Tải bản đầy đủ (.ppt) (102 trang)

Hoạch định và phân tích chính sách công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 102 trang )

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA
Môn học:
HOẠCH ĐỊNH VÀ
PHÂN TÍCH
CHÍNH SÁCH CƠNG
ThS. Nguyễn Xuân Tiến
Câu hỏi ôn tập Chương V
Nội dung phân tích chính sách
Câu hỏi ôn tập Chương V

Câu 1. Khi tìm kiếm vấn đề chính sách , người ta dựa vào
những đặc trưng nào?

Câu 2. Tại sao khi phân tích hoạch định chính sách lại
phải quan tâm đến thời cơ ban hành chính sách .

Câu 3. Hãy cho biết nội dung phân tích diễn biến chính
sách

Câu 4. Khi phân tích tính hệ thống của chính sách cần
tập trung vào những nội dung nào?

Câu 5. Để duy trì chính sách cần có những điều kiện chủ
yếu nào? Phân tích các điều kiện đó. Liên hệ với thực tế
nước ta.
Câu 1. Khi tìm kiếm vấn đề chính sách ,
người ta dựa vào những đặc trưng nào?

P. 140/152


Vấn đề chính sách có mối quan hệ biện
chứng với môi trường tồn tại.

Vấn đề chính sách mang cả tính hiện thực
và tương lai.

Vấn đề chính sách kém linh động so với
các vấn đề chung.

ĐB Hà Nội Nguyễn Tài Lương đề nghị: "Chúng ta nên bắt
đầu từ nhu cầu của cuộc sống, sau đó các cơ quan địa
phương tổng hợp đưa lên trình Chính phủ. Chính phủ gửi
ý kiến đó đến UBTVQH và các Uỷ ban của Quốc hội sẽ
trực tiếp soạn thảo văn bản". ĐB Huỳnh Thành Lập
(TP.HCM) phân tích: "Chúng ta nên thống nhất, tập trung
thông qua hoàn thành một số luật đang có yêu cầu cấp
bách của đời sống xã hội. Riêng trong năm 2004 nên ưu
tiên: Luật khiếu nại tố cáo, Luật thuế sử dụng đất (song
hành với Luật đất đai sửa đổi), Luật giáo dục sửa đổi...
Làm luật không nên xếp hàng mà nên tính đến yêu cầu
cấp bách của đời sống".

Theo số liệu thống kê, từ năm 1993-2002 có gần 16 nghìn trường
hợp phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, trong đó tỷ lệ
lấy chồng Đài Loan chiếm 81%. Thời gian chung sống dưới ba
tháng của những cặp vợ chồng chiếm đến 67%.



Tham dự các phiên tòa ly hôn có yếu tố nước ngoài mới biết có

hàng nghìn lý do để các cô gái Việt Nam lấy “chồng ngoại”. Người
vì tình, kẻ vì tiền. Nhưng cũng có nhiều người có những lý do đôi
khi chẳng giống ai. Kim Tuyết, 24 tuổi quyết định lấy chồng Đài
Loan để “được đi máy bay”. Thùy Anh, 22 tuổi thì mơ mộng đến
ngớ ngẩn “lấy chồng Trung Quốc sẽ được sang đó ở, được nhìn
thấy tuyết hàng ngày”. Nhất Lan, đang là sinh viên cũng quyết định
lấy chồng người Đức chỉ vì “có mấy đứa bạn ở bên Đức, mình
muốn qua đó cho… vui”



Ở Cần Thơ, trung bình một năm, tòa án tỉnh thụ
lý gần 100 vụ án xin ly hôn với người nước
ngoài, trong đó trường hợp lấy chồng Đài Loan
chiếm đa số. Tuy nhiên, hiện tượng những cô
gái trẻ nông thôn đồng bằng sông Cửu Long lấy
chồng Đài Loan vẫn tiếp tục bùng phát. Năm
2000, chỉ riêng tỉnh Cần Thơ có 1.800 cô gái lấy
chồng ngoại. Có những xã như Tân Lộc (Thốt
Nốt, Cần Thơ), Hưng Thành và Hưng Hội (Vĩnh
Lợi, Bạc Liêu), việc “kiếm” chồng nước ngoài rộ
lên thành phong trào.



