã hội.
Các chỉ tiêu thường sử dụng trong đánh giá nghèo đói và bất bình đẳng
kinh tế bao gồm: Tỷ lệ hộ nghèo trong xã hội, sự phân chia theo từng vùng,

giới tính, dân tộc khác nhau và theo các tiêu chuẩn quy định hiện hành quốc tế
hoặc quốc gia; chỉ tiêu hệ số giãn cách thu nhập xác định mức chênh lệch thu
nhập giữa bộ phận dân cư giàu và nghèo trong xã hội (ví dụ như: chênh lệch
thu nhập của 20% dân số có thu nhập cao nhất với thu nhập của 20% dân số
có thu nhập thấp nhất); tiêu chuẩn “40” do Ngân hàng thế giới (WB) đề xuất
năm 2002 xác định tỷ lệ thu nhập chiếm trong tổng thu nhập dân cư của 40%
dân số có mức thu nhập thấp nhất trong xã hội.
Ngoài việc đánh giá nghèo đói và bất bình đẳng về kinh tế, vấn đề bất
bình đẳng về xã hội hiện nay được các nước và mọi tổ chức quốc tế đặc biệt
quan tâm. Những tiêu thức và chỉ tiêu chủ yếu trong lĩnh vực này là: Mức độ
phân biệt đối xử đối với phụ nữ và vấn đề bạo lực trong gia đình; mức độ thực
hiện dân chủ cộng đồng thể hiện ở vị thế của cộng đồng dân cư trong việc
tham gia vào quá trình ra quyết định về những vấn đề có liên quan trực tiếp
đến cuộc sống của họ; tính minh bạch của hệ thống tài chính ở các cấp địa
phương; mức độ trong sạch quốc gia thể hiện thực trạng tham nhũng và
những hiện tượng tiêu cực của tầng lớp quan chức chính phủ; chỉ số phát triển
giới (GDI) và quyền lực theo giới tính (GEM), đây là hai chỉ tiêu được đưa ra
trong báo cáo phát triển con người từ năm 1997 khi đề cập đến tình trạng của
phụ nữ.
-23-
1.1.3. Mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội -
Vấn đề phát triển bền vững
Cách đây hơn một nửa thế kỷ, khi thế giới bước ra khỏi thế chiến thứ
hai, vấn đề phát triển có một nội dung thuần túy kinh tế. Các chương trình mở
mang quốc gia, các chính sách và kế hoạch KT-XH chỉ quan tâm tới các vấn
đề đầu tư, sản xuất, công nghiệp hóa, tự túc lương thực, hiện đại hóa nông
nghiệp, sản xuất thay thế nhập khẩu, sản xuất nhằm thị trường nước ngoài,…
lúc bây giờ phát triển kinh tế đồng nghĩa với tăng trưởng kinh tế, không có sự
phân biệt, cân nhắc hoặc so sánh giữa chất và lượng trong công cuộc mở
mang quốc gia. Riêng đối với các nước chậm tiến có nền kinh tế lạc hậu thì

được xem như chỉ có nhu cầu gia tăng sản xuất, xúc tiến các chương trình
nhằm các mục tiêu vừa kể. Kinh tế thế giới lúc bây giờ tiến lên trong khuôn
khổ các chính sách và kế hoạch dựa trên lý luận kinh tế máy móc, một chiều,
hẹp hòi và phiến diện.
Vào đầu thập niên những năm 1970, sau một thời kỳ trong đó các nước
trên thế giới thi đua công nghiệp hóa, khai thác tài nguyên, tìm kiếm thị
trường, Câu lạc bộ La Mã đã phát hành và phổ biến một tài liệu mang tựa là
“Giới hạn của tăng trưởng”. Tài liệu này vì đề nghị một hướng đi mới cho sự
phát triển và có những nhận thức chính đáng, những nhận định xác thực về tổ
chức kinh tế, đời sống xã hội nên đã ảnh hưởng làm thế giới cảnh tỉnh trên
vấn đề liên quan tới môi trường, môi sinh. Tài liệu viết rằng sự tăng trưởng
kinh tế và dân số quá nhanh cùng với tình trạng thi đua sản xuất không giới
hạn và khai thác vô ý thức các tài nguyên làm ô nhiễm môi trường, môi sinh
và làm cạn kiệt dự trữ tài nguyên thiên nhiên trên thế giới. Câu lạc bộ La Mã
đề nghị chính sách “không tăng trưởng” với lý do tăng trưởng kinh tế đối
nghịch với bảo vệ môi trường, môi sinh.
-24-
Chủ trương “không tăng trưởng” không thuyết phục được thế giới. Các
nước nghèo và chậm tiến cũng như các quốc gia có nền kinh tế giàu có đều
chống đối quan điểm của Câu lạc bộ La Mã, tuy với những lý do hoàn toàn
khác nhau. Ngoài ra, đứng về phương diện nhận thức kinh tế thì đã có những
tiến bộ quan trọng mà đáng ghi nhất là sự phân biệt giữa tăng trưởng kinh tế
với phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là sự nhận thức một chiều và phiến
diện về hoạt động và sản xuất kinh tế. Nó chú trọng tới số lượng sản xuất,
phương diện vật chất của hoạt động kinh tế. Trái lại, phát triển kinh tế là một
khái niệm xuất hiện vào khoảng giữa thập niên những năm 1960 từ một nhận
thức mở rộng về kinh tế, không còn tính cách máy móc, eo hẹp. Theo khái
niệm mới này “thêm” không đồng nghĩa với “hơn”. Do đó tăng trưởng kinh
tế, sản xuất “thêm” không chắc chắn chỉ có lợi và thuần túy tích cực mà có
thể ảnh hưởng không tốt làm môi trường, môi sinh tiêu hao hoặc hư hại.

