Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

lý luận dạy học tin học 2 tin học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 79 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

CÁC NỘI DUNG TỰ NGHIÊN CỨU

CHỦ ĐỀ 3: Một số kỹ thuật dạy học bộ môn

1. Làm thế nào để xây dựng một bài dạy chất lượng? Các bước chuẩn bị kịch bản cho
bài dạy là gì?
2. Kích thích động cơ học tập của người học bằng việc mở đầu bài dạy như thế nào?
3. Các tiêu chí để trở thành một người giáo viên tốt (good teacher) là gì?

CHỦ ĐỀ 4: Các phương pháp dạy học hiện đại

1. Đặc điểm và phân tích điểm mạnh, điểm yếu của mỗi phương pháp dạy học cụ thể là
gì?
2. Bạn sẽ áp dụng nó như thế nào trong các tình huống thực tế?

CHỦ ĐỀ 5: Kiểm tra và đánh giá kết quả học tập

1. Kiểm tra và đánh giá học tập theo khuynh hướng học tập tích cực như thế nào?
2. Thế nào là đánh giá tổng kết – summative assessment?
3. Thế nào là đánh giá quá trình – formative assessment
4. Tự đánh giá là gì? Áp dụng như thế nào trong dạy học?


CHỦ ĐỀ 6: Ứng dụng công nghệ vào trong dạy học

1. Dạy học với 3 công cụ cơ bản: soạn thảo văn bản, bảng tính điện tử và DB program
có những đặc điểm gì? Cần chuẩn bị như thế nào để dạy học với các công cụ này?
2. Kết hợp dạy học dùng lời với việc sử dụng truyền thông đa phương tiện? Ý nghĩa và
việc áp dụng trong thực tế dạy học như thế nào?
3. Triển khai mô hình dạy học kết hợp và Active-Collaborative e-Learning Framework
cho dạy học trực tuyến tại Việt Nam?

LỜI CẢM ƠN











LỜI MỞ ĐẦU

Bài viết nêu bối cảnh quốc tế và trong nước đặc trưng cho thời kỳ mới của sự phát triển
đất nước. Trên thế giới, đó là tiến bộ vượt bậc của công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thông tin và truyền thông, bước đầu quá độ sang nền kinh tế tri thức, với xu thế toàn
cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Trong nước, đó là thành quả của quá trình chuyển dịch
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, của sự nghiệp công nghiệp
hóa hiện đại hóa và từng bước phát triển kinh tế tri thức. Trên bối cảnh quốc tế và
trong nước đó, giáo dục đại học nước ta đang chuyển sang một giai đoạn mới, giai

đoạn giáo dục đại học đại chúng.

Thời đại thông tin đã tạo những cơ hội mới, nhưng cũng đặt nhà giáo đại học trước
những thách thức mới. Một "nhà giáo mới" "phải làm chủ được môi trường công nghệ
thông tin và truyền thông mới, đồng thời phải chuẩn bị về mặt tâm lý cho một sự thay
đổi cơ bản về vai trò của họ". Như vậyvai trò của nhà giáo thay đổi, nhưng vị trí của
nhà giáo được nâng cao hơn so với trước đây nếu nhà giáo thoả mãn được những đòi
hỏi của thời đại mới.

Nhóm Sinh Viên Thực Hiện
CHỦ ĐỀ 3:
Một số kỹ thuật dạy học bộ môn

1. Làm thế nào để xây dựng một bài dạy chất lượng? Các bước chuẩn bị kịch bản cho
bài dạy là gì?
2. Kích thích động cơ học tập của người học bằng việc mở đầu bài dạy như thế nào?
3. Các tiêu chí để trở thành một người giáo viên tốt (good teacher) là gì?

Câu 1:
Làm thế nào để xây dựng một bài dạy chất lượng? Các bước chuẩn bị kịch bản cho
bài dạy là gì?
Xây d

ng m

t bài d

y hi

u qu



Các thầy cô có biết rằng sinh viên rất dễ bị mất tập trung và sự hứng thú sau một khoảng thời
gian ngắn nghe giảng. Chính vì vậy một người dạy giỏi là người có khả năng kiểm soát toàn bộ
hoạt động trong suốt thời gian đứng lớp và tạo ra một không khí sôi nổi trong khi học.
- Hãy bắt đầu với một vấn đề mà có thể thu hút sinh viên tham gia đó là hiệu quả nhất để bắt
đầu đưa sinh viên vào chủ đề. Ví dụ, chuẩn bị một trò chơi liên quan đến bài giảng để làm học
sinh thấy hứng thú ngay từ đầu.
- Lấy lại sự chú ý của sinh viên sau mỗi 15 phút. Theo một số nhà quan sát, sinh viên có sự chú
ý rất ngắn tầm 15 hoặc 20 phút. Sau mười lăm phút, rất hữu ích để "thiết lập lại" sự chú ý bằng
việc đưa ra một số hoạt động cần sự hưởng ứng của sinh viên. Điều này có thể đơn giản như
yêu cầu học sinh viết một câu duy nhất giải thích những điểm chính được thảo luận, hoặc để
giải thích cái gì mà họ không hiểu bao gồm cả yêu cầu sinh viên không được ghi chép trong
một thời gian ngắn, sau đó làm việc trong các nhóm để xây dựng lại những gì họ vừa nghe.
- Tạo ra các hoạt động nhóm. Ví dụ, một bài giảng hai mươi phút, tiếp theo một cuộc thảo luận
nhóm mười phút, tiếp theo là một bài giảng hai mươi phút có thể được nhiều hiệu quả hơn 50
phút của bài giảng thẳng. Công việc nhóm có thể là một bài tập đơn giản như "thảo luận-chia
sẻ" hoặc một nhóm hoạt động phức tạp hơn với những câu hỏi khó hơn.
- Sử dụng công cụ trực quan. Ví dụ PowerPoint có những ưu điểm của nó (tuy rằng một số
người nghĩ rằng nó làm cho sinh viên thụ động và khả năng rơi vào giấc ngủ trong một thời
gian ngắn nhưng một số nghiên cứu cho thấy rằng nó có thể được hiệu quả, đặc biệt là nếu nó
có thể bao gồm đồ họa cũng như các điểm bullet) hơn hẳn những baig giảng khô khan.
- Thực hiện các bài giảng tương tác giữa giảng viên và sinh viên. Hãy tìm thông tin phản hồi từ
học sinh trong suốt bài giảng, ví dụ, bằng cách đưa câu hỏi "có bao nhiêu người cảm thấy
rằng ?" để nắm được suy nghĩ cũng như quan điểm của sinh viên. Trong bài giảng, người
giảng viên bao quát cả lớp học để biết được những sinh viên nào tham gia ít nhất vào bài giảng
và sau đó làm bất cứ điều gì để giúp học sinh chú ý lại (ví dụ, nói nhanh hơn hoặc chậm hơn,
to hơn hay mềm hơn, kể một câu chuyện đùa, hay thay đổi mô hình dạy).
- Sử dụng các ví dụ có liên quan đến những trải nghiệm hàng ngày của sinh viên. Hãy thử
không dựa hoàn toàn vào những ví dụ “có sẵn’’. Sinh viên từ các nền văn hóa khác nhau và

nguồn gốc có thể không đáp ứng với các ví dụ từ môn thể thao, hoặc các khu vực của văn hóa
không quen thuộc với họ.
- Hãy giúp sinh viên sắp xếp các ghi chú một cách có hệ thống. Người giảng viên có thể giúp
sinh viên ghi chú bằng cách cung cấp những cấu trúc và nhấn mạnh vào những điểm quan
trọng và sử dụng những từ liên kết như: đầu tiên, điểm khác là.…
- Và cuối cùng là hãy sử dụng sự hài hước, thật ngạc nhiên, một số nhà nghiên cứu giáo dục đã
chỉ được hiệu quả của sự hài hước trong lớp học và chính những giảng viên biết cách tận dụng
sự hài hước của mình thì thường có những bài giảng hay, hiệu quả và thu hút sự chú ý của sinh
viên.
Các thầy cô hãy thử áp dụng những cách trên để có những cách dạy mới và hiệu quả hơn và để
thấy được sự thay đổi trong từng giờ dạy của mình nhé.

