Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của các doanh nghiệp việt nam trên thị trường chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.17 KB, 29 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường để tiến hành hoạt động sản xuất,kinh doanh, các
doanh nghiệp cần phải có các yếu tố cơ bản sau: sức lao động, đối tượng lao động
và tư liệu lao động. Để có được các yếu tố này đòi hỏi doanh nghiệp phải ứng ra
một số vốn nhất định phù hợp với quy mô và điều kiện kinh doanh.Nguồn vốn duy
trì trong doanh nghiệp quan trọng như huyết mạch trong cơ thể con người vậy, đó
là điều kiện để tồn tại. Và một trong những kênh huy động vốn tuy mới ra đời
song đã đóng góp vai trò đáng kể chính là thị trường chứng khoán. Có thể nói việc
các doanh nghiệp huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán là một bước
phát triển cao trong quá trình hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.Vì vậy, em đã chọn đề tài “Đẩy mạnh hoạt động huy động
vốn của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường chứng khoán” làm chuyên
đề cho bài tiểu luận môn Tài chính tiền tệ. Kết cấu đề tài gồm 3 phần :
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN
CHƯƠNG II.THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
CHƯƠNG III.MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG
VỐN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Tuy đã cố gắng hoàn thiện đề tài, song em cũng không thể tránh được những thiếu
sót và hạn chế,em rất mong được sự quan tâm,đóng góp ý kiến của thầy cô để bài
viết của em được tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy cô!
Sinh viên thực hiện:
Đào Hoài Phương
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Lý luận chung về nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp và việc huy động
vốn qua phát hành chứng khoán.
1. Nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp và các hình thức huy động vốn.
1.1.Khái niệm nguồn vốn đầu tư.
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện dưới dạng
giá trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.


Đây là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối cho đầu tư phát
triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội.
1.2 Các nguồn huy động vốn đầu tư.
1.2.1 Trên góc độ của toàn bộ nền kinh tế.(vĩ mô).
Trên góc độ của toàn bộ nền kinh tế, nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn
đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Nguồn vốn đầu tư trong nước.
Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế bao
gồm tiết kiệm của khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết
kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất của xã hội.Nguồn
vốn đầu tư trong nước bao gồm.
+ Nguồn vốn nhà nước
Nguồn vốn của nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước,
nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển
của doanh nghiệp nhà nước.
+ Nguồn vốn của dân cư và tư nhân.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích
lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã.
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 2
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích lũy của cá nhân,
các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động
vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là
dòng lưu chuyển vốn quốc tế ( International Capital Flow). Về thực chất các dòng
lưu chuyển vốn quốc tế là biểu hiện cụ thể của quá trình chuyển giao nguồn lực tài
chính giữa các quốc gia trên thế giới.
Trong nguồn vốn đầu tư nước ngoài được chia ra.
- Tài trợ phát triển chính thức (ODF – Official Development Finance).
- Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.
- Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
1.2.2 Trên góc độ các doanh nghiệp (vi mô).
Trên góc độ vi mô, nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp, các đơn vị thực
hiện đầu tư bao gồm 2 nguồn chính: nguồn vốn bên trong (internal funds) và
nguồn vốn bên ngoài (external funds).
+ Nguồn vốn bên trong.
Nguồn vốn bên trong hình thành từ phần tích lũy từ nội bộ doanh
nghiệp(vốn góp ban đầu, thu nhập giữ lại) và phần khấu hao hàng năm. Nguồn vốn
này có ưu điểm là bảo đảm tính độc lập, chủ động, không phụ thuộc vào chủ nợ,
hạn chế rủi ro về tín dụng. Dự án được tài trợ từ nguồn vốn này sẽ không làm suy
giảm khả năng vay nợ của đơn vị.
+ Nguồn vốn bên ngoài.
Nguồn vốn này có thể hình thành từ việc vay nợ hoặc phát hành chứng
khoán ra công chúng (public offering) thông qua hai hình thức tài trợ chủ yếu: tài
trợ gián tiếp qua các trung gian tài chính (ngân hàng thương mại, các tổ chức tín
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 3
dụng…) hoặc tài trợ trực tiếp qua thị trường vốn: thị trường chứng khoán Việt
Nam, hoạt động tín dụng thuê mua.
Tại Việt Nam trong những năm vừa qua nguồn vốn tài trợ gián tiếp qua các
trung gian tài chính tồn tại phổ biến và là kênh huy động vốn chính của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, do nhu cầu đầu tư ngày càng gia tăng, năng lực của các ngân
hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khó có thể đáp ứng hết được nhu cầu đầu
tư của các doanh nghiệp. Chính vì vậy hình thức tài trợ trực tiếp thông qua thị
trường vốn đã và sẽ ngày càng được quan tâm thỏa đáng hơn.
Huy động vốn qua thị trường chứng khoán có ưu điểm là quy mô huy động
vốn rộng rãi hơn (thông qua phát hành chứng khoán ra công chúng). Bên cạnh đó,
yêu cầu công khai, minh bạch cao trên thị trường chứng khoán cũng tạo điều kiện
và sức ép buộc các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Tuy nhiên tính
cạnh tranh và rủi ro cũng sẽ lớn hơn.

2. Phát hành chứng khoán – một hình thức huy động vốn đầu tư.
Có 2 hình thức phát hành chứng khoán là phát hành riêng lẻ và phát hành
chứng khoán ra công chúng.
2.1. Phát hành riêng lẻ.
Phát hành riêng lẻ là quá trình trong đó chứng khoán được bán trong phạm
vi một số người nhất định (thông thường là cho các nhà đầu tư có tổ chức), với
những điều kiện (khối lượng phát hành) hạn chế. Việc phát hành chứng khoán
riêng lẻ thông thường chịu sự điều chỉnh của Luật công ty. Chứng khoán phát hành
theo phương thức này không phảI là đối tượng giao dịch tại Sở giao dịch chứng
khoán.
2.2 Phát hành chứng khoán ra công chúng
2.2.1 Khái niệm
Phát hành chứng khoán ra công chúng là quá trình trong đó chứng khoán
được bán rộng rãi ra công chúng, cho một số lượng lớn người đầu tư, trong tổng
lượng phát hành phải giành một tỷ lệ nhất định cho các nhà đầu tư nhỏ và khối
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 4
lượng phát hành phải đạt được một mức nhất định. Những công ty phát hành
chứng khoán ra công chúng được gọi là các công ty đại chúng.
Phát hành chứng khoán ra công chúng gồm có phát hành cổ phiếu,chứng chỉ
quỹ ra công chúng và phát hành trái phiếu ra công chúng.
Phát hành cổ phiếu,chứng chỉ quỹ ra công chúng được thực hiện theo một
trong hai hình thức sau:
- Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO): là việc phát hành trong đó cổ phiếu
của công ty lần đầu tiên được bán rộng rãi cho công chúng đầu tư.
- Chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp): là đợt phát hành cổ phiếu bổ sung của
công ty đại chúng cho rộng rãi công chúng đầu tư.
Phát hành trái phiếu ra công chúng được thực hiện bằng một hình thức duy
nhất, đó là chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp).
Mục đích của việc phân biệt hai hình thức phát hành (phát hành riêng lẻ và
phát hành ra công chúng như trên là nhằm có các biện pháp bảo vệ cho công

