Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

luận văn thạc sĩ Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe và tính mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.02 KB, 78 trang )

Mục lục
Trang
mở đầu 1
Chơng 1: khái quát chung về trách nhiệm bồi thờng
thiệt hại ngoài hợp đồng trong luật dân sự
5
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của trách nhiệm bồi thờng thiệt hại ngoài
hợp đồng trong luật dân sự
9
1.2. So sánh trách nhiệm bồi thờng thiệt hại do xâm phạm tài sản
với trách nhiệm bồi thờng thiệt hại do xâm phạm các quyền
nhân thân
10
Chơng 2: xác định trách nhiệm bồi thờng thiệt hại do
sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm
13
2.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thờng thiệt hại do sức khỏe
và tính mạng bị xâm phạm
13
2.2. Các chủ thể trong quan hệ bồi thờng thiệt hại 26
2.3. Nguyên tắc bồi thờng thiệt hại 30
2.4. Hình thức bồi thờng và mức bồi thờng 37
2.5. Xác định thiệt hại trong trờng hợp sức khỏe, tính mạng bị xâm
phạm
40
Chơng 3: thực trạng áp dụng pháp luật và giải pháp
hoàn thiện pháp luật về bồi thờng thiệt hại
do xâm phạm sức khỏe, tính mạng
52
3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp về bồi
thờng thiệt hại do sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm


52
3.2. Kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thờng thiệt
hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng
65
kết luận 69
danh mục tài liệu tham khảo 70
phụ lục: tình hình nghiên cứu đề tài 73
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ai gây thiệt hại thì người đó phải bồi thường - vấn đề này đã được các nhà
làm luật coi đó là một nguyên tắc và cụ thể hóa trong văn bản pháp luật. Xét
về nguồn gốc lịch sử thì chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng ra đời từ rất sớm. Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, mỗi quốc gia đều
có những qui định chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bên cạnh đó
còn có những qui định cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong từng trường hợp cụ thể bởi sự đa dạng về chủ thể gây thiệt hại, đối
tượng bị thiệt hại, hoàn cảnh bị thiệt hại
Bộ luật dân sự năm 1995 được áp dụng để giải quyết cho các tranh chấp dân
sự nói chung, tranh chấp về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
nói riêng kể từ ngày 1/7/1996. Qua gần 10 năm thi hành, Bộ luật dân sự 1995
đã phát huy tác dụng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc đối tượng
điều chỉnh của luật dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể
trong giao lưu dân sự, góp phần làm ổn định các quan hệ xã hội. Bên cạnh
những thành công đã đạt được, Bộ luật dân sự 1995 còn bộc lộ nhiều bất cập
cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Bộ luật dân sự 2005 ra
đời thay thế cho Bộ luật dân sự 1995 với nhiều sự sửa đổi, bổ sung nhất định,
trong đó có chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Bộ luật dân sự 2005
qui định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng từ Điều 604 đến
Điều 630, trong đó bổ sung qui định về bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi
thể, bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả, hài cốt và rất nhiều sự sửa đổi

khác trong từng qui định cụ thể.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt hại do xâm
phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng là một trong những loại trách nhiệm gây
nhiều tranh cãi về căn cứ phát sinh, mức bồi thường ; hơn nữa qui định của
pháp luật về vấn đề này chủ yếu dừng lại ở các qui định mang tính "định tính"
mà không "định lượng" nên gây khó khăn rất nhiều cho các cán bộ áp dụng
pháp luật. Bên cạnh đó, án kiện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm sức khỏe, tính mạng chiếm tỉ trọng tương đối lớn trong các án kiện về
bồi thường; sự đối lập về tâm lý của người gây thiệt hại với người bị thiệt hại
hoặc gia đình của người bị thiệt hại làm cho các án kiện về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng bị kháng cáo, khiếu nại từ
phía đương sự.
Xuất phát từ tình hình trên đây, việc nghiên cứu, tìm hiểu các qui định của
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt hại
do xâm phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng là một trong những vấn đề có ý
nghĩa pháp lý và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được nhiều nhà khoa học
nghiên cứu pháp luật quan tâm. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, trong đó có đề cập
đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng như các
bài viết: TS. Phùng Trung Tập: "Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tháng 5-2004; Đinh Văn Quế:
"Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe
của con người", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tháng 5-2004); Tưởng Duy
Lượng - Nguyễn Văn Cường: "Cách tính bồi thường thiệt hại tính mạng, sức
khỏe bị xâm phạm", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tháng 5-2004); Lê Mai
Anh: "Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
trong Bộ luật dân sự", Luận văn thạc sĩ luật học; Lê Thị Bích Lan: "Một số vấn
đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe,

danh dự, nhân phẩm và uy tín", Luận văn thạc sĩ luật học (xem Phụ lục).
Nhìn chung, các đề tài đó đã nêu và phân tích những vấn đề chung về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật dân sự; đưa ra các yêu cầu cơ bản trong
việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các quy định của pháp luật dân
sự trong việc bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm và uy tín, cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các
hình thức và mức bồi thường, những trường hợp miễn hoặc giảm trách nhiệm
bồi thường
Tuy nhiên, các đề tài này hoặc đề cập ở dạng khái quát về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng hoặc có đề cập chi tiết cụ thể hơn
nhưng vào thời điểm của Bộ luật dân sự 1995 đang tồn tại hiệu lực pháp lý.
Tìm hiểu một cách có hệ thống, chi tiết về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
xâm phạm sức khỏe, tính mạng theo Bộ luật dân sự 2005 và các văn bản
hướng dẫn mới thì chưa có một công trình khoa học nào cho đến thời điểm
hiện tại.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Thông qua việc tìm hiểu các qui định của Bộ luật dân sự 2005 và các văn bản
hướng dẫn thi hành, giúp cho người nghiên cứu có cái nhìn hoàn chỉnh dưới
lăng kính pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, qua
đó phục vụ tốt hơn cho công việc thực tế của bản thân. Ngoài ra, qua việc
nghiên cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do xâm phạm
sức khỏe, tính mạng cũng như việc áp dụng vào thực tiễn sẽ có những kiến
nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thực thi, sửa đổi và
tuyên truyền pháp luật. Để đạt được mục đính này, nhiệm vụ nghiên cứu của
luận văn là tìm hiểu các qui định của các văn bản pháp luật hiện hành về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng; tìm hiểu thực
tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính
mạng, qua đó chỉ ra những bất cập trong các qui định của pháp luật và phương
hướng hoàn thiện qui định của pháp luật về bồi thường thiệt hại nói chung,
pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng.

