Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

phân tích tình hình lạm phát ở việt nam năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.25 KB, 21 trang )

Đại Học Hải Phòng
Khoa Kế Toán – Tài Chính
Khóa học 2009 – 2013
Tiểu Luận Lý Thuyết
Tài Chính- Tiền Tệ
Đề tài : Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam
năm 2011

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Ngọc Ánh
Lớp : TCNH D-K10
Hải Phòng , năm 2011
1
Lời mở đầu :
Trong đời sống hàng ngày, lạm phát là một trong những vấn đề của
kinh tế học vĩ mô. Nó đã trở thành mối quan tâm lớn của các nhà chính trị và
công chúng. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên
thế giới và ở Việt Nam, lạm phát nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về vai
trò của nó đối với sự nghiệp phát triển kinh tế. Nghiên cứu lạm phát, kiềm
chế và chống lạm phát được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới. Càng
ngày cùng với sự phát triển đa dạng và phong phú của nền kinh tế, và
nguyên nhân của lạm phát cũng ngày càng phức tạp. Mỗi giai đoạn khi lạm
phát xuất hiện với hình thức và dáng vẻ khác nhau thì lại có nhiều câu hỏi
tranh luận được đặt ra: bản chất của lạm phát là gì? Các hình thức biểu hiện
biểu hiện của nó ra sao? Nó có tác động nghiêm trọng như thế nào đối với
nền kinh tế? Thực trạng về vấn đề lạm phát ở Việt Nam hiện nay đang diễn
biến như nào? Chúng ta cần phải làm gì để điều tiết nền kinh tế và kiềm chế
lạm phát? Lạm phát ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế Việt Nam đặc biệt
trong bối cảnh nước ta đang trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế
hiện nay. Nhất là cho đến thời điểm này giá cả các mặt hàng thiết yếu trong
và ngoài nước diễn ra rất phức tạp. Giá hầu hết các mặt hàng nhập khẩu thiết
yếu như: xăng dầu, sắt thép, chất dẻo, phân bón … đều tăng. Đặc biệt trong


thời gian gần đây khi giá vàng trong ngoài nước, tỷ giá ngoại hối đột ngột
tăng cao . Tình hình đó đòi hỏi nhà nước phải có những quan điểm và giải
pháp cấp vĩ mô cũng như vi mô để kiềm chế cũng như khắc phục lạm phát .
Hy vọng với đề tài “ phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam năm 2011” có
thể phần nào trả lời được các câu hỏi trên .
2
Chương 1:
Những vấn đề chung về lạm phát
1.1 :Khái niệm lạm phát
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá
chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế , lạm phát là sự mất giá trị của
thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế
khác thì lạm phát là sự phá giá đồng tiền của một loại tiền tệ so với các loại
tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát
của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia , còn theo
nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi
thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một
chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô . Một chỉ số lạm phát
bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự “ổn định giá
cả”.
1.2: Phân loại lạm phát
1.2.1 : Về mặt định lượng
- Lạm phát một con số mỗi năm : Đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp
nhận được, với mức lạm phát này , những tác động kém hiệu quả của nó là
không đáng kể.
- Lạm phát hai con số mỗi năm : Khi tỷ lệ tăng , giá đã bắt đầu tăng đến hai
chữ số mỗi năm. Lạm phát trở thành mối đe dọa đến sự ổn định của nền kinh
tế.
- Siêu lạm phát : Nhiều người coi lạm phát ba chữ số là siêu lạm phát vì nó
có tỷ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng rất nhanh. Siêu lạm phát sẽ làm cho

kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng , thu nhập thực tế của người lao động
giảm mạnh.
1.2.2 : Về mặt định tính
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
• Lạm phát cân bằng : tỷ lệ lạm phát tương ứng với thu nhập, không ảnh
hưởng tới đời sống của người lao động.
• Lạm phát không cân bằng : tỷ lệ lạm phát tăng không tương ứng với
thu nhập.
- Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường :
• Lạm phát dự đoán trước : là lạm phát xảy ra trong một thời gian tương
đối dài với tỷ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn , ổn định nên có thể
dự đoán được trước tỷ lệ lạm phát cho những năm sau.
3
• Lạm phát bất thường : lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó
chưa hề xuất hiện. Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền
kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền đương
đại.
1.3 :Nguyên nhân gây lạm phát
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát, trong đó “lạm phát do
cầu kéo” và “ lạm phát do chi phí đẩy” được coi là 2 nguyên nhân chính.
- Lạm phát do cầu kéo : Lạm phát do sự tăng lên về cầu được gọi là “
lạm phát do cầu kéo”, nghĩa là cầu về một hàng hóa hay dịch vụ ngày
càng kéo giá của hàng hóa hay dịch vụ đó lên mức cao hơn. Các nhà
khoa học mô tả tình trạng lạm phát này là “ quá nhiều tiền đuổi theo
quá ít hàng hóa”.
- Lạm phát do chi phí đẩy : Chi phí của các doanh nghiệp bao gồm tiền
lương, giá cả nguyên liệu đầu vào, máy móc, chi phí bảo hiểm cho
công nhân, thuế Khi giá cả của một hoặc một vài yếu tố này tăng lên
thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp cũng tăng lên. Các xí
nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành

sản phẩm . Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.
- Lạm phát do cơ cấu : Các ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền
công danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu
quả, vì thế , không thể không tăng tiền công cho người lao động trong
ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận , ngành kinh doanh
kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh từ đó.
- Lạm phát do cầu thay đổi : Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi
trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường
có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía
dưới ( chỉ có thể tăng mà không thể giảm) , thì mặt hàng mà lượng cầu
giảm vẫn không giảm giá, trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì
lại tăng giá. Kết quả, mức giá chung tăng lên dẫn đến lạm phát.
- Lạm phát do xuất khẩu : Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn
tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng
cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp
hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân
bằng.
- Lạm phát do nhập khẩu : Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng thì giá bán
sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá
chung bị giá nhập khẩu dội lên.
4
- Lạm phát do thâm hụt ngân sách : Khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách nhà
nước của các quốc gia tăng cao, kéo dài thì tiền tệ cũng sẽ tăng nhanh
và lạm phát tăng.
- Lạm phát theo tỷ giá hối đoái : Khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ mất giá,
giá nguyên liệu, hàng hóa nhập khẩu cũng tăng cao, đẩy chi phí về
phía nguyên liệu tăng lên, quay trở về lạm phát phí đẩy như đã phân
tích trên.
1.4 : Tác động của lạm phát
1.4.1 : Lạm phát và lãi suất