chúng đầu tư, nhất là những nhà đầu tư nhỏ không hiểu biết nhiều về lĩnh vực
chứng khoán. Nhằm mục đích này, để được phép phát hành ra công chúng, tổ chức
phát hành phải là những công ty làm ăn có chất lượng cao, hoạt động sản xuất kinh
doanh có hiệu quả, đáp ứng được các điều kiện do cơ quan quản lý nhà nước về
chứng khoán (Uỷ ban chứng khoán nhà nước) qui định.
2.2.2 Điều kiện phát hành chứng khoán ra công chúng của doanh
nghiệp.
Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải chịu sự chi phối của pháp
luật về chứng khoán và phải được cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán cấp
phép. Những công ty phát hành chứng khoán ra công chúng phải thực hiện một chế
độ báo cáo, công bố thông tin công khai và chịu sự giám sát riêng theo qui định
của pháp luật chứng khoán.
Mỗi nước có những quy định riêng trong việc phát hành chứng khoán ra
công chúng tuy nhiên để phát hành chứng khoán ra công chúng thông thường đểu
phải đảm bảo những yêu cầu chung.
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 5
- Về qui mô vốn.
- Về hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
- Về đội ngũ quản lý công ty.
- Về tính khả thi của dự án được sử dụng vốn sau khi huy động
Ở Việt Nam việc quy định điều kiện phát hành chứng khoán ra công chúng
được quy định tại điều 12 luật chứng khoán ban hành ngày 29/6/2006.
a) Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán
từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
b) Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có
lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán;
c) Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào
bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua.
II. Vai trò của hoạt động huy động vốn trên thị trường chứng khoán
Đối với nền kinh tế

Chức năng quan trọng nhất của thị trường chứng khoán mà thị trường sơ cấp
thực hiện đó là chức năng huy động vốn cho hoạt động đầu tư. Thị trường sơ cấp
vừa có khả năng thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm lớn nhỏ của từng hộ dân cư
vừa có khả năng thu hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài; các nguồn vốn nhàn rỗi
từ các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, Chính Phủ tạo thành một nguồn vốn
khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế mà các phương thức khác không thể làm được.
Thông qua thị trường chứng khoán sơ cấp các khoản vốn nhàn rỗi hoặc tạm thời
nhàn rỗi được chuyển hóa thành vốn đầu tư
Đối với doanh nghiệp và các đơn vị phát hành
Đối với doanh nghiệp và các đơn vị phát hành, thị trường chứng khoán sơ cấp
tạo ra môi trường cho các doanh nghiệp thu hút, huy động vốn trung và dài hạn
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 6
nhằm tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó việc huy động vốn
trên thị trường chứng khoán còn giúp nhà nước giải quyết vấn đề thiếu hụt ngân
sách, có thêm vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng. Nó cũng trực tiếp cải thiện mức
sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm
thích hợp hơn
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn trên thị trường
chứng khoán
Hoạt động huy động vốn trên thị trường chứng khoán chịu ảnh hưởng bởi
nhiều yếu tố, trong đó nổi bật lên một số yếu tố sau:
1.Chính sách của Chính Phủ
Đây chính là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động huy động vốn trên thị
trường chứng khoán. Kinh nghiệm phát triển ở các nước cho thấy, đối với những
ngành nghề mới hình thành, Chính Phủ thường phải thực thi nhiều chính sách ưu
đãi để khuyến khích sự tham gia của các cá nhân, tổ chức. Trong lĩnh vực thị
trường chứng khoán, đặc biệt là tại các nền kinh tế mới chuyển đổi như Việt Nam
càng không phải la ngoại lệ. Vào những năm đầu khi Thị trường chứng khoán
mới ra đời, Chính Phủ đã ban hành nhiều chính sách về thuế, phí để thúc đẩy các
cá nhân, tổ chức đầu tư kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán

2. Khuôn khổ pháp lí
Không chỉ riêng hoạt động huy động vốn mà tất cả các hoạt động tài chính
khác trên thị trường chứng khoán là rất phức tạp, mức độ rủi ro cao và có liên
quan, chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố kinh tế- xã hội khác nhau trong và ngoài
nước. Vì vậy hoạt động huy động vốn cần được phát triển trên cơ sở pháp lí chặt
chẽ và môi trường kinh tế thuận lợi, đồng thời đòi hỏi các chủ thể tham gia phải
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 7
tuân thủ nghiêm ngặt các quy định và các nguyên tắc hoạt động của thị trường.
Luật Chứng khoán ra đời năm 2006 đã tạo ra khung pháp lí đầy đủ về chứng
khoán và thị trường chứng khoán, tạo kênh huy động vốn trung và dài hạn cho
nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng.
3. Sự phát triển của bản thân thị trường chứng khoán
Bất cứ một thị trường hàng hóa nào, các hoạt động trong nó và các hoạt động
có liên quan muốn tiến hành một cách suôn sẻ, thuận lợi thì cũng phải phát triển
đến một trình độ nhất định. Thị trường chứng khoán cũng vậy, sau khi thực hiện
phát hành chứng khoán ra công chúng, nếu thị trường tập trung hoặc thị trường
OTC phát triển sẽ tạo điều kiện để chứng khoán của doanh nghiệp, tổ chức được
trao đổi mua bán trên thị trường, tạo tính thanh khoản cho chứng khoán, qua đó
giúp doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc huy động vốn thông qua thị trường
chứng khoán nhằm tiến hành tái đầu tư hoặc mở rộng quá trình sản xuất. Do vậy
đối với các tổ chức phát hành chứng khoán, luôn coi việc phát hành chứng khoán
ra công chứng phải gắn liền với việc thực hiện niêm yết trên thị trường tập
trung.Vì vậy để tạo điều kiện cho các tổ chức phát hành chưa niêm yết được giao
dịch thì cần phát triển thị trường tập trung nói riêng và thị trường chứng khoán
nói chung
4. Sự phát triển của các định chế tài chính trung gian
Hoạt động huy động vốn trên thi trường chứng khoán không thể thiếu vai trò
của các tổ chức tài chính trung gian và các tổ chức tài chính có vai trò hỗ trợ thị
trường khác. Đó là các công ty chứng khoán, tổ chức bảo lãnh phát hành, tổ chức
kiểm toán độc lập, tổ chức tư vấn luật… Tính chuyên nghiệp và trình độ phát

