Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Văn hóa doanh nghiệp của ngân hàng công thương việt nam nghiên cứu điển hình chi nhánh ngân hàng công thương hai bà trưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.27 KB, 97 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHUYÊN NGÀNH KINH DOANH QUỐC TẾ



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI:
VĂN HOÁ DOANH NGHIỆP CỦA NGÂN HÀNG
CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM - NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH
CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HAI BÀ TRƯNG




Họ tên sinh viên : Hoàng Huy Thành
Lớp : Anh 6
Khóa : 45
Giáo viên hướng dẫn : Th.S Nguyễn Lệ Hằng




Hà Nội, tháng 5 năm 2010


1

LỜI MỞ ĐẦU
Trong vài năm gần đây chủ đề văn hoá doanh nghiệp đã nhận được sự


quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu và các doanh nghiệp. Là một vấn đề
rộng và là tài sản vô cùng quan trọng đối với mỗi tổ chức, các doanh nghiệp
đã dần nhận ra vai trò của văn hoá trong việc xây dựng và phát triển doanh
nghiệp. Và hơn bao giờ hết trong thời điểm hiện nay, vấn đề văn hoá doanh
nghiệp cần phải được đặt lên hàng đầu trong việc hoạch định các chiến lược
phát triển, sản xuất - kinh doanh. Văn hoá doanh nghiệp chính là yếu tố quyết
định then chốt và không thể thiếu để doanh nghiệp bước vào hành trình mới
đầy thử thách trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đã có rất nhiều các
cuộc thảo luận, các bài viết trên các phương tiện thông tin đại chúng bàn về
vấn đề này, nhưng trên thực tế hiểu văn hoá doanh nghiệp như thế nào cho
chuẩn xác thì vẫn còn tồn tại rất nhiều những ý kiến khác nhau. Từ chỗ chưa
nhận thức đầy đủ về văn hoá doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện hội nhập
hiện nay, nên trong một chừng mực nhất định, các doanh nghiệp vẫn chưa
phát huy được sức mạnh của mình. Vì vậy mà văn hoá doanh nghiệp cần
được tìm hiểu và nghiên cứu thêm nữa để tạo ra cái nhìn hoàn thiện hơn, góp
phần xây dựng và phát triển doanh nghiệp vững mạnh. Trên cơ sở đó, tôi đã
quyết định chọn đề tài cho luận văn tốt nghiệp là: “Văn hoá doanh nghiệp
của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam - Nghiên cứu điển hình Chi
nhánh Ngân Hàng Công Thương Hai Bà Trưng”.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Làm rõ các yếu tố cấu thành và các nhân tố ảnh hưởng đến văn hoá
doanh nghiệp.
- Đánh giá thực trạng văn hoá doanh nghiệp tại Chi nhánh NHCT Hai Bà
Trưng


2

- Đề xuất giải pháp cho việc xây dựng và phát triển văn hoá doanh
nghiệp tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề mang tính lý luận về văn hoá
doanh nghiệp và thực trạng văn hoá doanh nghiệp tại Chi nhánh NHCT
Hai Bà Trưng.
- Phạm vi nghiên cứu: tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng và số liệu
nghiên cứu từ năm 2007 – 2009.
Phƣơng pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp khảo sát, điều tra (40 phiếu khảo sát), thống kê
toán học, phân tích tổng hợp. Nguồn thông tin sử dụng:
+ Thứ cấp: Các báo cáo, quy chế, văn bản do Ngân hàng cung cấp.
+ Sơ cấp: Thông tin thu được qua phiếu điều tra, phỏng vấn và quan
sát.
- Quy trình làm phiếu khảo sát:
+ Xác định mục đích, đối tượng đề tài cần hướng tới để thiết kế mỗi
phiếu 18 câu hỏi trắc nghiệm liên quan đến VHDN.
+ Tiến hành phát phiếu điều tra tại các Phòng ban của Chi nhánh
NHCT Hai Bà Trưng.
+ Thu nhận, tập hợp các phiếu điều tra, kiểm tra các thông tin thu được.
+ Tổng kết điều tra, đánh giá kết quả.
+ Số lượng phiếu phát ra: 40 phiếu


3

+ Số lượng phiếu thu về: 40 phiếu
+ Nội dung phiếu khảo sát: tập trung vào sự nhận thức của cán bộ công
nhân viên về VHDN và thực tế VHDN tại Chi nhánh NHCT Hai Bà
Trưng, từ đó thấy được thực trạng VHDN tại ngân hàng và đưa ra
giải pháp xây dựng và phát triển VHDN tại Chi nhánh.
Bố cục đề tài

Chƣơng I: Cơ sở lý luận về văn hoá doanh nghiệp
Chƣơng II: Thực trạng văn hoá doanh nghiệp tại Chi nhánh Ngân Hàng
Công Thƣơng Hai Bà Trƣng
Chƣơng III: Định hƣớng xây dựng và phát triển văn hoá doanh nghiệp
tại Chi nhánh Ngân Hàng Công Thƣơng Hai Bà Trƣng



4

CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HOÁ DOANH NGHIỆP
I. Văn hoá doanh nghiệp
1. Một số khái niệm
1.1. Văn hoá
Cho đến nay, đã xuất hiện vô vàn định nghĩa khác nhau về văn hóa tuy
nhiên ngay cả những định nghĩa có giá trị nhất cũng vẫn chưa làm thỏa mãn
giới nghiên cứu. Văn hoá là một vấn đề rất đa dạng và phức tạp, do đó sẽ có
nhiều cách tiếp cận khác nhau dẫn đến nhiều quan niệm khác nhau, thậm chí
ngay trong một định nghĩa về văn hóa cũng đã tồn tại yếu tố văn hóa. Tuy vậy,
dù được tiếp cận từ góc độ nào, khái niệm văn hóa cũng đều làm lộ ra một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp những đặc trưng về con người và về đời sống của
con người. Từ đó, ta có thể hiểu văn hóa là một khía cạnh của quan hệ giữa
con người với thế giới bên trong và bên ngoài nó.
Trong tiếng Hán cổ, Văn là vẻ đẹp nhân tính, cái đẹp của tri thức có thể
đạt được bằng sự tu dưỡng của bản than và sự cai trị đúng đắn của người cầm
quyền. Hoá là việc đem cái hay, cái đúng, cái đẹp để cảm hoá, giáo dục và
hiện thực hoá trong thực tiễn, đời sống. Nói tới văn hoá là nói tới ý thức, cái
gốc tạo nên tính người cùng những gì thuộc về bản chất nhất làm cho con
người trở thành chủ thể năng động, sáng tạo trong cuộc sống, lao động sản
xuất. Nói tới văn hoá là nói tới những nguồn nội lực để con người có thể gieo

trồng (sáng tạo, xây dựng) và điều chỉnh (cải tạo) cuộc sống của mình theo
định hướng vươn tới các giá trị chân thiện mỹ. Nó được xem là nền tảng cho
sự phát triển ngày càng thăng bằng và bên vững hơn của con người và xã hội.
Trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của mình, con người luôn


