Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

MÔN HỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Đề tài Những chuẩn mực đạo đức cách mạng theo quan điểm Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----

MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài: Những chuẩn mực đạo đức cách mạng theo
quan điểm Hồ Chí Minh

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Hải Ngọc
Nhóm thực hiện: nhóm 4
Mã học phần: 22C1HCM51000448

T.P Hồ Chí Minh, ngày 18, tháng 11, năm 2022


MỤC LỤC
I. TRUNG VỚI NƯỚC, HIẾU VỚI DÂN
II. THƯƠNG YÊU CON NGƯỜI, SỐNG CĨ TÌNH
NGHĨA III.
IV. TINH THẦN QUỐC TẾ TRONG SÁNG


I. TRUNG VỚI NƯỚC, HIẾU VỚI DÂN
1. Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với
nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trên cơ sở kế thừa, phát triển chủ
nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, khắc phục những hạn chế của truyền
thống đó, Hồ Chí Minh khẳng định: trung với nước, hiếu với dân là một trong
những phẩm chất đạo đức cách mạng phản ánh mối quan hệ rộng lớn nhất và cũng
là phẩm chất đạo đức bao trùm nhất của con người Việt Nam.


 Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống
Việt Nam và phương Đơng, song có nội dung hạn hẹp. “Trung với vua, hiếu
với cha mẹ”, phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con đối với cha mẹ. Hồ
Chí Minh đã vận dụng và đưa vào nội dung mới, cao rộng hơn là đạo đức
cách mạng: “Trung với nước hiếu với dân”, đồng thời người đã loại bỏ đi
những yếu tố hạn chế của đạo đức cũ.
 Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng
nước, trung thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu
cho Đảng, cho cách mạng, cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.



Hiếu với dân là tin dân, thương dân, gần dân, học hỏi dân, kính trọng nhân
dân, hết lịng, hết sức phục vụ nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân
dân, không được ra lệnh, ra oai, lên mặt quan cách mạng. Khơng chỉ vậy,
chữ hiếu cịn có ý nghĩa sâu xa hơn là hiếu với nhân dân, với tồn dân tộc,
với những người đã ngã xuống vì đất nước, vì nhân dân. Nước lấy nhân dân


làm gốc và cũng chính nhân dân là gốc rễ của một đất nước. Chính Bác Hồ
từng chỉ rõ: "Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân.”



Người khẳng định: “Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh
vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hồn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói
của Bác vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị, đạo đức
cho mỗi người Việt Nam, không phải chỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập

dân tộc mà còn lâu dài mãi về sau.

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nước là nước của dân và nhân dân là chủ
của đất nước. Vì vậy, “Trung với nước, hiếu với dân” thể hiện trách nhiệm
với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên và phát triển
của đất nước. “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì
dân”. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
2. Trung với nước, hiếu với dân theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện
trong mọi công việc cách mạng của Ðảng và trong từng suy nghĩ, việc làm cụ thể
của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân. Dù mục tiêu, nhiệm vụ trong từng
thời kỳ cách mạng khác nhau, nhưng yêu cầu về “trung” và “hiếu" luôn nhất quán
và là tiêu chí chung cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân học tập và rèn
luyện.
 Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do
của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Chính vì những lẽ ấy mà
Bác vừa kêu gọi hành động vừa định hướng chính trị đạo đức cho mỗi người
Việt Nam.
 Chúng ta có thể thấy rõ điều này ngay từ những ngày đầu cách mạng. Khi
mở lớp huấn luyện, đào tạo lớp cán bộ đầu tiên của Ðảng (ở Quảng Châu,
Trung Quốc), một trong những vấn đề đầu tiên đồng chí Nguyễn Ái Quốc
quan tâm là ln vững mục tiêu đào tạo ra những đồng chí tự nguyện hy sinh