4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi giới hạn nghiên cứu đề tài cao học luật, chúng tôi chỉ nghiên
cứu những vấn đề lý luận cơ bản nhất về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến sức khỏe và tính mạng, đồng thời
xem xét thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự xâm phạm sức khỏe và tính
mạng. Luận văn này cũng đưa ra những giải pháp nhằm tháo gỡ những vướng
mắc trong giải quyết bồi thường thiệt hại sức khỏe và tính mạng khi áp dụng
các quy định của Bộ luật dân sự.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận nhận thức của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, luận
văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê cũng được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn sẽ đề cập một cách có hệ thống, chi tiết trong qui định của pháp luật
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng; chỉ ra
những khó khăn, bất cập trong việc áp dụng pháp luật, đồng thời có những
kiến nghị trong việc hoàn thiện và áp dụng pháp luật trong việc xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong luật dân sự
Chương 2: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sức khỏe và tính
mạng bị xâm phạm
Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại
do xâm phạm sức khỏe và tính mạng
Chương 1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG LUẬT DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA CỦA TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG LUẬT DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Thời kỳ sơ khai, trách nhiệm bồi thường chưa được đặt ra, theo đó người ta
thường áp dụng nguyên tắc "nợ gì trả nấy" khi có hành vi gây thiệt hại. Luật
XII bảng được ban hành vào năm 449 trước Công nguyên có qui định: Kẻ nào
làm gãy tay người khác thì kẻ đó phải chịu lại tương tự như vậy. Khi áp dụng
nguyên tắc trả thù ngang bằng, lợi ích của người bị thiệt hại không được bảo
đảm, hơn nữa lại có một thiệt hại khác phát sinh. Đây chính là lý do để sau đó
người ta xem xét vấn đề bồi thường thiệt hại.
Xét về nguồn gốc lịch sử, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là
một trong những chế định có lịch sử sớm nhất của pháp luật dân sự. Tuy
nhiên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng là chế định gây
nhiều tranh cãi, có nhiều quan điểm của các nhà nghiên cứu luật pháp cũng
như các cán bộ làm công tác thực tiễn.
Trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, chế định bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng luôn được hoàn thiện bởi các chuyên gia pháp lý. Ở nước ta, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã được qui định trong Quốc triều
Hình luật và Hoàng Việt luật lệ. Pháp luật mỗi nước có thể có những qui định
khác nhau liên quan đến xác định mức bồi thường, tuy nhiên một nguyên tắc
cơ bản luôn tồn tại - đó là: "Người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại cho
người bị thiệt hại". Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long đều chưa có sự
phân biệt rõ nét về trách nhiệm bồi thường dân sự. Sự phân biệt rạch ròi giữa
trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự chỉ ra đời trên cơ sở ba bộ luật đầu
tiên (Bộ luật Nam Kỳ ban hành ngày 10/3/1883; bộ Dân luật Bắc Kỳ ban
hành ngày 01/4/1931; bộ Dân luật Trung Kỳ ban hành ngày 31/10/1936) và
các nguyên lý chung về trách nhiệm bồi thường dân sự lần đầu được ghi nhận
một cách cụ thể tại Điều 712 đến Điều 716 (Bộ Dân luật Bắc Kỳ); Điều 761

đến Điều 767 (Bộ Dân luật Trung Kỳ) và cho đến năm 1972 chính quyền Sài
Gòn có ban hành bộ Dân luật Sài Gòn từ Điều 729 đến Điều 739 đề cập về
trách nhiệm bồi thường dân sự.
Cách mạng tháng Tám thành công, đánh dấu một bước ngoặt mới: Nhà nước
Việt Nam dân chủ ra đời, ngay lúc này chúng ta chưa thể ban hành được các
văn bản quy phạm pháp luật ngay. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội diễn ra
hàng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lần lượt ký Sắc lệnh số 90/SL ngày
10/10/1945 và Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 thừa nhận luật lệ cũ trên
tinh thần không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hòa của
Nhà nước ta. Những quy định trong Sắc lệnh số 97/SL đã đặt nền móng cho
sự hình thành và phát triển của luật dân sự. Lần đầu tiên những nguyên tắc
thực sự dân chủ, tiến bộ mang tính nhân dân sâu sắc được pháp điển hóa. Như
nguyên tắc: "Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành xử
nó đúng với quyền lợi của nhân dân" hay "người ta chỉ được hướng dụng và
sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và không
gây thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân".
Việc giải quyết các quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trên cơ sở tổng
kết kinh nghiệm của ngành tòa án. Qua thực tiễn xét xử, vận dụng và kế thừa
những quy định pháp luật đã có, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư
173/UBTP ngày 23/3/1972 hướng dẫn công tác xét xử, trong đó nói rõ điều kiện
phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nguyên tắc, cách xác định thiệt hại
Thông tư số 03 ngày 5/4/1983 bổ sung giải quyết bồi thường thiệt hại trong
các vụ tai nạn giao thông đều là văn bản dưới luật, lại ban hành trong điều
kiện nền kinh tế tập trung bao cấp, tuy đề cập đến nhiều vấn đề xong chỉ
mang tính định hướng, chưa cụ thể Bên cạnh đó, xu hướng phát triển kinh tế
đất nước theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đòi hỏi phải có
bộ luật dân sự điều chỉnh một lĩnh vực quan hệ xã hội rộng lớn. Bộ luật Dân
sự ra đời pháp điển hóa một bước quan trọng tạo ra một văn bản pháp luật
thống nhất nhằm khắc phục những tình trạng tản mạn, trùng lặp, mâu thuẫn
của pháp luật dân sự trước đó.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những trách
nhiệm dân sự, được áp dụng với những người có hành vi trái pháp luật gây ra
thiệt hại cho người khác. Chế định "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng’’ được hệ thống ở chương V, phần thứ 3 với các qui định từ Điều
604 đến Điều 630 làm cơ sở pháp lý quan trọng trong việc giải quyết bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, đồng thời giải quyết khách quan,
nhanh chóng, công bằng theo quy định của pháp luật.
Theo khoản 5 Điều 281 Bộ luật dân sự Việt Nam thì một trong những căn cứ làm
phát sinh nghĩa vụ dân sự đó là: "Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật".
Theo qui định tại Điều 604 Bộ luật dân sự thì sự kiện "gây thiệt hại do hành
vi trái pháp luật" là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường ngoài hợp
đồng. Nhà làm luật trong trường hợp này đã đồng nghĩa "trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng" với "nghĩa vụ bồi thường do hành vi trái
pháp luật" - Điều 604 Bộ luật dân sự đã xác nhận sự đồng nghĩa này.
Pháp luật nhà nước ta sử dụng nhiều phương thức khác nhau để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức khi bị xâm phạm bởi những
hành vi trái pháp luật. Khi một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại
đối với người khác làm phát sinh các quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt
hại.
Điều 604 Bộ luật dân sự quy định:
1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân,
xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường
cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.
Như vậy, bồi thường thiệt hại là quan hệ phát sinh từ hậu quả của hành vi trái
pháp luật xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản các quyền lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín,