Bị hành hạ là chuyện thường ngày.

Trong một cuộc phỏng vấn, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Đài
Loan cho biết, ở Đài Loan mặc dù chính quyền các cấp
kiểm tra giấy tờ rất nghiêm khắc song vẫn “lọt lưới” một

số trường hợp người có vợ hoặc mắc bệnh tâm thần vẫn
xin được giấy chứng nhận độc thân, sức khỏe bình
thường để lấy vợ Việt Nam. Đa số người Đài Loan lấy vợ
ngoài lãnh thổ là do hoàn cảnh đặc biệt, bị dị tật, tuổi cao.
Ông Thứ trưởng cho rằng con số 15-20% cô dâu Việt
Nam sống không hòa thuận với gia đình chồng như Viện
Nghiên cứu Trung ương Đài Loan công bố là hơi thấp.
Thực tế, tỷ lệ này cao hơn vì sau hôn nhân nảy sinh hàng
loạt vấn đề phức tạp, khiến nhiều cô dâu nước ngoài thất
vọng.

Nếu biết phải trả giá quá đắt không hiểu các cô gái và gia đình họ
có dám bước vào “con đường chồng ngoại”? Nhưng có vẻ như
những “tấm gương bất hạnh” tuy nhiều song lại hiện ra khá mờ
nhạt trong mắt mọi người. Hình ảnh những căn nhà vách đất được
“lên đời” sau khi gia đình có con lấy chồng ngoại lại gây ấn tượng
mạnh mẽ với người dân nông thôn hơn. Hơn nữa, do số phụ nữ bị
bạc đãi từ quê chồng trở về thường bỏ đi làm ăn xa hoặc không
muốn nói lên sự thật. Mộng Thảo, đã ly hôn với người chồng Đài
Loan tâm sự: “Em còn mặt mũi nào mà về quê. Biết hoàn cảnh em
như thế này, chắc cha mẹ cũng chẳng vui vẻ gì khi sống trong căn
nhà được sửa lại khang trang bằng số tiền em đem về khi mới lấy
chồng Đài Loan”. Hiện nay, M.T đang làm tiếp viên nhà hàng ở
thành phố. Một số cô sau khi về nước lại làm môi giới cho những
bạn gái khác kiếm chồng ngoại để kiếm hoa hồng.



Trong một phiên tòa ly hôn mới đây, Ngọc Hiền, người đứng đơn ly hôn
tâm sự: “Trước đây người ta nói nhiều chuyện tiêu cực về việc lấy chồng

Tây rồi, nhưng em không tin. Vậy là em lấy ông chồng Nhật để có 20.000
USD. Ba năm ở bên đó em bị đối xử còn tệ hơn đứa ở. Bị đánh nhiều đến
nỗi không biết đau nữa. Mà tiền chồng hứa cho gia đình em trả nợ cũng
chẳng thấy đâu… Em không dám có con vì sợ sau này con mình giống…
cha nó”. Nói xong, cô cười khoe tòa án đã quyết định cho cô ly hôn sau
năm lần bảy lượt hầu tòa. Hầu hết, những người phụ nữ đứng đơn ly hôn
đều cho biết sẽ “quyết tâm” ly hôn cho bằng được, cũng như quyết tâm lấy
chồng ngoại ban đầu.