phấn đấu suốt đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải

phóng con người; học tập, tìm hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là để "giữ chủ
nghĩa cho vững", tuyệt đối trung thành với sự nghiệp lớn của Ðảng, ln biết
đồn kết và tổ chức quần chúng thực hiện mục tiêu đề ra.
Khi Ðảng ta được thành lập, Người luôn nhắc nhở : "Mỗi người đảng viên,
mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: mình vào Ðảng để
làm đày tớ cho nhân dân. Bác nhấn mạnh: Làm đày tớ nhân dân chứ không
phải là "quan" nhân dân". Khi Ðảng ta trở thành Ðảng cầm quyền, lãnh đạo
toàn dân vừa kháng chiến vừa kiến quốc, dù ở đâu, làm gì, Người cũng chỉ
tâm niệm một điều rằng: "Ðảng ta là Ðảng cách mạng. Ngoài lợi ích của
nhân dân, Ðảng ta khơng có lợi ích gì khác", "Chính sách của Ðảng và Chính
phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân"... Vì vậy, Người
luôn chỉ rõ cho mọi người thấy và hiểu rõ vấn đề cốt lõi của đạo đức cách
mạng là: Việc gì lợi cho dân phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân phải hết
sức tránh. Chính trong q trình ấy, Người đã nêu tấm gương sáng về lịng
"tận trung với nước, tận hiếu với dân".

Lòng trung, hiếu ở Người là nhất quán, trước sau như một. Ngay từ những
ngày đầu ra đi tìm đường cứu nước, hướng tới mục tiêu độc lập cho Tổ quốc,
cơm no áo ấm cho đồng bào, Người đã vượt qua bao khó khăn, thử thách.
Trong lao tù của bọn thực dân, đế quốc, lịng kiên trung bất khuất, quyết tâm
giải phóng dân tộc, cơm no áo ấm cho đồng bào càng được bồi đắp thêm.
Khi đất nước giành được độc lập, Người "tuyệt nhiên không ham muốn
công danh phú quý chút nào", không muốn "dính líu gì với vịng danh lợi"
mà "chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta




được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".

Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng,
đó là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thàmh với
Đảng, với dân, phải tận trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ
trung thành, vừa là người lãnh đạo của dân; dân là đối tượng để phục vụ hết
lòng. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao
dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước.

3. Sau Ðại thắng Mùa Xuân 1975, nhân dân cả nước cùng chung sức xây dựng đất
nước. Hậu quả nặng nề sau chiến tranh và những biến động sâu sắc của tình hình
thế giới đã dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội kéo dài, đời sống của
nhân dân gặp nhiều khó khăn. Khắc ghi lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
nhiệm vụ của Ðảng là lãnh đạo quần chúng chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây
dựng đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, một lần nữa tinh thần "trung với
nước, hiếu với dân" của đội ngũ những người cách mạng được phát huy cao độ
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.




Trung với nước, hiếu với dân trong giai đoạn hiện nay trước hết là trung
thành với con đường cách mạng mà Ðảng ta và Bác Hồ đã chọn, là trung
thành với sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh; là sự thể hiện lương tâm và trách nhiệm
của mỗi người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ðể đạt được mục tiêu
trên, theo chúng tôi, cần thực hiện tốt các việc sau đây:

Một là, giáo dục một cách thường xuyên, sâu rộng trong toàn dân để mỗi người
nhận thức sâu sắc và đầy đủ về truyền thống trung, hiếu của dân tộc, về những hy
sinh to lớn của các thế hệ ông cha ta để chúng ta có được ngày nay, qua đó nâng

cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc, coi đó là
lương tâm, trách nhiệm của mỗi người Việt Nam yêu nước.
Hai là, tổ chức và lãnh đạo toàn dân nêu cao tinh thần đại đồn kết dân tộc theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, tạo
sự đồng thuận trong toàn xã hội để mỗi người dân đều có thể góp sức mình vào sự
nghiệp chung của Ðảng ta, đất nước ta, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc thành
một khối vững chắc như "Thành đồng" của Tổ quốc. Ðồng thời, giải quyết tốt mối
quan hệ đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân - gia đình - tập thể - xã hội, giữa nghĩa
vụ và quyền lợi.