Trong những năm gần đây cùng với sự chăm lo của Đảng, Nhà nước, của toàn ngành giáo dục,
chất lượng giáo dục vùng khó huyện nhà nói chung và trường PTDTNT Đakrông nói riêng đã
có nhiều chuyển biến tích cực. Chất lượng đại trà được nâng cao, bước đầu có được chất lượng
mũi nhọn: HS thích học hơn, ý thức hơn về tầm quan trọng của việc học. Chúng ta được biết
trong những kì thi ĐH, CĐ gần đây đã có một số HS con em huyện nhà thi đậu vào các trường
ĐH uy tín. Tuy nhiên, có thể nói rằng, đó mới chỉ là những kết quả khiêm tốn. Vậy làm thế
nào để HS dân tộc vùng khó học giỏi hơn, đạt nhiều kết quả cao hơn nữa? Đó là trăn trở của
những người có tâm huyết, đặc biệt là những GV trực tiếp giảng dạy tại trường dân tộc nội trú.
Có thể khẳng định rằng, đối tượng giáo dục của chúng ta bên cạnh những khó khăn chung còn
có những khó khăn khác biệt. Học sinh dân tộc có nhiều đặc thù riêng về hoàn cảnh sống và tư
duy suy nghĩ. Làm thế nào để chất lượng dạy và học được nâng cao? Đó vẫn còn là một câu
hỏi, khó có lời giải trọn vẹn.
Từ thực tế giảng dạy của bản thân và kinh nghiệm của anh chị em đồng nghiệp tôi xin đưa
ra các một số giải pháp sau đây:
- Một là mỗi GV chúng ta cần đến với các em bằng tất cả tình yêu nghề, mến trẻ, bằng
tất cả tấm lòng vì đàn em thân yêu. Biết quan tâm, lắng nghe, thấu hiểu HS.Từ đó nắm bắt
được tâm sinh lí, hoàn cảnh riêng, khả năng nhận thức, tiếp thu của cá nhân HS để có các
phương pháp dạy học tích cực, phù hợp.

- Hai là, thực hiện đổi mới PPDH có hiệu quả trong từng tiết lên lớp. Trong tiết học người
thầy luôn giữ vai trò gợi ý, hướng dẫn, tổ chức, giúp cho HS tự tìm kiếm, khám phá những tri
thức mới. Làm tốt vai trò trọng tài, cố vấn điều khiển tiến trình giờ dạy, nêu tình huống, kích
thích hứng thú và phân xử các ý kiến đối lập của học sinh; từ đó hệ thống hóa các vấn đề,
tổng kết bài giảng, khắc sâu những kiến thức cần nắm vững.Chú trọng đến kĩ năng thực hành,
vận dụng và giải quyết các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học. Yêu cầu học sinh
phải chuẩn bị bài kĩ ở nhà trước khi đến lớp và phải mạnh dạn, tự tin bộc lộ ý kiến, quan điểm.
Mỗi GV đều có nghệ thuật riêng của mình trong giảng dạy để tạo sự lôi cuốn và hấp
dẫn HS. Riêng tôi, tôi thường sử dụng hai cách sau, xin mạnh dạn nêu ra để anh chị em đồng
nghiệp cùng tham khảo.
Cách 1: Luôn mở đầu tiết học một cách hấp dẫn nhằm gây hứng thú học tập, thiết
lập mối quan hệ giữa kiến thức cũ và kiến thức mới, đưa ra mục tiêu bài học cho HS.
Cách 2: Trong khi tiến hành giờ dạy, căn cứ trên trình độ cụ thể của HS lớp mình,
GV cần phải cân đối để lựa chọn câu hỏi gì, với ai; khi nào thì dùng câu hỏi bài tập trong SGK,
khi nào phải thiết kế những câu hỏi khác cho phù hợp, hiệu quả. Để có giờ dạy tốt, người GV
không thể không đầu tư vào việc xây dựng, thiết kế một hệ thống câu hỏi, bài tập cho phù hợp
với khả năng của HS cũng như ý tưởng dạy học của mình từ góp ý của những tài liệu trong nhà
trường như SGK, sách GV, sách bài tập…và những tư liệu tham khảo khác. Những câu hỏi, bài
tập được thiết kế phải thỏa mãn những yêu cầu: khoa học, sư phạm, hệ thống, hấp dẫn, đa
dạng, phù hợp đối tượng,
Hiện nay, chúng ta đã có tài liệu chuẩn KTKN, đó là cơ sở giúp GV “cởi trói”, chủ động
hơn, linh hoạt hơn trong việc dạy học sát đối tượng. Hệ thống câu hỏi cho HS dân tộc nội trú
cần phù hợp, đừng quá hàn lâm, nên sử dụng nhiều loại câu hỏi tìm, phát hiện. Bảo đảm nội
dung và PPDH phù hợp từng đối tượng HS, nghĩa là phải cá thể hóa hoạt động dạy học, tạo
điều kiện cho tất cả HS được tham gia phát biểu, chữa bài trước lớp, giúp các em xóa bỏ mặc
cảm yếu kém và tự tin hơn trong học tập.
- Ba là tích cực đổi mới kiểm tra, đánh giá. Nghĩa là chúng ta tiếp tục thực hiện hiệu quả,
sáng tạo những quy định về điểm Nhấn của ngành đưa ra ở năm học trước.
Đánh giá chất lượng giáo dục gồm nhiều vấn đề, trong đó hai vấn đề cơ bản là đánh giá
chất lượng dạy của thầy và đánh giá chất lượng học của trò. Đánh giá thực chất sẽ tạo được

động lực nâng cao chất lượng dạy và học.
Những yêu cầu và nội dung kiểm tra phải bám sát quá trình học tập, bám sát mục tiêu
môn học, chuẩn KTKN, có sự phân hóa theo từng đối tượng học sinh.Với vai trò, chức năng
quan trọng như thế, KTĐG luôn không ngừng đổi mới thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học.
Kiểm tra, đánh giá phải đảm bảo chính xác, khách quan, nghiêm túc. Có thái độ tôn trọng kết
quả của các em; động viên, biểu dương kịp thời; nhắc nhở, phê bình khéo léo, tránh cho các
em mặc cảm hoặc chán nản.
- Vấn đề thứ tư tôi cần nhấn mạnh là: Năm học 2011-2012, Sở GD&ĐT Quảng Trị phát
động thực hiện điểm Nhấn “Bảo quản và sử dụng tốt thiết bị dạy học”. Thực hiện tốt điểm
Nhấn sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Giáo viên phải sử dụng
triệt để, có hiệu quả tranh ảnh có trong SGK cộng với tranh ảnh, đồ dùng, thiết bị dạy học
được cung cấp, sưu tầm và tự làm. GV ứng dụng khéo léo CNTT cho bài dạy sinh động, hấp
dẫn thu hút học sinh.
Có thể nói, giá trị lớn nhất của phương tiện, thiết bị dạy học nằm ở sự tác động của
chúng tới các giác quan- đặc biệt là thính giác, thị giác. Các nhà nghiên cứu đã tổng kết mức
độ ảnh hưởng của các giác quan tới quá trình tiếp thu tri thức như sau: 20% qua những gì
nghe được, 30% qua những gì nhìn được, 50% qua nhìn và nghe, 80% qua nói, 90 % qua nói
và làm. Sự hỗ trợ của các phương tiện, thiết bị dạy học mang lại hiệu quả cao cho các giờ học
trong các hoạt động như: nêu vấn đề; tìm kiếm thông tin; mở rộng kiến thức; củng cố, ôn tập
và hệ thống hóa kiến thức; kích thích trí tò mò, lòng ham hiểu biết; kích thích hứng thú học
tập…Điều cần lưu ý, nếu dùng không đúng lúc, đúng chỗ, các phương tiện , thiết bị dạy học lại
có tác dụng ngược lại.
- Năm là: Đẩy mạnh hiệu quả các hoạt động phối hợp giữa các bộ phận đoàn thể, GVCN,
GVBM, trong nhà trường. Tổ chức tốt sinh hoạt 15 phút đầu giờ: kiểm tra việc chuẩn bị bài, tổ
chức ôn bài, chữa bài khó; quản lí tốt tiết tự học buổi chiều, buổi tối; hướng dẫn HS cách tìm
kiếm tư liệu từ thư viện, mạng Internet, Tổ chức tốt các phong trào thi đua dạy tốt, học tốt;
các hoạt động ngoại khóa như Đố vui để học, Rung chuông vàng,
Các bước chuẩn bị kịch bản cho bài dạy là gì?
Kịch bản dạy học = bài giảng
- Hình thức dạy học

- Phương pháp + phương tiện
- Mở đầu, Thân bài, và Kết luận
- Đặt vấn đề, phát biểu vấn đề
- Giải quyết vấn đề
- Vận dụng

Câu 2:
Kích thích động cơ học tập của người học bằng việc mở đầu bài dạy như thế nào?
"S

vĩ đ

i là ngh

thu

t c

a vi

c b

t đ

u"
(Longfellow )
Bất kỳ một hoạt động nào đều có sự mở đầu. Trong mỗi tiết học, mở đầu bài giảng là một khâu
quan trọng góp phần quyết định đến hiệu quả của cả giờ học. Đây chính là thời điểm “dạo đầu”
để giáo viên tìm mọi cách tạo động cơ và hứng thú học tập cho học sinh. Thực tế cho thấy,
nhiều giáo viên còn xem nhẹ vai trò của mở đầu bài giảng, chưa chú ý nhiều đến việc phải bắt