5

sáng tạo không ngừng để làm nên các giá trị văn hoá. văn hoá ko fải là giá trị
cố định, bất biến. văn hoá là phát triển, thúc đẩy phát triển, là động lực và
mục tiêu của phát triển. Một trong những định nghĩa đầu tiên được chấp nhận
rộng rãi do nhà nhân chủng học E.B Tylor đưa ra, ông xem văn hoá là “một
phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập
quán, cùng mọi khả năng và thói quen khác mà con người đạt được với tư
cách là một thành viên của xã hội”.
Định nghĩa có thể nói là rộng nhất về văn hoá là của Edouard Herriot,
“Văn hoá là cái còn lại khi tất cả những cái khác đã bị lãng quên”. Một định
nghĩa được sử dụng khá phổ biến khác, tiệm cận gần hơn với bản chất văn
hoá, do ông Frederico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO đưa ra: “Văn hoá
bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những
sản phẩm tinh vi, hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối
sống và lao động”.
1.2. Văn hoá doanh nghiệp
Mỗi xã hội đều có nền văn hoá của nó, và một doanh nghiệp cũng có
văn hoá của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tồn tại là để sản xuất của cải vật
chất và làm dịch vụ. Mọi hoạt động sản xuất đều gắn liền với một dây chuyền
công nghệ nhất định. Để vận hành được các khâu của dây chuyền này, trong
doanh nghiệp phải có hệ thống tổ chức, quản lý thật chặt chẽ từ khâu đầu đến
khâu cuối. Điều này có nghĩa là trong các hoạt động của doanh nghiệp, mọi
người đều phải tuân theo những giá trị – chuẩn mực cụ thể nào đó và thực

hiện theo những “ khuôn mẫu văn hoá” nhất định. Như vậy, mỗi doanh
nghiệp hoặc tổ chức kinh doanh là một không gian văn hoá. VHDN là toàn bộ
giá trị văn hoá được gây dựng nên trong suốt quá trình tồn tại và phát triển
của một doanh nghiệp, trở thành các giá trị, các quan niệm và tập quán, truyền


6

thống ăn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp ấy và chi phối tình cảm, nếp
suy nghĩ và hành vi của mọi thành viên của doanh nghiệp trong việc theo đuổi
và thực hiện các mục đích. VHDN gắn với đặc điểm từng dân tộc, trong từng
giai đoạn phát triển cho đến từng doanh nhân, từng người lao động, do đó rất
phong phú và đa dạng.
Tổ chức lao động quốc tế I.L.O - International Labour Organization
cho rằng: “VHDN là sự trộn lẫn đặc biệt các giá trị, thái độ, các tiêu chuẩn,
thói quen và truyền thống, những thái độ ứng xử và lễ nghi mà toàn bộ chúng
là duy nhất đối với một tổ chức đã biết”. Hay theo tạp chí Business Harvard
Review, “VHDN là những giá trị, lòng tin, truyền thống và hành vi thường
được các thành viên của tổ chức chia sẻ và thực hiện”. Một định nghĩa được
coi là phổ biến và được chấp nhận rộng rãi nhất, vừa ngắn gọn vừa phản ánh
cả bản chất lẫn quá trình hình thành của văn hoá doanh nghiệp là định nghĩa
của chuyên gia nghiên cứu các tổ chức Edga H.Schein: “VHDN là tổng hợp
những quan niệm chung mà các thành viên trong công ty học được trong quá
trình giải quyết các vấn đề nội bộ và xử lý các vấn đề môi trường xung
quanh”.
Từ những khái niệm trên, ta hiểu rằng VHDN là tổng thể những thủ
pháp và quy tắc giải quyết vấn đề thích ứng bên ngoài và thống nhất bên trong
các nhân viên, những quy tắc đã tỏ ra hữu hiệu trong quá khứ và vấn đề cấp
thiết trong hiện tại. Những quy tắc và những thủ pháp này là yếu tố khởi
nguồn trong việc các nhân viên lựa chọn phương thức hành động, phân tích

và ra quyết định thích hợp. Các thành viên của tổ chức doanh nghiệp không
đắn đo suy nghĩ về ý nghĩa của những quy tắc và thủ pháp ấy, mà coi chúng là
đúng đắn ngay từ đầu. VHDN là một hệ thống những ý nghĩa, giá trị, niềm tin
chủ đạo, nhận thức và phương pháp tư duy được mọi thành viên của một tổ
chức đồng thuận và có ảnh hưởng ở phạm vi rộng đến cách thức hành động


7

của các thành viên. Điều đó có nghĩa là trong doanh nghiệp tất cả các thành
viên đều gắn bó với nhau bởi những tiêu chí chung trong hoạt động kinh
doanh.
Như vậy, nội dung của văn hoá doanh nghiệp không phải là một cái gì
đó tự nghĩ ra một cách ngẫu nhiên, nó được hình thành trong quá trình hoạt
động kinh doanh thực tiễn, trong quá trình liên hệ, tác động qua lại và có quan
hệ, như một giải pháp cho những vấn đề mà môi trường bên trong và bên
ngoài đặt ra cho doanh nghiệp. VHDN thể hiện được những nhu cầu, mục
đích và phương hướng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tạo cho
doanh nghiệp có được màu sắc riêng, tức là nhân cách hóa doanh nghiệp đó.
Văn hoá doanh nghiệp là cơ sở của toàn bộ các chủ trương, biện pháp cụ thể
trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chi phối kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp. chính vì vậy, có thể nói thành công hoặc thất bại của các doanh
nghiệp đều gắn với việc có hay không xây dựng được văn hoá doanh nghiệp
theo đúng nghĩa của khái niệm này.
2. Thành phần của văn hoá doanh nghiệp
Văn hoá doanh nghiệp là hệ thống giá trị, là cái hồn của doanh nghiệp
song nó không chỉ bao hàm những yếu tố vô hình, khó nhận biết mà rất hữu
hình, thể hiện rõ một cách vật chất, chẳng những trong hành vi kinh doanh
giao tiếp của cán bộ công nhân viên, mà cả trong hành hoá và dịch vụ của
doanh nghiệp, từ mẫu mã, kiểu dáng đến nội dung và chất lượng. Những tính

chất của văn hoá doanh nghiệp được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau
nhưng thường hướng tới việc hình thành một tập hợp các khuôn mẫu hành vi
được áp dụng trong các mối quan hệ xã hội trong tổ chức. Văn hoá trong một
doanh nghiệp, ở bề nổi là các biểu trưng trực quan, những gì mọi người có thể
dễ dàng nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy ví dụ như phong cách, màu sắc, kiểu