Ba là, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước nhằm phát huy ý thức trách nhiệm và
lương tâm nghề nghiệp của mỗi người trong từng cơng việc, hồn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao, góp phần vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng đất nước ta "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn", đưa "dân tộc ta bước tới đài vinh
quang, sánh vai với các cường quốc năm châu" như Bác Hồ hằng mong muốn.
II. THƯƠNG YÊU CON NGƯỜI, SỐNG CĨ TÌNH NGHĨA
1. Quan điểm đạo đức truyền thống về yêu thương con người
 Trong mỗi xã hội, mỗi tầng lớp xã hội, mỗi tập hợp người nhất định đều
tồn tại quan điểm đạo đức truyền thống. Nhờ nó mà con người điều chỉnh
cách sống sao cho phù hợp với lợi ích xã hội
 Chính từ đạo đức truyền thống này mà dân ta có lịng u nước, nhân ái và
những đức tính cần cù giản dị…
=> Nhờ đó, HCM ln kêu gọi ‘học để làm người’, và cũng từ đó mà câu nói
‘khơng có gì q hơn độc lập tự do’ ra đời.
2. Quan điểm tiến bộ của HCM về yêu thương yêu con người
a. Tình yêu thương con người đại diện cho phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất
 Trong tư tưởng đạo đức của Bác, yêu thương con người xuất phát từ truyền
thống nhân nghĩa của dân tộc và chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Với Bác,
yêu thương con người là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất vì nó thể hiện

mối quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội.
 Yêu thương con người là phẩm chất không thể thiếu trong đạo đức cách
mạng. Nếu khơng có tình u thương con người, CNXH và CNCS đã
không thể tồn tại và phát triển.
b. Yêu thương tất cả mọi người
 Yêu thương con người thể hiện trước hết là tình yêu thương với đại đa số
nhân dân, những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột → Chính điều đó đã tạo
nên động lực ra đi tìm đường cứu nước của Bác.
 Tình yêu thương con người của Bác còn được thể hiện với những người có
sai lầm, khuyết điểm nhưng biết nhận sai lầm và cố gắng sửa chữa. Trong đó
có cả kẻ thù bị thương, bị bắt và đã quy hàng.
c. Tin tưởng vào phẩm chất tốt đẹp của mỗi người.
 Yêu thương con người thì phải tin vào con người. Tình yêu thương con
người của Hồ Chí Minh khơng chỉ là tình cảm quý trọng con người mà
còn là lòng tin vững chắc vào phẩm chất tốt đẹp của con người.
 Theo quan điểm của Bác, độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội là do nhân dân
quyết định. Vậy nên, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa của nhân
dân ta, người luôn chú trọng vào sự yêu thương, tin tưởng và biết dựa vào
nhân dân.
d. Biết và dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người:


Tình u thương con người chính là chìa khóa thúc đẩy con người dám
đấu tranh để thoát khỏi áp bức, nghèo nàn, lạc hậu để vươn tới cuộc sống
ấm no, hạnh phúc.
 Tình yêu thương trong con người của Hồ Chí MInh về giải phóng con người
trước hết là ở sự khẳng định con người cần được sống cuộc sống của một
con người. Và ngày nay, từng giây phút chúng ta đang được sống, được tận
hưởng chính là thành quả từ tình u thương, lịng nhân ái, vị tha của người
cha già dân tộc.

e. Lòng nhân ái, vị tha, khoan dung nhân hậu, hết mực vì con người.
* Bác đã từng nói rằng “ Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem cho
mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn
kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người…”
 Lịng nhân ái, vị tha, khoan dung nhân hậu trong con người Hồ Chí Minh là
sự kế thừa các yếu tố truyền thống của dân tộc và phát triển cho phù hợp
với điều kiện lịch sử mới của đất nước và là xu thế chung của thời đại.
 Lòng khoan dung, nhân ái trong vị lãnh tụ ấy không chỉ dừng lại ở việc đấu
tranh giành quyền con người mà còn chỉ ra con đường tiếp theo để thực
hiện cao nhất quyền con người ấy.