Để duy trì và ổn định sự hoạt động của mình , hệ thống ngân hàng
phải luôn luôn cố gắng duy trì tính hiệu quả của cả tài sản nợ và tài sản có
của mình tức là phải giữ cho lãi suất thực ổn định. Có , Lãi suất thực = lãi
suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát . Do đó, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, nếu
muốn cho lãi suất thực ổn định, lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ
lệ lạm phát. Việc tăng lãi suất danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế
phải gánh chịu là suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng.
1.4.2 : Lạm phát và thu nhập thực tế
Nếu thu nhập danh nghĩa không đổi , lạm phát xảy ra sẽ làm giảm thu
nhập thực tế của người lao động . Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực
của những tài sản không có lãi mà nó còn làm hao mòn giá trị của những tài
sản có lãi , tức là làm giảm thu nhập thực từ các khoản lãi , các khoản lợi
tức. Điều đó xảy ra là do chính sách thuế của nhà nước được tính trên cơ sở
của thu nhập danh nghĩa . Khi lạm phát tăng, những người đi vay tăng lãi
suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm phát tăng , làm cho số tiền thuế thu nhập
mà người có tiền cho vay phải nộp tăng cao ( thuế suất không tăng ). Kết quả
cuối cùng là thu nhập ròng ( thu nhập sau thuế ), thực ( sau khi đã loại trừ tác
động của lạm phát ) mà người cho vay nhận được suy giảm đi .
1.4.3 : Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng
Trong quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay , khi lạm
phát tăng cao, người cho vay sẽ là người chịu thiệt và người đi vay sẽ là
người được lợi . Điều này tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng
giữa người đi vay và người cho vay . Hơn thế nữa , nó còn thúc đẩy những
người kinh doanh tăng cường thu hút tiền vay để đầu cơ kiếm lợi . Cuối
cùng , những người nghèo càng nghèo hơn , những người giàu càng giàu
lên . Tạo ra khoảng cách lớn về thu nhập , về mức sống giữa người giàu và
người nghèo .
1.4.4 : Lạm phát và nợ quốc qia
5
Lạm phát cao làm cho Chính phủ được hưởng lợi do thuế thu nhập

đánh vào người dân , nhưng những khoản nợ nước ngoài sẽ trở nên trầm
trọng hơn . Chính phủ được lợi trong nước nhưng sẽ bị thiệt với nợ nước
ngoài . Vì lạm phát làm tỷ giá tăng cao và đồng tiền trong nước trở nên mất
giá nhanh hơn so với đồng tiền nước ngoài tính trên các khoản nợ .
1.5 : Ảnh hưởng của lạm phát
- Ảnh hưởng tích cực : Nếu lạm phát ( tỷ lệ tăng giá mang giá trị dương )
vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế . Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí
thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi . Điều
này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất . Việc làm được tạo
thêm . Tỷ lệ thất nghiệp giảm .
- Ảnh hưởng tiêu cực : Hậu quả của lạm phát rất nặng nề và nghiêm trọng.
Lạm phát gây ra hậu quả đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước.
Lạm phát làm cho việc phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập trong nền
kinh tế qua giá cả đều khiến quá trình phân hóa giàu nghèo nghiêm trọng
hơn. Lạm phát làm cho một nhóm này nhiều lợi nhuận trong khi nhóm khác
bị thiệt hại nặng nề. Nhưng suy cho cùng, gánh nặng của lạm phát lại đè lên
vai của người lao động, chính người lao động là người gánh chịu mọi hậu
quả của lạm phát.
1.6 : Biện pháp khắc phục lạm phát
1.6.1 : Những biện pháp tình thế
Những biện pháp này được áp dụng với mục tiêu giảm tức thời “ cơn
sốt lạm phát” , trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài.
Được áp dụng khi nền kinh tế lâm vào tình trạng siêu lạm phát .
- Thứ nhất : Chính sách đóng băng tiền tệ tức là giảm lượng tiền giấy trong
nền kinh tế như ngừng phát hành tiền vào lưu thông .
- Thứ hai : thi hành “ chính sách tài chính thắt chặt” như tạm hoãn những
khoản chi chưa cần thiết trong nền kinh tế , cân đối lại ngân sách và cắt giảm
chi tiêu đến mức có thể được .
- Thứ ba : Tăng quỹ hàng hóa tiêu dùng để cân đối với số tiền có trong lưu
thông bằng cách khuyến khích tự do mậu dịch , giảm thuế và các biện pháp

cần thiết khác để thu hút hàng hóa từ nước ngoài vào .
- Thư tư : Đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài .
- Thứ năm : Cải cách tiền tệ
1.6.2 : Những biện pháp chiến lược
Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền
kinh tế quốc dân . Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế
lâu dài cho đất nước , làm cơ sở cho sự ổn định tiền tệ một cách bền vững .
6
- Thứ nhất : Thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa và mở rộng lưu thông
hàng hóa. Đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để hạn chế lạm phát , duy
trì sự ổn định tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân .
- Thứ hai : Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành
chính. Biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu thường
xuyên của ngân sách nhà nước, trên cơ sở đó giảm bội chi ngân sách nhà
nước .
- Thứ ba : Tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách nhà nước trên
cơ sở tăng các khoản thu cho ngân sách nhà nước một cách hợp
lý ,chống thất thu , đặc biệt là thất thu về thuế , nâng cao hiệu quả của
các khoản chi ngân sách nhà nước .
Chương 2 :
Thực trạng về tình hình lạm phát ở Việt Nam năm
2011.
2.1 :Tình hình kinh tế ở Việt Nam và thế giới trong những năm gần đây.
2.1.1 : Tình hình chung về kinh tế thế giới .
Kinh tế thế giới những tháng đầu năm 2011 đã phục hồi chậm lại do
những khó khăn từ các đầu tàu kinh tế . Bước sang năm 2011, tuy ảnh hưởng
khủng hoảng kinh tế đã tạm lắng nhưng vẫn còn tiểm ẩn nhiều biến động,
điển hình là khủng hoảng nợ công của Hi Lạp, các nước Châu Âu như Tây
Ban Nha, Ý và Bồ Đào Nha cũng đang đứng trước nguy cơ tương tự và bong
bóng tài sản ở Trung Quốc. Hiện nay , lạm phát đang trở thành mối lo hàng