8

dáng kiến trúc, thiết kế, hành vi, trang phục, biểu tượng, lễ nghi, ngôn ngữ.
Những biểu trưng trực quan này thể hiện những giá trị thầm kín hơn nằm sâu
bên trong hệ thống tổ chức mà mỗi thành viên và những người hữu quan có
thể cảm nhận được. Các biểu trưng phi trực quan bao gồm lý tưởng, niềm tin,
bản chất mối quan hệ con người, thái độ và phương pháp tư duy, ảnh hưởng
của truyền thống và lịch sử phát triển của tổ chức đối với các thành viên.
Theo Edgar H.Schein, ông đã chia văn hoá doanh nghiệp thành các lớp
khác nhau, sắp xếp theo thứ tự phức tạp và sâu sắc khi cảm nhận các giá trị
văn hoá của doanh nghiệp. Thuật ngữ “lớp” dùng để chỉ mức độ có thể cảm
nhận được của các giá trị văn hoá trong doanh nghiệp. Lý do của việc phân
chia này là do văn hoá doanh nghiệp phục vụ hai chủ thể chính là chủ thể bên
ngoài và chủ thể bên trong. Chủ thể bên ngoài là khách hàng, nhà cung cấp,
người lao động. Chủ thể bên trong là nhà quản trị và nhân viên công ty. Việc
phân loại như vậy sẽ giúp chúng ta hiểu rõ bản chất của văn hoá doanh nghiệp
cũng như các biện pháp xây dựng văn hoá doanh nghiệp.
Mô hình các lớp văn hoá doanh nghiệp:
- Những quá trình và cấu trúc hữu hình của doanh nghiệp
- Những giá trị được chấp nhận
- Những quan niệm chung
2.1. Những quá trình và cấu trúc hữu hình của doanh nghiệp
Đây là nội dung rõ ràng, là tầng bề mặt dễ quan sát nhất của văn hoá

doanh nghiệp. Lớp này bao gồm tất cả những hiện tượng và sự vật mà một
người có thể nhìn thấy, nghe thấy và cảm thấy khi tiếp xúc với một tổ chức có
nền văn hoá xa lạ. Những quá trình và cấu trúc hữu hình của doanh nghiệp


9

bao gồm 5 nhóm yếu tố.
2.1.1. Kiến trúc của doanh nghiệp
Bao gồm kiến trúc ngoại thất và thiết kế nội thất công sở. Từ sự tiêu
chuẩn hóa về màu sắc, kiểu dáng đặc trưng, thiết kế nội thất như mặt bằng,
quầy, bàn ghế, phòng, giá để hàng, lối đi, loại dịch vụ, trang phục đến những
chi tiết nhỏ nhặt như đồ ăn, vị trí công tắc điện, thiết bị. Tất cả đều được sử
dụng để tạo ấn tượng thiện trí với khách hàng cũng như cảm giác thân quen,
được quan tâm cho nhân viên. Sở dĩ như vậy là vì kiến trúc ngoại thất có thể
có ảnh hưởng quan trọng đến hành vi con người về phương diện cách thức
giao tiếp, phản ứng và thực hiện công việc. Hơn nữa, công trình kiến trúc có
thể được coi là một “linh vật” biểu thị một ý nghĩa, giá trị nào đó của một tổ
chức, chẳng hạn: giá trị lịch sử gắn liền với sự ra đời và trưởng thành của tổ
chức, các thế hệ nhân viên, xã hội, còn các kiểu dáng kết cấu có thể được coi
là biểu tượng cho phương châm chiến lược của tổ chức. Trong xã hội ngày
nay, các doanh nghiệp càng chú ý hơn tới kiến trúc, diện mạo của mình để
khẳng định năng lực tài chính của doanh nghiệp cũng như uy thế trước các
đối thủ, đối tác và khách hàng.
2.1.2. Các nghi lễ
Đó là những hoạt động đã được dự kiến từ trước và chuẩn bị kỹ lưỡng
dưới hệ thống các sự kiện văn hoá - xã hội chính thức, được thực hiện định kỳ
hay bất thường nhằm thắt chặt mối quan hệ và thường được tổ chức vì lợi ích
của những người tham dự. Những người quản lý có thể sử dụng nghi lễ như
một cơ hội quan trọng để giới thiệu về những giá trị được tổ chức coi trọng,

để nhấn mạnh những giá trị riêng của tổ chức, tạo cơ hội cho mọi thành viên
cùng chia sẻ cách nhận thức về những sự kiện trọng đại, để nêu gương và
khen tặng những tấm gương điển hình đại biểu cho những niềm tin và cách


10

thức hành động cần được tôn trọng. Có bốn loại nghi lễ cơ bản: chuyển giao
(khai mạc, giới thiệu thành viên mới, chức vụ mới, lễ ra mắt), củng cố (lễ phát
phần thưởng), nhắc nhở (sinh hoạt văn hoá, chuyên môn, khoa học), liên kết
(lễ hội, liên hoan, tết). Trong các thành phần thì các sự kiện, lễ kỷ niệm là
hoạt động sống động và dễ nhớ nhất đối với thành viên doanh nghiệp. Các
nghi lễ thường được xem như sự tôn vinh văn hoá doanh nghiệp, giúp gợi nhớ
và củng cố các giá trị văn hoá.
2.1.3. Biểu tượng, logo, bản tuyên bố sứ mệnh
Biểu tượng là từ ngữ, vật thể, trạng thái, hành động hay các đặc điểm
tạo nên sự khác biệt có ý nghĩa đối với cá nhân và nhóm. Bên cạnh biểu tượng,
logo và bản tuyên bố sứ mệnh cũng là hai thứ dễ thấy và cho ta cái nhìn cơ
bản về văn hoá doanh nghiệp.
Logo là một tác phẩm sáng tạo được thiết kế để thể hiện hình tượng về
một tổ chức, một doanh nghiệp bằng ngôn ngữ nghệ thuật phổ thông. Hình
ảnh này thường có sức mạnh rất lớn vì chúng hướng sự chú ý của người quan
sát vào một chi tiết hay điểm nhấn cụ thể, có thể diễn đạt được giá trị chủ đạo
mà tổ chức, doanh nghiệp muốn tạo ấn tượng, lưu lại hay truyền đạt cho
người thấy nó. Đây là loại biểu trưng đơn giản nhưng lại có ý nghĩa rất lớn
nên được các tổ chức, doanh nghiệp rất coi trọng. Nếu như logo thể hiện hình
ảnh trừu tượng nhưng có ý nghĩa cô đọng và bao quát nhất về doanh nghiệp
thì bản tuyên bố sứ mệnh xác định tầm nhìn dài hạn của doanh nghiệp, doanh
nghiệp sẽ làm gì và phục vụ cho ai.
2.1.4. Ngôn ngữ, khẩu hiệu