Tinh thần khoan dung nhân ái của chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ chữ
nhân sáng suốt, có ngun tắc lấy chính nghĩa làm nền tảng, giải quyết vấn
đề giữa con người với con người dựa trên nguyên tắc “ có tình, có lý”.
Theo Bác “ Nhân là thật thà u thương, hết lịng giúp đỡ đồng chí và đồng
bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến
Đảng, đến nhân dân”.
 Bác đã thể hiện tính u thương ấy trong hành trình cứu nước của dân tộc.
Ở đây, tinh thần khoan dung nhân ái của người là sức mạnh của cách mạng.
f. Giúp cho mọi người ngày càng tiến bộ tốt đẹp hơn.
 Yêu thương con người vận dụng vào Đảng, trong tổ chức là phải “có tình
đồng chí u thương lẫn nhau”. Đây chính là điều nhắc nhở Đảng viên
phải ln ln chú ý và yêu thương con người.
 Đó là sự u thương dựa trên ngun tắc phê bình góp ý thẳng thắng để
cùng nhau tiến bộ. Khác hoàn toàn với thái độ “ dĩ hòa vi quý” bao che cho
sai lầm khuyết điểm lẫn nhau.
3. Hồ Chí Minh- tấm gương về tình u thương q trọng con người.
* Hồ Chí Minh : “ Tơi khun đồng bào đồn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón
tay cũng có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn dài đều tụ họp lại nơi bàn tay.
Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác đều dòng dõi tổ tiên ta. Vậy

nên ta phải khoan hồng đại độ”
 Bản thân của Bác Hồ chính là tấm gương lớn về tình u thương của con
người, sống có tình có nghĩa. Có thể thấy tình yêu thương của Bác rất rõ
ràng, từ việc to như giải phóng dân tộc đến việc nhỏ như chăm sóc cho
từng cán bộ cụ thể.



Người cha ấy dành tình yêu thương cho tất cả mọi người, mọi dân tộc.
Người đã từng nói rằng “ Mỗi một người, mỗi một gia đình đều có đau khổ
riêng và khi gộp cả nỗi đau khổ riêng đó lại thì thành nỗi đau khổ của
Người”.
=> Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tấm gương vĩ đại về mọi mặt : lối sống suy nghĩ,
và đặc biệt là đạo đức và tình yêu thương, bao dung với mọi người xung quanh. Ở
Bác, không chỉ đơn thuần là những hành vi đẹp, mang lại niềm vui, sự hài lòng cho
người khác, mà còn là tấm lòng bác ái, xuất phát từ tấm lòng và bản năng yêu
thương con người trong Bác.


IV. TINH THẦN QUỐC TẾ TRONG SÁNG
Nội dung của tinh thần quốc tế trong sáng theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
• Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo
đức cộng sản chủ nghĩa, bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân, nhằm vào
mối quan hệ rộng lớn nhất, vượt khỏi quốc gia dân tộc.
• Tinh thần quốc tế trong sáng là tơn trọng, hiểu biết, thương u, đồn kết với
giai cấp vơ sản, các dân tộc bị áp bức, nhân dân tiến bộ toàn cầu, chống lại sự chia
rẽ, hằn thù, phân biệt chủng tộc, sôvanh, bành trướng… nhằm mục tiêu lớn của
thời đại là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
• Tinh thần quốc tế là tinh thần “tứ hải giai huynh đệ” mà Hồ Chí Minh đã tiếp
thu được của quá khứ; là tinh thần quốc tế vơ sản mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng

mệnh đề “bốn phương vô sản đều là anh em” hay tinh thần đoàn kết các dân tộc bị
áp bức, với nhân dân lao động các nước mà Hồ Chí Minh đã dày cơng vun đắp
bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách
mạng của cả dân tộc; tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những
người tiến bộ trên thế giới, vì hịa bình, cơng lí và tiến bộ xã hội.
Có thể nói, tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt
nguồn từ tình thương yêu đối với con người; vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị
áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, mang lại tự do và bình đẳng
thật sự cho con người.