đầu của tất cả các quốc gia, khi mà chỉ số chung của các loại hàng hóa
nguyên liệu thô đã tăng 8% chỉ trong vài tháng do ảnh hưởng từ các chương
trình nới lỏng tiền tệ của nhiều nền kinh tế lớn trong năm 2010 và tình hình
bất ổn chính trị tại Bắc Phi, Trung Ðông. Nhiều nước ở châu Á có mức lạm
phát cao nhất trong nhiều năm qua, như Trung Quốc 5%, Ấn Ðộ 8,2%, Hàn
Quốc 4,7% Giá các mặt hàng chiến lược tăng mạnh đang đe dọa đến an
ninh năng lượng và an ninh lương thực của các quốc gia. Giá dầu thô lên
mức cao nhất trong hai năm rưỡi (113 USD/thùng ngày 8-4-2011, tăng gần
30% so với cùng kỳ năm trước), giá vàng đạt mức cao nhất trong lịch sử
(1,473 USD/ao-xơ ngày 8-4-2011), giá bạc cũng tăng lên mức cao nhất trong
vòng 31 năm qua. Ðặc biệt, giá lương thực, thực phẩm tăng cao (tăng gần
30% so với giữa năm 2010, trong đó giá ngũ cốc tăng hơn 40%) dẫn đến
nguy cơ khủng hoảng lương thực thế giới. Khủng hoảng nợ công vẫn tiếp
7
tục phủ bóng đen lên khu vực châu Âu. Mỹ và Nhật phải đối mặt với việc nợ
công lên tới mức kỷ lục. Thị trường tài chính tiền tệ quốc tế vẫn biến động
phức tạp, thị trường chứng khoán thế giới bị tác động mạnh trước những
biến cố chính trị và thiên tai. Các luồng vốn đầu tư, thương mại toàn cầu bị
xáo trộn, khiến ngay cả Trung Quốc cũng phải chịu thâm hụt thương mại
cao nhất trong bảy năm qua (lên 7,3 tỷ USD tháng 2-2011). Đặc biệt thiên
tai tại Nhật Bản đang khiến cho hệ thống sản xuất toàn cầu của một số mặt
hàng điện tử, công nghệ cao chịu ảnh hưởng nặng nề .Những khó khăn về
kinh tế đang gây ra bức xúc trong xã hội, từ đó phát sinh những tiêu cực khó
lường tới tình hình chính trị của một số quốc gia. Biểu tình đã bùng phát
nhanh chóng và gây ra những bất ổn chính trị nghiêm trọng tại khu vực
Trung Ðông, Bắc Phi và trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay nó
đã lan tỏa rất nhanh, ảnh hưởng tới tình hình khu vực và bầu không khí
chính trị quốc tế. Chúng ta thấy kinh tế thế giới đang đứng trước nhiều khó
khăn hơn là thuận lợi . Người dân đang dần mất lòng tin vào các chính sách
của Chính phủ . Vì vậy, các chính sách hợp lí cùng các biện pháp đúng đắn

để đưa nền kinh tế thế giới đi lên là vô cùng quan trọng.
2.1.2 : Tình hình kinh tế Việt Nam năm 2011.
Tại cuộc họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 10 dưới sự chủ trì của
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam. Bộ trưởng
khẳng định, Chính phủ thống nhất đánh giá tình hình kinh tế - xã hội tháng
10 và 10 tháng năm 2011 tiếp tục có những chuyển biến tích cực với những
kết quả rõ nét.
Cụ thể, chỉ số CPI tháng 10/2011 tăng 0,36%, đây là mức tăng thấp
nhất kể từ đầu năm và là tháng thứ 3 liên tiếp mức tăng giá dưới 1%. Xuất
khẩu tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước và so với
kế hoạch đã đề ra. 10 tháng ước đạt trên 78 tỷ USD, tăng 34,6% so với cùng
kỳ. Nhập siêu tháng 10 giảm mạnh, bằng 9,6% kim ngạch xuất khẩu; nhập
siêu 10 tháng đầu năm 2011 xấp xỉ 10,8% thấp hơn nhiều so với mức phấn
đấu đề ra.Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 10 tháng năm 2011 ước
đạt 9,1 tỷ USD, tăng 1% so với cùng kỳ năm 2010 tuy một số dự án và số
vốn đăng ký mới thấp hơn cùng kỳ. Thu ngân sách 10 tháng ước đạt 530
nghìn tỷ, bằng 89,1% dự toán năm; chi ngân sách bằng 79,2%.
Tuy nhiên bên cạnh các kết quả tích cực đạt được, còn không ít các
khó khăn, thách thức, Chỉ số giá tiêu dùng CPI tuy đã giảm dần nhưng sức
ép về lạm phát và tỷ giá còn rất lớn, lãi suất còn cao. Sản xuất kinh doanh
đang gặp nhiều khó khăn, do thiếu vốn và hàng tồn kho lớn. Bên cạnh đó thì
thiên tai, dịch bệnh gây nhiều thiệt hại, khó khăn cho sản xuất và đời sống
người dân.
8
Nguyên nhân của tình hình trên: Về khách quan, do tác động tiêu cực
của tình hình kinh tế thế giới; về chủ quan là do những hạn chế, yếu kém
vốn có của nền kinh tế, mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế chậm được
khắc phục, bị tích tụ nặng nề hơn trong những năm phải đối phó với tình
trạng suy giảm kinh tế và do một số hạn chế trong quản lý, điều hành của
các cấp. Đây cũng chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng lạm phát

trong nhiều năm qua, nước ta luôn phải đối mặt với tình trạng lạm phát cao
và kinh tế vĩ mô không vững chắc, gay gắt hơn các nước trong khu vực. Vì
vậy, tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã
hội là mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hiện nay.
2.2 : Thực trạng tình hình lạm phát ở Việt Nam năm 2011.
Trước hết chúng ta có thể thấy rằng lạm phát tại Việt Nam trong năm
2011 chỉ là hậu quả từ những bất ổn nội tại nền kinh tế trong những năm
qua, đặc biệt trong giai đoạn 2007 – 2010 và là hệ quả tất yếu của việc mất
cân đối trong nền kinh tế vĩ mô.
2.2.1: Thực trạng lạm phát của Việt Nam năm 2011.
Năm 2011, sức ép lạm phát tiếp tục kéo dài .
Những động thái như : sức ép từ cung tiền tệ giảm dần do chính sách
tài chính – tiền tệ thắt chặt, nhất là việc hạn chế mức tăng trưởng tín dụng
dưới 20% và việc giảm cho vay đầu tư phi sản xuất , tiêu dùng, đặc biệt cho
vay kinh doanh chứng khoán, bất động sản, cùng với hạn chế đầu tư công,
giảm thâm hụt ngân sách, mua sắm trang, thiết bị, chi tiêu công khác, trong
khi tăng cường kiểm soát, giảm thiểu tình trạng buôn bán vàng miếng, ngoại
tệ không có giấy phép… đang và sẽ góp phần giảm dần tổng cầu trong xã
hội và sức ép liên quan đến tiền tệ trong thời gian tới ở nước ta.
Tuy nhiên, sức ép lạm phát do chi phí đẩy lại tăng nhanh bởi gia tăng
chi phí đầu vào của nhiều hoạt động sản xuất - kinh doanh và dịch vụ tiêu
dùng từ các đợt điều chỉnh tăng giá xăng, dầu, điện diễn ra liên tiếp trong
tháng 3-2011; từ sự tăng chi phí vốn gắn với cuộc đua lãi suất huy động, cho
vay và việc điều chỉnh lương tối thiểu cho công nhân viên chức ở khu vực
hành chính, sự nghiệp, các đối tượng hưởng lương từ ngân sách
Như vậy, sức ép lạm phát cao có khả năng vẫn duy trì trong thời gian
tới do: Xu hướng tăng lạm phát chung của thế giới (lạm phát ngoại nhập);
Sự để ngỏ khả năng điều chỉnh tăng giá xăng, dầu, điện, một số mặt hàng
đầu vào và độc quyền khác theo động thái giá thị trường (lạm phát do chi phí
đẩy); Sự không ổn định của thời tiết, sâu bệnh mùa màng; Những bất cập