triển của các tổ chức này là động lực thúc đẩy doanh nghiệp thực hiên phát hành
chứng khoán, niêm yết chứng khoán và đầu tư kinh doanh chứng khoán, đồng
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 8
thời là yếu tố quan trọng đảm bảo thành công không chỉ của hoạt động huy đông
vốn mà còn của nhiều hoạt động khác trong khuôn khổ hoạt động của thị trường
chứng khoán
5. Bản thân tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng
Chiến lược của ban lãnh đạo doanh nghiệp về hoạt động tài chính có ý nghĩa
quyết định đến hoạt động huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán trên
thị trường chứng khoán.Tình hình tài chính của doanh nghiệp phải minh bạch, tốc
độ tăng trưởng hàng năm của doanh nghiệp phải cao hơn tốc độ tăng trưởng
chung của toàn ngành, có đội ngũ quản lí và đội ngũ lãnh đạo năng lực và trách
nhiệm, có khả năng duy trì niêm tin cho các nhà đầu tư. Mặt khác doanh nghiệp
cũng phải biết chọn thời điểm phát hành chứng khoán ra công chúng một cách
hợp lí sao cho lượng vốn có khả năng huy động sau đợt phát hành là lớn nhất, khi
doanh nghiệp thực hiện phát hành và niêm yết chứng khoán trong gian đoạn
TTCK tăng trưởng nóng, giá chứng khoán của doanh nghiệp chắc chắn sẽ được
trả cao qua đó lượng vốn huy động đối với thời điểm phát hành chứng khoán khi
thị trường suy thoái là lớn hơn nhiều
IV.THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.Khái niệm
Thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển
nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán.
2.Chủ thể tham gia
2.1 . Nhà phát hành: là các tổ chức cần vốn và thực hiện huy động vốn qua thị
trường chứng khoán.Họ là người cung cấp chứng khoán-hàng hóa của thị trường
chứng khoán. Bao gồm:
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 9
+Chính phủ và chính quyền địa phương phát hành trái phiếu chính phủ và doanh
nghiệp

+Doanh nghiệp là nhà phát hành trái phiếu và cổ phiếu doanh nghiệp
+Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như trái phiếu,chứng
chỉ thụ hưởng….
2.2.Nhà đầu tư: là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị
trường chứng khoán nhằm mục đích thu lời. có thể chia thành 2 loại là nhà đầu tư
cá nhân và chuyên nghiệp
2.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán :
+Công ty chứng khoán
+Quỹ đầu tư chứng khoán
+Các trung gian tài chính
2.4.Các tổ chức có liên quan trên thị trường chứng khoán
+Cơ quan quản lý nhà nước
+Sở giao dịch chứng khoán
+Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
+Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ
+Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
+Các tổ chức tài trợ chứng khoán
+Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 10
3.Hàng hóa thị trường chứng khoán
3.1.Cổ phiếu : là 1 loại chứng khoán được phát hành dưới dạng bút toán ghi sổ
hoặc dữ liệu điện tử xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu.
Tổ chức phát hành là các công ty cổ phần
Cổ phiếu gồm hai loại chính:
- Cổ phiếu thường: là cổ phiếu xác định quyền sở hữu của cổđông trong công ty.
Cổ phiếu thường được đặc trưng bởi quyền quản lí, kiểm soát công ty. Cổ đông sở
hữu cổ phiếu thường được tham gia bầu hội đồng quả trị, tham gia bỏ phiếu
quyết định các vấn đề lớn của công ty. Cổ tức của cổ phiếu thường được trả khi hội
đồng quản trị công bố. Khi công ty giải thể hoặc phá sản, cổđông sở hữu cổ phiếu
thường sẽ được chia số tiền còn lại sau khi thanh toán các khoản nợ và thanh toán

cho cổ phiếu ưu đãi.
- Cổ phiếu ưu đãi: là cổ phiếu có cổ tức xác định được thể hiện bằng số tiền xác
định được in trên cổ phiếu hoặc theo tỉ lệ phần trăm cốđịnh so với mệnh giá cổ
phiếu.Cổ phiếu ưu đãi thường được trả cổ tức trước các cổ phiếu thường. Cổ đông
sở hữu cổ phiếu ưu đãi không được tham gia bỏ phiếu bầu ra hội đồng quản trị.
Khi công ty giải thể hoặc phá sản, cổ phiếu ưu đãi được ưu tiên thanh toán trước
các cổ phiếu thường.
3.2.Trái phiếu: là 1 loại chứng khoán phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút
toán ghi sổ xác nhận nghĩa vụ trả nợ cả vốn gốc và lãi của tổ chức phát hành với
người sở hữu trái phiếu khi hết hạn. Tổ chức phát hành là chính phủ,chính quyền
địa phương,công ty cổ phần,công ty trách nhiệm hữu hạn,ngân hàng thương mại cổ
phần.
Trái phiếu có thể phân theo nhiều tiêu chí khác nhau:
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 11
- Căn cứ vào chủ thể phát hành, trái phiếu gồm hai loại chính là: trái phiếu chính
phủ, trái phiếu chính quyền địa phương (do chính phủ và chính quyền địa
phương phát hành) và trái phiếu công ty (do công ty phát hành).
- Căn cứ vào tính chất chuyển đổi, trái phiếu được chia thành loại
có khả năng chuyển đổi (chuyển đổi thành cổ phiếu) và loại không có khả năng
chuyển.
- Căn cứ vào cách thức trả lãi, trái phiếu được chia thành các loại sau:
+ Trái phiếu có lãi suất cố định: là loại trái phiếu được thanh toán cố định
theo định kỳ.
+ Trái phiếu với lãi suất thả nổi: là loại trái phiếu mà khoản lãi thu được thay
đổi theo sự biến động của lãi suất thị trường hoặc bị chi phối bởi biểu giá, chẳng
hạn như giá bán lẻ.
+ Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu không trả thưởng và được bán theo
nguyên tắc chiết khấu. Tiền thưởng cho việc sở hữu trái phiếu nằm dưới dạng lợi
nhuận do vốn đem lại hơn là tiền thu nhập ( nó là phần chênh lệch giữa giá trị danh
nghĩa- mệnh giá trái phiếu và giá mua).

