Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

LUẬN VĂN: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe và tính mạng doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (990.81 KB, 71 trang )








LUẬN VĂN:

Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật về bồi thường thiệt hại do xâm
phạm sức khỏe và tính mạng








MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ai gây thiệt hại thì người đó phải bồi thường - vấn đề này đã được các nhà làm
luật coi đó là một nguyên tắc và cụ thể hóa trong văn bản pháp luật. Xét về nguồn gốc lịch
sử thì chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ra đời từ rất sớm. Qua các
giai đoạn lịch sử khác nhau, mỗi quốc gia đều có những qui định chung về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, bên cạnh đó còn có những qui định cụ thể về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng trong từng trường hợp cụ thể bởi sự đa dạng về chủ thể gây thiệt
hại, đối tượng bị thiệt hại, hoàn cảnh bị thiệt hại
Bộ luật dân sự năm 1995 được áp dụng để giải quyết cho các tranh chấp dân sự


nói chung, tranh chấp về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng kể từ
ngày 1/7/1996. Qua gần 10 năm thi hành, Bộ luật dân sự 1995 đã phát huy tác dụng trong
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể trong giao lưu dân sự, góp phần làm ổn định các
quan hệ xã hội. Bên cạnh những thành công đã đạt được, Bộ luật dân sự 1995 còn bộc lộ
nhiều bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Bộ luật dân sự 2005 ra
đời thay thế cho Bộ luật dân sự 1995 với nhiều sự sửa đổi, bổ sung nhất định, trong đó có
chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Bộ luật dân sự 2005 qui định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng từ Điều 604 đến Điều 630, trong đó bổ sung qui định về
bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể, bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả, hài
cốt và rất nhiều sự sửa đổi khác trong từng qui định cụ thể.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức
khỏe, tính mạng nói riêng là một trong những loại trách nhiệm gây nhiều tranh cãi về căn
cứ phát sinh, mức bồi thường ; hơn nữa qui định của pháp luật về vấn đề này chủ yếu
dừng lại ở các qui định mang tính "định tính" mà không "định lượng" nên gây khó khăn rất

nhiều cho các cán bộ áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, án kiện về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng chiếm tỉ trọng tương đối lớn trong các án kiện
về bồi thường; sự đối lập về tâm lý của người gây thiệt hại với người bị thiệt hại hoặc gia
đình của người bị thiệt hại làm cho các án kiện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
xâm phạm sức khỏe, tính mạng bị kháng cáo, khiếu nại từ phía đương sự.
Xuất phát từ tình hình trên đây, việc nghiên cứu, tìm hiểu các qui định của pháp
luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức
khỏe, tính mạng nói riêng là một trong những vấn đề có ý nghĩa pháp lý và thực tiễn sâu
sắc.
2. Tình hình nghiên cứu
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được nhiều nhà khoa học nghiên
cứu pháp luật quan tâm. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, trong đó có đề cập đến trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng như các bài viết: TS. Phùng Trung Tập: "Lỗi và

trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tháng 5-
2004; Đinh Văn Quế: "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe của con người", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tháng 5-2004); Tưởng Duy Lượng -
Nguyễn Văn Cường: "Cách tính bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm", Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 10, tháng 5-2004); Lê Mai Anh: "Những vấn đề cơ bản về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự", Luận văn thạc sĩ luật học;
Lê Thị Bích Lan: "Một số vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín", Luận văn thạc sĩ luật học (xem Phụ lục).
Nhìn chung, các đề tài đó đã nêu và phân tích những vấn đề chung về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong luật dân sự; đưa ra các yêu cầu cơ bản trong việc xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại, các quy định của pháp luật dân sự trong việc bồi thường thiệt
hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín, cơ sở để xác định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các hình thức và mức bồi thường, những trường hợp
miễn hoặc giảm trách nhiệm bồi thường

Tuy nhiên, các đề tài này hoặc đề cập ở dạng khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng hoặc có đề cập chi tiết cụ thể hơn nhưng vào thời điểm
của Bộ luật dân sự 1995 đang tồn tại hiệu lực pháp lý.
Tìm hiểu một cách có hệ thống, chi tiết về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm sức khỏe, tính mạng theo Bộ luật dân sự 2005 và các văn bản hướng dẫn mới thì
chưa có một công trình khoa học nào cho đến thời điểm hiện tại.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Thông qua việc tìm hiểu các qui định của Bộ luật dân sự 2005 và các văn bản
hướng dẫn thi hành, giúp cho người nghiên cứu có cái nhìn hoàn chỉnh dưới lăng kính
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, qua đó phục vụ tốt hơn cho
công việc thực tế của bản thân. Ngoài ra, qua việc nghiên cứu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng do xâm phạm sức khỏe, tính mạng cũng như việc áp dụng vào thực
tiễn sẽ có những kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thực thi, sửa
đổi và tuyên truyền pháp luật. Để đạt được mục đính này, nhiệm vụ nghiên cứu của luận
văn là tìm hiểu các qui định của các văn bản pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi

thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng; tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật
về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng, qua đó chỉ ra những bất cập trong
các qui định của pháp luật và phương hướng hoàn thiện qui định của pháp luật về bồi
thường thiệt hại nói chung, pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính
mạng nói riêng.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi giới hạn nghiên cứu đề tài cao học luật, chúng tôi chỉ nghiên cứu
những vấn đề lý luận cơ bản nhất về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do có hành vi trái
pháp luật xâm phạm đến sức khỏe và tính mạng, đồng thời xem xét thực tiễn giải quyết các
vụ án dân sự xâm phạm sức khỏe và tính mạng. Luận văn này cũng đưa ra những giải pháp
nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong giải quyết bồi thường thiệt hại sức khỏe và tính
mạng khi áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự.
5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê cũng được sử dụng trong
quá trình thực hiện đề tài.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn sẽ đề cập một cách có hệ thống, chi tiết trong qui định của pháp luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng; chỉ ra những khó
khăn, bất cập trong việc áp dụng pháp luật, đồng thời có những kiến nghị trong việc hoàn
thiện và áp dụng pháp luật trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm sức khỏe, tính mạng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
trong luật dân sự