tài sản của pháp nhân hoặc của các chủ thể khác. Bồi thường thiệt hại là hình
thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải bù
đắp, đền bù những tổn thất về vật chất, về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Điều
kiện để phát sinh trách nhiệm này là phải có thiệt hại, có hành vi trái pháp
luật, có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra có lỗi
của người gây thiệt hại.
Vậy trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là gì? Qua những phân
tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng như sau:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm
pháp lý, là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước theo đó người gây thiệt hại
phải bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra khi hành vi đó được
thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý xâm hại tới tài sản, sức khoẻ, tính mạng,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, và các quyền nhân thân khác của cá nhân, tài
sản, danh dự, uy tín của pháp nhân hoặc của chủ thể khác.
1.1.2. Ý nghĩa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Là một loại trách nhiệm pháp lý, được áp dụng khi thỏa mãn những điều kiện
do pháp luật qui định, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có ý
nghĩa pháp lý và ý nghĩa xã hội sâu sắc, điều đó được thể hiện trên một số
phương diện sau đây:
Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Trong các quan hệ xã hội nói chung, giao lưu dân sự nói riêng, chủ thể tham
gia nhằm thỏa mãn những lợi ích vật chất hoặc tinh thần của mình. Để xã hội
ngày càng phát triển, các chủ thể phải tham gia nhiều quan hệ xã hội khác
nhau và trong các quan hệ xã hội mà chủ thể tham gia thì lợi ích luôn là tâm
điểm để chủ thể hướng tới. Hiến pháp và các văn bản pháp luật có hiệu lực
pháp lý sau Hiến pháp luôn ghi nhận và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
các chủ thể. Đó có thể là lợi ích vật chất, thể hiện ở quyền sở hữu tài sản,
nhưng cũng có thể là lợi ích tinh thần, thể hiện ở các quyền nhân thân được

pháp luật bảo vệ. Bằng việc qui định căn cứ phát sinh, nguyên tắc bồi
thường thì chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong các
quan hệ xã hội khác nhau.
Thứ hai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định góp
phần đảm bảo công bằng xã hội.
Nguyên tắc chung của pháp luật là một người phải chịu trách nhiệm về hành
vi và hậu quả do hành vi đó mang lại. Bằng việc buộc người gây thiệt hại
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra cho
người bị thiệt hại, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã góp phần
bảo đảm công bằng xã hội. Đây cũng là nguyên tắc, là mục tiêu mà pháp luật
đặt ra. Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã cụ thể hóa và thể
hiện rất rõ nguyên tắc công bằng trong bồi thường thiệt hại. Theo chế định
này, ai gây thiệt hại thì người ấy phải bồi thường, tuy nhiên sẽ có những trường
hợp riêng biệt của trách nhiệm bồi thường thiệt hại như nguyên tắc giảm
mức bồi thường, bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng, bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt
hại có lỗi
Thứ ba, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định góp
phần răn đe, giáo dục, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật nói
chung, gây thiệt hại trái pháp luật nói riêng.
Ngoài mục đích buộc bên vi phạm phải chịu trách nhiệm do hành vi vi
phạm của mình gây ra - nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự - chế định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn thể hiện ý nghĩa nhân đạo, ý nghĩa xã
hội sâu sắc. Thông qua chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cùng
với việc vận dụng chế định này để giải quyết các tranh chấp liên quan đến
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chế định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn có ý nghĩa răn đe, giáo dục và phòng
ngừa các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, hành vi gây thiệt hại trái
pháp luật nói riêng. Ngoài người vi phạm, những người khác cũng sẽ thấy