Trong thực tế, để làm việc được cùng với nhau chúng ta cần phải có sự
hiểu biết lẫn nhau thông qua việc dùng chung một ngôn ngữ. Phong cách giao


11

tiếp ngôn ngữ của nhân viên với nhau, với khách hàng hay cấp trên đều thể
hiện nét văn hoá doanh nghiệp. Tuy vậy, mỗi cá nhân có phong cách giao tiếp
khác nhau, chính vì thế sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hình ảnh và cách nhìn nhận
của khách hàng, nhà cung cấp đối với công ty. Xây dựng một phong cách giao
tiếp chuẩn cho toàn thể công nhân viên là một tiêu chí vô cùng quan trọng
trong việc xây dựng văn hoá và thương hiệu cho doanh nghiệp.
Nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã sử dụng những câu chữ đặc biệt, khẩu
hiệu, ví von, ẩn dụ hay một sắc thái ngôn ngữ để truyền tải một ý nghĩa cụ thể
đến nhân viên của mình và những người hữu quan. Khẩu hiệu là hình thức dễ
nhập tâm và được không chỉ nhân viên mà cả khách hàng và nhiều người khác
luôn nhắc đến. Với nhiệm vụ phải đi vào tiềm thức của khách hàng, khẩu hiệu
cần nêu bật được những gì mà doanh nghiệp muốn nhắn nhủ hay nói cách
khác là phải mang trong mình thông điệp ấn tượng. Khẩu hiệu thường rất
ngắn gọn, hay sử dụng các ngôn từ đơn giản, dễ nhớ và nhấn mạnh vào lợi ích
sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Khẩu hiệu là cách diễn đạt cô đọng nhất
của triết lý hoạt động, kinh doanh của một tổ chức, một công ty. Vì vậy,
chúng cần được liên hệ với bản tuyên bố sứ mệnh của tổ chức, công ty để
hiểu được ý nghĩa tiềm ẩn của chúng.
2.1.5. Giai thoại
Giai thoại là những câu chuyện về quá trình hình thành và phát triển
của doanh nghiệp, về những năm tháng gian khổ và vinh quang của doanh
nghiệp hay về một nhân vật anh hùng của doanh nghiệp (nhất là hình tượng
người sáng lập, thủ lĩnh). Các câu chuyện này thường được thêu dệt từ những
sự kiện có thực được mọi thành viên trong tổ chức cùng chia sẻ và nhắc lại

với những thành viên mới. Nhiều mẩu chuyện kể về những nhân vật có công
trong quá trình xây dựng và phát triển doanh nghiệp như những mẫu hình lý


12

tưởng về chuẩn mực đạo đức và giá trị VHDN. Một số khác có thể trở thành
biểu tượng chứa đựng những giá trị và niềm tin trong tổ chức và đôi khi
không được chứng minh bằng các bằng chứng thực tế. Các mẩu chuyện có tác
dụng duy trì sức sống cho các giá trị ban đầu của doanh nghiệp, truyền đạt,
nuôi dưỡng những giá trị tốt đẹp, các nguyên tắc chung và giúp đoàn kết,
thống nhất về nhận thức của tất cả mọi thành viên.
2.2. Những giá trị được chấp nhận
Các giá trị được chấp nhận bao gồm những chiến lược, mục tiêu và các
triết lý kinh doanh của doanh nghiệp trong quá trình giải quyết các vấn đề để
thích ứng với bên ngoài và hội nhập vào bên trong tổ chức. Những người khởi
xướng, sáng lập ra doanh nghiệp và nhà lãnh đạo kế cận khi đề ra các quy
định, nguyên tắc, triết lý, tư tưởng đều yêu cầu mọi thành viên phải tuần theo.
Trải qua thời gian áp dụng, các nguyên tắc, triết lý, tư tưởng đó sẽ trở thành
niềm tin, thông lệ và quy tắc ứng xử chung mà mọi thành viên đều thấm
nhuần, tức là trở thành “những giá trị được chấp nhận”.
Những giá trị được chấp nhận cũng có tính hữu hình vì người ta có thể
nhận biết và diễn đạt chúng một cách rõ ràng và chính xác. Chúng thực hiện
chức năng hướng dẫn cho các thành viên trong doanh nghiệp cách thức đối
phó với một tình huống cơ bản và rèn luyện cách ứng xử cho các thành viên
mới trong môi trường doanh nghiệp. Hệ thống các giá trị này trở thành hiện
thân của triết lý kinh doanh và là kim chỉ nam cho doanh nghiệp khi phải đối
phó với những vấn đề khó khăn.
Hình thức thể hiện điển hình nhất của những giá trị được chấp nhận là
triết lý kinh doanh. Triết lý kinh doanh là những giá trị, nguyên tắc mang tính

định hướng cho hoạt động, hành vi của các thành viên trong doanh nghiệp,
nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong sản xuất - kinh doanh.


13

Triết lý kinh doanh vạch ra mục tiêu, phương thức thực hiện và các giá trị đạo
đức cho mọi thành viên, từ đó tạo nên một phong thái văn hoá đặc thù của
doanh nghiệp. Triết lý kinh doanh thể hiện quan điểm riêng biệt của từng
doanh nghiệp, được xây dựng nên bởi những người sáng lập doanh nghiệp,
đồng thời được bổ sung, đúc kết trong quá trình phát triển và trưởng thành
của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp khi xây dựng triết lý kinh doanh đều có
một mục đích: nó sẽ là thông điệp giúp đỡ các nhân viên trong toàn doanh
nghiệp, nhắc nhở họ về những thái độ cần có và những hành động cần làm.
2.2.1. Vai trò của triết lý kinh doanh
Triết lý kinh doanh là cốt lõi của văn hoá doanh nghiệp, tạo ra phương
thức phát triển bền vững. VHDN được cấu thành bởi nhiều yếu tố trong đó
hạt nhân là các triết lý và các giá trị. Triết lý kinh doanh là cơ sở để bảo tồn
phong thái và bản sắc văn hoá của doanh nghiệp. Một khi đã phát huy được
tác dụng thì triết lý rất ít thay đổi, nó trở thành ý thức lý luận và hệ tư tưởng
chung của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, triết lý kinh doanh còn là công cụ định
hướng và quản lý chiến lược của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh của
các doanh nghiệp vốn phức tạp và biến đổi không ngừng, để tồn tại được,
doanh nghiệp cần có tính mềm dẻo, linh hoạt và hơn thế nữa, muốn phát triển
được lâu dài nó cần thêm năng lực chủ động kinh doanh với sự khôn ngoan,
sáng suốt. Đối với cán bộ quản trị, triết lý doanh nghiệp là một văn bản pháp
lý và là cơ sở văn hoá để họ có thể đưa ra các quyết định quản lý quan trọng,
có tính chiến lược và phù hợp với văn hoá doanh nghiệp.
Triết lý kinh doanh còn là một phương tiện để giáo dục và phát triển
nguồn nhân lực của doanh nghiệp, đó là bài học đầu tiên cho mọi thành viên

mới của công ty. Nếu được tổ chức một cách trang trọng và thích hợp, triết lý
kinh doanh sẽ truyền được lý tưởng và giá trị của cả một cộng đồng tới từng