Chương 2: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sức khỏe và tính mạng bị
xâm phạm
Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do
xâm phạm sức khỏe và tính mạng


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI
HỢP ĐỒNG TRONG LUẬT DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA CỦA TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG LUẬT DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Thời kỳ sơ khai, trách nhiệm bồi thường chưa được đặt ra, theo đó người ta
thường áp dụng nguyên tắc "nợ gì trả nấy" khi có hành vi gây thiệt hại. Luật XII bảng
được ban hành vào năm 449 trước Công nguyên có qui định: Kẻ nào làm gãy tay người
khác thì kẻ đó phải chịu lại tương tự như vậy. Khi áp dụng nguyên tắc trả thù ngang bằng,
lợi ích của người bị thiệt hại không được bảo đảm, hơn nữa lại có một thiệt hại khác phát
sinh. Đây chính là lý do để sau đó người ta xem xét vấn đề bồi thường thiệt hại.
Xét về nguồn gốc lịch sử, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một
trong những chế định có lịch sử sớm nhất của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng là chế định gây nhiều tranh cãi, có nhiều quan điểm
của các nhà nghiên cứu luật pháp cũng như các cán bộ làm công tác thực tiễn.
Trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng luôn được hoàn thiện bởi các chuyên gia pháp lý. Ở nước ta, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng đã được qui định trong Quốc triều Hình luật và Hoàng Việt luật
lệ. Pháp luật mỗi nước có thể có những qui định khác nhau liên quan đến xác định mức bồi
thường, tuy nhiên một nguyên tắc cơ bản luôn tồn tại - đó là: "Người gây thiệt hại phải bồi
thường thiệt hại cho người bị thiệt hại". Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long đều chưa
có sự phân biệt rõ nét về trách nhiệm bồi thường dân sự. Sự phân biệt rạch ròi giữa trách

nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự chỉ ra đời trên cơ sở ba bộ luật đầu tiên (Bộ luật Nam
Kỳ ban hành ngày 10/3/1883; bộ Dân luật Bắc Kỳ ban hành ngày 01/4/1931; bộ Dân luật
Trung Kỳ ban hành ngày 31/10/1936) và các nguyên lý chung về trách nhiệm bồi thường
dân sự lần đầu được ghi nhận một cách cụ thể tại Điều 712 đến Điều 716 (Bộ Dân luật Bắc

Kỳ); Điều 761 đến Điều 767 (Bộ Dân luật Trung Kỳ) và cho đến năm 1972 chính quyền
Sài Gòn có ban hành bộ Dân luật Sài Gòn từ Điều 729 đến Điều 739 đề cập về trách nhiệm
bồi thường dân sự.
Cách mạng tháng Tám thành công, đánh dấu một bước ngoặt mới: Nhà nước Việt
Nam dân chủ ra đời, ngay lúc này chúng ta chưa thể ban hành được các văn bản quy phạm
pháp luật ngay. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội diễn ra hàng ngày, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã lần lượt ký Sắc lệnh số 90/SL ngày 10/10/1945 và Sắc lệnh số 97/SL ngày
22/5/1950 thừa nhận luật lệ cũ trên tinh thần không trái với nguyên tắc độc lập và chính
thể dân chủ cộng hòa của Nhà nước ta. Những quy định trong Sắc lệnh số 97/SL đã đặt
nền móng cho sự hình thành và phát triển của luật dân sự. Lần đầu tiên những nguyên tắc
thực sự dân chủ, tiến bộ mang tính nhân dân sâu sắc được pháp điển hóa. Như nguyên tắc:
"Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành xử nó đúng với quyền lợi
của nhân dân" hay "người ta chỉ được hướng dụng và sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu
của mình một cách hợp pháp và không gây thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân".
Việc giải quyết các quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trên cơ sở tổng kết
kinh nghiệm của ngành tòa án. Qua thực tiễn xét xử, vận dụng và kế thừa những quy định
pháp luật đã có, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư 173/UBTP ngày 23/3/1972 hướng
dẫn công tác xét xử, trong đó nói rõ điều kiện phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại,
nguyên tắc, cách xác định thiệt hại
Thông tư số 03 ngày 5/4/1983 bổ sung giải quyết bồi thường thiệt hại trong các vụ
tai nạn giao thông đều là văn bản dưới luật, lại ban hành trong điều kiện nền kinh tế tập
trung bao cấp, tuy đề cập đến nhiều vấn đề xong chỉ mang tính định hướng, chưa cụ thể
Bên cạnh đó, xu hướng phát triển kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, đòi hỏi phải có bộ luật dân sự điều chỉnh một lĩnh vực quan hệ xã hội rộng lớn.
Bộ luật Dân sự ra đời pháp điển hóa một bước quan trọng tạo ra một văn bản pháp luật

thống nhất nhằm khắc phục những tình trạng tản mạn, trùng lặp, mâu thuẫn của pháp luật
dân sự trước đó.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những trách nhiệm
dân sự, được áp dụng với những người có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại cho người
khác. Chế định "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng’’ được hệ thống ở

chương V, phần thứ 3 với các qui định từ Điều 604 đến Điều 630 làm cơ sở pháp lý quan
trọng trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, đồng thời giải quyết khách
quan, nhanh chóng, công bằng theo quy định của pháp luật.
Theo khoản 5 Điều 281 Bộ luật dân sự Việt Nam thì một trong những căn cứ làm phát
sinh nghĩa vụ dân sự đó là: "Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật".
Theo qui định tại Điều 604 Bộ luật dân sự thì sự kiện "gây thiệt hại do hành vi trái
pháp luật" là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng. Nhà làm luật
trong trường hợp này đã đồng nghĩa "trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" với
"nghĩa vụ bồi thường do hành vi trái pháp luật" - Điều 604 Bộ luật dân sự đã xác nhận sự
đồng nghĩa này.
Pháp luật nhà nước ta sử dụng nhiều phương thức khác nhau để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức khi bị xâm phạm bởi những hành vi trái pháp luật.
Khi một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đối với người khác làm phát sinh
các quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại.
Điều 604 Bộ luật dân sự quy định:
1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân,
xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi
thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.
Như vậy, bồi thường thiệt hại là quan hệ phát sinh từ hậu quả của hành vi trái pháp
luật xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản các quyền lợi

ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc của
các chủ thể khác. Bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có
hành vi gây ra thiệt hại phải bù đắp, đền bù những tổn thất về vật chất, về tinh thần cho
bên bị thiệt hại. Điều kiện để phát sinh trách nhiệm này là phải có thiệt hại, có hành vi trái

pháp luật, có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra có lỗi của
người gây thiệt hại.
Vậy trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là gì? Qua những phân tích trên
đây, có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý,
là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước theo đó người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt
hại do hành vi của mình gây ra khi hành vi đó được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý xâm
hại tới tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, và các quyền nhân thân
khác của cá nhân, tài sản, danh dự, uy tín của pháp nhân hoặc của chủ thể khác.
1.1.2. Ý nghĩa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Là một loại trách nhiệm pháp lý, được áp dụng khi thỏa mãn những điều kiện do
pháp luật qui định, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có ý nghĩa pháp lý và
ý nghĩa xã hội sâu sắc, điều đó được thể hiện trên một số phương diện sau đây:
Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Trong các quan hệ xã hội nói chung, giao lưu dân sự nói riêng, chủ thể tham gia
nhằm thỏa mãn những lợi ích vật chất hoặc tinh thần của mình. Để xã hội ngày càng phát
triển, các chủ thể phải tham gia nhiều quan hệ xã hội khác nhau và trong các quan hệ xã
hội mà chủ thể tham gia thì lợi ích luôn là tâm điểm để chủ thể hướng tới. Hiến pháp và
các văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý sau Hiến pháp luôn ghi nhận và bảo vệ quyền lợi
ích hợp pháp của các chủ thể. Đó có thể là lợi ích vật chất, thể hiện ở quyền sở hữu tài sản,
nhưng cũng có thể là lợi ích tinh thần, thể hiện ở các quyền nhân thân được pháp luật bảo
vệ. Bằng việc qui định căn cứ phát sinh, nguyên tắc bồi thường thì chế định bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể trong các quan hệ xã hội khác nhau.

Thứ hai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định góp phần
đảm bảo công bằng xã hội.

Nguyên tắc chung của pháp luật là một người phải chịu trách nhiệm về hành vi
và hậu quả do hành vi đó mang lại. Bằng việc buộc người gây thiệt hại phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra cho người bị thiệt hại, chế định
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã góp phần bảo đảm công bằng xã hội. Đây cũng là
nguyên tắc, là mục tiêu mà pháp luật đặt ra. Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng đã cụ thể hóa và thể hiện rất rõ nguyên tắc công bằng trong bồi thường thiệt hại.
Theo chế định này, ai gây thiệt hại thì người ấy phải bồi thường, tuy nhiên sẽ có những
trường hợp riêng biệt của trách nhiệm bồi thường thiệt hại như nguyên tắc giảm mức bồi
thường, bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng,
bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi
Thứ ba, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định góp phần
răn đe, giáo dục, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, gây thiệt hại
trái pháp luật nói riêng.
Ngoài mục đích buộc bên vi phạm phải chịu trách nhiệm do hành vi vi phạm
của mình gây ra - nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự - chế định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại còn thể hiện ý nghĩa nhân đạo, ý nghĩa xã hội sâu sắc. Thông qua chế
định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cùng với việc vận dụng chế định này để giải
quyết các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn có ý nghĩa răn đe, giáo
dục và phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, hành vi gây thiệt hại trái
pháp luật nói riêng. Ngoài người vi phạm, những người khác cũng sẽ thấy rằng nếu
mình có hành vi gây thiệt hại thì cũng sẽ chịu sự xử lý của pháp luật.
Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn có ý nghĩa trong việc tuyên
truyền, giáo dục pháp luật thông qua những biện pháp chế tài nghiêm khắc. Ngoài ra, ý
thức pháp luật của người dân cũng ngày một được nâng cao hơn.
1.2. SO SÁNH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM
TÀI SẢN VỚI TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM CÁC

QUYỀN NHÂN THÂN

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng rất đa dạng, một trong những sự
đa dạng đó là đối tượng bị thiệt hại. Đối tượng bị thiệt hại có thể là tài sản, nhưng cũng có
thể là tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín (sự cụ thể hóa các quyền nhân thân
được pháp luật bảo hộ). Chúng ta có thể thấy rõ sự giống và khác nhau giữa trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm các quyền nhân thân qua sự phân tích dưới đây.
1.2.1. Những điểm giống nhau
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản với trách nhiệm bồi thường
do xâm phạm các quyền nhân thân đều là một loại trách nhiệm pháp lý. Đây chính là thái độ
của Nhà nước đối với hành vi vi phạm và hậu quả của hành vi đó gây ra. Cả hai loại trách
nhiệm này đều là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được áp dụng đối với người vi phạm,
buộc người vi phạm phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản với trách nhiệm bồi thường
do xâm phạm các quyền nhân thân đều là một loại trách nhiệm pháp lý nên chỉ phát sinh
khi và chỉ khi dựa trên các căn cứ do pháp luật qui định. Những căn cứ đó được xác định
cụ thể như: có thiệt hại, có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại, có mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại.
Ngoài ra, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản với trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền nhân thân còn có những điểm giống nhau liên
quan đến hậu quả (trách nhiệm vật chất), những trường hợp được loại trừ, những trường
hợp không được loại trừ
1.2.2. Những điểm khác nhau
Bên cạnh những điểm giống nhau, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm
tài sản với trách nhiệm bồi thường do xâm phạm các quyền nhân thân còn có những điểm
khác biệt, chúng ta có thể thấy sự khác biệt này qua bảng so sánh dưới đây:
TIÊU CHÍ
SO SÁNH
TRÁCH NHIỆM BỒI