- Căn cứ mức độ đảm bảo thanh toán của người phát hành :
+ Trái phiếu bảo đảm: là loại trái phiếu mà người phát hành dùng một tài sản
có giá trị làm vật bảo đảm cho việc phát hành
+ Trái phiếu không có bảo đảm: là loại trái phiếu phát hành không có tài sản
đảm bảo mà chỉ được đảm bảo bằng chính uy tín của người phát hành
- Căn cứ hình thức trái phiếu :
+ Trái phiếu vô danh: là loại trái phiếu không ghi tên của người mua trên trái
phiếu và trong sổ sách người phát hành. Trái phiếu vô danh có gắn các cuống phiếu
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 12
trả lãi và khi đến hạn trả lãi, người nắm giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới
đại lý của công ty để nhận lãi
+ Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên người đầu tư trên trái phiếu
và trong sổ của người phát hành.
3.3.Chứng chỉ quỹ đầu tư: các công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán huy
động vốn bằng cách lấy tổng lượng vốn huy động dự kiến huy động chia thành các
phần nhỏ bằng nhau ,mỗi phần tương ứng với 1 chứng chỉ quỹ và công ty sẽ bán
các chứng chỉ quỹ ra công chúng như là những đơn vị đầu tư
3.4.Chứng khoán phái sinh: hình thành trên cơ sở những loại chứng khoán đã
giao dich trên thị trường. Nó bao gồm: quyền mua cổ phần,chứng quyền,hợp đồng
tương lai,hợp đồng lựa chọn…
4.Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán các loại chứng khoán mới được phát
hành. Sự hoạt động của thị trường này tạo ra 1 kênh thu hút, huy động nguồn tiền
nhàn rỗi của công chúng chuyển thành vốn đầu tư cho nền kinh tế. Thông qua thị
trường này nhà phát hành thực hiện được việc bán các chứng khoán mới cho nhà
đầu tư thu được tiền về,tăng thêm được lượng vốn mới đầu tư
5.Thị trường thứ cấp: là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên
thị trường thứ cấp. Sự hoạt động của thị trường này tạo ra khả năng chuyển đổi
chứng khoán thành tiền mặt dễ dàng thuận tiện. Trên thị trường này tiền thu được
từ bán chứng khoán không thuộc về nhà phát hành mà thuộc về nhà đầu tư bán
chứng khoán,nhượng lại quyền sở hữu cho nhà đầu tư khác.

SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 13
CHƯƠNG II.THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
I.Tính tất yếu của sự ra đời thị trường chứng khoán Việt Nam
Năm 2000, sau 15 năm thực hiện đổi mới, chứng ta đã đạt được những thành
tựu đáng khích lệ. Lạm phát giảm từ 67% năm 1992 xuống còn 14,4% năm 1994
và 12,7% năm 1995. Tỷ lệ tăng trưởng bình quân luôn đạt mức >7%/năm. Công
nghiệp, nông nghiệp đều có những bước phát triển vượt bậc.Nền kinh tế thị
trường đã bắt đầu ổn định, đang thâm nhập vào chính đời sống hàng ngày của
mọi tầng lớp dân cư.Thu nhập bình quân đầu người tăng và trong nội bộ nền kinh
tế đã bắt đầu có tích lũy. Tuy nhiên hệ thống thể chế tài chính nước ta vẫn còn
chưa hoàn chỉnh, hơn thế nữa việc đưa nền kinh tế thị trường đi theo định hướng
xã hội chủ nghĩa không phải là chuyện dễ dàng trong ngày một ngày hai. Hệ
thống doanh nghiệp nước ta lúc bấy giờ đa phần là các doanh nghiệp nhà nước,
vốn chậm thay đổi và phát triển, khả năng cạnh tranh kém…Thực tế nhìn nhận
nền kinh tế thị trường của chúng ta còn yếu kém trong khi đó thị trường chứng
khoán là một bước phát triển cao của kinh tế thị trường. Nhưng chính thị trường
chứng khoán lạ là một câu trả lời cho những vấn đề nhức nhối mà nền kinh tế
đang gặp phải và cũng là hướng phát triển đầy triển vọng trong tương lai.
Nhằm giải thích cho hướng phát triển trên chúng ta sẽ so sánh về nguồn vốn
ngân sách, vốn từ các ngân hàng và vốn từ thị trường chứng khoán để thấy rõ sự
khác biệt
+ Vốn ngân sách dược cung cấp nhằm chủ yếu xây dựng cơ sở hạ tầng, các
dịch vụ công cộng. Đây là một nguồn vốn tương đối đáng kể và đối với những
nước đang phát triển như nước ta thì lại càng có ý nghĩa hơn bởi vì lĩnh vực mà
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 14
nguồn vốn này đầu tư không đem lại hiệu quả và lợi nhuận trước mắt, vì vậy các
doanh nghiệp tư nhân thường không bao giờ đứng ra đảm nhận.
+ Nguồn vốn thứ hai chính là các nguồn vốn từ các ngân hàng. Đối tượng vay
nợ chủ yếu của các ngân hàng thường là các chương trình phát triển nông thôn,

xóa đói giảm nghèo,các công trình CNH-HDH đất nước. Khối lượng vốn vay
hàng năm cứ càng ngày càng lớn dần trong khi đó khả năng trả nợ của các dự án
này thường là không kịp hoặc phải mất một thời gian dài mới đem lại hiệu quả
dẫn đến tình trạng vốn vay ngắn hạn của ngân hàng có độ rủi ro thu hồi cao
+ Khác với hai nguồn vốn vừa kể trên, vốn từ thị trường chứng khoán, thứ
nhất, được huy động và phân phối theo cơ chế thị trường, vì nó phải tuân thủ các
quy luật nghiêm ngặt của thị trường. Thứ hai, thị trường chứng khoán khi được
thành lập cũng sẽ có vai trò quan trọng như ngân hàng trong việc cung cấp vốn
cho nền kinh tế. Ở nước ta đã có mộ hệ thống các doanh nghiệp cổ phần hóa, các
công ty cổ phần có thể tác động qua lại TTCK cùng nhau phát triển.Việc tham
gia vào thị trường chứng khoán bắt buộc các công ty,doanh nghiệp phải minh
bạch hoạt động kinh doanh sản xuất của mình. Có thể nói TTCK là một giải pháp
hoàn hảo nhằm tạo ra một môi trường cạnh tranh công bằng cho các doanh
nghiệp
II.Thực trạng huy động vốn của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường
chứng khoán từ năm 2000 cho đến nay
Xây dựng và phát triển TTCK nhằm xác lập một kênh huy động vốn mới cho
đầu tư phát triển là mục tiêu mà Chính Phủ định hướng từ những năm đầu của
thập kỉ 90. Qua một thời gian nghiên cứu, xây dựng đề án và chuẩn bị, ngày
20/07/2000 sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh đã chính thức khai
trương. Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động. Và vào
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 15
ngày 8/3/2005 sở giao dịch chứng khoán Hà Nội cũng chính thức được vận hành.
Theo ủy ban chứng khoán nhà nước saau 10 năm phát triển thị trường chứng
khoán số lượng công ty niêm yết đã tăng từ 2 công ty lên 550 công ty với mức
vốn hóa thị trường trên 700.000 tỉ đồng, chiếm 40% GDP.
Thị trường chứng khoán Việt Nam có phiên giao dịch đầu tiên vào ngày
28/7/2000 chỉ với 2 cổ phiếu niêm yết trên sàn là REE và SAM. Đến nay sau 10
năm hoạt động thị trường đã có những bước phát triển đáng kể thể hiện qua các
con số. Trong 5 năm đầu, giá trị giao dịch bình quân chỉ là 55 tỉ đồng/phiên, 5