đầu tiết học như thế nào để học sinh cảm thấy hứng thú và tham gia vào bài học một cách tích
cực nhất. Các phương pháp sư phạm chưa thực sự phù hợp với từng môn học và chưa tác động
hiệu quả tới từng đối tượng học sinh, tạo ra cảm giác nhàm chán và thái độ học tập thụ động.
Qua nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy thực trạng học tập các môn học nói chung và học tập
môn Tin học nói riêng của học sinh THPT chưa thực sự hiệu quả. Phần lớn học sinh chưa có
khả năng tự học, còn lười học, mang tính chất học vẹt, học thuộc nhưng hiểu không sâu. Vấn
đề đặt ra là cần phải có những đổi mới nhất định trong phương pháp dạy học và tạo hứng thú
học tập nâng cao cho học sinh trong từng tiết học. Trong những năm gần đây, đã có nhiều tác
giả đưa ra những lý thuyết khác nhau về vấn đề tạo hứng thú học tập cho học sinh. Trong số
đó phải đặc biệt chú ý đến quan điểm sư phạm tương tác của hai tác giả Jean – Marc
Denomme và Mandeleien Roy với ưu điểm nổi bật trong việc xác định các vai trò của người dạy
và ảnh hưở
ng của môi trường tạo ra những thích nghi nhất định nhằm xác định hứng thú và
động cơ học tập cho người học, từ đó người học sẽ tích cực tham gia vào bài học và có trách
nhiệm với hoạt động học tập của mình. Nhận thức tầm quan trọng của mở đầu bài giảng và
mối quan hệ trực tiếp của mở đầu bài giảng với hứng thú học tập của học sinh nói chung và
trong môn Hoá học nói riêng, tôi đã chọn đề tài “Một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả
môn Tin học ở THPT theo quan điểm sư phạm tương tác” dựa trên cơ sở khoa học của quan
điểm sư phạm tương tác. Có nhiều cách mở đầu bài giảng tuỳ theo mục tiêu, nội dung của bài
học, năng lực và thiên hướng của học sinh và năng lực của bản thân giáo viên.
MỘT KHẢO SÁT …
MỞ ĐẦU HẤP DẪN + LÝ THUYẾT + VẬN DỤNG + TÓM TẮT












MỞ ĐẦU HẤP DẪN + TAS + TAS + TAS … + KẾT LUẬN(Theory –Application -Summary)

KĨ THUẬT MỞ ĐẦU BÀI DẠY

Mở đầu một bài dạy nhằm
Tập trung sự chú ý và khơi dậysự hứng thú của HS
+ Liên hệ với những kinh nghiệm thực tiễn, cuộc sống, công việc liên quan
+ Tạo mối liên kết giữa những bài học trước với bài học sau
Đưa ra mục tiêu của bài dạy và những đạt được sau bài học
Chỉ ra những kiến thức/kỹ năng trọng tâm và quan trọng của bài học
+Liệt kê dàn bài, đề mục của bài học
1. THU HÚT SỰ CHÚ Ý
• Chào HV với sự nhiệt tình
• Cho xem vật thật, mô hình
• Sử dụng câu truyện vui, một sự kiện mới, … có liên quan
• Đưa ra câu hỏi thử thách, …
2. TẠO SỰ HẤP DẪN
• Đưa ra một chủ đề thú vị liên quan đến kinh nghiệm cuộc sống.
3. PHÁT TRIỂN MỐI QUAN HỆ
• Tạo ra môi trường giao tiếp trong lớp học thân thiện, bình đẳng.
4. CUNG CẤP MỘT CÁI NHÌN TỔNG QUAN
• Phát biểu ngắn gọn, rõ ràng về mục tiêu bài học.
5. ĐƯA RA NHỮNG ĐIỂM THEN CHỐT
• Liệt kê những điểm chính hoặc câu hỏi trong tiết học sẽ giải quyết.

3. Các tiêu chí để trở thành một người giáo viên tốt (good teacher) là gì?


1) Kiến thức rộng rãi
Một giáo viên phải có kiến thức rộng rãi, không chỉ có kiến thức chuyên ngành mà bạn cần phải
thông thái về các lĩnh vực khác, như thế bạn mới có thể tạo sự phong phú trong quá trình
giảng dạy.
2) Khả năng truyền đạt
Kiến thức sâu rộng là điều cần thiết, tuy nhiên, là giáo viên bạn cần phải có một khả năng
truyền đạt. Thực tế cho thấy, một giáo viên có kiến thức sâu rộng mà không biết cách truyền
đạt thì không bằng một giáo viên có kiến thức trung bình nhưng giỏi giang trong việc truyền
đạt.
3) Óc hài hước
Hài hước là một nghệ thuật sống, không những có tác dụng trong đời thường mà trong giảng
đường cũng cần có tính hài hước. Hài hước sẽ tạo ra một không khí thoải mái và giảm đi những
căng thẳng (stress) trong quá trình giảng dạy cũng như học tập, tạo nên một môi trường thân
thiện và gần gũi giữa thầy và trò.
4) Biết đặt hoài bão
Giáo viên có hoài bão, nghĩa là phải đặt kỳ vọng vào học sinh của mình. Điều đó sẽ tạo niềm tin
cho học sinh và đặt ra những mục tiêu cơ bản để học sinh của mình phấn đấu. Các học sinh khi
biết giáo viên đặt kỳ vọng nơi mình, họ sẽ cố gắng, điều đó là tiền đề để các học sinh của bạn
đạt kết quả tốt trong học tập cũng như các lĩnh vực khác.
5) Biến hóa phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy cũng cần được biến hoá, thay đổi. Sự cũ kỹ, cố hữu dễ tạo nên sự
nhàm chán. Cùng một mục tiêu nhưng có nhiều con đường để đi đến. Có khi giảng dạy trong
lớp, có khi giảng dạy thực tế ngoài xã hội. Đó là mô hình giảng dạy tiến bộ mà các nước
phương Tây đã và đang áp dụng.

6) Thái độ tích cực
Thái độ tích cực thể hiện sự yêu nghề của một giáo viên. Có một câu nói của người xưa mà sau
ngày Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhắc lại là "Nghề giáo viên là nghề cao quý nhất trong
những nghề cao quý". Nếu không có một thái độ tích cực thì bạn không thể làm tròn trách
nhiệm của người mang sứ mạng "giáo dục".

7) Công bằng
Là giáo viên thì phải xem tất cả các học sinh như con em của mình (nếu dạy người lớn thì xem
như anh chị, như bạn bè). Trong một lớp học đương nhiên có những thành viên xuất sắc nhưng
cũng có những thành phần cá biệt. Bạn phải tỏ ra bình đẳng giữa tất cả học sinh để tạo động
lực tốt cho tất cả mọi người.
8) Linh hoạt thời gian
Giữ đúng nguyên tắc giảng dạy đương nhiên là tốt. Tuy nhiên, nếu cần thiết bạn nên chủ động
thời gian giảng dạy. Khi mệt mỏi có thể "dạy" ít và "giảng" nhiều, có thể nghỉ sớm hơn một
chút. Khi không khí học đang sôi động thì bạn có thể yêu cầu kéo dài thời gian học.
9) Quan tâm xa hơn
Một giáo viên không chỉ biết lên lớp giảng dạy những kiến thức trong sách vở mà còn phải biết
quan tâm xa hơn đến gia đình, hoàn cảnh của học sinh. Bạn phải biết học sinh nghĩ gì, muốn gì
để tạo điều kiện tốt cho học sinh.
10) Vạch rõ phương hướng
Học là con đường tốt nhất để đi đến một tương lai tốt đẹp, vì thế mà người xưa thường nói
"văn hóa là chìa khóa của mọi vấn đề". Nếu bạn là giáo viên của các lớp đang độ tuổi trưởng
thành, thì bạn nên vạch rõ phương hướng cho học sinh của bạn thấy được những viễn cảnh
tương lai để làm mục tiêu phấn đấu. Bạn nên dẫn chứng những danh nhân thành công trong
lịch sử để minh chứng cho những điều mà bạn đang giảng dạy.

Chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy của những giáo viên dạy giỏi trên khắp mọi miền đất nước ở các
bậc học đều gặp nhau một điểm: cần có tâm và thực sự yêu, gắn bó với nghề; đạt được danh
hiệu giáo viên giỏi đã khó, nhưng giữ vững được danh hiệu đó lại càng khó hơn.