trong cơ cấu kinh tế, phối hợp thực hiện chính sách, kể cả có những yếu tố
quản lý, tâm lý, đầu cơ thị trường
9
Tính chung, mức lạm phát cuối năm so cùng kỳ năm trước sẽ có nhiều
khả năng đạt tới trên 15%, tức cao hơn khoảng ¼ mức tương ứng năm 2010
và cao gấp đôi mức kế hoạch đặt ra đầu năm. Đồng thời, mức tăng trưởng
GDP cả năm 2011 có thể sẽ thấp hơn năm ngoái do thu hẹp nguồn đầu tư
công (theo tinh thần Nghị quyết số 11 của Chính phủ) và dòng vốn đầu tư xã
hội (bởi lãi suất tín dụng cao) làm hạn chế động lực tăng trưởng .
Lạm phát các tháng đầu năm 2011 có các nguyên nhân chủ yếu như
sau :
- Thứ nhất doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu tăng giá 2 lần (ngày 24/2
và ngày 29/3), mỗi lít xăng tăng khoảng 30%, dầu tăng khoảng 38%
đã tác động trực tiếp tăng chỉ số giá nhóm giao thông vận tải và gián
tiếp nhiều vòng đến hoạt động sản xuất của các lĩnh vực khác.
- Thứ hai là giá điện cho sản xuất và sinh hoạt cũng được điều chỉnh
tăng khoảng 15,3% áp dụng từ 1/3.
- Thứ ba là ảnh hưởng của tỷ giá giữa VND và USD, đồng Việt Nam
mất giá mạnh trong 3 tháng đầu năm đã làm tăng giá nguyên, nhiên
vật liệu nhập khẩu (trong điều kiện nước ta còn phụ thuộc quá nhiều
vào nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu từ nước ngoài để sản xuất hàng
xuất khẩu và tiêu dùng trong nước). Đây là nguyên nhân chúng ta bị
tăng giá kép từ giá thế giới và thay đổi tỷ giá .
- Thứ tư là ảnh hưởng từ những tháng cuối năm 2010 chi đầu tư từ ngân
sách và của các doanh nghiệp tăng khá nhanh làm cho lượng tiền
trong lưu thông lớn.
- Thứ năm là yếu tố tâm lý (cả người tiêu dùng và người bán lẻ) từ việc
nhà nước điều chỉnh tăng tiền lương tối thiểu cho khu vực doanh
nghiệp nhà nước và khu vực hành chính sự nghiệp từ 1/1 và 1/5/2011.
2.2.2 : Một số nguyên nhân gây lạm phát năm 2011.

Chỉ trong quý một năm 2011, lạm phát ở Việt Nam đã lên tới 6,1%.
Thực trạng này đã khiến mục tiêu kìm chân lạm phát ở mức 7% của Quốc
hội trở thành một nhiệm vụ bất khả thi trong năm nay. Ở Việt Nam, song
hành với tăng trưởng nóng là lạm phát cao. Trong năm 2010, tỷ lệ lạm phát
của Việt Nam đã vượt ngưỡng 10%. Và sang năm 2011, tình hình không có
dấu hiệu khả quan hơn . Một số nguyên nhân chính gây ra lạm phát ở Việt
Nam trong thời gian qua là :
- Thứ nhất : sự kém hiệu quả của hoạt động đầu tư công .Theo thống kê
mỗi năm Việt Nam đầu tư công khoảng 17-20% GDP, trong khi các nước trong khu vực
chỉ dưới 5% như Trung Quốc 3,5%, Indonesia 1,6%. Báo cáo mới nhất của Ủy ban
Tài chính Ngân sách Quốc hội khi thẩm tra tình hình thu chi ngân sách nhà
nước (NSNN) năm 2010 đã “đề nghị xem xét lại đầu tư công những năm qua
có xu hướng tăng cao và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn so với tổng đầu tư
10
toàn xã hội”. Năm 2007 chiếm 37,2%, năm 2008 chiếm 33,9%. Năm 2009
chiếm 40,6% và năm 2010 chiếm 46,2%. Tỷ lệ ngân sách chi cho các dự án
đầu tư công dường như tỷ lệ nghịch với hiệu quả của các dự án trên. Việc
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản như đường xá, cầu cống, sân bay, hải
cảng… là rất cần thiết để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên,
một thực trạng đáng buồn ở Việt Nam hiện nay đó là các dự án đầu tư công
đang dàn trải, không có định hướng quy hoạch cụ thể. Các dự án đòi hỏi đầu
tư với lượng vốn lớn nhưng hiệu suất sử dụng thu về thì không nhiều, hiệu
quả kém , điển hình như hoạt động thua lỗ của Vinashin, công ty cho thuê tài chính
VFII. Điều này tạo ra một sự mất cân đối trong nền kinh tế, khiến thâm hụt
ngân sách của nước ta hàng năm tăng cao trong khi đó bộ mặt của nền kinh
tế không có dấu hiệu cải thiện rõ rệt.
- Thứ hai : dẫn tới tình trạng lạm phát là tâm lí người tiêu dùng VN
hay đúng hơn là lòng tin vào VN đồng của chính những người Việt. Điều
này là một hệ lụy tất yếu của sự bất ổn tiềm tàng trong Việt Nam đồng. Từ
khi ra đời đến nay, VN đồng liên tục mất giá so với vàng và đô la. Sức mua

của VN đồng giảm sút nhanh càng khiến cho người dân hướng tới vàng và
đô la như một phương tiện cất trữ tài sản. Tâm lý tích trữ vàng và đô la của
một bộ phận lớn dân cư đã góp phần đẩy giá vàng và đô la lên cao, đồng thời
ngày càng làm mất giá trị của VN đồng. Vòng luẩn quẩn ấy đã khiến cho
tình hình lạm phát ở Việt Nam diễn biến ngày càng phức tạp. Chỉ trong 3
tháng đầu năm 2011, Việt Nam đồng đã mất giá 8.5%. Đặc biệt, ngân hàng
Nhà nước Việt Nam quyết định phá giá thêm tiền đồng, một đôla nay đổi
được 20.900 VND, theo tỷ giá hối đoái chính thức trong khi giá chợ đen lên
tới khoảng 21.500 VND. Và giá vàng thì liên tiếp lên cao đột biến .
- Thứ ba : Sự tăng giá một số mặt hàng thiết yếu đã đẩy tình hình lạm
phát ở Việt Nam đi xa hơn . Mở màn cho việc tăng giá đó là ngày
24/02/2011, giá xăng trên thị trường nội địa Việt Nam tăng lên mức 19300
đồng/lít_ mức tăng mạnh nhất từ trước tới nay. Thực sự, việc tăng giá xăng
lần này chịu ảnh hưởng đáng kể của sự bất ổn trên thị trường thế giới. Đầu
tiên, nền kinh tế Mĩ phục hồi chậm chạp sau khủng hoảng, đồng đô la vẫn
chưa tìm lại được vị thế vốn có của nó. Do đó, việc đô la mất giá cũng là
nguyên nhân đẩy giá dầu thế giới lên cao. Và một vấn đề còn nghiêm trọng
hơn đó chính là bất ổn chính trị tại quốc gia Bắc Phi_Libya. Xung đột vũ
trang rồi biến thành một cuộc chiến tranh thực sự tại một trong những quốc
gia xuất khẩu dầu mỏ nhiều nhất thế giới đã dẫn đến tình trạng một lượng
lớn dầu bị tồn đọng. Chính sự kết hợp của hai nguyên nhân trên đã đẩy giá
dầu trên các sàn giao dịch vượt ngưỡng 100$/ thùng. Sau cú huých tăng giá
xăng thì thị trường Việt Nam còn phải chịu thêm gánh nặng của việc ngành
điện quyết định tăng giá trong tháng 3/2011. Theo đánh giá của giới chuyên
11
môn lần tăng giá này là cần thiết và hợp lí vì lâu nay ngành điện luôn phải
bù lỗ để có một mức giá ưu đãi cho nhân dân. Tuy nhiên, trong tình trạng giá
cả leo thang, các công trình thủy điện đang xây dựng dang dở cần huy động
thêm vốn thì việc tiếp tục bù lỗ trở thành điều không thể đối với ngành điện.
Với việc hai nguồn nguyên liệu chủ yếu của xã hội là xăng và điện cùng