THƯỜNG THIỆT HẠI
DO XÂM PHẠM TÀI
TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO
XÂM PHẠM

SẢN CÁC QUYỀN NHÂN THÂN
1. Căn cứ phát sinh

Phát sinh trong hợp đồn
g
hoặc ngoài hợp đồng
Chỉ phát sinh ngoài hợp đồng
2. Đối tư
ợng bị
xâm hại
Tài s
ản (Khái niệm tài sản
được quy định tại Đi
ều 163
Bộ luật dân sự: "Tài s
ản bao
g
ồm vật, tiền, giấy tờ có giá
và các quyền tài sản")
Các quyền nhân thân đư
ợc pháp
luật qui định và bảo vệ
3. Thi
ệt hại phải

bồi thường
Thiệt hại vật chất - Thiệt hại vật chất; và
- Thiệt hại tinh thần.
4. H
ậu quả pháp
lý được áp dụng
Bồi thường thiệt hại - Bồi thường; và/
- Xin lỗi; hoặc/
- C
ải chính công khai trên các
phương tiện thông tin đại chúng
5. Thay đổi chủ thể Có thể có sự thay đổi chủ thể
:
chuy
ển giao quyền yêu cầu
hoặc chuyển giao nghĩa vụ
Không thể thay đổi chủ thể, không

thể chuyển giao quyền yêu cầu
,
Điều 309 khoản 1 điểm a B
ộ luật
dân sự quy định: "1. Bên có quyền

yêu cầu thực hiện nghĩa vụ
dân
s
ự có thể chuyển giao quyền yêu
cầu đó cho ngư
ời thế quyền theo

thỏa thuận, trừ những trư
ờng
hợp sau đây: a) quy
ền yêu cầu
cấp dưỡng, yêu cầu bồi thư
ờng
thiệt hại do xâm phạm đ
ến tính
mạng, sức khỏe, danh d
ự, nhân

phẩm, uy tín;…"


Chương 2
XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO SỨC KHỎE VÀ TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM

Trách nhiệm bồi thường nói chung, bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng,
sức khỏe nói riêng là một loại trách nhiệm pháp lý, do đó trách nhiệm bồi thường do xâm
phạm tính mạng, sức khỏe phát sinh khi và chỉ khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện do pháp
luật qui định. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại (căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại) do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm là những căn cứ do
pháp luật qui định, khi thỏa mãn các căn cứ đó thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm sức khỏe, tính mạng phát sinh. Pháp luật dân sự không qui định cụ thể căn cứ phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng mà chỉ qui định
căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung. Do đó, căn cứ
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được áp dụng để xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng.
2.1. CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO

SỨC KHỎE VÀ TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM
Là một loại trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh
khi thỏa mãn các căn cứ do pháp luật qui định. Việc xác định căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại có ý nghĩa hết sức quan trọng: là cơ sở để xác định trách
nhiệm bồi thường, mức bồi thường Cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
được đề cập tại Điều 307 (Trách nhiệm bồi thường thiệt hại) và Điều 604 (Căn cứ phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại) của Bộ luật dân sự năm 2005. Như vậy, trên cơ sở
qui định tại hai điều luật này, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác
định gồm 4 điều kiện:
 Phải có thiệt hại xảy ra;
 Phải có hành vi gây thiệt hại;
 Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và hậu quả xảy ra;

 Người gây thiệt hại phải có lỗi.
2.1.1. Phải có thiệt hại xảy ra
Đây là điều kiện tiên quyết, điều kiện quan trọng nhất của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, bởi nếu không có thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại
không bao giờ phát sinh. Mục đích của trách nhiệm bồi thường thiệt hại là khôi phục, bù
đắp những tổn thất cho người bị thiệt hại, do đó phải có thiệt hại thì mục đích đó mới đạt
được.
Nếu thiệt hại do tài sản bị xâm phạm thì việc xác định "có thiệt hại" là vấn đề
không mấy khó khăn, tuy nhiên trường hợp sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm thì thiệt hại
sẽ khó xác định, bởi chúng ta không thể "lượng hóa" được thiệt hại trong trường hợp này.
Vậy có thể hiểu thiệt hại là gì? Thiệt hại có thể được hiểu theo hai khía cạnh: xã hội và
pháp lý.
Theo ý nghĩa xã hội, mỗi hành vi trái pháp luật đều gây thiệt hại, bởi nó làm ảnh
hưởng đến những quan hệ xã hội nhất định.
Theo luật dân sự Việt Nam thì thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành
tiền do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân và
các chủ thể khác. Tổn thất thực tế được đề cập ở đây là sự giảm sút, mất mát về lợi ích vật

chất, tinh thần, hay những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại mà người bị
hại phải gánh chịu.
Những thiệt hại thực tế xảy ra có thể là thiệt hại vật chất hoặc tinh thần. Thiệt hại
vật chất là thiệt hại được biểu hiện cụ thể như tài sản đã mất mát, những chi phí cần thiết
để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế tài sản bị hư hỏng, những khoản thu nhập thực tế
bị mất.
Khi một người có hành vi trái pháp luật gây ra những thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe của người khác thì thiệt hại được xác định như thế nào? Tính mạng, sức khỏe của
con người là vô giá không thể tính thành tiền, do vậy bồi thường thiệt hại ở đây không phải
là bồi thường về tính mạng, sức khỏe mà nó là những bồi thường thiệt hại vật chất. Những

chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng cho bên bị thiệt hại
hoặc những chi phí cần thiết khác.
Theo thông tư 173/UBTP-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao ngày 23/3/1972
hướng dẫn thì thiệt hại được xác định: "Đó là thiệt hại vật chất, biểu hiện cụ thể là thiệt
hại về tài sản hoặc những chi phí và những thu nhập bị mất, do có sự thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe đưa đến. Thiệt hại đó phải thực sự xảy ra và tính toán được".
Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 ghi nhận việc buộc người
gây thiệt hại "bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần" cho người bị thiệt
hại, người thân của họ.
Pháp luật về dân sự nói chung, chế định bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm nói riêng là những vấn đề rất nhạy cảm và vô cùng phức tạp,
bởi vì những thiệt hại về tinh thần là những thiệt hại phi vật chất, không thể có công thức
chung để quy ra tiền áp dụng cho các trường hợp. Việc giải quyết bồi thường một khoản
tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cũng chỉ nhằm an ủi, động viên làm dịu đi nỗi đau cho
chính nạn nhân. Đây là vấn đề rất khó, nhưng cho đến nay, về căn bản các cơ quan có
thẩm quyền chưa có ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể để áp dụng cho thống nhất, vì vậy
khi vận dụng vào thực tiễn còn gây nhiều tranh cãi, chưa thống nhất.
Trên thế giới, thiệt hại về tinh thần đã được một số nước ghi nhận từ lâu như Liên
Xô, Cộng hóa Liên bang Đức Trong cuốn "Trách nhiệm phát sinh do gây thiệt hại" (Nhà

xuất bản LGU, Lêningrat, 1973), tác giả Smirnốp T.V khẳng định: "Nhiệm vụ đáp ứng nhu
cầu vật chất, văn hóa, tinh thần của công dân Xô viết, về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ chỉ là thực hiện đầy đủ khi người bị thiệt hại được bồi thường không những
thiệt hại về vật chất mà cả thiệt hại về tinh thần". Tại khoản 3, Điều 307 Bộ luật dân sự
của nước ta quy định: "Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt
hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù
đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại". Như vậy, thiệt hại được hiểu là ngoài
những thiệt hại vật chất còn có những thiệt hại về tinh thần.

Thiệt hại xảy ra được đánh giá một cách khách quan, trung thực, đảm bảo công
bằng xã hội. Trên thực tế, mọi thiệt hại đều mang tính khách quan, tuy nhiên, tiên lượng và
đánh giá tính khách quan của sự thiệt hại lại thông qua ý thức chủ quan của con người.
Điều đó có nghĩa là trong điều kiện, hoàn cảnh thực tế như vậy ai cũng công nhận thiệt hại
là có và mọi người đều chấp nhận việc đánh giá mức độ thiệt hại. Nhưng nhìn chung thì
người bị thiệt hại có thể phức tạp hóa vấn đề lên, như khai tăng giá trị thiệt hại còn người
gây thiệt hại có chiều hướng đơn giản hóa. Vì vậy mà người có vai trò đánh giá thiệt hại,
đại diện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền là rất quan trọng. Nhìn nhận và đánh giá
thiệt hại dựa trên cơ sở pháp luật quy định để xem xét có thiệt hại xảy ra hay không, mức
độ thiệt hại như thế nào
Thiệt hại phải tính toán được tương đương với một số lượng tiền xác định mới
đảm bảo đầy đủ cơ sở cho việc bồi thường. Tuy nhiên, đối với thiệt hại về mặt tinh thần
không thể tính toán bằng tiền. Hơn thế đây là khái niệm còn khá trừu tượng, bởi "tinh
thần" thì làm sao có thể cân, đo, đong, đếm cụ thể để xác định thiệt hại, do vậy Tòa án chỉ
có thể căn cứ vào từng trường hợp cụ thể xác định số tiền bù đắp tổn thất về mặt tinh thần,
nhằm đảm bảo quyền lợi của người bị nạn và gia đình họ, khắc phục phần nào hậu quả xảy
ra. Tòa án cũng chỉ chấp nhận những thiệt hại hợp lý mà thôi, những thiệt hại mang tính
suy diễn như: "Tôi là người không bao giờ bị tai nạn, trong tháng này tôi bắt được 5 triệu
đồng" hay "thu nhập của một người nông dân ở vùng quê nghèo là từ 2.000.000 đồng đến
3.000.000 đồng /tháng".

Có thiệt hại tức là những tổn thất thực tế, tồn tại khách quan và phải tính được
bằng một số tiền cụ thể nhất định, còn những thiệt hại mang tính suy diễn, chủ quan sẽ
không được thừa nhận nếu không có căn cứ xác đáng.
Như vậy, thiệt hại về vật chất là những thiệt hại trị giá được bằng tiền, đó là thiệt
hại thông thường trong các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại. Đó là những thiệt hại vật chất
trong các thiệt hại về tài sản, về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm…
Thiệt hại tinh thần là những thiệt hại phi vật chất, không thể có công thức chung
để quy thành tiền áp dụng cho mọi trường hợp. Việc giải quyết bồi thường một khoản tiền
bù đắp tổn thất về tinh thần tùy vào từng trường hợp cụ thể nhằm mục đích an ủi, động

viên và phần nào đó tạo điều kiện để có thể khắc phục khó khăn, làm dịu đi nỗi đau cho
chính người bị thiệt hại hay cho những người thân thích của họ.
Thiệt hại về tinh thần là sự thiệt hại về giá trị tinh thần, tình cảm hoặc sự suy sụp
về tâm lý, tình cảm của cá nhân. Hình thức biểu hiện thiệt hại về tinh thần rất đa dạng như:
Sự suy sụp tâm lý của người bị thiệt hại sau khi sức khỏe bị xâm phạm làm cho bị tàn tật,
bị biến dạng bề ngoài (ví dụ như bị sẹo ở mặt, bị gãy chân làm cho người bị thiệt hại đi cà
nhắc ).
Ngoài những thiệt hại về tinh thần mà bản thân người bị thiệt hại phải gánh chịu
thì có những trường hợp người thân thích của họ cũng phải gánh chịu tổn thất về tinh
thần này. Ví dụ, đó có thể là sự suy sụp, hoang mang, lo lắng, sự đau thương của những
người thân thích với cái chết của nạn nhân. Khác với thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần
không có tiêu chí chung để xác định cho mọi cá nhân bởi điều kiện, hoàn cảnh của từng
cá nhân là không giống nhau, nhưng thiệt hại về tinh thần thường đi kèm với thiệt hại vật
chất.
Điều 710 Bộ luật dân sự của Nhật Bản quy định: "Một người chịu trách nhiệm về
thiệt hại theo quy định của Điều 709 phải bồi thường cả về thiệt hại phi vật chất bất kể
thiệt hại như vậy xảy ra đối với quyền lợi, uy tín, hoặc tài sản của người khác".
Ngoài ra, muốn bồi thường, sự thiệt hại phải thỏa mãn các điều kiện: thiệt hại phải
chắc chắn, nhất định, thực tế và chưa được bồi thường.
Nói đến sự thiệt hại chắc chắn, nhất định, thực tế là nói đến một sự thiệt hại đã xảy