Giáo dục học sinh bằng tình thương yêu, sự công bằng và trách nhiệm

Giả sử giáo viên được chỉ định công tác tại một trường vùng sâu biên giới nên gặp không ít khó
khăn. Đời sống người dân nghèo, trình độ dân trí thấp, ít quan tâm tới việc học tập của con em.
Cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học chưa đáp ứng được yêu cầu. Sĩ số học sinh ít nên phải dạy
lớp ghép, một số học sinh phải đi học xa, đi bằng xuồng, qua đò qua sông.


Ngay từ đầu các năm học, sau khi nhận lớp, tôi đã phân loại học sinh, tìm hiểu hoàn cảnh, điều
kiện học tập của từng em để từ đó có kế hoạch bồi dưỡng, giúp đỡ, tìm biện pháp thích hợp
trong việc tổ chức, hướng dẫn, hỗ trợ các em trong học tập nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Tôi đã
không ngừng học hỏi bạn bè đồng nghiệp, tự nghiên cứu sách báo, tài liệu liên quan đến công
tác chuyên môn, truy cập mạng internet để tham khảo nhằm tìm ra phương pháp giảng dạy
thích hợp, tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Bên cạnh việc tiến hành họp phụ huynh học
sinh, bàn biệp pháp phối hợp, quản lí giáo dục học sinh học tập ở nhà, tôi cũng thường xuyên
giữ mối liên lạc với phụ huynh học sinh, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của phụ huynh học
sinh; tổ chức cho học sinh yếu học phụ vào các buổi chiều; hỗ trợ các học sinh nghèo tập vở,
bút, cặp sách và quần áo; tổ chức nhiều hoạt động, thay đổi các hình thức dạy học, cuốn hút
học sinh tham gia vào các hoạt động học tập cũng như các phong trào thi đua do trường,
Đoàn, Đội phát động; xây dựng môi trường lớp học thân thiện giữa cô và trò, giữa trò với trò;
trung thực trong báo cáo kết quả giảng dạy, đánh giá học sinh công bằng, khách quan.

Ngoài việc hết lòng giảng dạy và giáo dục học sinh bằng tình thương yêu, sự công bằng và
trách nhiệm của một nhà giáo, người thầy cần có thức tự học tự rèn nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ; luôn tìm cách đổi mới phương pháp dạy học, khai thác và sử dụng triệt để đồ
dùng dạy học được cấp phát, tăng cường tự làm đồ dùng dạy học Bên cạnh đó, tích cực
tham gia các phong trào do nhà trường, ngành giáo dục phát động, tổ chức.

Không truyền được lửa đam mê cho học trò thì người thầy đã thất bại

Một trong những bài học mà giáo viên tâm đắc nhất là việc nâng cao nhận thức, gắn các cuộc
vận động, các phong trào lớn của Ngành vào việc giảng dạy và giáo dục học sinh ở một trường
miền núi. Người thầy, dù giảng dạy ở bất kì bộ môn nào, đều phải là tấm gương đạo đức để
tạo được uy tín, sự kính trọng đối với học sinh của mình. Nâng cao nhận thức của bản thân về
các cuộc vận động, các phong trào lớn của ngành bằng cách không ngừng học hỏi, tự bồi
dưỡng, tích lũy kiến thức phù hợp với năng lực chuyên môn. Biến những cái mình đã có thành
tri thức cụ thể, thiết thực đến với học sinh. Phải biết học sinh mình dạy cần học gì và mình phải

dạy gì cho phù hợp với mục tiêu giảng dạy đề ra. Thông qua một giờ dạy, giáo viên không chỉ
trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản mà còn phải bồi dưỡng tâm hồn các em điều hay,
cái đẹp của cuộc sống cũng như trang bị cho các em những kĩ năng sống cần thiết.

Nói như thế, nhưng thực hiện được điều này không phải dễ. Bởi đối tượng học sinh của trường,
phần lớn năng lực tiếp thu kiến thức còn chậm; các em hiền, ngoan nhưng rất nhút nhát, thiếu
tự tin; chưa được tiếp xúc, giao lưu nhiều với các phong trào, cuộc thi lớn. Trước lực cản đó,
bản thân tôi phải nắm bắt được tâm lí các em, biết động viên đúng lúc, đúng đối tượng; khích
lệ các em mạnh dạn phát biểu ý kiến cá nhân, trao đổi suy nghĩ của mình trong mỗi tiết học.

Chúng ta cũng đừng đòi hỏi một giờ học lí tưởng, cũng đừng độc đoán, áp đặt một chiều; đừng
để giờ học quá gò bó trong một khuôn mẫu cứng nhắc, cũng đừng buộc các em phải làm thế
này, các em phải thực hiện thế kia… những điều mà người lớn chúng ta thường hay làm. Bởi có
những chuẩn mực đạo đức mà chúng ta được dạy dỗ trước kia giờ phải thay đổi cho phù hợp
với thời đại. Trân trọng, yêu thương, khuyến khích các em học tập bằng ánh mắt, giọng nói và
cách xử lí tình huống sư phạm khéo léo của mình là cách thức tốt nhất để học sinh thật sự
hứng thú học tập, để các em khao khát và cảm thấy sung sướng khi được học giờ học do chính
mình giảng dạy. Hãy tâm niệm rằng mỗi giờ học là một phần cuộc sống thu nhỏ của các em.
Phải tạo được tâm thế ở mỗi tiết học, các em sẽ được nhìn thấy một phần của chính mình, rồi
chiêm nghiệm đặt mình vào trong hoàn cảnh ấy. Cần làm cho trẻ trở thành một nhân cách cởi
mở, sáng tạo, phát triển toàn diện.

Có người nói rằng, cũng nội dung ấy, phương pháp dạy học ấy nhưng sao dạy lớp này thành
công, dạy lớp kia lại thất bại. Lí do là giáo viên không biết rõ đối tượng của mình, và lẽ đương
nhiên, kiến thức của giáo viên phải thật sự uyên bác thì việc vận dụng phương pháp mới có kết
quả.

Nhấn mạnh người giáo viên cần thay đổi tư duy, mỗi giáo viên phải mạnh dạn, tự tin trong đổi
mới PPDH. Cái ngại ngùng, cái e dè, không tự tin vào mình là lực cản vô hình ngáng trở sự phát
triển giáo dục không chỉ của đơn vị mà còn của chung xã hội. Nhiều giáo viên tự an ủi, tự bằng

lòng với cách dạy bấy lâu nay của bản thân, ngại sự thay đổi; không chỉ thế, đối tượng học sinh
quá yếu cũng là nguyên nhân khiến người thầy bế tắc trong việc tìm phương pháp dạy học hiệu
quả. Có nhiều giáo viên nghĩ đơn giản, đổi mới phương pháp dạy học là phải ứng dụng CNTT
vào dạy học, tránh đoc-chép, …

Bản thân luôn tìm tòi, vận dụng những PPDH phù hợp với đối tượng học sinh của mình, phương
pháp rất đa dạng, mỗi phương pháp có những ưu thế, hạn chế riêng. Để đảm bảo tính khoa
học cho các giờ học thì sự vận dụng các PPDH phải thực sự linh hoạt sáng tạo. Đổi mới cách
dạy không có nghĩa là giáo viên phải từ bỏ phương pháp giáo dục truyền thống để độc tôn cải
tiến hoặc áp dụng một cách máy móc những PPDH hiện đại. Cũng không thể hiểu một cách
chung chung về đổi mới PPDH là thầy giảng một nửa còn một nửa học sinh tự làm lấy. Sự vận
dụng các PPDH phải đi từ cái học sinh đã có đến cái học sinh cần có, từ thực tiễn cuộc sống
của học sinh tới kiến thức trong sách vở và quay trở về phục vụ cuộc sống.

Nếu không truyền được ngọn lửa đam mê học tập thì người thầy đã thất bại trong việc thực
hiện nhiệm vụ dạy học của mình. Đổi mới tư duy là đổi mới cách nghĩ, cách làm. Việc đổi mới
bao giờ cũng có những khó khăn nhất định, đòi hỏi người giáo viên tự vượt qua rào cản suy
nghĩ của chính mình. Đôi lúc sự đổi mới này đòi hỏi sự hi sinh vô điều kiện, cái tâm trong sáng,
và cả niềm đam mê của bản thân đối với nghề. Đừng bao giờ than vãn rằng: “Học sinh bây giờ
lười lắm, thực dụng lắm, vô cảm lắm ” khi mà bản thân ta chưa nêu được tấm gương về lòng
đam mê, tự học, sáng tạo, …

CHỦ ĐỀ 4:
Các phương pháp dạy học hiện đại
1. Đặc điểm và phân tích điểm mạnh, điểm yếu của mỗi phương pháp dạy học cụ thể là gì?
2. Bạn sẽ áp dụng nó như thế nào trong các tình huống thực tế?