14

thành viên, tạo ra không chỉ sự di truyền văn hoá trong doanh nghiệp mà con
đem lại sứ mệnh và các chuẩn mực chung cho nhân viên. Vai trò của triết lý
kinh doanh có thể so sánh với bất kì một nguồn lực nào khác của doanh
nghiệp như vốn, tài sản hoặc công nghệ. Nếu thiếu một triết lý kinh doanh có
giá trị thì chẳng những tương lai lâu dài của doanh nghiệp có độ bất định cao
mà ngay trong việc lập kế hoạch chiến lược và dự án kinh doanh cũng rất khó
khăn vì thiếu một quan điểm chung về phát triển giữa các tầng lớp, bộ phận
của tổ chức doanh nghiệp để định hướng cho các thành viên.
2.2.2. Những quan niệm chung
Trong bất cứ cấp độ văn hoá nào cũng đều có các quan niệm chung,
được hình thành và tồn tại trong một thời gian dài, chúng ăn sâu vào tâm lý
của hầu hết các thành viên trong nền văn hoá đó. Những quan niệm chung là
những lý tưởng, niềm tin và nhận thức, phần nhiều bắt nguồn từ văn hoá dân
tộc và mặc nhiên được công nhận trong doanh nghiệp.
Để hình thành được các quan niệm chung, một cộng đồng văn hoá, ở
bất kỳ cấp độ nào, đều phải trải qua quá trình hoạt động, va chạm và xử lý
nhiều tình huống thực tiễn. Chính vì vậy, một khi đã hình thành, các quan
niệm chung sẽ rất khó bị thay đổi bởi đó là một phần trong tính cách, lối làm
việc của cả một tập thể. Khi trong tổ chức đã hình thành được quan niệm
chung, tức là các thành viên cùng nhau chia sẻ và hành động theo đúng quan
niệm chung đó, họ sẽ rất khó chấp nhận những hành vi đi ngược lại.
Lý tƣởng là những động lực, ý nghĩa, giá trị cao cả, căn bản, sâu sắc
giúp con người cảm thông chia sẻ, và dẫn dắt con người trong nhận thức, cảm
nhận và xúc động trước sự vật, hiện tượng. Lý tưởng cho phép các thành viên

trong doanh nghiệp thống nhất với nhau trong cách lý giải các sự vật, hiện
tượng xung quanh họ, giúp họ xác định được cái gì là đúng, cái gì là sai, định


15

hình trong đầu họ rằng cái gì được cho là quan trọng, cái gì được khuyến
khích cần phát huy, tạo ra một đích đến chung cho toàn doanh nghiệp. Tóm
lại, lý tưởng thể hiện định hướng căn bản, thống nhất hoá các phản ứng của
mọi thành viên trong doanh nghiệp trước các sự vật, hiện tượng. Cụ thể hơn,
lý tưởng của một doanh nghiệp được ẩn chứa trong triết lý kinh doanh, mục
đích kinh doanh và phương châm hành động của doanh nghiệp đó
Niềm tin là khái niệm đề cập đến việc mọi người cho rằng thế nào là
đúng, thế nào là sai. Nó khác lý tưởng ở chỗ được hình thành một cách có ý
thức, được xét đoán và rõ ràng. Xây dựng niềm tin trong doanh nghiệp đòi hỏi
các cấp quản lý phải có trình độ kiến thức và kinh nghiệm, từ đó, niềm tin của
người lãnh đạo sẽ dần dần được chuyển hoá thành niềm tin của tập thể thông
qua những giá trị. Một khi hoạt động nào đó trở thành thói quen và tỏ ra hữu
hiệu, chúng sẽ chuyển hoá dần thành niềm tin, dần dần chúng có thể trở thành
một phần lý tưởng của những người trong tổ chức này.
Giá trị, về bản chất, là khái niệm liên quan đến chuẩn mực đạo đức và
cho biết con người cho rằng họ cần phải làm gì. Đó là quan niệm về nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín, về sự bình đẳng, sự thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Đây là các
yếu tố thuộc về văn hoá dân tộc, trong hành vi ứng xử, chúng được coi như
điều đương nhiên trong các mối quan hệ của doanh nghiệp. Xã hội cũng như
doanh nghiệp luôn tồn tại các hành động tốt - xấu, vấn đề là các doanh nghiệp
làm thế nào để thể chế hoá, hình thành và xây dựng được một hệ thống các
chuẩn mực đạo đức chính thức cho mình.
Thái độ là chất kết dính niềm tin và giá trị thông qua tình cảm. Thái độ
chính là thói quen tư duy theo kinh nghiệm, là lối phản ứng theo một cách

thức nhất quán, mong muốn hoặc không mong muốn đối với sự vật, hiện
tượng xảy ra xung quanh.