ra, hoặc chưa xảy ra nhưng nhất định sẽ xảy ra và có thể ước lượng được. Để chứng minh
sự thiệt hại chắc chắn, người bị thiệt hại phải đưa ra những chứng cứ cần thiết và tin cậy
như: hóa đơn chứng từ thanh toán những chi phí hợp lý nhằm cứu chữa, phục hồi sức
khỏe…Một sự thiệt hại không chắc chắn xảy ra hoặc chỉ có tính chất giả định hoặc chỉ là
mất đi một cơ may thì không được bồi thường. (Theo Bộ luật dân sự Nhật Bản thì việc
"mất đi một cơ may" được coi là một yếu tố cấu thành thiệt hại).
Bồi thường thiệt hại chính là nhằm khôi phục lại toàn bộ hoặc một phần tình trạng
tài sản trước khi xảy ra thiệt hại hoặc bù đắp những tổn thất do tính mạng, sức khỏe, nhân

phẩm, danh dự, bị xâm phạm nên thiệt hại được coi là điều kiện có ý nghĩa quan trọng.
Không thể bồi thường thiệt hại khi không có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại được hiểu là: bị tổn thất, hư hao về người và tài sản và được xác định
bằng một khoản tiền cụ thể. Thiệt hại gây ảnh hưởng đến các quan hệ kinh tế - xã hội được
pháp luật bảo vệ, đồng thời cũng phản ánh hậu quả của hành vi trái pháp luật xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, pháp nhân cũng như của Nhà nước.
Pháp luật dân sự Việt Nam thừa nhận có thiệt hại về tinh thần, tuy nhiên có quan
điểm cho rằng thiệt hại về tinh thần chỉ là khái niệm xã hội và ở phạm vi tình cảm. Nhưng
có quan điểm cho rằng, bồi thường bằng tiền có thể khắc phục phần nào thiệt hại về tinh
thần, không thể dùng tiền bù đắp được. Tuy nhiên, pháp luật dân sự Việt Nam quy định
mức tiền bồi thường thiệt hại về tinh thần tại khoản 2 Điều 609 và khoản 2 Điều 610. Nghị
quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 08
tháng 7 năm 2006 hướng dẫn áp dụng một số qui định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng đã có sự hướng dẫn cụ thể về bồi thường tổn thất
tinh thần.
Buộc người xâm phạm đến sức khỏe người khác phải bồi thường một khoản tiền
bù đắp tổn thất về mặt tinh thần cho người bị thiệt hại và cho những người thân thích của
người bị thiệt hại trong vụ bị xâm phạm tính mạng là phù hợp cả về lý luận và thực tiễn,
phù hợp với phong tục tập quán, truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam.
2.1.2. Phải có hành vi gây thiệt hại
Hành vi gây thiệt hại trước tiên phải là hành vi pháp luật cấm thực hiện, nếu hành vi

đó được thực hiện mà pháp luật không cấm thì người thực hiện hành vi đó không phải bồi
thường thiệt hại. Không thể có người gây thiệt hại khi không có hành vi gây thiệt hại. Hành vi
gây thiệt hại là hành vi có ý thức của con người diễn ra trái với qui định của pháp luật và gây
thiệt hại tới các đối tượng được pháp luật bảo vệ. Hành vi gây thiệt hại có thể bằng hành động
hoặc không hành động, hành động và không hành động đều là những biểu hiện của con người
ra ngoài thế giới khách quan, được ý thức kiểm soát, lý trí điều khiển và đều có khả năng
làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho quan hệ xã
hội được pháp luật bảo vệ. Hành động gây thiệt hại có thể là tác động trực tiếp của chủ thể

vào đối tượng gây thiệt hại hoặc có thể là tác động gián tiếp của chủ thể vào đối tượng
thông qua công cụ, phương tiện gây thiệt hại. Không hành động gây thiệt hại là một hình
thức của hành vi gây thiệt hại, nó làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác
động, gây thiệt hại cho khách thể bằng việc chủ thể không làm một việc pháp luật quy định
bắt buộc phải làm mặc dù có đầy đủ điều kiện để làm việc đó.
Thực tế thì việc xác định hành vi gây thiệt hại bằng hành động không khó, bởi vì
nó tác động trực tiếp đến đối tượng bị thiệt hại như: bắn, đâm, chém… Nhưng ở dạng
không hành động hoặc được thực hiện thông qua hành vi của người khác thì cần phải xác
định mối quan hệ giữa thiệt hại với hành vi của người gây thiệt hại và trách nhiệm, nghĩa
vụ của họ đối với thiệt hại xảy ra. Ví dụ: người gây thiệt hại do phòng vệ chính đáng, do
tình thế cấp thiết thì không phải bồi thường. Tuy nhiên, nếu hành vi phòng vệ chính đáng
và tình thế cấp thiết đó mà vượt quá giới hạn cho phép thì các hành vi bị coi là trái pháp
luật và phải bồi thường.
Trước khi có Bộ luật dân sự thì ngành Tòa án thường căn cứ vào Thông tư số
173/UBTP-TANDTC ngày 23/3/1972 của Tòa án nhân dân tối cao để giải quyết các quan
hệ pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo tinh thần nội dung
Thông tư thì hành vi trái pháp luật trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: "Có
thể là một việc phạm pháp về hình sự, một vi phạm pháp luật về dân sự, một vi phạm
đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước hoặc một vi phạm quy tắc sinh hoạt xã hội".
Như vậy, khi xác định hành vi gây thiệt hại cho người bị thiệt hại để phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, chúng ta có thể thấy có những đặc điểm của hành vi trái