rằng nếu mình có hành vi gây thiệt hại thì cũng sẽ chịu sự xử lý của pháp
luật.
Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn có ý nghĩa trong việc tuyên
truyền, giáo dục pháp luật thông qua những biện pháp chế tài nghiêm khắc.
Ngoài ra, ý thức pháp luật của người dân cũng ngày một được nâng cao hơn.
1.2. SO SÁNH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM TÀI
SẢN VỚI TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM CÁC
QUYỀN NHÂN THÂN
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng rất đa dạng, một trong
những sự đa dạng đó là đối tượng bị thiệt hại. Đối tượng bị thiệt hại có thể là
tài sản, nhưng cũng có thể là tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín
(sự cụ thể hóa các quyền nhân thân được pháp luật bảo hộ). Chúng ta có thể
thấy rõ sự giống và khác nhau giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm tài sản với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm các quyền
nhân thân qua sự phân tích dưới đây.
1.2.1. Những điểm giống nhau
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản với trách nhiệm bồi
thường do xâm phạm các quyền nhân thân đều là một loại trách nhiệm pháp
lý. Đây chính là thái độ của Nhà nước đối với hành vi vi phạm và hậu quả của
hành vi đó gây ra. Cả hai loại trách nhiệm này đều là biện pháp cưỡng chế của
Nhà nước được áp dụng đối với người vi phạm, buộc người vi phạm phải chịu
trách nhiệm về hành vi của mình.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản với trách nhiệm bồi
thường do xâm phạm các quyền nhân thân đều là một loại trách nhiệm pháp
lý nên chỉ phát sinh khi và chỉ khi dựa trên các căn cứ do pháp luật qui định.
Những căn cứ đó được xác định cụ thể như: có thiệt hại, có hành vi trái pháp
luật gây thiệt hại, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt
hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại.
Ngoài ra, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản với trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền nhân thân còn có những điểm

giống nhau liên quan đến hậu quả (trách nhiệm vật chất), những trường hợp
được loại trừ, những trường hợp không được loại trừ
1.2.2. Những điểm khác nhau
Bên cạnh những điểm giống nhau, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm tài sản với trách nhiệm bồi thường do xâm phạm các quyền nhân thân
còn có những điểm khác biệt, chúng ta có thể thấy sự khác biệt này qua bảng
so sánh dưới đây:
TIÊU CHÍ
SO SÁNH
TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO
XÂM PHẠM TÀI SẢN
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM
CÁC QUYỀN NHÂN THÂN
1. Căn cứ phát
sinh
Phát sinh trong hợp đồng
hoặc ngoài hợp đồng
Chỉ phát sinh ngoài hợp đồng
2. Đối tượng bị
xâm hại
Tài sản (Khái niệm tài sản
được quy định tại Điều 163
Bộ luật dân sự: "Tài sản
bao gồm vật, tiền, giấy tờ
Các quyền nhân thân được pháp
luật qui định và bảo vệ
có giá và các quyền tài
sản")

3. Thiệt hại phải
bồi thường
Thiệt hại vật chất Thiệt hại vật chất; và
Thiệt hại tinh thần.
4. Hậu quả pháp
lý được áp dụng
Bồi thường thiệt hại Bồi thường; và/
Xin lỗi; hoặc/
Cải chính công khai trên
các phương tiện thông tin đại
chúng
5. Thay đổi chủ thể Có thể có sự thay đổi chủ
thể: chuyển giao quyền yêu
cầu hoặc chuyển giao nghĩa
vụ
Không thể thay đổi chủ thể,
không thể chuyển giao quyền
yêu cầu, Điều 309 khoản 1 điểm
a Bộ luật dân sự quy định: "1.
Bên có quyền yêu cầu thực hiện
nghĩa vụ dân sự có thể chuyển
giao quyền yêu cầu đó cho
người thế quyền theo thỏa
thuận, trừ những trường hợp sau
đây: a) quyền yêu cầu cấp
dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt
hại do xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín;…"
Chương 2

XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO SỨC KHỎE VÀ TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM
Trách nhiệm bồi thường nói chung, bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính
mạng, sức khỏe nói riêng là một loại trách nhiệm pháp lý, do đó trách nhiệm
bồi thường do xâm phạm tính mạng, sức khỏe phát sinh khi và chỉ khi thỏa
mãn đầy đủ các điều kiện do pháp luật qui định. Các điều kiện phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại (căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại)
do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm là những căn cứ do pháp luật qui định,
khi thỏa mãn các căn cứ đó thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm
sức khỏe, tính mạng phát sinh. Pháp luật dân sự không qui định cụ thể căn cứ
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng
mà chỉ qui định căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng nói chung. Do đó, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng được áp dụng để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
xâm phạm sức khỏe, tính mạng.
2.1. CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC
KHỎE VÀ TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM
Là một loại trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát
sinh khi thỏa mãn các căn cứ do pháp luật qui định. Việc xác định căn cứ
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại có ý nghĩa hết sức quan trọng: là
cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường, mức bồi thường Cơ sở phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đề cập tại Điều 307 (Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại) và Điều 604 (Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại) của Bộ luật dân sự năm 2005. Như vậy, trên cơ sở qui định tại hai điều
luật này, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định
gồm 4 điều kiện:
• Phải có thiệt hại xảy ra;
• Phải có hành vi gây thiệt hại;
• Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và hậu quả xảy ra;
• Người gây thiệt hại phải có lỗi.