tăng giá thì việc các loại hàng hóa trong xã hội cũng dần dần tăng giá theo là
một điều khó tránh khỏi. Điều này có thể khiến kinh tế Việt Nam chìm sâu
hơn vào vòng xoáy lạm phát.
- Thứ tư : Tình trạng thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại diễn
ra trong thời gian dài . Trong giai đoạn 2005 – 2010 liên tục gia tăng từ mức
7,1 nghìn tỷ 2005 lên mức 115.900 tỷ đồng năm 2009 và mức 69 nghìn tỷ
năm 2010; nhập siêu cũng gia tăng mạnh từ mức 4,3 ỷ USD lên mức 12,2 tỷ
USD năm 2009 và ước xấp xỉ 12,4 tỷ USD năm 2010. Mới đây nhất, Bộ
Công thương cho biết nhập siêu trong 5 tháng đầu năm 2011 đã lên đến 6,4
tỷ USD. Tình trạng này nếu tiếp tục kéo dài gây khó khăn cho việc hoạch
định triển khai chính sách tỷ giá, nỗ lực giảm thâm hụt ngân sách của Chính
phủ và quá trình tăng trưởng bền vững của nền kinh tế.
2.3 : Tác động, ảnh hưởng của lạm phát năm 2011.
Lạm phát tác động tới rất nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế , sau đây
chúng ta sẽ xem xét một số ảnh hưởng của lạm phát.
- Lạm phát ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh năm 2011 của các doanh
nghiệp:
Điều tra của Hiệp hội doanh nghiệp châu Âu cho thấy chỉ số lạc quan
kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên ở Việt Nam trong quý I/2011
đã giảm đáng kể. Năm 2011 là một năm khó khăn với kinh tế Việt Nam.
Tăng trưởng của 6 tháng đầu năm 5,6%, thấp hơn mức 6,16% cùng kỳ năm
ngoái, lạm phát lên tới 13% do tác động của giá thế giới, tỷ giá và giá một số
đầu vào quan trọng. Trong khi đó xuất khẩu tăng, nhất là nông sản nhưng
thâm hụt thương mại lên 7,5 tỷ USD. áp lực của lạm phát đè nặng lên tất cả
các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ … đẩy nhiều doanh nghiệp rơi vào tình cảnh
tồn tại một cách cầm cự, hoặc thực chất “khoảng 30% doanh nghiệp Việt
Nam đóng cửa được rồi”. Trước áp lực lạm phát, các doanh nghiệp gặp khó
khăn toàn diện trên mọi mặt như áp lực về giá cả nguyên liệu, tiếp cận
nguồn vốn khi nhà nước sắt chặt tiền tệ, sức mua của người dân giảm…Đặc
biệt, theo Bà Đinh Thị Mỹ Loan, Tổng thư ký Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt

Nam cho biết hoạt động bán lẻ đang ở thời kỳ được gọi là “u ám” vì ảnh
hưởng của lạm phát. Với tình trạng leo thang của giá nguyên liệu, chi phí
sản xuất, vận chuyển, giá hoàng hóa… mức tăng trưởng thực chất của của
doanh nghiệp phân phối, bán lẻ thấp chưa từng có (7,6%). Bà Loan dự báo,
12
tình hình kinh doanh những tháng còn lại của năm sẽ còn đối mặt với khó
khăn nhiều hơn hơn. Mức tăng trưởng của hoạt động bán lẻ dự báo có thể
xuống tới 6%.
- Lạm phát ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán :
Tình hình lạm phát ở nước ta được thể hiện rất rõ qua diễn biến ảm
đạm của thị trường chứng khoán Việt Nam trong 06 tháng đầu năm 2011,
chỉ số Vnindex đã có lúc giảm xuống mức 371 điểm ngày 26/5/2011và
Hnindex cũng đã thiết lập mức đáy mới trong lịch sử của mình với 69 điểm
ngày 25/5/2011.Chỉ số P/E toàn thị trường chỉ còn khoảng 8.5, mức khá thấp so với
các thị trường chứng khoán các nước trên thế giới .
Nhà đầu tư trong nước gần như mất hết niềm tin vào thị trường, một
bộ phận tỏ ra bức xúc trước cách hành xử của những người có trách nhiệm
khi không có một động thái đáng kể nào giúp hỗ trợ nhà đầu tư và nâng cao
tính thanh khoản của thị trường như cho phép thanh toán T+2, miễn thuế thu
nhập chứng khoán Nhà đầu tư nước ngoài vẫn liên tục mua ròng tuy nhiên
giá trị mua ròng đã giảm khoảng một nửa so với cùng kỳ năm 2010 đạt mức
3,620 tỷ đồng, tập trung vào các mã truyền thống như VNM, CTG, DPM,
VCB, PVD, HAG trên sàn Hose và PVS, VCG, PVX… trên sàn Hax.
- Lạm phát ảnh hưởng tới lãi suất :
Khi lạm phát tăng thì mức lãi suất huy động trên thị trường sẽ tăng
theo để khuyến khích người dân tăng gửi tiền vào ngân hàng. Đều này sẽ
đẩy lãi suất cho vay lên mức cao, khiến cho các doanh nghiệp khó tiếp cận
vốn vay hoặc có thể khiến cho vốn ngân hàng không chảy vào lĩnh vực sản
xuất mà thay vào đó chảy vào kênh đầu tư chứng khoán, bất động sản hay
luẩn quẩn trong chính hệ thống giữa các ngân hàng. Ngày 8/3/2011, Ngân

hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành quyết định 379 để điều chỉnh tăng hầu
hết các mức lãi suất trên thị trường lên mức 12%/năm, trừ mức lãi suất cơ
bản vẫn giữ nguyên 9%. Lãi suất tái chiết khấu có mức tăng mạnh nhất, từ
7% lên 12%. Nếu kéo được lạm phát xuống, chẳng hạn 6%/năm, thì lãi suất
huy động có thể ở mức 7-7,5%/năm và lãi suất cho vay cỡ 9-10%/năm, chứ
không phải ở mức cao như hiện nay. Như vậy, với tình hình lãi suất tiếp tục
giữ ở mức cao như hiện nay thì khả năng tỷ giá VND/USD sẽ sớm giảm về
trong biên độ tỷ giá của NHNN.
- Lạm phát ảnh hưởng tới thu nhập người lao động .
Lạm phát cao (nhưng tiền lương và thu nhập bằng tiền khác của người
lao động không tăng lên tương ứng) đã làm cho thu nhập thực tế của họ
giảm xuống. Ví dụ, trong hai năm qua, lạm phát đã làm cho thu nhập thực tế
của người lao động mất hơn 20%; từ đó, đời sống của đa số dân cư đã trở
nên khó khăn hơn nhiều so với trước đây. Trong lần tăng gần đây nhất
(tháng 5/2011), lương tối thiểu được nâng từ mức 730 nghìn đồng lên mức
13
830 nghìn đồng, tăng 84.44% so với mức của năm 2006. Trong cùng thời
gian đó, lạm phát đo bằng CPI tăng 97.5% (so CPI của tháng 9/2011 với
tháng 1/2006). Nói cách khác, lương tối thiểu thực tế (sau khi đã điều chỉnh
mức trượt giá) tại thời điểm hiện nay thấp hơn so với hồi đầu năm 2006, chỉ
bằng 96.6%. Chính vì thế những người sống bằng lương tối thiểu hoặc có
thu nhập tính cố định theo lương tối thiểu hiện nay có cuộc sống tồi tệ hơn
hồi 6 năm trước.Trong cùng thời kỳ, GDP (đã hiệu chỉnh theo lạm phát),
tăng khoảng 35.4%, tức là trung bình mỗi năm tăng khoảng 5.9%. Với mức
tăng dân số giảm dần, GDP bình quân theo đầu người trong giai đoạn này
tăng khoảng 13.3%, tức là trung bình tăng khoảng 2.21% mỗi năm. Như vậy,
trong khi thu nhập bình quân đầu người thực tế của Việt Nam tăng 13.3%
trong 6 năm từ 2006 tới 2011 thì thu nhập thực tế tính theo lương tối thiểu
lại giảm 3.4%. Điều này cho thấy khoảng cách giàu nghèo trong xã hội đang
ngày càng lớn dần. Trong khi những người trong các nhóm thu nhập cao hơn

của xã hội ngày càng giàu lên thì những người có thu nhập thấp trong xã hội
cần được nhà nước bảo vệ qua chính sách lương tối thiểu lại ngày càng
nghèo đi.
2.4 : Tổng Kết
Hiện nay Việt Nam ở vào tình trạng tứ bề thọ địch về phương diện
kinh tế. Những nhà hoạch định kinh tế phải đương đầu với các mục tiêu
khác nhau mà những biện pháp áp dụng sẽ tạo ra những ảnh hưởng trái
ngược nhau: giảm lạm phát, duy trì phát triển, giảm đầu tư công, duy trì khu
vực DNNN, thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu, cân bằng ngân sách và cán cân
thương mại. Qua những chỉ thị về ngừng, đình hoãn, giãn tiến độ thực hiện
một số dự án đầu tư của nhà nước cho 2011, Nghị quyết 11 cho thấy nhà
nước đã không tiên đoán được tình trạng lạm phát nói riêng và kinh tế vĩ mô
khó khăn nói chung hiện nay.
Chương 3:
Các giải pháp khắc phục tình hình lạm phát ở Việt Nam năm
2011.
3.1: Định hướng
Chúng ta thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2011 trong
bối cảnh kinh tế thế giới được dự báo tăng trưởng chậm hơn, giá cả hàng hóa
tăng cao hơn năm 2010, khủng hoảng nợ công trong khu vực đồng Euro có
nguy cơ lan rộng, đồng USD - đồng tiền chủ yếu trong thanh toán quốc tế bị
giảm giá, giá vàng tăng, làm thay đổi các kênh đầu tư, gây biến động lớn thị
trường tài chính quốc tế. Nói như vậy có nghĩa là việc thực hiện các biện
14
pháp ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát sẽ trở thành một trong những
chính sách lớn trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta.
Trên cơ sở tình hình thực tiễn và dự báo xu hướng biến động kinh tế
trong nước và thế giới , định hướng chỉ đạo điều hành một số chỉ tiêu cơ bản
của cả năm 2011 như sau :
- Sáu tháng đầu năm, tốc độ tăng trưởng đạt mức 5,57%, thấp hơn chỉ tiêu

tốc độ tăng trưởng năm 2011 đã được Quốc hội thông qua là 7-7,5%. Cần
tiếp tục nỗ lực phấn đấu để tốc độ tăng trưởng cả năm đạt mức hợp lý
khoảng 6%, bảo đảm nguồn lực cần thiết thực hiện các mục tiêu về an sinh
xã hội và giải quyết việc làm, đồng thời tạo điều kiện và tiền đề phấn đấu
năm 2012 tốc độ tăng trưởng đạt khoảng 6,5%, các năm tiếp theo ở mức cao
hơn.
- Từ thực tế biến động giá 6 tháng đầu năm và xu hướng giá thế giới, cần
kiên trì, quyết liệt trong chỉ đạo điều hành và thực hiện các giải pháp kiềm
chế, giảm dần lạm phát để CPI năm 2011 tăng ở mức 15-17%, phấn đấu để
năm 2012 và các năm tiếp theo lạm phát ở mức thấp hơn , trở về mức một
con số và thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- Kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng cả năm 2011 dưới 20%, tổng
phương tiện thanh toán tăng khoảng 15-16%; kiểm soát nhập siêu cả năm
không quá 15-16% kim ngạch xuất khẩu; giảm bội chi ngân sách xuống dưới
5% GDP nhằm từng bước lành mạnh hoá tài chính quốc gia, tạo nền tảng
cần thiết cho kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Mục tiêu của Chính phủ trong năm 2011 là kiềm chế bằng được lạm
phát ở mức 18% và kéo xuống dưới 10% trong các năm tiếp theo để đến
năm 2015 kiềm chế lạm phát ở mức khoảng 5%.
3.2 : Các giải pháp cụ thể .
3.2.1: Về chính sách tiền tệ:
Tiếp tục thực hiện điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng;
điều hành tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý theo quý, tháng phù hợp với
diễn biến thị trường, đặc biệt là vào các thời điểm mùa vụ sản xuất, kinh
doanh khi nhu cầu vốn tăng cao. Sử dụng linh hoạt, hiệu quả các công cụ
của chính sách tiền tệ để giảm sức ép lạm phát, giảm lãi suất xuống mức phù
hợp nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh, bảo đảm thanh khoản của hệ thống tín
dụng, ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nợ xấu và chất lượng tín
dụng của các tổ chức tín dụng; kiểm soát để tỷ lệ và mức cho vay tín dụng