năm tiếp theo đã tăng gần 25 lần đạt giá trị 1.300 tỉ/phiên. Tổng giá trị vốn huy
động trong 5 năm gần đây qua thị trường đã đạt gần 300.00 tỉ đồng, trong đó
riêng năm 2007 tổng giá trị huy động vốn qua thị trường chứng khoán đạt
127.000 tỉ đồng.
Trong suốt thời kì từ 2000-2005 : vốn hóa thị trường chỉ đạt trên dưới 1%
GDP. Ngày 20/07/2000 trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh chính
thức đi vào hoạt động với 4 công ty chứng khoán và 2 cổ phiếu niêm yết, giá trị
thị trường lúc bấy giờ ước tính 270 tỷ đồng. TTCK đã có mức tăng trưởng nhanh
về giá do nguồn cung hàng khan hiếm,chỉ số VN Index liên tục tăng và đạt tới
đỉnh điểm là 571.04 điểm ngày 25/6/2001.Trong năm 2002 số vốn huy động
thông qua thị trường chứng khoán là 0,035 nghìn tỷ đồng. Đến ngày 30/06/2003
có 5 công ty niêm yết phát hành thêm cổ phiếu mới để mở rộng sản xuất kinh
doanh, tăng vốn điều lệ thêm 155,4 tỷ đồng. Tính đến 30/06/2005 có 28 công ty
niêm yết với tổng giá trị vốn hóa thị trường đạt 4379 tỷ đồng(0,6% GDP năm
2004). Tháng 11/2005 có 21 cổ phiếu được niêm yết với tổng số vốn 1086 tỷ, 2
loại trái phiếu công ty( của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam) với số vốn
157 tỷ đồng và 50 loại trái phiếu chính phủ với 5400 tỷ đồng, đã có tổng cộng 73
loại chứng khoán với tổng mức vốn hóa 6600 tỷ đồng chiếm gần 1,6% GDP.
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 16
Đã có 1071 phiên giao dịch được tổ chức với tổng giá trị giao dịch gần 33 679
tỷ đồng trong đó giao dịch trái phiếu chiếm khoảng 89% còn lại là cổ phiếu và
chứng chỉ quỹ. Có 12 công ty chứng khoán với tổng vốn điều lệ đạt 465 tỷ đồng,
thực hiện tất cả các nghiệp vụ chứng khoán. Có 7 tổ chức kiểm toán độc lập
được UBCK Nhà nước chấp thuận,trong đó có 1 đơn vị nước ngoài. Có 5 ngân
hàng lưu kí, 3 trong nước và 2 nước ngoài, có một ngân hàng chỉ định thanh toán
là ngân hàng đàu tư và phát triển Việt Nam,hơn 20000 tài khoản giao dịch chứng
khoán tại các công ty chứng khoán, trong đó có hơn 90 nhà đàu tư tổ chức chiếm
0,6% và 35 nhà đầu tư nước ngoài .Cùng với sự phát triển của thị trường chứng
khoán, khung pháp lí cho hoạt động của thị trường này cũng hình thành tương đối
đầy đủ. Tuy nhiên nhìn chung giai đoạn 2000-2005 là giai đoạn hoạt động khá

trầm của TTCK Việt Nam.
Trong suốt thời kỳ 2006-2010 : TTCK Việt Nam bắt đầu khởi sắc và đã có
bước tăng trưởng manh mẽ cả về số lượng công ty niêm yết lẫn doanh số giao
dịch.
*Mốc thời gian 2006 có thể coi như là mốc đột phá, tạo cho thị trường
chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch sôi
nổi ở cả 3 sàn: HOSE, HNX và thị trường OTC. Thị trường đã nhanh chóng phát
triển cả về chất và lượng thu hút đông đảo dân chúng tham gia với tư cách nhà
đầu tư cá nhân. Đầu tiên phải kể đến sự kiện Đại hội đồng WTO thông qua nghị
định thư WT/ACC/VNM/48 công nhận Việt Nam chinh thức trở thành thành vien
thứ 150 của tổ chức kinh tế lớn nhất toàn cầu ngày 07/11/2006 hoàn tất tiến trình
11 năm đàm phán. Một sự kiện khác không kém phần quan trọng tác động mạnh
mẽ đến diễn biến thị trường chứng khoán cũng diễn ra trong năm 2006 đó là ngày
20/11/2006 người đứng đầu nhà trắng, tổng thống Mỹ G.Bush đã tới thăm trung
tâm giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh, trò chuyện với các nhân viên về tình
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 17
hình chứng khoán và gõ vào chiếc cồng khai mạc phiên giao dịch đầu tuần . Sau
đó không lâu tại Mỹ, quốc hội nước này thông qua dự luật về Quy chế thương
mại bình thường vĩnh viễn(PNRT) đối với Việt Nam. Chỉ ngần áy sự kiện thôi đã
được giới phân tích cho rằng đó là dấu hiệu chứng tỏ sân chơi thị trường chứng
khoán không còn là của riêng các doanh nghiệp trong nước mà còn là diểm đầu
tư đầy tiềm năng đối với các nhà đầu tư Mỹ nói riêng và các nhà đầu tư nước
ngoài nói chung. Theo số liệu của các báo cáo phân tích TTCK Việt Nam khép
lại phiên giao dịch cuối cùng của năm 2006 vào thứ 6 ngày 29/12 với chỉ số VN-
index tại SGDCK TPHCM ở mức 751 diểm và chỉ số HASTC-index tại SGDCK
Hà nội ở mức 243 diểm, so với đầu năm thì VN-index tăng 146% còn HASTC-
index tăng 170%. Tính đến phiên giao dịch thứ 1450 cuối năm, SGDCK TP
HCM đã có sự góp mặt của 106 cổ phiếu , 2 chứng chỉ quỹ và 367 trái phiếu với
tổng giá trị niêm yết theo mệnh giá là 72000 tỷ đồng. Trong khi đó tại SGDCK
HN, số lượng chứng khoán tham gia tăng mạnh 87 cổ phiếu và 91 trái phiếu với