2.1.1. Phải có thiệt hại xảy ra
Đây là điều kiện tiên quyết, điều kiện quan trọng nhất của trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bởi nếu không có thiệt hại thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại không bao giờ phát sinh. Mục đích của trách nhiệm bồi
thường thiệt hại là khôi phục, bù đắp những tổn thất cho người bị thiệt hại, do
đó phải có thiệt hại thì mục đích đó mới đạt được.
Nếu thiệt hại do tài sản bị xâm phạm thì việc xác định "có thiệt hại" là vấn đề
không mấy khó khăn, tuy nhiên trường hợp sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm
thì thiệt hại sẽ khó xác định, bởi chúng ta không thể "lượng hóa" được thiệt
hại trong trường hợp này. Vậy có thể hiểu thiệt hại là gì? Thiệt hại có thể
được hiểu theo hai khía cạnh: xã hội và pháp lý.
Theo ý nghĩa xã hội, mỗi hành vi trái pháp luật đều gây thiệt hại, bởi nó làm
ảnh hưởng đến những quan hệ xã hội nhất định.
Theo luật dân sự Việt Nam thì thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính
thành tiền do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài
sản của cá nhân và các chủ thể khác. Tổn thất thực tế được đề cập ở đây là
sự giảm sút, mất mát về lợi ích vật chất, tinh thần, hay những chi phí để ngăn
chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại mà người bị hại phải gánh chịu.
Những thiệt hại thực tế xảy ra có thể là thiệt hại vật chất hoặc tinh thần. Thiệt
hại vật chất là thiệt hại được biểu hiện cụ thể như tài sản đã mất mát, những
chi phí cần thiết để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế tài sản bị hư hỏng,
những khoản thu nhập thực tế bị mất.
Khi một người có hành vi trái pháp luật gây ra những thiệt hại về tính mạng,
sức khỏe của người khác thì thiệt hại được xác định như thế nào? Tính
mạng, sức khỏe của con người là vô giá không thể tính thành tiền, do vậy bồi
thường thiệt hại ở đây không phải là bồi thường về tính mạng, sức khỏe mà
nó là những bồi thường thiệt hại vật chất. Những chi phí cho việc cứu chữa,
bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng cho bên bị thiệt hại hoặc những chi
phí cần thiết khác.
Theo thông tư 173/UBTP-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao ngày

23/3/1972 hướng dẫn thì thiệt hại được xác định: "Đó là thiệt hại vật chất,
biểu hiện cụ thể là thiệt hại về tài sản hoặc những chi phí và những thu nhập
bị mất, do có sự thiệt hại về tính mạng, sức khỏe đưa đến. Thiệt hại đó phải
thực sự xảy ra và tính toán được".
Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 ghi nhận việc buộc
người gây thiệt hại "bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh
thần" cho người bị thiệt hại, người thân của họ.
Pháp luật về dân sự nói chung, chế định bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm nói riêng là những vấn đề rất nhạy cảm và vô cùng
phức tạp, bởi vì những thiệt hại về tinh thần là những thiệt hại phi vật chất,
không thể có công thức chung để quy ra tiền áp dụng cho các trường hợp.
Việc giải quyết bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cũng
chỉ nhằm an ủi, động viên làm dịu đi nỗi đau cho chính nạn nhân. Đây là vấn
đề rất khó, nhưng cho đến nay, về căn bản các cơ quan có thẩm quyền chưa
có ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể để áp dụng cho thống nhất, vì vậy khi
vận dụng vào thực tiễn còn gây nhiều tranh cãi, chưa thống nhất.
Trên thế giới, thiệt hại về tinh thần đã được một số nước ghi nhận từ lâu như
Liên Xô, Cộng hóa Liên bang Đức Trong cuốn "Trách nhiệm phát sinh do
gây thiệt hại" (Nhà xuất bản LGU, Lêningrat, 1973), tác giả Smirnốp T.V
khẳng định: "Nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu vật chất, văn hóa, tinh thần của
công dân Xô viết, về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ chỉ là thực
hiện đầy đủ khi người bị thiệt hại được bồi thường không những thiệt hại về
vật chất mà cả thiệt hại về tinh thần". Tại khoản 3, Điều 307 Bộ luật dân sự
của nước ta quy định: "Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó
thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải
bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt
hại". Như vậy, thiệt hại được hiểu là ngoài những thiệt hại vật chất còn có
những thiệt hại về tinh thần.
Thiệt hại xảy ra được đánh giá một cách khách quan, trung thực, đảm bảo

công bằng xã hội. Trên thực tế, mọi thiệt hại đều mang tính khách quan, tuy
nhiên, tiên lượng và đánh giá tính khách quan của sự thiệt hại lại thông qua ý
thức chủ quan của con người. Điều đó có nghĩa là trong điều kiện, hoàn cảnh
thực tế như vậy ai cũng công nhận thiệt hại là có và mọi người đều chấp nhận
việc đánh giá mức độ thiệt hại. Nhưng nhìn chung thì người bị thiệt hại có thể
phức tạp hóa vấn đề lên, như khai tăng giá trị thiệt hại còn người gây thiệt hại
có chiều hướng đơn giản hóa. Vì vậy mà người có vai trò đánh giá thiệt hại,
đại diện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền là rất quan trọng. Nhìn nhận và
đánh giá thiệt hại dựa trên cơ sở pháp luật quy định để xem xét có thiệt hại
xảy ra hay không, mức độ thiệt hại như thế nào
Thiệt hại phải tính toán được tương đương với một số lượng tiền xác định mới
đảm bảo đầy đủ cơ sở cho việc bồi thường. Tuy nhiên, đối với thiệt hại về mặt
tinh thần không thể tính toán bằng tiền. Hơn thế đây là khái niệm còn khá trừu
tượng, bởi "tinh thần" thì làm sao có thể cân, đo, đong, đếm cụ thể để xác
định thiệt hại, do vậy Tòa án chỉ có thể căn cứ vào từng trường hợp cụ thể xác
định số tiền bù đắp tổn thất về mặt tinh thần, nhằm đảm bảo quyền lợi của
người bị nạn và gia đình họ, khắc phục phần nào hậu quả xảy ra. Tòa án cũng
chỉ chấp nhận những thiệt hại hợp lý mà thôi, những thiệt hại mang tính suy
diễn như: "Tôi là người không bao giờ bị tai nạn, trong tháng này tôi bắt được
5 triệu đồng" hay "thu nhập của một người nông dân ở vùng quê nghèo là từ
2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng /tháng".
Có thiệt hại tức là những tổn thất thực tế, tồn tại khách quan và phải tính được
bằng một số tiền cụ thể nhất định, còn những thiệt hại mang tính suy diễn, chủ
quan sẽ không được thừa nhận nếu không có căn cứ xác đáng.
Như vậy, thiệt hại về vật chất là những thiệt hại trị giá được bằng tiền, đó là
thiệt hại thông thường trong các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại. Đó là những
thiệt hại vật chất trong các thiệt hại về tài sản, về tính mạng, sức khỏe, danh
dự, uy tín, nhân phẩm…
Thiệt hại tinh thần là những thiệt hại phi vật chất, không thể có công thức
chung để quy thành tiền áp dụng cho mọi trường hợp. Việc giải quyết bồi

thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần tùy vào từng trường hợp
cụ thể nhằm mục đích an ủi, động viên và phần nào đó tạo điều kiện để có thể
khắc phục khó khăn, làm dịu đi nỗi đau cho chính người bị thiệt hại hay cho
những người thân thích của họ.
Thiệt hại về tinh thần là sự thiệt hại về giá trị tinh thần, tình cảm hoặc sự suy
sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân. Hình thức biểu hiện thiệt hại về tinh thần
rất đa dạng như: Sự suy sụp tâm lý của người bị thiệt hại sau khi sức khỏe bị
xâm phạm làm cho bị tàn tật, bị biến dạng bề ngoài (ví dụ như bị sẹo ở mặt, bị
gãy chân làm cho người bị thiệt hại đi cà nhắc ).
Ngoài những thiệt hại về tinh thần mà bản thân người bị thiệt hại phải gánh
chịu thì có những trường hợp người thân thích của họ cũng phải gánh chịu
tổn thất về tinh thần này. Ví dụ, đó có thể là sự suy sụp, hoang mang, lo
lắng, sự đau thương của những người thân thích với cái chết của nạn nhân.
Khác với thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần không có tiêu chí chung để xác
định cho mọi cá nhân bởi điều kiện, hoàn cảnh của từng cá nhân là không
giống nhau, nhưng thiệt hại về tinh thần thường đi kèm với thiệt hại vật chất.
Điều 710 Bộ luật dân sự của Nhật Bản quy định: "Một người chịu trách nhiệm
về thiệt hại theo quy định của Điều 709 phải bồi thường cả về thiệt hại phi
vật chất bất kể thiệt hại như vậy xảy ra đối với quyền lợi, uy tín, hoặc tài sản
của người khác".
Ngoài ra, muốn bồi thường, sự thiệt hại phải thỏa mãn các điều kiện: thiệt hại
phải chắc chắn, nhất định, thực tế và chưa được bồi thường.
Nói đến sự thiệt hại chắc chắn, nhất định, thực tế là nói đến một sự thiệt hại
đã xảy ra, hoặc chưa xảy ra nhưng nhất định sẽ xảy ra và có thể ước lượng
được. Để chứng minh sự thiệt hại chắc chắn, người bị thiệt hại phải đưa ra
những chứng cứ cần thiết và tin cậy như: hóa đơn chứng từ thanh toán những
chi phí hợp lý nhằm cứu chữa, phục hồi sức khỏe…Một sự thiệt hại không
chắc chắn xảy ra hoặc chỉ có tính chất giả định hoặc chỉ là mất đi một cơ may
thì không được bồi thường. (Theo Bộ luật dân sự Nhật Bản thì việc "mất đi
một cơ may" được coi là một yếu tố cấu thành thiệt hại).

Bồi thường thiệt hại chính là nhằm khôi phục lại toàn bộ hoặc một phần tình
trạng tài sản trước khi xảy ra thiệt hại hoặc bù đắp những tổn thất do tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, bị xâm phạm nên thiệt hại được coi là
điều kiện có ý nghĩa quan trọng. Không thể bồi thường thiệt hại khi không có
thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại được hiểu là: bị tổn thất, hư hao về người và tài sản và được xác
định bằng một khoản tiền cụ thể. Thiệt hại gây ảnh hưởng đến các quan hệ
kinh tế - xã hội được pháp luật bảo vệ, đồng thời cũng phản ánh hậu quả của
hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức, pháp nhân cũng như của Nhà nước.
Pháp luật dân sự Việt Nam thừa nhận có thiệt hại về tinh thần, tuy nhiên có
quan điểm cho rằng thiệt hại về tinh thần chỉ là khái niệm xã hội và ở phạm vi
tình cảm. Nhưng có quan điểm cho rằng, bồi thường bằng tiền có thể khắc
phục phần nào thiệt hại về tinh thần, không thể dùng tiền bù đắp được. Tuy
nhiên, pháp luật dân sự Việt Nam quy định mức tiền bồi thường thiệt hại về
tinh thần tại khoản 2 Điều 609 và khoản 2 Điều 610. Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 08
tháng 7 năm 2006 hướng dẫn áp dụng một số qui định của Bộ luật dân sự năm
2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng đã có sự hướng dẫn cụ thể
về bồi thường tổn thất tinh thần.
Buộc người xâm phạm đến sức khỏe người khác phải bồi thường một khoản
tiền bù đắp tổn thất về mặt tinh thần cho người bị thiệt hại và cho những
người thân thích của người bị thiệt hại trong vụ bị xâm phạm tính mạng là
phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, phù hợp với phong tục tập quán, truyền
thống tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam.
2.1.2. Phải có hành vi gây thiệt hại
Hành vi gây thiệt hại trước tiên phải là hành vi pháp luật cấm thực hiện, nếu
hành vi đó được thực hiện mà pháp luật không cấm thì người thực hiện hành vi
đó không phải bồi thường thiệt hại. Không thể có người gây thiệt hại khi không
có hành vi gây thiệt hại. Hành vi gây thiệt hại là hành vi có ý thức của con người