1. Thứ nhất, tinh thần quốc tế trong sáng là đồn kết với nhân dân các nước vì
mục tiêu giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột

Bản yêu sách của nhân dân An Nam (6/1919)

Trong quá trình tìm đường cứu nước, Bác đã đến nhiều nước trên thế giới, các
nước tư bản cũng như thuộc địa. Người đã chứng kiến cảnh cùng cực của giai cấp
công nhân và Nhân Dân lao động, đồng thời cũng thấy rõ cảnh sống xa hoa của giai
cấp tư sản. Thực tế sinh động đã giúp Người đồng cảm và nhận thức rõ: Nơi đâu
cũng có người nghèo như ở xứ mình, dù ở các nước thuộc địa hay chính quốc, họ
đều bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nghĩa thực dân tàn ác. Người đi tới kết luận:
Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai loại người: người áp bức và người
bị áp bức. Cũng chỉ có một mối tính hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vô sản. Kết
luận này cho thấy nhận thức của Người về ý thức dân tộc và ý thức giai cấp đã
vươn từ tầm nhìn quốc gia lên tầm nhìn quốc tế.
Tháng 6-1919, khi gửi tới Hội nghị Vécxây “Bản yêu sách của Nhân Dân An
Nam”, lần đầu tiên xuất hiện trên vũ đài quốc tế, Người đã thể hiện tư tưởng
sát cánh cùng các dân tộc bị áp bức đấu tranh cho sự bình đẳng.



Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tham dự và phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours,
ngày 26/12/1920. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tham dự và phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours, ngày 26/12/1920. (Ảnh: Tư
liệu TTXVN)
Từ lời phát biểu đầu tiên tại Đại hội Tua (12-1920) trở đi, Người luôn khẳng định
cuộc cách mạng của các dân tộc bị áp bức đều có quan hệ với nhau. Nói về sự liên
minh đồn kết đấu tranh của nhân dân lao động ở các nước thuộc địa, khi đó Người
đã chỉ rõ: các nước thuộc địa và phụ thuộc muốn được giải phóng khỏi ách áp bức
bóc lột của chủ nghĩa thực dân thì chỉ bằng cách đoàn kết chặt chẽ để chống kẻ thù
chung. Cũng là một người dân thuộc địa, Người thấy được khả năng, sức mạnh
đoàn kết của các dân tộc thuộc địa và tin tưởng vào thắng lợi trong cuộc đấu tranh
của họ.
2. Thứ hai, tinh thần quốc tế trong sáng là đồn kết với nhân loại tiến bộ, vì
hịa bình, cơng lý và tiến bộ xã hội.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, từ
thành quả của Cách mạng tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra giữa các
quốc gia, giữa các dân tộc ở các châu lục cần có sự hợp tác giúp đỡ và học hỏi lẫn


nhau. Sức mạnh của mỗi nước có một phần quan trọng tuỳ thuộc vào các mối liên
kết và hiểu biết lẫn nhau. Từ đó Người ln khẳng định những cuộc cách mạng của
các dân tộc bất kỳ gần hay xa, to hay nhỏ đều có quan hệ với nhau.
Từ năm 1924, Người đã trở thành một trong những cán bộ châu Á đầu tiên thực thi
nhiệm vụ liên kết giữa các dân tộc châu Á với phong trào cách mạng vô sản thế
giới. Trong những năm tháng Nhân Dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập và bảo
vệ nền độc lập của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm chăm lo phát
triển tình hữu nghị giữa Việt Nam với các nước ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ

Latinh để mở rộng quan hệ quốc tế của Việt Nam và khẳng định sự ủng hộ của
Nhân Dân Việt Nam đối với cuộc đấu tranh của Nhân Dân các nước vì độc lập dân
tộc và tiến bộ xã hội.

Nhân dân Ba Lan nồng nhiệt đón chào Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đồn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa,
tháng

7/1957. Ảnh tư liệu
Chủ tịch Hồ Chí Minh duyệt đội danh dự Quân đội Liên Xô trong lễ đón đồn đại biểu Chính phủ Việt Nam thăm chính thức
Liên Xơ ngày 12-7-1955. Ảnh tư liệu


Chủ tịch Hồ Chí Minh đến xem triển lãm thành tựu kinh tế của Triều Tiên tại thủ đơ Bình Nhưỡng ngày 9/7/1957, trong chuyến
thăm hữu nghị CHDCND Triều Tiên từ ngày 8-12.7.1957. Ảnh: TTXVN.