vào lĩnh vực phi sản xuất, bất động sản, chứng khoán giảm so với hiện nay;
tập trung vốn cho vay lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, nông nghiệp, nông thôn,
sản xuất những sản phẩm thiết yếu với đời sống nhân dân, doanh nghiệp nhỏ
15
và vừa, công nghiệp hỗ trợ. Thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ các quy định về
bảo đảm an toàn tài chính của các tổ chức tín dụng, quỹ đầu tư, công ty tài
chính; xác định tiêu chí và thực hiện phân loại các tổ chức tín dụng để có
biện pháp giám sát và xử lý kịp thời.
Thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt, hợp lý để bình ổn thị trường và
tăng dự trữ ngoại hối; tăng cường kiểm tra, giám sát việc tuân thủ quy định
về thu đổi ngoại tệ, kinh doanh vàng. Kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị
đồng tiền là mục tiêu trung và dài hạn của chính sách tiền tệ, tạo tiền đề cho
việc kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô.
3.2.2 : Về chính sách tài khoá
Thực hiện nhất quán chính sách tài khóa thắt chặt, phối hợp hài hoà
với việc thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng nhằm giảm tổng
cầu, giảm sức ép lạm phát năm 2011 và năm 2012. Tập trung thực hiện các
giải pháp tăng thu, phấn đấu vượt 7 - 8% dự toán thu năm 2011; tiết kiệm
chi để giảm bội chi ngân sách thấp hơn mức Quốc hội quyết định; tiếp tục rà
soát, cắt giảm vốn đầu tư của Nhà nước vào những công trình, dự án không
hiệu quả, chưa thật sự cần thiết, tiến độ chậm, kéo dài, tập trung vốn cho các
công trình sắp hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm 2011, công trình an
sinh xã hội, giảm nghèo, phòng tránh thiên tai; kiểm soát chặt chẽ đầu tư của
doanh nghiệp nhà nước.
Quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn dự phòng ngân sách, nguồn tăng
thu năm 2011 và nguồn tiết kiệm chi thường xuyên năm 2011; ưu tiên dùng
các nguồn này cho phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh,
thực hiện chính sách an sinh xã hội. Các Bộ, ngành và địa phương chủ động
sắp xếp, bố trí trong phạm vi dự toán được giao để xử lý các nhiệm vụ đột
xuất phát sinh trong năm. Tăng cường quản lý, giám sát nợ nước ngoài của

khu vực doanh nghiệp; tăng cường kiểm soát nợ Chính phủ, nợ công, nợ
nước ngoài quốc gia, bảo đảm trong giới hạn phù hợp, an toàn.
3.2.3 : Về chính sách thương mại, giá cả, thị trường
Kiểm soát chặt chẽ thị trường, giá cả, bảo đảm ổn định cung - cầu
hàng hoá, dịch vụ thiết yếu. Tập trung chỉ đạo quản lý thị trường, giá cả, chủ
động phương án ứng phó trước những biến động của tình hình thị trường
hàng hóa thế giới và trong nước, không để xảy ra đột biến giá các mặt hàng
thiết yếu; ổn định nguồn cung trong nước, bảo đảm cân đối cung - cầu hàng
hóa, nhất là các mặt hàng thiết yếu phục vụ cho sản xuất và đời sống. Thực
hiện điều hành giá điện, xăng dầu, than theo cơ chế thị trường phù hợp với
tình hình và mục tiêu kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội; thực hiện
công khai, minh bạch trong điều hành giá cả theo cơ chế thị trường để các
16
doanh nghiệp và người dân hiểu rõ, có sự chuẩn bị về tâm lý và biện pháp
ứng xử.
Các ngành, các cấp tiếp tục chỉ đạo thực hiện các biện pháp bình ổn
giá cả, thị trường, tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện các
quy định pháp luật về giá, nhất là đăng ký, kê khai, niêm yết giá và bán theo
giá niêm yết, ngăn chặn đầu cơ, găm hàng, thao túng thị trường, tăng giá bất
hợp lý, buôn lậu qua biên giới; chống đầu cơ tăng giá, cạnh tranh không lành
mạnh; xử phạt nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về giá cả, thị trường.
Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, vận động cộng đồng doanh nghiệp và nhân
dân cả nước thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng
Việt Nam”. Tăng cường vai trò và trách nhiệm của các cấp chính quyền địa
phương trong quản lý, kiểm tra, giám sát giá cả, bình ổn thị trường. Nâng
cao vai trò của các Hiệp hội ngành hàng; xây dựng cơ chế phối hợp giữa các
Bộ, ngành với các Hiệp hội ngành hàng để tạo sự thống nhất trong chỉ đạo
điều hành, phối hợp tổ chức mạng lưới thông tin dự báo tình hình thị trường,
giá cả.
3.2.4 : Về thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm

chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng
Thực hiện các biện pháp tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc trong
sản xuất kinh doanh, trong tiếp cận vốn đối với dự án hiệu quả, có đầu ra của
sản phẩm; khuyến khích tiết giảm chi phí, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, cung
ứng dịch vụ phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Tập trung nguồn lực đẩy mạnh
phát triển sản xuất nông nghiệp, phát triển chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản
theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn để bảo đảm an ninh lương thực và
tăng xuất khẩu nông sản, bảo đảm đời sống nông dân; có giải pháp cụ thể
giúp nông dân qua hỗ trợ về kỹ thuật, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp
như phân bón, thuốc trừ sâu và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tiếp tục đầu
tư phát triển ngành công nghiệp mũi nhọn. Phát triển mạnh, ổn định các
ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, logistics và các dịch vụ có giá trị gia
tăng cao; phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, chất lượng cao. Có
biện pháp phù hợp để khuyến khích, tăng cường vai trò của khu vực kinh tế
ngoài nhà nước trong định hướng phát triển các ngành kinh tế và các lĩnh
vực dịch vụ. Bảo đảm đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân đi đôi
với tiết kiệm điện.
Xây dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể thúc đẩy xuất
khẩu, sử dụng hàng sản xuất trong nước và kiểm soát nhập khẩu đối với từng
loại mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu có kim ngạch lớn. Kiểm soát chặt chẽ
nhập khẩu hàng tiêu dùng, đặc biệt là hàng ảnh hưởng đến sức khoẻ, môi
17
trường, hàng xa xỉ, hàng không thiết yếu, hàng không khuyến khích nhập
khẩu; hạn chế xuất khẩu tài nguyên, nguyên liệu thô.
Chỉ đạo điều hành xuất khẩu gắn với yêu cầu bình ổn giá cả, thị
trường trong nước. Điều chỉnh, bổ sung chính sách thuế theo hướng tạo động
lực khuyến khích sản xuất các mặt hàng trong nước có khả năng thay thế
nhập khẩu và hạn chế nhập khẩu, nhất là đối với các mặt hàng xa xỉ, hàng
không thiết yếu. Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại cấp cao,
thúc đẩy hợp tác, đầu tư và buôn bán giữa Việt Nam với các nước. Nghiên