diễn ra trái với qui định của pháp luật và gây thiệt hại tới các đối tượng được
pháp luật bảo vệ. Hành vi gây thiệt hại có thể bằng hành động hoặc không hành
động, hành động và không hành động đều là những biểu hiện của con người ra
ngoài thế giới khách quan, được ý thức kiểm soát, lý trí điều khiển và đều có
khả năng làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, gây
thiệt hại cho quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Hành động gây thiệt hại
có thể là tác động trực tiếp của chủ thể vào đối tượng gây thiệt hại hoặc có thể
là tác động gián tiếp của chủ thể vào đối tượng thông qua công cụ, phương
tiện gây thiệt hại. Không hành động gây thiệt hại là một hình thức của hành vi
gây thiệt hại, nó làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động,
gây thiệt hại cho khách thể bằng việc chủ thể không làm một việc pháp luật
quy định bắt buộc phải làm mặc dù có đầy đủ điều kiện để làm việc đó.
Thực tế thì việc xác định hành vi gây thiệt hại bằng hành động không khó, bởi
vì nó tác động trực tiếp đến đối tượng bị thiệt hại như: bắn, đâm, chém…
Nhưng ở dạng không hành động hoặc được thực hiện thông qua hành vi của
người khác thì cần phải xác định mối quan hệ giữa thiệt hại với hành vi của
người gây thiệt hại và trách nhiệm, nghĩa vụ của họ đối với thiệt hại xảy ra.
Ví dụ: người gây thiệt hại do phòng vệ chính đáng, do tình thế cấp thiết thì
không phải bồi thường. Tuy nhiên, nếu hành vi phòng vệ chính đáng và tình
thế cấp thiết đó mà vượt quá giới hạn cho phép thì các hành vi bị coi là trái
pháp luật và phải bồi thường.
Trước khi có Bộ luật dân sự thì ngành Tòa án thường căn cứ vào Thông tư số
173/UBTP-TANDTC ngày 23/3/1972 của Tòa án nhân dân tối cao để giải
quyết các quan hệ pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Theo tinh thần nội dung Thông tư thì hành vi trái pháp luật trong quan hệ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng: "Có thể là một việc phạm pháp về hình sự,
một vi phạm pháp luật về dân sự, một vi phạm đường lối chính sách của
Đảng, Nhà nước hoặc một vi phạm quy tắc sinh hoạt xã hội".
Như vậy, khi xác định hành vi gây thiệt hại cho người bị thiệt hại để phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, chúng ta có thể thấy có những đặc điểm của

hành vi trái pháp luật gây thiệt hại:
Thứ nhất, hành vi gây thiệt hại phải trái pháp luật, nếu không trái pháp luật thì
không phải bồi thường mặc dù có thiệt hại xảy ra. Hành vi trái pháp luật ở đây
được hiểu là hành vi vi phạm các qui định của pháp luật, ngoài ra những hành
vi vi phạm các qui tắc xử sự sinh hoạt trong đời sống cũng có thể coi là hành
vi trái pháp luật nếu gây ra thiệt hại. Những hành vi gây thiệt hại nhưng do
yêu cầu của nghề nghiệp hoặc gây thiệt hại theo bản án, quyết định của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền thì không phải là hành vi trái pháp luật. Ví dụ:
để cứu chữa bệnh nhân tránh vết thương bị hoại tử, bác sĩ phải cắt bỏ chân
của bệnh nhân, những người phá dỡ các công trình xây dựng trái phép, những
người thi hành án tử hình
Thứ hai, hành vi trái pháp luật có thể được thể hiện dưới dạng hành động hoặc
dưới dạng không hành động.
Thứ ba, hành vi gây thiệt hại là hoạt động có ý thức và ý chí. Không thể có
hành vi gây thiệt hại mà những biểu hiện bên ngoài của nó không được ý thức
của chủ thể kiểm soát hay không được ý chí của họ điều khiển.
2.1.3. Mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi gây thiệt hại
Mối quan hệ nhân quả là sự liên hệ giữa hai hiện tượng trong đó có chứa
đựng nguyên nhân và kết quả. Phải có sự vận động của hiện tượng là nguyên nhân
trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể mới nảy sinh hiện tượng là kết quả.
Hành vi vi phạm pháp luật là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại là hậu quả. Xét về
nguyên tắc, nguyên nhân phải xảy ra trước kết quả trong khoảng thời gian xác
định và hành vi trái pháp luật là nguyên nhân trực tiếp (nguyên nhân quyết định
đối với thiệt hại xảy ra). Có nghĩa là thiệt hại đã có sẵn cơ sở trong hành vi. Một
hành vi vi phạm nhất định trong một điều kiện xác định thì chỉ làm nảy sinh ra
hậu quả này chứ không phải là hậu quả nào khác. Thiệt hại xảy ra phải đúng là
kết quả tất yếu của hành vi vi phạm và ngược lại, nếu không có hành vi thì
thiệt hại sẽ không xảy đến. Nếu không xác định được mối quan hệ này sẽ không
xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người có hành vi vi phạm và
không buộc được người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại.

Nếu chúng ta làm rõ được mối quan hệ nhân quả, sẽ trả lời được hai câu hỏi
được đặt ra:
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có phát sinh không?
- Mức bồi thường thiệt hại được xác định như thế nào nếu
nhiều người gây thiệt hại cho một người hoặc cả người gây thiệt hại và
người bị thiệt hại đều có lỗi?
Trong thực tế mối quan hệ giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra biểu
hiện rất phức tạp.
Một hành vi trái pháp luật cũng có thể gây nhiều thiệt hại vừa về vật chất,
vừa về tinh thần. Có trường hợp thiệt hại xảy ra do một hành vi trái pháp luật
khác xen vào gây ra chứ không phải do hành vi có chứa đựng khả năng thực
tế làm phát sinh thiệt hại.
Ví dụ: A gây thương tích cho B, B được mọi người đưa vào cơ sở y tế cấp
cứu. Với tình trạng vết thương như vậy thì hoàn toàn có thể cứu chữa được
người bị hại. Tuy nhiên, do tắc trách trong quá trình cứu chữa (bác sĩ đã
không vô trùng dụng cụ cứu chữa) nên vết thương của B bị nhiễm trùng dẫn
tới hậu quả là B bị chết.
Cần phân biệt giữa nguyên nhân và điều kiện: nguyên nhân trực tiếp gây ra
thiệt hại, điều kiện không trực tiếp gây thiệt hại nhưng có tác động để cho
thiệt hại xảy ra nhanh hơn. Vậy trong mối quan hệ nhân quả, nguyên nhân là
yếu tố quyết định còn điều kiện là yếu tố quan trọng dẫn đến kết quả. Nguyên
nhân và điều kiện trong mối quan hệ nhân quả có thể là một hay nhiều hiện
tượng, nhưng giữa chúng có một điểm khác nhau ở chỗ quan hệ với hậu quả
xảy ra. Nếu không có nguyên nhân thì không có hiện tượng, sự vật xảy ra và
cũng không tồn tại một điều kiện. Nhưng nhiều trường hợp có nguyên nhân
xảy ra nhưng không có kết quả nếu không có điều kiện.
Về nguyên tắc thì không có việc hiện tượng này chỉ là nguyên nhân còn hiện
tượng kia chỉ là điều kiện. Mối quan hệ nhân quả có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc xác định thiệt hại.Về mặt lý luận cũng như thực tế để xác định mối
quan hệ nhân quả là một vấn đề tương đối khó khăn. Bởi vì sự thiệt hại thông