1. Đặc điểm và phân tích điểm mạnh, điểm yếu của mỗi phương pháp dạy học cụ thể là gì?

Dạy học là gì?

Nhiều tác giả cho rằng: “Dạy học là toàn bộ các thao tác có mục đích nhằm chuyển các giá trị
tinh thần, các hiểu biết, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được hoặc cộng đồng đã đạt
được vào bên trong một con người”. Quan niệm này lí giải đầy đủ cách mà nền giáo dục đang
cố gắng đào tạo những con người thích ứng với những nhu cầu hiện tại của xã hội. Tuy nhiên
quan niệm này làm cho nền giáo dục luôn đi sau sự phát triển của xã hội. Bởi vì nó chỉ có nhiệm
vụ tái hiện lại các giá trị tinh thần xã hội đã được vật chất hóa bằng cách nào đó để trở lại thành
giá trị tinh thần bên trong người học. Quan niệm đó đi ngược lại quan niệm của Socrate về giáo
dục trong đó giáo dục có nhiệm vụ “đở đẻ” các ý niệm vốn có trong mỗi con người, để cho ý
niệm đó được khai sinh và trở thành giá trị tinh thần chung của nhân loại. Quan niệm đó cũng
hạn chế nền giáo dục hướng đến một phương pháp giáo dục giúp cho người học trở thành
những con người sáng tạo, vượt qua được những giá trị tinh thần hiện có của xã hội. Thời đại
của chúng ta, và hơn nữa xã hội chúng ta đang hướng đến một xã hội tri thức. Một xã hội mà tri
thức của con người đang được số hóa với một tốc độ cực lớn, làm cho tri thức dễ dàng và
nhanh chóng trở thành tài sản chung. Tuy nhiên xã hội tri thức không chỉ có nhiệm vụ tích hợp
các kiến thức của con người đã đạt được trong những phương tiện lưu trữ dung lượng cực lớn,
trong các cơ sở dữ liệu khổng lồ mà còn có nhiệm vụ từ đó nhân lên khối lượng kiến thức này
thành các kiến thức mới có chất lượng cao hơn nữa.
Triết học Mác nói rằng “Lượng đổi thì chất đổi. Lượng thay đổi một cách tiệm tiến còn chất thì
thay đổi một cách nhảy vọt”. Phạm trù về mối tương quan giữa lượng và chất này hoàn toàn
đúng trong các hoạt động giáo dục. Người ta đã tính ra rằng khối lượng kiến thức hiện nay của
nhân loại trong vòng 20 năm trở lại đây đã tăng bằng tổng khối lượng kiến thức mà nhân loại
đạt được trong toàn bộ lịch sử trước đó của nó. Sự tăng về khối lượng kiến thức đó nhất thiết
phải kéo theo sự thay đổi về chất tri thức của con người. Sự thay đổi về chất đó là gì? Con
người của thời đại hiện tại không chỉ có nhiệm vụ học tập và nhớ các kiến thức sẳn có mà còn
đòi hỏi con người phải có khả năng từ khối lượng tri thức đó sản sinh ra các giá trị vật chất và
tinh thần mới và nắm bắt tri thức mới. Thời đại của máy tính và mạng Internet đã làm cho
mọi biên giới văn hóa, kinh tế dần bị xóa nhòa. Nếu trước đây việc tìm kiếm sở hữu tri thức là
quan trọng hàng đầu trong cuộc đấu tranh sinh tồn, việc tích lũy kiến thức (nhớ) là ưu tiên 1 thì
giờ đây khi mà các phương tiện lưu trữ đã quá đầy đủ, quá sẳn sàng cho việc truy cập và xử lí
thì ưu tiên 1 lại là khả năng nhanh chóng tiếp cận tri thức mới, khả năng vận dụng tri thức mới

và khả năng "đẻ" ra tri thức mới. Một ví dụ rất rõ ràng là trong vòng vài tháng thì công nghệ
phần cứng của máy tính lại có một công nghệ mới, trong vòng vài năm thì Microsoft (chưa kể
đến các hảng phần mềm khác!)lại xuất ra một phiên bản OS mới với nhiều tính năng mới, .v.v.
con người phải có khả năng thích ứng liên tục và nhanh chóng - chẳng những về tri thức mà còn
về kỹ năng - với một tốc độ cực cao. Nếu cuộc cách mạng kỹ thuật của thế kỹ trước đã nối dài
cách tay con người thì nay cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã bố trí thêm cho mỗi con
người vô số bộ óc bên ngoài cơ thể. Cách tay của con người trong thế kỹ trước cần được đào
tạo để chế tạo và điều khiển những cách tay máy thì trong thời đại hôm nay bộ óc con người
cần được đào tạo để chế tạo và điều khiển những bộ óc máy. Nhưng con người là con người!
Những kiểu tâm trạng và kiểu cảm xúc của nó nói chung là bất biến đối với thay đổi kỹ thuật.
Những vấn đề cốt lõi của con người về hạnh phúc, về sự sống, về cái chết, về chiến tranh và hòa
bình, về khả năng sống hòa hợp trong không gian các giá trị văn hóa của cộng đồng .v.v. hầu
như không hề tay đổi! Và nó cũng phải được đào tạo để thích ứng với điều đó!
Vậy có lẻ hợp lí hơn nếu cho rằng:
“Dạy học là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức và có định hướng giúp người
học từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị
tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở
đó có khả năng giải quyết được các bài toán thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi
người học”

Khi đó chúng ta sẽ nói tới phương pháp dạy và học trong ngày hôm nay:

Phương pháp giảng dạy:
Không có “phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm”. Đó không phải là một phương
pháp. Đó chỉ là một quan niệm về việc dạy học. Phương pháp dạy học là cách thức mà người
dạy tuân thủ suốt trong quá trình thực hiện các công việc liên quan đến việc dạy nhằm làm cho
việc dạy đạt được mục đích yêu cầu học của người học.
Nói tới phương pháp dạy học là nói tới công nghệ dạy học, bao gồm các thao tác tổ chức môi
trường dạy và học, tổ chức chương trình học, tổ chức thời gian học, tổ chức việc dạy, tổ chức
việc học, tổ chức đánh giá kết quả học.

Mặc dù vậy, đánh giá kết quả của việc dạy lại là thẩm quyền của xã hội! Các trình độ xã hội khác
nhau và mục tiêu mà xã hội đó muốn đạt tới đặt ra các mục tiêu giáo dục khác nhau. Các mục
tiêu giáo dục khác nhau dẫn đến các quan niệm về giáo dục khác nhau. Đến phiên các quan
niệm về giáo dục khác nhau trong mỗi hoàn cảnh cụ thể sẽ ảnh hưởng lớn đến việc lựa chọn
phương pháp dạy học.
Việc lựa chọn một phương pháp dạy học cụ thể, trong một hoàn cảnh dạy học cụ thể, là công
việc của người dạy và chỉ do người dạy quyết định. (Tuy nhiên việc đánh giá kết quả công việc
dạy học của người dạy lại là quyền của xã hội!)
I. Quan niệm dạy học lấy người học làm trung tâm.
Để xem xét vấn đề này trước hết chúng ta cần xem xét một số vấn đề và một số khái niệm có
liên quan:
• Công nghệ dạy học:
Công nghệ dạy học hiểu theo nghĩa rộng nhất là việc tổ chức các quá trình của hoạt động dạy,
hoạt động học đồng thời với việc tổ chức các thành tố khác có tham gia vào hai hoạt động đó.
Nói dạy học theo một công nghệ dạy học là nói đến quá trình tổ chức dạy học được thiết kế tỉ
mỉ, được chia thành các nguyên công và các qui tắc tiến hành công việc dạy học một cách chặt
chẽ. Các nguyên công này bao gồm: Tổ chức môi trường dạy/ học; Phương pháp dạy; Phương
pháp học; Phương tiện dạy học.
* Lịch sử công nghệ dạy học:
Nhìn lại lịch sử giáo dục, nhìn lại mối tương quan giữa người dạy và người học, lịch sử công
nghệ dạy học đã đi một vòng phát triển xoáy trôn ốc:
Thời sơ khai: Trong lịch sử phát triển của loài người có lẽ hoạt động giảng dạy xuất hiện lần đầu
tiên khi người cha dẫn người con đi săn bắn-hái lượm. Trong hoạt động đó người cha truyền
đạt cho người con những hiểu biết và kỹ năng cần thiết để tồn tại, đồng thời cũng truyền cho
con những qui tắc ứng xử giữa con người và thiên nhiên, qui ước ứng xử giữa các con người
trong bộ tộc (cũng tức là những yếu tố văn hóa nguyên khai nhất nhằm giải thích ý nghĩa xã hội
của cuộc sống). Hoạt động này diễn ra bằng mối giao tiếp toàn vẹn giữa Một Người – Một
Người. Người Cha hiểu biết cặn kẻ về trạng thái hiểu biết và kỹ năng của con và có thể đáp ứng
tức thời và trực tiếp nhu cầu học tập của con. Hoạt động dạy và học này có thể xem là hoạt
động dạy học không chính qui (informal education) vì nó diễn ra tự phát. Tuy nhiên hoạt động