tổng mức đang kí giao dịch đạt 29000 tỷ đồng. Tính riêng về mức vốn hóa cổ
phiếu, toàn bộ TTCK tập trung của Việt Nam có 193 cổ phiếu với mức vốn hóa
thị trường lên tới 220.000 tỷ đồng tương đương 13,8 tỷ USD. Số lượng doanh
nghiệp niêm yết tăng từ 40 lên gần 200.
*Ngày 01/01/2007 Luật chứng khoán Việt Nam chính thức có hiệu lực đã tạo
hành lang pháp lí quan trọng cho TTCK Việt Nam phát triển với nhiều thành viên
như: công ty chứng khoán, công ty niêm yết, công ty quản lí quỹ đã được nâng
cấp. Ngoài ra hệ thống giao dịch cổ phiếu OTC, khởi động giao dịch cuối quý
I/2008 với 40 cổ phiếu các công ty chứng khoán, ngân hàng và bảo hiểm đã trở
thành “Chợ giao dịch chứng khoán” có quy mô nhất. Tính đến hết năm 2007,
tổng giá trị vốn hóa TTCK Việt Nam đạt gần 500.000 tỷ đồng, bằng 43,7% GDP
năm 2007. Theo số liệu của ủy ban trong năm 2007 đã có 179 công ty được phép
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 18
chào bán 2,46 tỷ cổ phiếu ra công chúng tương ứng khoảng trên 48.000 tỷ đồng,
Ủy ban cũng tổ chức phát hành được 3,468 triệu trái phiếu tương ứng với 3.750
tỷ đồng cho 3 ngân hàng thương mại cổ phần,25 triệu chứng chỉ quỹ tương ứng
với 250 tỷ đồng cho quỹ tăng trưởng Manulife.
Năm 2007, quy mô toàn thị trường so với GDP là 13,72%, trong đó trái
phiếu doanh nghiệp chiếm khoảng 15%. Khối lượng giao dịch có mức tăng cao
nhất trong khu vực, tăng 98,11% so với mức trung bình 21,1% của các nước mới
nổi ở Đông Á. Tính đến năm 2007 trên toàn thị trường mới chỉ có 10 doanh nghiệp
phát hành trái phiếu, gồm có: PetroVietnam, Tổng công ty cao su,Vinashin,
Electric Vietnam Copreration (EVN), Lilama, Vietnam Steel Corperation, Vilexim,
Tổng Công ty cổ phần xây dựng điện Việt nam, Tổng công ty Sông Đà và
Vinaconex. Tất cả các công ty này đều là những đơn vị đầu ngành hoặc các doanh
nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa. Thực tế, nhu cầu của họ là nguồn vốn lớn, dài
hạn và ổn định để đáp ứng yêu cầu, mà những nguồn vốn này khó có thể vay được
từ một ngân hàng. Doanh số từ phát hành trái phiếu có sự tăng trưởng mạnh mẽ.
Từ 300 tỷ VND do Tổng công ty Dầu khí phát hành năm 2003 đã lên đến hơn
6.600 tỷ VND tháng 3 năm 2007, đặc biệt năm 2006 đạt hơn 8.800 tỷ VND, trong

đó EVN phát hành 6 đợt với tổng doanh số là 6.000 tỷ VND. Tổng doanh số phát
hành trái phiếu từ năm 2003 đến tháng 3 năm 2007 đạt 16.768 tỷ VND. Trong đó,
Vinashin và EVN là hai doanh nghiệp phát hành nhiều nhất, chiếm 41% và 36%
tương ứng. Còn các tổng công ty khác chỉ chiếm dưới 10% trong tổng vốn huy
động.
Điều này hoàn toàn phù hợp với nhu cầu đầu tư vốn lớn của 2 tổng công ty này.
Đây đồng thời cũng là hai trái phiếu doanh nghiệp hấp dẫn nhất trên thị trường
hiện nay. Vinashin huy động vốn cho các dự án đóng tàu siêu trường siêu trọng với
mục đích trở thành tập đoàn đóng tàu xuất khẩu hàng đầu của Việt nam. EVN cũng
phát hành trái phiếu đầu tư xây dựng các nhà máy thủy điện để đáp ứng nhu cầu
điện ngày càng gia tăng như hiện nay. EVN cũng đang chiến lược sẽ phát hành 300
triệu đến 500 triệu USD trái phiếu quốc tế và tiến tới được xếp hạng trái phiếu theo
chuẩn mực tế .
*Năm 2008, năm bão táp làm nghiêng ngả thị trường chứng khoán Việt Nam.
Những sóng gió trong cơn bão khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng như những
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 19
bất ổn nội tại của nền kinh tế Việt Nam đã được phản ánh một cách đầy đủ và rõ
nét thông qua những biến động của chỉ số chứng khoán tại 2 sàn HOSE và
HASTC. được những hậu quả mà nó mang lại. Tính đến 31/12/2008 tổng giá trị
vốn hóa của các loại chứng khoán đang niêm yết trên cả 2 sàn là 225.300 tỷ đồng
tương đương 13,3 tỷ USD, con số này tương ứng năm 2007 là 494.500 tỷ đồng
như vậy sau 1 năm giá trị vốn hóa đã mất đi 269.200 tỷ đồng. Tổng mức vốn huy
động năm 2008 đạt 29.000 tỷ đồng so với năm 2007 là 127.000 tỷ đồng, chỉ đạt
23%,giảm tới 77% so với 2007. Sự ảm đạm của TTCK từ đầu năm 2008 đã gây
khó khăn cho các doanh nghiệp muốn huy động vốn qua kênh này. Ngay cả
những tên tuổi lớn cũng không tránh khỏi thất bại khi huy động vốn qua TTCK.
Sabeco và Habeco là 2 ví dụ rõ ràng nhất. Tổng công ty Bia,rượu,nước giải khát
Hà Nội(Habeco) chỉ bán được 4,38 triệu cổ phần đưa ra đấu giá trong đợt IPO
vào cuối tháng 3. Trước đó tì tổng công ty Bia,rượu,nước giải khát Sài
Gòn(Sabeco) cũng thất bại trong đợt IPO khi chỉ bán được 60%lượng cổ phần