Ngược lại, phát triển kinh tế là một nhận thức toàn diện bao gồm các khía
cạnh tinh thần và vật chất, kinh tế và xã hội, chất và lượng. Phát triển kinh tế
gợi ý phải có đổi thay và tiến bộ không ngừng, về chất và lượng, để KT-XH
ngày một “hơn” một cách toàn diện, cân đối, thống nhất. Như vậy nếu tăng
trưởng kinh tế nghịch với yêu cầu bảo vệ môi trường, môi sinh thì phát triển
kinh tế lại có khả năng bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, di sản sinh thái, môi
trường, môi sinh. Phát triển kinh tế giữ được vai trò phát huy quan hệ hỗ
tương giữa hoạt động KT-XH với môi trường, môi sinh để loài người có cuộc
sống thực sự tiến bộ, có an sinh và phúc lợi, có môi trường, môi sinh không ô
nhiễm, có hệ sinh thái cân bằng xung quanh.
Một năm sau Câu lạc bộ La Mã công bố phúc trình “Ngừng tăng
trưởng”/“Giới hạn của tăng trưởng”, tổ chức Liên Hiệp Quốc triệu tập năm
1972 tại Stockholm Hội nghị Liên Hiệp Quốc về môi trường. Hội nghị đã
diễn ra trong bầu không khí tranh cãi sôi nổi. Hội nghị đã đề nghị một khái
-25-
niệm mới là “Phát triển tôn trọng môi sinh” với chủ trương bảo vệ môi
trường, tôn trọng môi sinh, quản lý hữu hiệu tài nguyên thiên nhiên, thực hiện
công bằng và ổn định xã hội. Khái niệm “Phát triển tôn trọng môi sinh” bị các
nước đã phát triển và giàu có chống đối mạnh mẽ. Cuối cùng hội nghị chỉ
thảo luận vấn đề ô nhiễm và chấm dứt với sự tán đồng quan điểm có mối liên
hệ và ảnh hưởng hỗ tương giữa nếp sống của loài người với môi trường, môi
sinh giữa phát triển KT-XH với bảo tồn tài nguyên và ổn định thiên nhiên.
Ngoài ra, các nước cũng thỏa thuận và cam kết hành động để bảo vệ môi
trường, môi sinh và thành lập những cơ quan quốc tế và quốc gia có nhiệm vụ
bảo vệ môi trường, môi sinh. Mặc dù, đề nghị “Phát triển tôn trọng môi sinh”
không được chấp thuận, nó đánh dấu một bước tiến quan trọng hướng tới sự
khai sinh khái niệm “Phát triển bền vững”.
Vào đầu thập niên những năm 1980, Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên
Quốc tế (UICN) là tổ chức đã đề khởi khái niệm phát triển bền vững. Rồi năm
1987, khái niệm này đã được Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển do

Bà Gro Harlem Brundtland làm chủ tịch tiếp thu, khai triển và định nghĩa như
sau trong phúc trình mang tựa “Tương lai của chúng ta”:
“Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các yêu cầu hiện
tại nhưng không tổn hại cho khả năng của các thế hệ tương lai để đáp ứng yêu
cầu của chính họ”
Khái niệm Phát triển bền vững như vậy có một nội dung bao quát,
không có phạm vi nhất định, không bị gò bó bởi những chuẩn mực hoặc
quy tắc đã định trước. Nói chung, Phát triển bền vững là một hướng đi
dung hòa chủ trương “Không tăng trưởng” và chính sách “Phát triển tôn
trọng môi sinh”.
Từ lúc phúc trình Brundtland được phổ biến năm 1987 cho tới nay, tổ
chức Liên Hiệp Quốc đã triệu tập hai hội nghị quan trọng dành cho vấn đề

×