đó có những ưu điểm mà các hình thức dạy học về sau khó lòng đạt được là:
o Tương tác trực tiếp, tức thời giữa người dạy và người học.
o Người học được đặt trong môi trường học tập một cách đầy đủ (ở đây là thiên nhiên trong
bối cảnh tự nhiên của nó).
o Người học được phát triển một cách toàn diện về cả thể chất lẫn tinh thần theo như nhu cầu
về cuộc sống của nó.
Nhưng điều đó không thể kéo dài trong lịch sử nhân loại. Sẽ có sự phân công trong bộ lạc để
dần tiến lên một kiểu xã hội tiến bộ hơn. Người cha sẽ không thể có đủ hiểu biết và các kỹ năng
cần thiết để dạy cho người con nữa. Cần thiết có sự xuất hiện những người chuyên trách nhiệm
vụ đặc biệt này: Ông Thầy. Đây là người sẽ đảm nhận trọng trách dạy cho người khác hoặc là
cách sống giữa xã hội (sống có văn hóa) hoặc là cách kiếm sống bằng một kỹ năng nhất định nào
đó (nghề nghiệp) hoặc là cả hai điều đó. Điều này còn để lại dấu ấn trong ngôn ngữ của chúng
ta. Dân gian vẫn dùng từ “Thày” để chỉ tất cả những ai dạy cho mình ít ra một hai điều đó: Thày
chùa, Thày nghề, Thày lang .v.v Trong đó dành riêng một từ “Thày giáo” để chỉ những ai
“chuyên trách” (formal education) công việc dạy.
Tới giai đoạn này thì Một Ông Thày không còn dạy cho Một Người Học nữa. Điều đó rõ ràng là
kém hiệu quả. Ông thày bắt đầu có nhiều môn sinh – Mặc dù tại mỗi thời điểm ông thày có thể
chỉ dạy một người học – và bắt đầu xuất hiện khái niệm trường học
Thời kì phong kiến nông nghiệp: “Ông thầy/ ông đồ” có mối liên hệ cá nhân với mỗi một người
học. Tại mỗi thời điểm ông thầy dạy theo đúng với trạng thái trí tuệ của “cá nhân” người học và
không bị ràng buộc bởi bất kì một chương trình, một phân bố thời lượng nào cho môn học.
“Ông thầy” giảng bài cho “cá nhân” người học. Lời nói, đối thoại giữa thầy và trò là công cụ dạy
và cũng là công cụ học tập chủ yếu.
Thời kì công nghiệp hoá, cơ khí hóa: Do nhu cầu đào tạo nhanh một số lượng đông, đồng nhất
về trình độ để phục vụ cho xã hội công nghiệp hoá, và tăng hiệu quả việc tổ chức dạy học,
người học được tập trung lại theo từng lớp học. “Ông thầy” giảng bài cho “tập thể” lớp học.
Trong quá trình giảng bài, ông thầy phải giả định “một học sinh ảo trung bình” làm đơn vị thước
đo trung bình cho kiến thức cần truyền đạt, đánh giá người học qua năng lực cần đạt được của
“học sinh ảo trung bình” này và buộc phải tuân thủ chặt chẻ chương trình qui định và thời
lượng qui định. Ở mọi thời điểm, mỗi người học dù ở mức năng lực nào, trạng thái trí tuệ và

tâm lí nào cũng phải lấy “học sinh ảo trung bình” này làm tiêu chuẩn đối chứng. Việc dạy học
“đảm bảo thích hợp cho 4 đối tượng: Giỏi / Khá / Trung bình / Yếu” là một cố gắng tuyệt vọng
hướng tới đảm bảo chỉ số đánh giá trung bình, vì làm sao một lớp học với 30 học sinh mà chỉ có
4 đối tượng được[1] ! Lời nói trở thành công cụ dạy chủ yếu. Đối thoại giữa thầy và trò bị giảm
thiểu – thậm chí bị triệt tiêu. Ngưòi học chủ yếu là nghe để học. Đồng thời với sự phát triển
công nghệ, việc dạy học đòi hỏi thêm nhiều phương tiện dạy học dạy học hơn: Bảng, phấn, sách
vở, phương tiện trực quan, phương tiện thí nghiệm. Tuy nhiên, dù có sự giúp sức của các
phương tiện dạy học, sự truyền thông hướng từ thầy tới trò vẫn là con đường truyền thông chủ
yếu cho phần lớn kiến thức, kỹ năng, các giá trị đạo đức mà xã hội muốn truyền đạt cho thế hệ
trẻ.
Dự kiến cho thời kì xã hội thông tin: Mở ra khả năng người học, nhờ vào công cụ học tập là máy
tính, và các phương tiện truyền thông đa phương tiện nói chung - có thể học tập theo trạng thái
tức thời của mình đồng thời cũng không vượt xa khỏi định hướng chung của môn học. Quan sát
bất kì giờ học nào trên máy tính cũng thấy rất nhiều học viên đang trong nhiều trạng thái
chương trình, rẻ nhánh chương trình khác nhau – đang tập trung giải quyết các khối lượng
thông tin khác nhau, các hướng đi khác nhau để đến cùng một mục đích do định hướng chung
của môn học qui định. Không thể nào bắt buộc mọi học viên đều cùng có bước phát triển
chương trình như nhau. Mặt khác, giao tiếp người – máy thông qua các giao diện thích hợp mở
ra khả năng giảm thiểu việc dùng lời-giảng-cho-cả-lớp. Giao tiếp “người - máy tính” cũng mở lại
khả năng giao tiếp: “Ông thầy – máy tính” làm việc với “cá nhân” người học. Mở lại khả năng
dạy theo đúng với trạng thái trí tuệ của “cá nhân” người học và không bị ràng buộc cứng ngắc
bởi bất kì một chương trình, một phân bố thời lượng nào cho môn học như đã từng có trong
lịch sử dạy học trước đó, nhưng với một chất lượng dạy/học cao hơn nhiều. Người dạy bây giờ
tập trung nhiều hơn, và có nhiều khả năng hơn vào việc điều khiển học tập của từng người học.
Công nghệ thông tin hiện đại đã trở thành công cụ dạy và cũng là công cụ học.
Một đặc điểm hết sức quan trọng hiện nay của việc thủ đắc kiến thức là con người có thể thủ
đắc gần như đầy đủ các kiến thức thông qua hệ thống máy tính và các phần mềm giáo dục mà
không nhất thiết phải có sự hiện diện của “ông thầy bằng xương bằng thịt”. Nói cách khác sự
hiện diện của ông thầy có vẻ như trong chừng mức nào đó “làm cho triệt tiêu” được! Vậy thì vai
trò của “ông thầy bằng xương bằng thịt” là chổ nào trong toàn bộ quá trình dạy và học? Vấn đề

là người học, đặc biệt là trẻ em, vẫn rất cần phải có người điều chỉnh hoạt động học. Các quá
trình tâm sinh lí và trạng thái ý thức của người học trong quá trình học vẫn chưa và có lẽ sẽ
không thể nào điều khiển bằng một chương trình tự động hóa được. Việc đánh giá trạng thái
tâm lí, yếu tố có tác động to lớn đối với hoạt động trí tuệ và hành vi của người học chỉ có thể
được thực hiện bởi những kinh nghiệm dạy của “ông thầy” để đưa ra các tác động điều khiển
học tập cần thiết và thích hợp cho mỗi cá nhân học viên.
Mỗi xã hội và nền tảng kinh tế của nó hình thành nên một công nghệ dạy học thích ứng với nhu
cầu của nó. Nhưng một xã hội cũng không cần phải kinh qua mọi hình thái tổ chức dạy học như
các hình thái mà lịch sử tổ chức xã hội đã kinh qua:
“Giáo dục có sức mạnh hơn quá trình hiện thực ở chỗ, vì đi sau, nó không nhất thiết phải đi
vòng vèo, rơi vào những chỗ xoáy ngược trở lại của dòng lịch sử và nói chung không cần phải tự
mình thí nghiệm những nỗi dằn vặt trong những lúc tròng trành của con thuyền sự vật ở trong
dòng lịch sử ấy”. Nếu khôn ngoan, nó sẽ biết làm theo con đường lich sử đã “rút gọn”.[2]
Tuy nhiên, công nghệ thông tin không làm cho công việc người dạy trở nên nhẹ nhàng hơn,
cũng không làm cho việc nắm bắt kiến thức của nhân loại dễ dàng hơn như nhiều người vẫn
tưởng – thậm chí người dạy và người học còn phải vật lộn nhiều hơn với sự bùng nổ hoặc quá
tải thông tin. Công nghệ thông tin chỉ đem lại cho người dạy, người học các khả năng to lớn
hơn, hiệu quả hơn trong dạy và học mà thôi! Do đó “Dù khó khăn gian khổ đến đâu cũng phải
thi đua dạy tốt, học tốt” mãi vẫn còn là điều mà người làm công tác giáo dục phải kiên trì phấn
đấu.
II. Phương pháp giảng dạy tin học.
Nếu các nội dung liên quan đến công nghệ thông tin có thể và cần được giảng dạy trong nhà
trường với tính cách là một bộ môn riêng lẻ, và nếu bộ môn ấy có những đặc thù về tổ chức môi
trường dạy và học cũng như có nét tư duy bộ môn khác biệt so với mọi môn học khác trong nhà
trường thì chắc chắn phải có một phương pháp dạy học dành riêng cho nó. Phương pháp dạy
học đó phải kế thừa các phương pháp dạy học đã biết đồng thời phải có những nét khác biệt do
nó sử dụng các thành tựu công nghệ thông tin ở trình độ cao.
Quá trình dạy / học có thể hiểu như một quá trình truyền thông mà nhân vật trung tâm, mục
tiêu của quá trình truyền thông này là người học. Mọi tác nhân có liên quan đến quá trình
dạy/học đều hướng tới sự hoàn thiện cá nhân người học thông qua sự thụ đắc kiến thức, rèn