chào bán. 2008 là năm phải chứng kiến cảnh sàn chứng khoán vắng tanh, nhà đầu
tư giao dịch nhỏ giọt và giá cổ phiếu đổ dốc mỗi ngày.
*Bước sang quý I năm 2009, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa có
sự khởi sắc mà vẫn tiếp tục hành trình chinh phục những đáy mới. 2010.Liên tiếp
trong những ngày cuối quý III, đầu quý IV năm 2009 là sự trở lại mạnh mẽ không
chỉ của VN-index mà còn là toàn bộ màu xanh bao phủ thị trường chứng khoán.
Chỉ số VN-index tăng lên gần 600 điểm trong khi HASTC-index cũng tăng lên đến
194,99 điểm. trong thời gian này hàng loạt công ty niêm yết đã bán cổ phiếu quỹ
,đó là dấu hiệu của các hoạt động gọi vốn từ chứng khoán.Công ty CP phát triển
nhà Thủ Đức bán hơn 1,25 triệu cổ phiếu quỹ,công ty CP XNK Khánh Hội đăng
ký bán gần 1,4 triệu cổ phiếu,công ty CP Chứng khoán Sài Gòn bán 3 triệu cổ
phiếu và cũng trước đó Sacombank đã bán gần 18,3 triệu cổ phiếu quỹ Tuy hành
động này với mỗi công ty có mục đích khác nhau song cũng đều nhắm tới mục tiêu
gọi thêm vốn cho sản xuất kinh doanh. Đó là tiền đề để các công ty khởi động lại
các dự án đầu tư, phương án phát hành cổ phiếu mới. Giá trị vốn hóa của thị trường
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 20
cổ phiếu tính đến cuối năm 2009 đạt 37,71% GDP.Tổng số vốn huy động qua phát
hành cổ phiếu đã tăng hơn 50% so với 2008,đạt 21.724 tỷ đồng.
Số lượng và qui mô giao dịch phát hành trái phiếu của doanh nghiệp cũng đã
tăng lên đáng kể. Cụ thể: năm 2009, có 39 giao dịch phát hành với tổng khối
lượng vốn huy động đạt gần 30.000 tỉ. Tại thời điểm năm 2007, các doanh nghiệp
nhà nước chiếm tới 76% giá trị phát hành, thì đến năm 2009, tỉ lệ này chỉ ở 28%,
còn lại 72% trái phiếu phát hành là của các công ty cổ phần và công ty
trách nhiệm hữu hạn.
*Năm 2010 qua đi mang nhiều dấu ấn cho nền kinh tế Việt Nam để lại nhiều
mảng sáng, tối đan xen. Trong bối cảnh lãi suất tăng cao với các điều kiện về kỳ
hạn của các ngân hàng đã làm cho việc huy động vốn qua TTCK “rẻ” hơn so với
vay nợ ngân hàng. Bên cạnh nhiều ý kiến cho rằng TTCK đang trong giai đoạn
bất ổn thì việc phát hành thêm cổ phiếu khó khả thi. Tuy nhiên, thực tế cho thấy
rất nhiều công ty đã và đang huy động vốn thành công. Như trường hợp của

CTCP Tập đoàn Hoa Sen(HSG) đã thành công trong việc phát hành 11,9 triệu CP
cho cổ đông chiến lược, thu về số tiền lên tới trên 538,267 tỷ đồng. Trường hợp
một số doanh nghiệp sau khi bị tắc ở kênh cổ phiếu đã tìm đến kênh trái phiếu và
đã có đợt phát hành trái phiếu rất thuận lợi như Hoàng Anh Gia Lai(HAG),tập
đoàn Vincom Họ đã huy động được 75.954 tỷ đồng thông qua kênh này. Công
ty Tasco đã phát hành được gần 500 tỷ đồng cổ phiếu và 200 tỷ đồng trái phiếu
chuyển đổi. Công ty HAG sau khi hoàn tất việc phát hành 1.100 tỷ đồng trái
phiếu chuyển đổi lại tiếp tục chào bán riêng lẻ 530 tỷ đồng trái phiếu,phát hành
19 triệu cổ phiếu cho Deutsche Bank Trust Company America(DB) và Công ty
Chứng khoán Sài Gòn. Dấu ấn lớn nhất của TTCK trong năm qua là lượng vốn
huy động là hơn 116.000 tỷ đồng (gần bằng mức đỉnh điểm 127.000 tỷ đồng năm
2007), tăng gấp 3,5 lần năm so với lượng vốn huy động trong năm 2009 trong đó
lượng vốn huy động bằng phát hành chứng khoán là hơn 83.000 tỷ đồng.
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 21
*Năm 2011 tiếp diễn tình hình kinh doanh khó khăn, chi phí lãi vay cao lên
tới 22-25%/năm làm nhiều doanh nghiệp chỉ khoanh vùng nợ, không vay thêm.
Bên cạnh đó việc Ngân hàng Nhà nước VN áp trần lãi suất 14%/năm khiến việc
huy động vốn từ dân cư của các ngân hàng phải cạnh tranh khốc liệt. Trước tình
hình đó nhiều doanh nghiệp công bố phát hành trái phiếu với mức lãi suất đủ hấp
dẫn để tìm nguồn vốn đang hạn hẹp. Để tăng tính hấp dẫn của cổ phiếu doanh
nghiệp không chỉ nâng lãi suất trái phiếu lên cao mà còn “ khuyến mãi” thêm
quyền chuyển đổi.
Công ty cổ phần chứng khoán ngân hàng NNPTNT VN(ARG) cũng huy động
đến 3000 tỷ đồng qua việc phát hành trái phiếu riêng lẻ có thời hạn 5 năm. Lãi
suất năm đầu cố định,sau đó được thả nổi bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm trả sau
đối với cá nhân kỳ hạn 1 năm bình quân của Sở giao dịch Hà Nội của 4 ngân
hàng: Vietcom,Agri,BIDV và Vietin bank cộng thêm tối đa 5%/năm.
Công ty cổ phần chứng khoán địa ốc Sài Gòn Thương Tín (SCR) phát hành 99
trái phiếu riêng lẻ có giá trị 99 tỷ đồng. Trái phiếu được phát hành vào ngày
6/10/2011, kỳ hạn 18 tháng. Lãi suất trái phiếu thả nổi và có điều chỉnh hàng