cứu, xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích các tập đoàn đa quốc gia đầu
tư vào các lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp sản xuất hàng thay thế
hàng nhập khẩu, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có nhiều tiềm năng.
Đẩy mạnh cải cách cơ cấu và quản trị doanh nghiệp, làm rõ trách
nhiệm của chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp. Triển khai thực hiện nghiêm túc và có kết
quả việc sắp xếp, đổi mới, cổ phần hoá, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước. Khẩn trương hoàn thiện khung pháp lý về
cơ chế cảnh báo sớm đối với doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, tạo điều
kiện thuận lợi về nguồn nhân lực, đất đai, vốn, hỗ trợ pháp lý để khuyến
khích phát triển các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế ngoài nhà nước.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xây dựng cơ chế ưu đãi về thuế, vốn,
đất đai, nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa; chú trọng công
tác quy hoạch, tăng cường công tác quản lý, bảo đảm sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực đất đai, tài nguyên và nhân lực. Khuyến khích và tạo điều
kiện để doanh nghiệp sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, tài nguyên,
tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thực hiện biện pháp giãn (chậm nộp) thuế thu nhập doanh nghiệp
phải nộp năm 2011 cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sử dụng
nhiều lao động sản xuất trong các ngành chế biến nông lâm thủy hải sản, dệt
may, da giày, linh kiện điện tử, xây dựng công trình hạ tầng kinh tế - xã hội
và một số ngành nghề sản xuất kinh doanh quan trọng .
3.2.5: Về bảo đảm an sinh xã hội
Tập trung làm tốt hơn nữa để thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ
về an sinh xã hội đã đề ra cho cả năm 2011, trong đó tạo việc làm cho 1,6
triệu lao động; giảm tỷ lệ hộ nghèo 2% theo chuẩn nghèo mới, riêng 62
huyện nghèo giảm 4%. Ưu tiên nguồn lực thực hiện tốt các chính sách an
sinh xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia hướng đến vùng nghèo, địa
bàn huyện, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, người nghèo, người có công,

đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng khó khăn trong xã hội; tiếp tục
18
đẩy mạnh thực hiện các chương trình: xây dựng nông thôn mới; phát triển
nhanh và bền vững các huyện nghèo; bảo vệ và phát triển rừng nhằm tăng độ
che phủ rừng và giải quyết việc làm cho nhân dân vùng sâu, vùng xa, đồng
bào dân tộc thiểu số; xây dựng nhà ở cho công nhân lao động tại các khu
công nghiệp thuê; xây dựng nhà ở cho người thu nhập thấp tại khu vực đô
thị; hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở; xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà vùng ngập
lũ đồng bằng sông Cửu Long (giai đoạn 2); xây dựng ký túc xá sinh viên
3.3: Đề xuất , kiến nghị .
Ngoài các giải pháp nêu trên chúng ta cần đẩy mạnh công tác thông
tin, tuyên truyền về chủ trương biện pháp bình ổn giá, kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô bảo đảm an sinh xã hội, tạo ra sự đồng thuận trong xã hội,
giảm thiểu các yếu tố tâm lý, kỳ vọng tăng giá trên thị trường. Cùng với nó
là kiên định thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm khống chế tổng cầu của
nền kinh tế mà Nghị quyết 11/NQ-CP đã đề ra.
Trong cuộc chiến chống lạm phát Chính phủ đóng vai trò quan trọng,
vì vậy, các giải pháp của Chính phủ cần cụ thể, rõ ràng và bám sát với thực
tiễn của nền kinh tế Việt Nam.
Kết Luận :
Để hội phập kinh tế thế giới Việt Nam đã phải thay đổi rất nhiều: điều
chỉnh và ban hành thêm những điều luật mới, thay đổi chính sách tiền lương,
điều chỉnh lại giá cả Sự thay đổi kinh tế quá nhanh cùng với những biến
động của thị trường thế giới đã đưa đến tình trạng bong bóng đầu tư, giá cả
hàng hoá tăng nhanh, lạm phát trong khi đó thì năng lực quản lý cũng như
các công cụ điều tiết nền kinh tế của Chính Phủ còn chưa theo kịp và chưa
thực sự phát huy hiệu quả, dẫn đến hậu quả là lạm phát ngày càng cao, gây
khó khăn cho đời sống của nhiều tầng lớp dân cư đặc biệt là người nghèo.
Lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế vì nó làm giảm năng suất
lao động, lạm phát bóp méo mức độ khan hiếm tương đối (phản ánh qua giá

cả) của các nguồn lực sản xuất và do đó bóp méo các quyết định đầu tư và
sự phân bổ của các nguồn lực khan hiếm này. Lạm phát còn làm giảm mức
khấu trừ thực tế cho phép trong thuế DN đối với khấu hao tài sản cố định và
làm tăng giá thuê tư bản, do đó làm giảm tích luỹ vốn. Trong thời kỳ có lạm
phát, hàm lượng thông tin liên quan đến biến động giá cả giảm đi, dẫn đến
các nhà đầu tư có thể mắc sai lầm trong việc đưa ra quyết định đầu tư của
mình, hiệu quả kinh tế giảm, chi phí sản xuất tăng cao, nhiều DN sẽ phải
ngừng sản xuất, giá cả hàng hoá tăng sẽ gây nhiều khó khăn cho đời sống
dân cư khi mà tiền lương và lãi suất không kịp thích ứng. Tuy nhiên, trước
19
những khó khăn và thách thức mới buộc Viêt Nam phải tự mình nỗ lực vươn
lên, Chính Phủ không ngừng tìm kiếm và cải thiện các công cụ, chính sách
điều tiết để khắc phục và giải quyết hậu quả, các DN phải tự đổi mới sản
xuất để cải thiện lợi nhuận Đây là thách thức và cũng là cơ hội để cho VN
phát triển, hội nhập thế giới.
Hết
Mục Lục
Lời Mở Đầu :
Chương 1 : Những vấn đề chung về lạm phát
1.1: Khái niệm lạm phát
1.2: Phân loại lạm phát
1.3: Nguyên nhân gây lạm phát
1.4: Tác động của lạm phát
1.5: Ảnh hưởng của lạm phát
1.6: Biện pháp khắc phục lạm phát
Chương 2 : Thực trạng về tình hình lạm phát ở Việt Nam năm 2011
2.1: Tình hình kinh tế ở Việt Nam và thế giới trong những năm gần đây.
2.2: Thực trạng tình hình lạm phát ở Việt Nam năm 2011
2.3: Tác động, ảnh hưởng của lạm phát ở Việt Nam
2.4: Tổng kết

Chương 3 : Các giải pháp khắc phục tình hình lạm phát ở Việt Nam năm
2011
3.1: Định hướng
3.2: Các giải pháp cụ thể
3.3: Đề xuất, kiến nghị
Kết luận:
20
21

×