Những mối quan hệ chính trị giữa các nước luôn là vấn đề nhạy cảm trên thế giới
bởi chiến tranh ln tiềm ẩn đằng sau nó. Thế nhưng Bác Hồ của chúng ta, người
với châm ngôn “ngoại giao vì con người” hay “giúp bạn là giúp mình” và ln
dành sự tơn trọng tuyệt đối với độc lập của mọi dân tộc đã chiếm được tình cảm
của nhiều người trên thế giới, đặt nền móng cho sự phát triển bền vững, văn minh
và ngầm khẳng định được tự do dân chủ của nước nhà. Bởi vậy nên Bác ln chú
trọng chăm lo phát triển tình hữu nghị giữa Việt Nam với các nước ở châu Á, châu
Phi, châu Mỹ Latinh để mở rộng quan hệ quốc tế của Việt Nam và khẳng định sự
ủng hộ của Nhân Dân Việt Nam đối với cuộc đấu tranh của Nhân Dân các nước vì
độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.Trong q trình đấu tranh chống thực dân, Người
cịn luôn nhắc nhở Nhân Dân Việt Nam về những nhiệm vụ đối với cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc của Nhân Dân các nước này. Hồ Chí Minh tha thiết với độc
lập tự do của dân tộc mình, cho nên cũng rất trân trọng độc lập tự do của các dân
tộc khác. Bởi thế, Người hết sức căm giận trước bất cứ một hành động xâm lược
nào và cho rằng: giúp đỡ một dân tộc khác bảo vệ độc lập tự do của họ cũng chính

là bảo vệ lợi ích của đất nước mình, “giúp bạn là tự giúp mình”. Đây chính là một
bước phát triển mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế. Vì lẽ đó,
Người ln động viên Nhân Dân Việt Nam vừa tiến hành sự nghiệp bảo vệ độc lập
tự do của dân tộc mình, vừa thực hiện sự giúp đỡ vơ tư chí tình, chí nghĩa đối với
các dân tộc anh em.


Chính bởi nghệ thuật ngoại giao và tinh thần đồn kết mọi dân tộc mà bác đã có
những người bạn láng giềng tốt bụng và thân thiết, sẵn sàng vì Việt Nam mà đổ

máu như Cuba hay giúp đỡ chúng ta vực dậy sau cuộc chiến như Liên Xô và
nhiều hơn thế nữa. Những mối quan hệ với các nước trên thế giới kể cả các cường
quốc như Mỹ, Anh hay Pháp đều tốt đẹp và hõa hữu cho đến tận bây giờ.
Cuba sẵn sàng đổ máu để giúp đỡ Việt Nam

3. Thứ ba, tinh thần quốc tết trong sáng là kết hợp chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế, chống mọi biểu hiện của kỳ thị dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vơ sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước.
Trong bài “Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế” (1953), Người đã nhấn mạnh:
“Tinh thần yêu nước và tinh thần Quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta
vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hồ bình thế giới”( ). Nếu
tinh thần u nước khơng chân chính và tinh thần quốc tế khơng trong sáng thì có
thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền, kỳ thị
chủng tộc… Những khuynh hướng sai lệch ấy có thể dẫn đến chỗ phá vỡ một quốc
gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ tình đồn kết quốc tế
trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể đưa đến tình trạng đối đầu đối địch.
Đây là một thực tế đã diễn ra ở châu Âu và nhiều khu vực trên thế giới hiện nay.
Hồ Chí Minh lên án và đấu tranh chống chia rẽ, thù hằn, bất bình đẳng, phân biệt
chủng tộc, đồn kết với các lực lượng cách mạng và tiến bộ khắp thế giới. Người
gắn mục tiêu đấu tranh của Nhân Dân Việt Nam với mục tiêu chung của nhân

loại vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Có thể nói tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ
tình thương u đối với con người; vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người, mang lại tự do và bình đẳng thực sự
cho


con người. Từ chủ nghĩa quốc tế trong sáng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền
móng và xây dựng nên tình đồn kết quốc tế rộng lớn của Nhân dân Việt Nam với
các dân tộc trên thế giới, góp phần vào những thắng lợi to lớn của Nhân dân Việt
nam và Nhân dân thế giới.




×