pháp luật gây thiệt hại:
Thứ nhất, hành vi gây thiệt hại phải trái pháp luật, nếu không trái pháp luật thì
không phải bồi thường mặc dù có thiệt hại xảy ra. Hành vi trái pháp luật ở đây được hiểu
là hành vi vi phạm các qui định của pháp luật, ngoài ra những hành vi vi phạm các qui tắc
xử sự sinh hoạt trong đời sống cũng có thể coi là hành vi trái pháp luật nếu gây ra thiệt hại.
Những hành vi gây thiệt hại nhưng do yêu cầu của nghề nghiệp hoặc gây thiệt hại theo bản
án, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì không phải là hành vi trái pháp
luật. Ví dụ: để cứu chữa bệnh nhân tránh vết thương bị hoại tử, bác sĩ phải cắt bỏ chân của

bệnh nhân, những người phá dỡ các công trình xây dựng trái phép, những người thi hành
án tử hình
Thứ hai, hành vi trái pháp luật có thể được thể hiện dưới dạng hành động hoặc
dưới dạng không hành động.
Thứ ba, hành vi gây thiệt hại là hoạt động có ý thức và ý chí. Không thể có hành vi
gây thiệt hại mà những biểu hiện bên ngoài của nó không được ý thức của chủ thể kiểm
soát hay không được ý chí của họ điều khiển.
2.1.3. Mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi gây thiệt hại
Mối quan hệ nhân quả là sự liên hệ giữa hai hiện tượng trong đó có chứa đựng
nguyên nhân và kết quả. Phải có sự vận động của hiện tượng là nguyên nhân trong những điều
kiện hoàn cảnh cụ thể mới nảy sinh hiện tượng là kết quả. Hành vi vi phạm pháp luật là
nguyên nhân dẫn đến thiệt hại là hậu quả. Xét về nguyên tắc, nguyên nhân phải xảy ra trước
kết quả trong khoảng thời gian xác định và hành vi trái pháp luật là nguyên nhân trực tiếp
(nguyên nhân quyết định đối với thiệt hại xảy ra). Có nghĩa là thiệt hại đã có sẵn cơ sở trong
hành vi. Một hành vi vi phạm nhất định trong một điều kiện xác định thì chỉ làm nảy sinh ra
hậu quả này chứ không phải là hậu quả nào khác. Thiệt hại xảy ra phải đúng là kết quả tất
yếu của hành vi vi phạm và ngược lại, nếu không có hành vi thì thiệt hại sẽ không xảy đến.
Nếu không xác định được mối quan hệ này sẽ không xác định được trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của người có hành vi vi phạm và không buộc được người gây thiệt hại phải bồi
thường cho người bị thiệt hại.
Nếu chúng ta làm rõ được mối quan hệ nhân quả, sẽ trả lời được hai câu hỏi được

đặt ra:
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có phát sinh không?
- Mức bồi thường thiệt hại được xác định như thế nào nếu nhiều người gây thiệt hại
cho một người hoặc cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều có lỗi?
Trong thực tế mối quan hệ giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra biểu hiện
rất phức tạp.

Một hành vi trái pháp luật cũng có thể gây nhiều thiệt hại vừa về vật chất, vừa về
tinh thần. Có trường hợp thiệt hại xảy ra do một hành vi trái pháp luật khác xen vào gây ra
chứ không phải do hành vi có chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại.
Ví dụ: A gây thương tích cho B, B được mọi người đưa vào cơ sở y tế cấp cứu.
Với tình trạng vết thương như vậy thì hoàn toàn có thể cứu chữa được người bị hại. Tuy
nhiên, do tắc trách trong quá trình cứu chữa (bác sĩ đã không vô trùng dụng cụ cứu chữa)
nên vết thương của B bị nhiễm trùng dẫn tới hậu quả là B bị chết.
Cần phân biệt giữa nguyên nhân và điều kiện: nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt
hại, điều kiện không trực tiếp gây thiệt hại nhưng có tác động để cho thiệt hại xảy ra nhanh
hơn. Vậy trong mối quan hệ nhân quả, nguyên nhân là yếu tố quyết định còn điều kiện là
yếu tố quan trọng dẫn đến kết quả. Nguyên nhân và điều kiện trong mối quan hệ nhân quả
có thể là một hay nhiều hiện tượng, nhưng giữa chúng có một điểm khác nhau ở chỗ quan
hệ với hậu quả xảy ra. Nếu không có nguyên nhân thì không có hiện tượng, sự vật xảy ra
và cũng không tồn tại một điều kiện. Nhưng nhiều trường hợp có nguyên nhân xảy ra
nhưng không có kết quả nếu không có điều kiện.
Về nguyên tắc thì không có việc hiện tượng này chỉ là nguyên nhân còn hiện
tượng kia chỉ là điều kiện. Mối quan hệ nhân quả có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác
định thiệt hại.Về mặt lý luận cũng như thực tế để xác định mối quan hệ nhân quả là một
vấn đề tương đối khó khăn. Bởi vì sự thiệt hại thông thường thì do nhiều nguyên nhân chứ
không chỉ do một nguyên nhân gây ra. Các nguyên nhân này không tồn tại độc lập mà phối
hợp với nhau phát sinh ra kết quả, nếu thiếu một trong các nguyên nhân thì không có kết
quả xảy ra. Tuy nhiên, mức độ tác động của từng nguyên nhân đối với kết quả có thể là
khác nhau, sự khác nhau này đã tạo ra vai trò chủ yếu và thứ yếu của từng nguyên nhân.