luyện kỹ năng và hình thành nhân cách của người học.
Trong hình trên chúng ta có thể thấy người học ở trung tâm của mọi con đường kiến thức:
Người học có thể tìm kiếm sự hoàn thiện đó qua thầy cô giáo, máy tính và mạng máy tính, sách
vở, hoạt động nghệ thuật, môi trường tự nhiên, xã hội, gia đình, các phương tiện nghe nhìn,
trong đó người dạy giữ vai trò quan trọng nhất vì khi đó hoạt động dạy/học là hoạt động có
mục tiêu và có định hướng rõ ràng nhất. Điều đó cho ta thấy chính người học là trung tâm của
hoạt động dạy/học chứ không phải thày cô giáo. Hoạt động dạy của thày cô giáo chỉ là một
phần của môi trường học tập đó mà thôi! Và điều đó ngày càng trở nên rõ ràng, cấp thiết hơn
trong xã hội bùng phát thông tin hôm nay. Sự hoàn thiện đó đòi hỏi nhiều phương tiện truyền
thông khác nhau (truyền thông đa phương tiện – multimedia communication). Và vì vậy hiện
nay "dạy"đồng nghĩa với “dạy cách học” chứ không phải “dạy kiến thức”. Kiến thức sẽ đến với
người học từ nhiều nguồn khác nhau – không nhất thiết kiến thức, kỹ năng luôn luôn đến với
người học là từ người dạy!

Cũng như mọi quá trình truyền thông tổng quát, luôn luôn xuất hiện một chiều thông tin tới
người học và một chiều thông tin phản hồi từ phía người học đến các tác nhân dạy. Sự truyền
thông đó luôn luôn có những tác nhân gây nhiễu. Nhiễu trong quá trình truyền thông này trong
thực tế không thể loại bỏ hoàn toàn được mà chỉ có thể làm giảm đi càng nhiều càng tốt. Như
vậy lượng thông tin nhận được khi nào cũng bị suy giảm so với lượng thông tin được phát đi.
Độ lớn của sự suy giảm này phụ thuộc vào:
- Kỹ thuật mã hoá thông tin.
- Kỹ thuật giải mã thông tin.
- Cường độ của nhiễu.
- Kỹ thuật của đường truyền (vật mang thông tin).
Như vậy để giảm thiểu thông tin bị thất thoát cần nâng cao chất lượng mã hoá, giải mã, hạn chế
các nguồn gây ra nhiễu và kỹ thuật truyền tin. Có một kỹ thuật chống nhiễu: đó là kỹ thuật dùng
mã thừa sửa sai (CRC - cyclic redundancy check). Kỹ thuật này dùng cách truyền thêm một
lượng thông tin dư thừa so với lượng cần truyền đi. Ở nơi nhận, lượng thông tin dư thừa này sẽ
được dùng để phối kiểm liệu thông tin nhận được có chính xác hay không. Nếu thông tin nhận
được là không chính xác thì có thể dùng ngay mã thừa sửa sai này để điều chỉnh ngay hoặc,

trong tình huống xấu nhất, yêu cầu thông tin phải được nơi phát truyền lại lần nữa!
Đối với quá trình dạy/học nơi nhận tin là con người do đó sự thất thoát thông tin này còn do
một yếu tố nữa hoàn toàn có tính chất tâm lí học: đó là yếu tố tâm lí – sinh học đối với kỹ thuật
truyền tin. Các thống kê sau đây cho thấy với các vật mang tin khác nhau ảnh hưởng đến khả
năng nhận tin của “người” nhận tin như thế nào:

Lượng thông tin phát Vật mang tin Lượng thông tin nhận
(100 %) Lời nói 5% - 10 %
(100%) Hình ảnh 20 %
(100%) Lời nói + Hình ảnh 25 %
(100%) Thao tác thí nghiệm 75 %

Điều này có nghĩa là nếu giáo viên chỉ dùng lời giảng và phương pháp đọc ghi thì có khả năng
90% kiến thức truyền giảng bị rơi mất khỏi tâm trí học sinh!
Khi đặt người học ở trung tâm ảnh hưởng của các tác nhân dạy tức là đã dùng kỹ thuật truyền
tin đa phương tiện và kỹ thuật mã thừa sửa sai để nâng lượng thông tin thu nhận được lên đến
mức tối đa có thể được.

Cước chú:

[1] Nhiều nhà giáo dục còn đi xa, cực đoan hơn trong việc đánh giá việc dạy học theo từng “lớp
học”. Ý kiến sau đây là của Tiến sĩ Seymour Paper – thuộc Phòng thí nghiệm Media của Học viện
Công nghệ Massachusetts, dự án “Nhà trường của tương lai”: “Không thể dự báo được trường
học trong tương lai sẽ như thế nào. Lịch sử thường thông minh hơn nhiều so với những nhà
tương lai học. Nhưng rất dễ dàng dự báo trường học sẽ không còn như thế nào. Tôi tin chắc
rằng việc phân chia trẻ em theo tuổi trong các “lớp học” sẽ được xem như là một phương pháp
lỗi thời và vô nhân đạo của kỷ nguyên “sản xuất dây chuyền”. Tôi nghĩ rằng nội dung của những
gì chúng ta học sẽ rất ít giống với chương trình hiện nay” . Trích tài liệu tham khảo về CÔNG
NGHỆ GIÁO DỤC – Gs. Lâm Quang Thiệp dịch – Tài liệu Đổi mới phương pháp dạy học trong các
trường đại học, cao đẳng đào tạo giáo viên trung học cơ sở – Bộ giáo dục và đào tạo - Dự án

đào tạo giáo viên trung học cơ sở – Hà Nội tháng 9/2003. Trang 110.

[2] BÀI HỌC LÀ GÌ? – Hồ Ngọc Đại (Chương VII – Tiến trình phát triển của bài học). Trang 239.
Nxb Giáo Dục 1985.

2. Bạn sẽ áp dụng nó như thế nào trong các tình huống thực tế?
Trong thực tiễn lập kế hoạch và tiến hành dạy học, người thầy giáo thường xuyên đối diện với
câu hỏi: làm thế nào để lựa chọn phương pháp dạy học (PPDH) phù hợp và có hiệu quả ? Các
nhà lí luận dạy học, các nhà giáo học pháp bộ môn thường đưa ra lời khuyên: Mỗi PPDH có một
giá trị riêng, không có PPDH nào là vạn năng, giữ vị trí độc tôn trong dạy học, cần phối hợp sử
dụng các PPDH…Lời khuyên này không sai nhưng gần như không có tác dụng thao tác hoá; giá
trị giúp đỡ đối với giáo viên quá ít nếu như không chỉ ra được các yếu tố ảnh hưởng đến việc
lựa chọn PPDH. Đặc biệt trong bối cảnh đang có sự đấu tranh (lúc công khai, lúc ngấm ngầm)
giữa xu hướng muốn giữ nguyên trạng thái dạy học truyền thụ một chiều hiện hành, với xu
hướng chủ trương đổi mới thì lời khuyên chung chung ở trên là một vị thuốc an thần, an ủi
những người giữ nguyên lối dạy học cổ truyền. Như vậy, cần phải góp phần trả lời câu hỏi: Việc
lựa chọn PPDH được tiến hành một cách tuỳ tiện, bất kì, hay bị rằng buộc bởi những tiêu chuẩn
khoa học nào?