16

II. Vai trò của văn hoá doanh nghiệp
Văn hoá được tạo ra như một cơ chế khẳng định mục tiêu của doanh
nghiệp, hướng dẫn và uốn nắn những hành vi và ứng xử của các thành viên
trong doanh nghiệp. Bất cứ một tổ chức nào cũng có một số hiểu biết ngầm,
những nguyên tắc vô hình tác động tới cách ứng xử hàng ngày tại nơi làm
việc. Điều đó được biểu hiện rõ nét khi những thành viên mới gia nhập tổ
chức, ngay từ đầu họ không được chấp nhận như những thành viên cũ, họ
phải học những nguyên tắc của tổ chức đó. Sự vi phạm những nguyên tắc vô
hình này sẽ dẫn đến kết quả khó được mọi người chấp nhận và thậm chí còn
bị loại bỏ ra khỏi tổ chức. Sự tuân thủ những nguyên tắc đó đóng vai trò là
những căn cứ đầu tiên để được khen thưởng, thăng tiến. Những người được
tuyển vào làm việc hay được thăng tiến phải là những người có một ảnh
hưởng mạnh với tổ chức cũng như các thành viên khác, có nghĩa họ phải là
những người có hành vi và cách ứng xử phù hợp với văn hoá đó. Không phải
một sự trùng lặp mà tất cả các nhân viên của Công viên Disney trông rất hấp
dẫn, sạch sẽ, luôn nở một nụ cười tươi tắn. Đó chính là hình ảnh mà Disney
muốn mang lại cho mọi người. Văn hoá đó được thể hiện bằng những luật lệ
và nguyên tắc chính thống để đảm bảo rằng tất cả các nhân viên của Disney sẽ
hành động thống nhất và tuân thủ theo những hình ảnh đó.
Mặc dù tác động của văn hoá doanh nghiệp đối với hoạt động của
doanh nghiệp có cả yếu tố tích cực và yếu tố cản trở, rất nhiều chức năng của
nó là có giá trị đối với doanh nghiệp cũng như các thành viên trong doanh
nghiệp. Văn hoá khuyến khích tính cam kết trong một doanh nghiệp, sự kiên
định trong cách ứng xử của các thành viên. Điều này rõ ràng là có lợi cho một

doanh nghiệp. Văn hoá cũng rất có giá trị đối với các thành viên trong doanh
nghiệp, bởi vì nó giảm sự mơ hồ của họ, nó nói với họ mọi việc nên được làm
như thế nào và điều gì là quan trọng.


17

1. Đối với hoạt động quản lý doanh nghiệp
Quản trị là tổng hợp các hoạt động được thực hiện nhằm đảm bảo hoàn
thành công việc thông qua sự nỗ lực thực hiện của người khác. Hay nói cách
khác, quản trị chính là việc làm thế nào để những người dưới quyền mình
thực hiện công việc một cách hiệu quả nhất nhằm đạt được mục tiêu chung.
Mà muốn điều hành được nhân viên thì nhà quản trị nhất thiết phải nắm vững
hệ thống ý nghĩa, giá trị, niềm tin chủ đạo, nhận thức và phương pháp tư duy
được họ đồng thuận, ảnh hưởng đến cách thức hành động của họ, đó chính là
văn hoá doanh nghiệp. Vậy, VHDN chính là công cụ, phương tiện mà qua đó
nhà quản trị thực hiện công việc quản lý của mình. Song, VHDN cũng có
những ảnh hưởng nhất định đến quyết định của người quản lý cũng như định
hình phong cách lãnh đạo của họ. Với những công ty có đặc trưng văn hoá
không chú trọng đến việc xây dựng niềm tin vào người lao động, người quản
lý thường sử dụng các biện pháp tập quyền, độc đoán, thay cho các biện pháp
phân quyền và dân chủ. Khi đã có được VHDN thì sức ép về quản lý của ban
lãnh đạo sẽ được giảm đi nhờ sự chia sẻ của cấp dưới. Các nhân viên sẽ được
quyền tự biết điều hành và cần phải làm gì trong những tình huống khó khăn.
Trong một môi trường tổ chức mà mọi người đều tham gia chia sẻ thực sự thì
vai trò của các giám đốc trong quản lý sẽ giảm nhẹ đi rất nhiều. Đó là phương
diện quan trọng của quản lý theo văn hoá và quản lý bằng văn hoá .
Văn hoá doanh nghiệp ảnh hưởng tới hoạt động quản trị doanh nghiệp
nói chung và do đó ảnh hưởng tới tất cả các hoạt động thuộc chức năng quản
trị: quản trị chiến lược, quản trị nhân lực, quản trị sản xuất, quản trị tài chính

và Marketing.
1.1. Quản trị chiến lược
Mỗi tổ chức đều phải lập kế hoạch chiến lược để xây dựng lộ trình và


18

những chương trình hành động tiến tới tương lai và hoàn thành sứ mệnh của
tổ chức. Đó chính là công việc của quản trị chiến lược mà sản phẩm của nó
chính là chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Thực vậy, chiến lược kinh
doanh giúp công ty thích nghi và nắm bắt các cơ hội thị trường, chọn thị
trường mục tiêu trong phạm vi khả năng và nguồn lực hiện hữu lẫn tiềm năng
của mình trong bối cảnh thường xuyên biến động của các yếu tố ngoại lai.
Một tổ chức có nền văn hoá mạnh sẽ tăng thêm sự quyết tâm của các thành
viên phấn đấu vì các giá trị và chiến lược chung của doanh nghiệp. Trái lại,
một nền văn hoá” yếu” dẫn tới tình trạng mơ hồ, quyết tâm và nhiệt tình của
nhân viên giảm sút, mâu thuẫn, hỗn độn, mất phương hướng. Hơn nữa, để
soạn thảo chiến lược thì cần phải thu thập thông tin. Cách thức thu thập thông
tin về môi trường hoạt động có ảnh hưởng rất lớn đến việc định hướng chiến
lược. Khi tiến hành thu thập thông tin và phân tích môi trường kinh doanh,
những người khảo sát và phân tích đều dựa trên những giả thiết hay mô hình,
cách thức sàng lọc nhất định làm cho tư liệu thu thập mất đi một phần tính
hiện thực, khách quan và tính toàn diện. Những tư liệu thu thập được lại được
diễn đạt theo những cách thức, ngôn ngữ thịnh hành trong tổ chức, chúng đã
chịu ảnh hưởng của đặc trưng văn hoá của tổ chức. Có thể khẳng định,
VHDN luôn được thể hiện trong chiến lược kinh doanh, và chiến lược kinh
doanh cũng chính là bản kế hoạch lớn, là chương trình hành động tổng quát
để triển khai văn hoá doanh nghiệp.
1.2. Quản trị nhân lực
Quản trị nhân lực là toàn bộ những hoạt động của tổ chức để thu hút,

xây dựng, phát triển, sử dụng, đánh giá, bảo toàn và giữ gìn một lực lượng lao
động phù hợp với yêu cầu công việc của tổ chức cả về mặt số lượng và chất
lượng. Chính vì vậy, quản trị nhân lực cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của
VHDN, bầu không khí trong doanh nghiệp, những lối sống, nhu cầu cách nhìn