tháng. Lãi suất tháng đầu tiên là 17%năm, tháng tiếp theo áp dụng như lãi suất
tiền gửi kỳ hạn 12 tháng của Sacombank lãi cuối kỳ +2,5%. Đây là trái phiếu
không đảm bảo và có thể hoán đổi.
Trước SCR, 2 doanh nghiệp khác hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán cũng
huy động vốn bằng con đường trái phiếu. Cụ thể, SHS sẽ huy động 350 tỷ đồng
thông qua chào bán riêng lẻ trái phiếu có kỳ hạn 1 năm.SHS chia ra 1 đến 3 đợt
phát hành, trong đó đợt 1 với tổng giá trị 250 tỷ đồng, lãi suất 20%/năm và trả lãi
1 lần vào ngày đáo hạn.
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 22
Động thái này của các doanh nghiệp cho chúng ta thấy một dấu hiệu rất rõ
ràng thị trường đang rất khát vốn. Từ đầu năm 2011 cho đến gần cuối tháng 5, tại
HÓE có 15 hồ sơ đề nghị niêm yết. Trong tháng 5 giá cổ phiếu giảm mạnh,các
nhà đầu tư quay lưng với sàn giao dịch, nhưng HOSE vẫn nhận được một số hồ
sơ đăng ký xin niêm yết như công ty CP Nhựa Bảo Vân(24 triệu cổ phiếu),công
ty CP Vận tải sản phẩm khí quốc tế(30 triệu cổ phiếu). Tại SGKCK HN có 11
doanh nghiệp nộp hồ sơ đăng ký niêm yết cổ phiếu.Riêng trong tháng 5 có 4 hồ
sơ đăng ký : công ty CP Kiến trúc Hà Nội(10 tỷ),Tập đoàn Thiên quang(100
tỷ) Điều này cho thấy thị trường chứng khoán là một kênh phân bổ vốn hữu hiệu
cho nền kinh tế và là công cụ quan trọng để doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư.
Tính đến ngày 4/7/2011 huy động vốn qua thị trường chứng khoán đạt gần 6500
tỷ đồng và con số này chỉ bằng xấp xỉ 40% so với năm ngoái. Đến cuối tháng 6
trên cả 3 sàn CK là HOSE,HNX và UPCOM có 312 mã cổ phiếu được giao dịch
dưới mệnh giá.
Như vậy ta thấy rằng thông qua thị trường chứng khoán, các doanh nghiệp
có thể huy động được một nguồn huy động vốn rất dồi dào bằng cách phát hành
chứng khoán ra công chúng. Qua từng năm các doanh nghiệp luôn cố gắng nỗ lực
để đẩy mạnh thu hút nguồn vốn hơn nữa. Điều này góp phần làm gia tăng quy mô
thị trường chứng khoán từng bước đóng vai trò là kênh dẫn vốn trung và dài hạn
quan trọng đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất
nước.

III. Khó khăn trong việc huy động vốn qua thị trường chứng khoán Việt Nam
- Tồn tại lớn nhất là TTCK Việt Nam chưa thực sự là một kênh huy động vốn.
Các doanh nghiệp mới huy động được rất ít vốn thông qua thị trường chứng
khoán. Hoạt động của thị trường sơ cấp còn quá mờ nhạt.Điều đáng quan tâm
nhất là tỷ trọng tích lũy đầu tư vào TTCK còn thấp, tổng giá trị thị trường cổ
phiếu mới chiếm khoảng 8% GDP năm 2005, trong khi đó mức thông lệ quốc tế
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 23
là 30-34% GDP. Bởi vậy, TTCK vẫn chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn
trung và dài hạn cho đầu tư phát triển.
- Số lượng cổ phiếu niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán hay các trái
phiếu và các công cụ phái sinh khác được mua bán trên thị trường OTC còn ít và
hạn chế về số lượng. Chất lương chưa cao, chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư và
phòng ngừa rủi ro của các nhà đầu tư. Các dịch vụ tiện ích cho nhà đầu tư còn
nghèo nàn.
- Các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ và mức độ công khai thông tin
thấp. Các công ty tư nhân Việt Nam mới phát triển trong vòng một thập kỷ qua,
vì vậy hầu hết các công ty tư nhân đều ở một quy mô nhỏ thậm chí rất nhỏ và
thường được quản lí theo kiểu gia đình. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp tư nhân
Việt Nam thường tìm cách duy trì chế độ nhiều sổ sách và không công khai thông
tin. Nguyên nhân của tình hình này không chỉ là do ý định chủ quan, thói quen
của doanh nghiệp mà còn do sự thiếu vắng khung pháp lí và các chuẩn mực công
khai về thông tin, kiểm toán, kế toán của Việt Nam. Các vấn đề này tiếp tục là trở
ngại đối với nhà đầu tư và không khuyến khích được hoạt động huy động vốn
- Thiếu vắng sự tham gia tích cực của những nhà đầu tư tổ chức trên thị trường,
những nhà đầu tư hầu hết là cá nhân mang tính đầu cơ hơn là đầu tư, góp phần
tạo nên tính bất ổn của thị trường. Điều này làm cho các doanh nghiệp ngần ngại
khi quyết định huy động vốn trên thị trường chứng khoán
- Chiến lược phát triển thị trường vốn của Chính Phủ và khuôn khổ pháp lí liên
quan còn nhiều hạn chế và bất cập.
- Hoạt động của thị trường phi chính thức lớn hơn nhiều so với thị trường

chính thức và không được kiểm soát thích đáng.
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 24
- Số lượng các tổ chức kinh doanh và cung cấp dịch vụ cho TTCK tăng quá
nhanh, với năng lực về vốn và chuyên môn hạn chế, tiềm ẩn rủi ro hệ thống và
chưa tương xứng với hiệu quả hoạt động chung của thị trường
- Ngày càng nhiều nhà đầu tư mất niềm tin vào doanh nghiệp. Doanh nghiệp
phát hành cổ phiếu nhưng chưa trả lời được cho cổ đông câu hỏi :”nguồn vốn huy
động sẽ được sử dụng như thế nào?”
- Tốc độ tăng vốn quá nhanh đã dẫn đến việc cổ phiếu bị pha loãng , phá vỡ
cấu trúc vốn,mất cân đối giữa vốn chủ sở hữu và vốn nợ dẫn đến sử dụng vốn
không hiệu quả.
- Tình trạng đầu cơ thái quá và thiếu lành manh khiến chứng khoán không trở
thành kênh huy động vốn cho doanh nghiệp, đẩy gánh nặng huy động vốn cho cả
nền kinh tế lên vai các ngân hàng thương mại.
SV Đào Hoài Phương TCNH A K10 Page 25

×