Trong thực tiễn thì thiệt hại có thể có nhiều nguyên nhân, vậy xác định nguyên nhân nào là
nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp, nguyên nhân nào là nguyên nhân thứ yếu và gián tiếp,
một thiệt hại có thể kéo theo nhiều thiệt hại khác, thiệt hại đầu tiên có coi là nguyên nhân
của thiệt hại sau hay không. Chúng ta không thể căn cứ vào thứ tự trước sau của hành vi
gây thiệt hại để xác định nguyên nhân chủ yếu hay thứ yếu được, nhất là trong các vụ án
có nhiều người tham gia.

Tóm lại, mối quan hệ nhân quả là sự tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý
chí của con người, khi xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại
xảy ra phải bảo đảm tính khách quan, phải đặt trong mối liên hệ tất nhiên, nội tại của các
hiện tượng chứ không được chủ quan mà xác định quan hệ nhân quả.
2.1.4. Người gây thiệt hại có lỗi
Lỗi thể hiện dưới hai hình thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Khoản 2 Điều 309 quy định:
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của
mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy
không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi
của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước
thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại,
nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi trái pháp luật của mình và đối
với thiệt hại do hành vi gây nên, người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thì phải chịu
trách nhiệm dân sự về hành vi vi phạm của mình gây ra khi họ có lỗi. Lỗi được cấu thành
bởi hai yếu tố đó là lý trí và ý chí. Lý trí là sự thể hiện năng lực nhận thức thực tại khách
quan, còn ý chí là yếu tố biểu hiện năng lực điều khiển hành vi trên cơ sở nhận thức thực tại
khách quan.
Có thể xem xét hành vi của người gây thiệt hại trên các mặt sau:
- Nhận thức của người gây thiệt hại;
- Hành vi gây thiệt hại có đúng pháp luật hay trái pháp luật;
- Hành vi cụ thể của người gây thiệt hại.

Nếu xét lỗi dưới góc độ quan hệ của cá nhân thì lỗi của người gây thiệt hại là sự
biểu hiện quan hệ giữa bản thân người gây thiệt hại và xã hội mà nội dung của nó là sự phủ
định chủ quan những quy tắc ứng xử chung của xã hội, đòi hỏi cá nhân phải tôn trọng được
thể hiện bằng các quy định của pháp luật.

Để bảo vệ triệt để lợi ích của người bị thiệt hại trong quan hệ giữa các công dân
với nhau và đặc biệt là trong quan hệ giữa công dân với Nhà nước, xuất phát từ nguyên tắc
tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác, pháp luật dân sự quy định lỗi có thể được suy đoán từ ba điều kiện trên. Như vậy, có
thể nói rằng: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự hay bất cứ trách nhiệm pháp lý nào
khác nào đều phải dựa trên cơ sở lỗi. Một người gây thiệt hại mà không có lỗi thì dù thiệt
hại tới mức nào cũng không phải bồi thường - đó là nguyên tắc. (trường hợp phòng vệ
chính đáng, sự kiện bất ngờ, tình thế cấp thiết, lỗi hoàn toàn do người bị thiệt hại gây ra).
Lỗi cố ý biểu hiện trạng thái tâm lý của một người biết hành vi của mình là sai,
thấy rõ hậu quả của hành vi đó, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc không mong muốn
nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả của hành vi đó xảy ra. Lỗi vô ý là biểu hiện trạng thái
tâm lý của người gây thiệt hại, thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại,
nhưng cho rằng thiệt hại đó không thể xảy ra hoặc có thể xảy ra nhưng ngăn ngừa được.
Lỗi có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức độ bồi thường thiệt hại. Trong
trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không
có trách nhiệm phải bồi thường. Mức độ bồi thường phụ thuộc vào mức độ lỗi của người
gây thiệt hại. Khi nghiên cứu về lỗi vô ý có thể chia lỗi vô ý ra làm hai loại:
- Vô ý vì cẩu thả.
- Vô ý vì quá tự tin.
Vô ý cẩu thả là trường hợp người có hành vi vi phạm mặc dù có thể thấy trước và
phải thấy trước thiệt hại có thể xảy ra.
Vô ý vì quá tự tin là trường hợp người có hành vi vi phạm thấy trước khả năng
hành vi của mình có thể gây thiệt hại và không mong muốn thiệt hại xảy ra nhưng lại tin là
có thể ngăn chặn được.
Sự khác nhau giữa vô ý vì cẩu thả và vô ý vì quá tự tin ở chỗ: người có hành vi vi

phạm với lỗi vô ý vì quá tự tin là họ nhận thấy trước được hành vi của họ có thể gây thiệt
hại, còn người có hành vi vi phạm với lỗi cẩu thả không nhận thức được thiệt hại có thể
xảy ra, trong cả hai trường hợp thì người có hành vi vi phạm không mong muốn thiệt hại
xảy ra.

Trong dân sự thì dù lỗi cố ý hay lỗi vô ý đều phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định:
3. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi trừ các
trường hợp:
a. Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.
b. Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp
thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Như vậy, ngoài nguyên tắc "phải có lỗi" Bộ luật dân sự còn quy định cả trường
hợp không có lỗi người gây ra thiệt hại vẫn phải bồi thường.
Khoản 4 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định:
4. Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng
trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái
pháp luật phải bồi thường thiệt hại.
Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm
hữu, sử dụng trái luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
Cũng do quy định này mà các Thẩm phán khi xét xử có cách hiểu khác nhau cho
nên dẫn đến có nhiều cách giải quyết khác nhau. Thực tế có việc giải quyết khác nhau là
do cần phải phân biệt trường hợp nào chủ sở hữu người được chủ sở hữu giao chiếm hữu,
sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại với trường hợp nào họ không
phải bồi thường cả khi họ không có lỗi. Vậy nên chăng Bộ luật dân sự chỉ nên quy định
việc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mà không cần phải quy định
chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra thiệt hại cả khi họ không có lỗi.

Như vậy, lỗi là điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng. Vì vậy, cần phân biệt các hình thức lỗi để xác định mức độ lỗi trên cơ sở đó ấn định
mức bồi thường.

×