19

nhận về giá trị con người trong doanh nghiệp có ảnh hưởng đến lối tư duy và
các chính sách quản trị nhân lực của tổ chức. Hơn nữa, thực hiện công tác
quản trị nhân lực cũng là nhằm khai thác các tiềm năng về thể lực và quan
trọng hơn về trí lực của con người sao cho phù hợp với yêu cầu công việc của
tổ chức đó, cũng chính là công cụ xây dựng văn hoá doanh nghiệp. Những
hoạt động cụ thể của quản trị nhân lực: tuyển mộ, tuyển chọn, duy trì, phát
triển, động viên và cung cấp tiện nghi cho nhân lực trong tổ chức cũng chính
là hình thức biểu hiện của VHDN. Khi trong doanh nghiệp đã hình thành một
văn hoá mạnh, các nhân viên sẽ cống hiến hết mình vì mục tiêu của doanh
nghiệp.
1.3. Quản trị sản xuất - dịch vụ
Quản trị sản xuất là quản lý quá trình hoặc hệ thống tạo ra hàng hoá và
dịch vụ. văn hoá doanh nghiệp cũng có ảnh hưởng sâu sắc đến lĩnh vực này,
nó đóng vai trò như một chất xúc tác gắn kết các nhân viên, tạo động lực tinh
thần mạnh mẽ trong lao động, giúp nhà quản trị sản xuất đạt được mục tiêu
của mình, giảm chi phí đến mức thấp nhất có thể để đạt lợi nhuận cao nhất,
rút ngắn thời gian sản xuất, tổ chức xây dựng hệ thống sản xuất và cung ứng
dịch vụ có độ linh hoạt cao thích ứng với sự thay đổi nâng cao khả năng cạnh
tranh: chất lượng, mẫu mã, giá cả.
1.4. Quản trị tài chính
Ngay cả trong lĩnh vực Quản trị tài chính, uy tín của doanh nghiệp đối
với nhà nước, các tổ chức tín dụng, đối với cổ đông, tính minh bạch, trung

thực của các thông tin về thực trạng tài chính của doanh nghiệp, cũng phản
ánh được tầm cao của văn hoá doanh nghiệp đó. Một doanh nghiệp có bản sắc
văn hóa độc đáo là một doanh nghiệp tạo được niềm tin nơi cổ đông, nhà đầu
tư, khi ấy các công việc thuộc chức năng quản trị tài chính: huy động vốn,


20

tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng giá trị thị trường
của doanh nghiệp… cũng được giảm nhẹ áp lực.
1.5. Marketing
Văn hoá doanh nghiệp quyết định mẫu mã, bao bì sản phẩm, ảnh hưởng
tới kênh phân phối sản phẩm, chi phối các biện pháp xúc tiến và hỗ trợ kinh
doanh, ảnh hưởng đến giá cả, vì giá tiền mà khách hàng trả cho một sản phẩm
phụ thuộc vào cả giá trị được nhận thức lẫn giá trị thật của nó. Khi khách
hàng tiếp nhận những thông tin quảng bá và truyền thông về sản phẩm, đồng
thời ở họ cũng hình thành nhận thức về văn hoá của doanh nghiệp. Như vậy,
văn hoá doanh nghiệp còn có ảnh hưởng quyết định đến lĩnh vực Marketing
của mỗi tổ chức.
2. Đối với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
2.1. Xây dựng khối đoàn kết
Phần lớn các nhà nghiên cứu về văn hoá nhấn mạnh vai trò quan trọng
của văn hoá trong việc khuyến khích sự gắn kết xã hội trong doanh nghiệp.
Văn hoá được miêu tả như “chất keo” kết nối các thành viên của doanh
nghiệp với nhau. Việc tạo ra một văn hoá chung sẽ mang lại sự thống nhất
trong quan điểm nhìn nhận, đánh giá, lựa chọn và lợi ích chung cho hành
động của các thành viên. Điều này rất có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp có
mâu thuẫn và sự thiếu thống nhất về nội bộ. Hơn nữa, để tồn tại và đáp ứng
được sự thay đổi của môi trường, những vấn đề quan trọng mà hầu hết các
doanh nghiệp đều phải đối mặt đó là tạo sự thống nhất cao trong việc thực

hiện chức năng, chiến lược, mục tiêu đặt ra của doanh nghiệp.


21

2.2. Phối hợp và kiểm soát
Nhìn một cách rộng hơn, văn hoá thúc đẩy sự thống nhất trong nhận
thức, cũng chính là tạo thuận lợi trong phối hợp và kểm soát. Văn hoá biểu
hiện trong truyền thống của doanh nghiệp, tạo ra khuôn mẫu ứng xử của
doanh nghiệp đó, được các thành viên chấp nhận và tuân thủ, thể hiện sự hoà
đồng bên trong doanh nghiệp nói chung, cũng như việc ra quyết định trong
những trường hợp cụ thể. Đặc biệt là trong việc ra quyết định gặp phải những
thực tế phức tạp, do sự khác nhau về nhận thức, về văn hoá địa phương của
các thành viên, thì VHDN sẽ có tác dụng để phạm vi hoá sự lựa chọn. Văn
hoá không chỉ xem như một yếu tố thuận lợi cho phối hợp, mà trong hình thái
giá trị, niềm tin, cách ứng xử, đặc biệt là các nhận thức chung. Văn hoá còn
tạo ra sức mạnh để kiểm soát doanh nghiệp. Những chính kiến văn hoá đã hạn
chế một cách có hiệu quả hành vi của các thành viên trong doanh nghiệp, họ
chỉ được tự do thể hiện chính kiến cá nhân của mình trong khuôn khổ chung
của doanh nghiệp, điều này trong nhiều trường hợp còn mạnh hơn cả những
hệ thống nguyên tắc chính thống của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã cố
gắng tập hợp văn hoá của họ cho lợi thế cạnh tranh, đây chính là một minh
chứng về sức cạnh tranh văn hoá để tạo ra những ứng xử mong muốn, và đảm
bảo thực hiện được nguyên tắc.
2.3. Giảm rủi ro
Trong công việc hàng ngày, ở cấp độ cá nhân, một trong những chức
năng của văn hoá là truyền tải những nhận thức chung qua quá trình đào tạo
và tuyển chọn nhân viên mới. Điều này được thực hiện thông qua ý tưởng của
văn hoá, mà các thành viên mới phải học để hiểu và thực hiện trong công
việc, để đảm bảo những nhận thức chung về điều gì là quan trọng đối với