Câu trả lời cần được tìm kiếm ở các mối quan hệ của PPDH (hiểu theo cả 3 tầng nghĩa của nó)
với các yếu tố liên quan, đó là: Với mục tiêu dạy học; với nội dung dạy học; với nhu cầu, hứng
thú, thói quen học tập của học sinh; năng lực, sở trường, kinh nghiệm sư phạm của giáo viên;
với điều kiện giảng dạy và học tập.

Dưới đây là mấy cơ sở căn bản cần quan tâm khi lựa chọn PPDH:

1. Chọn những PPDH có khả năng cao nhất đối với việc thực hiện mục tiêu dạy học

Mỗi mô hình lí luận dạy học, PPDH đều có những điểm mạnh, điểm hạn chế nhất định. Nhưng

khi xem xét việc thực hiện một mục tiêu dạy học nhất định thì có một số PPDH có khả năng cao
hơn các PPDH khác. Chẳng hạn nếu đặt mục tiêu nhanh chóng truyền thụ cho xong nội dung
quy định thì PPDH thuyết trình có vị trí quan trọng. Nhưng nếu đặt mục tiêu phát triển năng lực
tìm tòi sáng tạo của học sinh thì vấn đề sẽ khác đi.

Sau đây là kết quả nghiên cứu về khả năng của các PPDH trong việc thực hiện các mục tiêu
(theo phân loại của Bloom và các tác giả khác):

Nhìn vào ma trận, ta có thể thấy rõ điểm mạnh, điểm yếu của các nhóm PPDH với việc thực
hiện mục tiêu, đặc biệt là sự hạn chế của PP thuyết trình đối với việc thực hiện các mục tiêu
quan trọng của phát triển nhân cách.

Một kết quả nghiên cứu khác cũng cho thấy sự hạn chế của các PP dùng lời nói và đồng thời
khuyến khích tổ chức các hoạt động tự lập của học sinh phối hợp các PP nhằm huy động đồng
thời nhiều giác quan của học sinh tham gia vào quá trình tri giác các đối tượng lĩnh hội.

2. Lựa chọn các PPDH tương thích với nội dung học tập

Giữa nội dung và PPDH có mối quan hệ tác động lẫn nhau, trong nhiều trường hợp quy định lẫn
nhau. Ở bình diện kĩ thuật dạy học, PPDH cần tương thích với nội dung dạy học. Mỗi nội dung
dạy học đều liên hệ mật thiết với những hoạt động nhất định.


3. Lựa chọn PPDH cần chú ý đến hứng thú, thói quen của học sinh, kinh nghiệm sư phạm của
giáo viên

a. Cần chuẩn đoán nhu cầu, hứng thú của học sinh khi lựa chọn các PPDH.

Đối với việc trình bày thông tin cần ưu tiên lựa chọn các PP sử dụng phương tiện nghe nhìn, sử
dụng truyền thông đa phương tiện càng tốt.


Đối với các hoạt động chế biến thông tin cần tổ chức các hoạt động tự phát hiện, phối hợp với
làm việc theo nhóm, phát huy càng tối đa tính tích cực, sáng tạo của học sinh càng tốt.

b. Chú ý thay đổi PPDH và hình thức tổ chức dạy học tránh nhàm chán, gây hứng thú cho học
sinh. Cần thay đổi PPDH sau 15, 20 phút.

c. Ưu tiên lựa chọn các PPDH mà học sinh, giáo viên đã thành thạo.

Với các PPDH có ưu điểm tương đương, cần ưu tiên lựa chọn PPDH mà GV và HS đã thành thạo,
bởi thực hiện dễ dàng hơn.

Không vì tiêu chí này mà quay trở lại vớ PP truyền thụ một chiều. Hiện nay, rất cần thiết phải
cho GV và HS trở nên quen thuộc với các kĩ thuật dạy học mới có hiệu quả cao trong việc thực
hiện các mục tiêu giáo dục. Để nâng cao tay nghề cần:

Nghiên cứu các vấn đề đổi mới PPDH qua sách, vở, giáo trình, tạp chí chuyên môn, các lớp
tập huấn
Rút kinh nghiệm các giờ dạy của bản thân kết hợp với tiến hành dự giờ, trao đổi chuyên môn
với đồng nghiệp

4. Lựa chọn PPDH phù hợp với điều kiện dạy học

a. Ở đây đề cập đến PPDH diễn ra trong mối quan hệ với các điều kiện vật chất, đặc biệt là thiết
bị dạy học (TBDH). Đương nhiên là cần phải lựa chọn PPDH phù hợp với điều kiện của nhà
trường, của phòng thí nghiệm, của tình trạng đang có.

b. Trong khuôn khổ điều kiện cho phép, cần chọn thứ tự ưu tiên khả năng tốt nhất.

c. Các TBDH hiện đại không luôn đồng nghĩa với các TBDH đắt tiền. Tính hiện đại của TBDH thể

hiện ở việc sử dụng các thiết bị sao cho đạt yêu cầu cao nhất trong việc thực hiện các mục tiêu
dạy học, thể hiện rõ tư tưởng sư phạm hiện đại.


Tóm lại, trên đây là 4 cơ sở quan trọng nhất, là căn cứ xuất phát khi tiến hành lựa chọn, lập kế
hoạch các PPDH. Điều quan trọng nhất là cần xác định lựa chọn phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học có thể giúp học sinh:

- Học tập với niềm say mê, hứng thú, khát khao tìm tòi khám phá.

- Lĩnh hội tri thức trong các hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, theo phương pháp
khoa học.

- Học trong tương tác, trong việc hình thành các quan hệ hợp tác, thân thiện, cùng nhau giải
quyết các nhiệm vụ học tập.


Phương pháp giảng dạy truyền thống với vai trò người thầy làm trung tâm phát thông tin, và
học viên bị động tiếp nhận thông tin đã trở nên lạc hậu trước yêu cầu đào tạo về quản lý của xã
hội, khi các giá trị được kỳ vọng từ các nhà quản lý tương lai là năng lực tư duy sáng tạo và khả
năng tự tiếp thu cái mới, hay cao hơn nữa là khả năng tự hoàn thiện.

Phương pháp nghiên cứu tình huống (case study) - một phương pháp giảng dạy đang được sử
dụng rất phổ biến trong các trường kinh doanh trên toàn thế giới - đã được sử dụng làm
phương pháp giảng dạy trong rất nhiều môn học (quản trị tiếp thị, tiếp thị công nghiệp, quản trị
chiến lược kinh doanh, kinh tế học kinh doanh, quản trị học) và bậc học (đại học, đại học bằng
hai, cao học, các chương trình huấn luyện ngắn hạn dành cho các doanh nghiệp). Khảo sát ở
giảng viên cũng như ở phía học viên cho thấy phương pháp này có những ưu điểm nổi bật so
với phương pháp truyền thống.


Các ưu điểm nổi bật

Thứ nhất, nâng cao tính thực tiễn của môn học. Sau khi đã được cung cấp các kiến thức lý
thuyết, một bài tập tình huống sẽ giúp học viên có cái nhìn sâu hơn và thực tiễn hơn về vấn đề
lý thuyết đã được học. Thông qua việc xử lý tình huống, học viên sẽ có điều kiện để vận dụng
linh hoạt các kiến thức lý thuyết.

Thứ hai, nâng cao tính chủ động, sáng tạo và sự hứng thú của học viên trong quá trình học.
Khác với việc tiếp thu lý thuyết một cách thụ động, khi được giao các bài tập tình huống, các
nhóm học viên phải chủ động tìm kiếm và phân tích các thông tin để đi đến giải pháp cho tình
huống. Để đáp ứng được yêu cầu này, học viên phải chủ động tư duy, thảo luận - tranh luận
trong nhóm hay với giảng viên, tìm hiểu thêm về lý thuyết, tài liệu tham khảo để đạt đến giải
pháp.

Chính trong quá trình tư duy, tranh luận, bảo vệ và sửa đổi các đề xuất - giải pháp của mình,
học viên (hay nhóm học viên) đã tham gia vào quá trình nhận thức. Sự tham gia tích cực đó đã
góp phần tạo ra sự hứng thú và say mê học tập, sáng tạo của học viên. Đây chính là lúc quá
trình dạy và học tập trung vào học phương pháp học, phương pháp tiếp cận, phân tích và tìm
giải pháp chứ không chỉ giới hạn ở việc học các nội dung cụ thể.

Thứ ba, nâng cao kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng phân tích, giải quyết vấn đề, kỹ năng trình
bày, bảo vệ và phản biện ý kiến trước đám đông. Để giải quyết tình huống, học viên được yêu

×