thường thì do nhiều nguyên nhân chứ không chỉ do một nguyên nhân gây ra.
Các nguyên nhân này không tồn tại độc lập mà phối hợp với nhau phát sinh ra
kết quả, nếu thiếu một trong các nguyên nhân thì không có kết quả xảy ra.
Tuy nhiên, mức độ tác động của từng nguyên nhân đối với kết quả có thể là
khác nhau, sự khác nhau này đã tạo ra vai trò chủ yếu và thứ yếu của từng
nguyên nhân. Trong thực tiễn thì thiệt hại có thể có nhiều nguyên nhân, vậy
xác định nguyên nhân nào là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp, nguyên nhân
nào là nguyên nhân thứ yếu và gián tiếp, một thiệt hại có thể kéo theo nhiều
thiệt hại khác, thiệt hại đầu tiên có coi là nguyên nhân của thiệt hại sau hay
không. Chúng ta không thể căn cứ vào thứ tự trước sau của hành vi gây thiệt
hại để xác định nguyên nhân chủ yếu hay thứ yếu được, nhất là trong các vụ
án có nhiều người tham gia.
Tóm lại, mối quan hệ nhân quả là sự tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào
ý chí của con người, khi xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm
và thiệt hại xảy ra phải bảo đảm tính khách quan, phải đặt trong mối liên hệ
tất nhiên, nội tại của các hiện tượng chứ không được chủ quan mà xác định
quan hệ nhân quả.
2.1.4. Người gây thiệt hại có lỗi
Lỗi thể hiện dưới hai hình thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Khoản 2 Điều 309 quy
định:
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ
gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không
mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của
mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt
hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại,
nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi trái pháp luật của mình
và đối với thiệt hại do hành vi gây nên, người có hành vi trái pháp luật gây
thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm dân sự về hành vi vi phạm của mình gây ra

khi họ có lỗi. Lỗi được cấu thành bởi hai yếu tố đó là lý trí và ý chí. Lý trí là
sự thể hiện năng lực nhận thức thực tại khách quan, còn ý chí là yếu tố biểu
hiện năng lực điều khiển hành vi trên cơ sở nhận thức thực tại khách quan.
Có thể xem xét hành vi của người gây thiệt hại trên các mặt sau:
- Nhận thức của người gây thiệt hại;
- Hành vi gây thiệt hại có đúng pháp luật hay trái pháp luật;
- Hành vi cụ thể của người gây thiệt hại.
Nếu xét lỗi dưới góc độ quan hệ của cá nhân thì lỗi của người gây thiệt hại là
sự biểu hiện quan hệ giữa bản thân người gây thiệt hại và xã hội mà nội dung
của nó là sự phủ định chủ quan những quy tắc ứng xử chung của xã hội, đòi
hỏi cá nhân phải tôn trọng được thể hiện bằng các quy định của pháp luật.
Để bảo vệ triệt để lợi ích của người bị thiệt hại trong quan hệ giữa các công
dân với nhau và đặc biệt là trong quan hệ giữa công dân với Nhà nước, xuất
phát từ nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền
và lợi ích hợp pháp của người khác, pháp luật dân sự quy định lỗi có thể được
suy đoán từ ba điều kiện trên. Như vậy, có thể nói rằng: trách nhiệm hình sự,
trách nhiệm dân sự hay bất cứ trách nhiệm pháp lý nào khác nào đều phải dựa
trên cơ sở lỗi. Một người gây thiệt hại mà không có lỗi thì dù thiệt hại tới mức
nào cũng không phải bồi thường - đó là nguyên tắc. (trường hợp phòng vệ
chính đáng, sự kiện bất ngờ, tình thế cấp thiết, lỗi hoàn toàn do người bị thiệt
hại gây ra).
Lỗi cố ý biểu hiện trạng thái tâm lý của một người biết hành vi của mình là
sai, thấy rõ hậu quả của hành vi đó, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc
không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả của hành vi đó xảy
ra. Lỗi vô ý là biểu hiện trạng thái tâm lý của người gây thiệt hại, thấy trước
được hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại đó
không thể xảy ra hoặc có thể xảy ra nhưng ngăn ngừa được.
Lỗi có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức độ bồi thường thiệt hại.
Trong trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại thì người
gây thiệt hại không có trách nhiệm phải bồi thường. Mức độ bồi thường phụ

thuộc vào mức độ lỗi của người gây thiệt hại. Khi nghiên cứu về lỗi vô ý có
thể chia lỗi vô ý ra làm hai loại:
- Vô ý vì cẩu thả.
- Vô ý vì quá tự tin.
Vô ý cẩu thả là trường hợp người có hành vi vi phạm mặc dù có thể thấy
trước và phải thấy trước thiệt hại có thể xảy ra.
Vô ý vì quá tự tin là trường hợp người có hành vi vi phạm thấy trước khả
năng hành vi của mình có thể gây thiệt hại và không mong muốn thiệt hại xảy
ra nhưng lại tin là có thể ngăn chặn được.

×