doanh nghiệp, điều đó được thực hiện và đối xử như thế nào trong doanh


22

nghiệp. Việc thực hiện này sẽ tạo cơ sở suy nghĩ cho họ, bình thường hoá mọi
việc xung quanh, để có những lựa chọn dễ dàng, và những hành động hợp lý
hơn.
2.4. Tạo động cơ
Văn hoá doanh nghiệp có một vị trí quan trọng thúc đẩy động cơ làm
việc cho các thành viên của doanh nghiệp: yếu tố quyết định đến hiệu suất và
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp đều cố gắng
tạo động cơ làm việc cho nhân viên của họ thông qua cơ chế thưởng phạt.
Mặc dù những yếu tố này rõ ràng có tác dụng , tuy nhiên lý thuyết về động cơ
làm việc cho rằng, mong muốn làm việc của nhân viên còn chịu tác động của
các động cơ khác như ý nghĩa và sự thích thú đối với công việc, mục tiêu của
họ với mục đích của doanh nghiệp, họ cảm thấy giá trị của công việc và được
bảo đảm, an toàn trong công việc. Văn hoá doanh nghiệp rõ ràng là có một vị
trí rất lớn ở đây. Một hình thái văn hoá phù hợp và thống nhất có tác động tạo
ra sự trung thành, thúc đẩy niềm tin và giá trị chân chính, khuyến khích mọi
thành viên mang hết nhiệt huyết để phục vụ doanh nghiệp. VHDN là một hệ
thống những ý nghĩa, giá trị, niềm tin chủ đạo, nhận thức và phương pháp tư
duy được mọi thành viên của một tổ chức đồng thuận và có ảnh hưởng ở
phạm vi rộng đến cách thức hành động của các thành viên. Nếu không chú ý
tạo dựng văn hoá chung của doanh nghiệp mình, doanh nghiệp sẽ rơi vào tình
trạng lộn xộn “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, mục tiêu của doanh nghiệp
khó đạt được.
2.5. Tăng lợi thế cạnh tranh
Các nhà nghiên cứu cho rằng, một văn hoá doanh nghiệp mạnh sẽ tạo
được lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Bởi vì văn hoá doanh nghiệp mạnh

sẽ tạo được sự thống nhất, giảm thiểu sự rủi ro, tăng cường phối hợp và giám


23

sát, thúc đẩy động cơ làm việc của mọi thành viên, tăng hiệu suất và hiệu quả
của doanh nghiệp, từ đó tăng được sức cạnh tranh và khả năng thành công của
doanh nghiệp trên thị trường. Văn hoá quyết định mẫu mã sản phẩm, ảnh
hưởng tới phân phối sản phẩm, chi phối các biện pháp xúc tiến và hỗ trợ kinh
doanh, quảng cáo, ảnh hưởng đến giá cả.
Nhìn chung, văn hoá doanh nghiệp có tác dụng tăng cường uy tín cho
doanh nghiệp, hình thành trong quá trình thực hiện mục tiêu của các doanh
nghiệp. Nó tạo nên giá trị doanh nghiệp, tinh thần, đạo đức doanh nghiệp,
quản lý doanh nghiệp và thương hiệu doanh nghiệp. VHDN là nguồn gốc của
sức sáng tạo, đoàn kết doanh nghiệp, là động lực tinh thần cho sự tồn tại, cạnh
tranh và phát triển của doanh nghiệp trong thời kỳ đổi mới.
3. Vai trò của văn hoá doanh nghiệp đối với xã hội
Paul Haw Ken đã viết như sau: “Mục đích tối thượng của kinh doanh
không phải, hay không nên chỉ đơn giản là kiếm tiền. Nó cũng không đơn
thuần là hệ thống sản xuất và buôn bán các loại hàng hoá. Kinh doanh hứa
hẹn làm tăng thêm phúc lợi chung cho loài người thông qua hoạt động dịch
vụ, hoạt động sáng tạo và triết lý đạo đức. Kiếm tiền bản thân nó nói chung là
vô nghĩa và chuốc lấy phức tạp và làm suy tàn thế giới mà chúng ta đang
sống”. Rõ ràng, những cách kiếm lời chỉ đơn thuần chạy theo lợi nhuận, ích
kỷ, nhỏ nhen, xem thường đạo đức, nhân cách, biểu hiện sự kinh doanh thiếu
văn hoá bị xã hội lên án và không thể tồn tại lâu dài. Trái lại, mục tiêu cao
nhất của hoạt động kinh doanh là làm thoả mãn tối đa nhu cầu hàng hoá và
các dịch vụ xã hội. Do vậy, quan tâm đến văn hoá, kết hợp văn hoá với kinh
doanh làm cho cái lợi gắn bó chặt chẽ với cái chân, thiện, mỹ, là xu hướng
chung của doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài. Đó cũng là biểu

hiện của kinh doanh có văn hoá, kiếm lời chân chính, có văn hoá là dựa vào


24

trí tuệ, tài năng và sức lực của mình thông qua việc nhanh nhạy nắm bắt thông
tin và nhu cầu của thị trường, không ngừng cải tiến kỹ thuật, công nghệ, kiểu
dáng sản phẩm, biết tính toán định mức tiêu hao nguyên vật liệu, nhiên liệu,
tránh sự lãng phí. Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải biết quan tâm đến lợi ích
vật chất và tinh thần, không ngừng bồi dưỡng, khuyến khích tài năng sáng tạo
của người lao động để tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có chất lượng
ngày càng cao, hình thức đẹp, giá cả hợp lý, giữ được chữ “tín” đáp ứng nhu
cầu của người tiêu dùng. Thực vậy, kinh doanh có văn hoá tạo ra mối quan hệ
mật thiết giữa nhà sản xuất, nhà kinh doanh và người tiêu dùng theo nguyên
tắc các bên đều có lợi. Nét đẹp trong hoạt động kinh doanh có văn hoá còn
khuyến khích cạnh tranh lành mạnh để cùng tồn tại và phát triển chứ không
loại trừ nhau. Việc sản xuất tạo ra các sản phẩm tốt đáp ứng nhu cầu cũng như
thị hiếu lành mạnh và chính từ chất lượng sản phẩm sẽ tạo ra uy tín cho việc
kinh doanh và cho doanh nghiệp. Văn hoá của doanh nghiệp không tách rời
với văn hoá của xã hội, là hệ thống lớn bao gồm doanh nghiệp. VHDN trước
hết là tuân thủ pháp luật, là bảo đảm có lãi, không những nuôi được người lao
động mà còn phát triển. doanh nghiệp là một tế bào của xã hội, doanh nghiệp
không chỉ là một đơn vị kinh doanh, doanh nghiệp là một cơ sở văn hoá và
mỗi doanh nghiệp có văn hoá doanh nghiệp của mình. Sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hóa ở nước ta đòi hỏi các nhà doanh nghiệp và hoạt động kinh
doanh quan tâm hơn nữa đối với văn hoá, đưa văn hoá vào lĩnh vực kinh
doanh. Sự kết hợp giữa kinh doanh và văn hoá đảm bảo cho sự phát triển bền
vững của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay.
Văn hoá doanh nghiệp nằm trong văn hoá kinh doanh của một quốc
gia, của một nền kinh tế. Hay nói cách khác, văn hoá doanh nghiệp là sự thể

hiện văn hoá kinh doanh ở cấp độ công ty, là bộ phận quan trọng mang tính
quyết định, là đầu mối trung tâm của quá trình xây dựng nền văn hoá kinh

×