Theo Sở Tư pháp, từ khi Nghị định 68 của Chính phủ có hiệu lực thi hành
đến nay (2-1-2003 đến cuối tháng 9-2004), TP.Cần Thơ đã có 3.260
trường hợp đăng ký kết hôn với người nước ngoài, trong đó kết hôn với
người Đài Loan là 2.871 trường hợp (chiếm 88% tổng số). Nghĩa là bình
quân mỗi tháng phải giải quyết cho đăng ký khoảng 150 trường hợp,
với nhiều thủ tục giấy tờ của người nước ngoài cần phải thẩm định xem xét
thận trọng.

Mặc dù Nghị định 68 thể hiện sự thông thoáng hơn so với Nghị định
184/CP trước đây, như quy định tăng thời hạn sử dụng các loại giấy tờ của
người nước ngoài, bãi bỏ phần sử dụng giấy khai sinh, thủ tục xác minh
của công an (chỉ xác minh những trường hợp cần thiết), nhưng thực tế
cũng còn nhiều vướng mắc:

Cán bộ hộ tịch không có trình độ ngoại ngữ (tiếng Hoa) để phỏng vấn
đương sự mà phải mời phiên dịch (trường hợp kết hôn với người Đài
Loan), chi phí phát sinh này chưa được quy định trong Nghị định 68;
Kết hôn với người Đài Loan

Việc xác định mục đích kết hôn không trong sáng để
từ chối cho phép đăng ký kết hôn còn quy định

chung chung và khó xác định chính xác;

Luật Hôn nhân - Gia đình cũng không quy định độ
tuổi chênh lệch giữa nam và nữ là bao nhiêu thì bị coi
là trái thuần phong mỹ tục và không đảm bảo hạnh
phúc gia đình nên rất khó xử lý những trường hợp
chênh lệch tuổi quá lớn...
Câu 2. Tại sao khi phân tích hoạch định chính
sách lại phải quan tâm đến thời cơ ban hành
chính sách?

p. 142/155

Thời cơ ban hành chính sách được hiểu là thời điểm mà
tại đó chính sách được ban hành có thể có những cơ hội
thực hiện(tồn tại và phát triển) mục tiêu đề ra. Nếu có cơ
hội thực hiện gọi là đúng thời cơ, còn ít cơ hội, nhiều
nguy cơ trong quá trình thực hiện gọi là không đúng thời
cơ. Liên hệ cho thấy, việc chọn thời cơ ban hành chính
sách có giá trị thực tiễn rất cao, làm cho hiệu lực hiệu quả
chính sách được tăng cường.
Phạm Văn Đồng và khoán sản phẩm trong NN

Có lần vào năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với đồng chí làm thế
nào để có thể bỏ thuế nông nghiệp cho nông dân nhưng ngân sách eo hẹp
của nước ta lúc bấy giờ không cho phép làm được việc này.

Đồng chí luôn băn khoăn về vấn đề phân phối của hợp tác xã, suy nghĩ
cách cải tiến để tăng thêm thu nhập cho nông dân.


Lúc biết Ở Vĩnh Phú đã làm thử việc khoán hộ, đồng chí đã về thăm nhiều
lần, trao đổi ý kiến với đồng chí Bí thư Kim Ngọc và ủng hộ cách làm này.
Nhưng tiếc rằng bấy giờ sáng kiến đó chưa đủ sức thuyết phục nhiều
người để có thể thay đổi chính sáeh.

Mãi đến sau này lúc Hải Phòng và một số nơi khác lặp lại việc "khoán chui"
thì đồng chí tích cực ủng hộ sáng kiến này, có tác dụng mở đầu cho công
cuộc đổi mới ở nước ta. [Đào Thế Tuấn, Viện trưởng Viện khoa học Nông nghiệp, 417]
Phạm Văn Đồng và khoán sản phẩm trong nông nghiệp (1)

[Thái Duy, 450]

Cuối tháng 10-1980, tôi và anh Lê Điền, Tổng biên tập báo Đại
đoàn kết về Hải Phòng tìm hiểu cách làm ăn mới ở nông thôn ngoại
thành đang gây rất nhiều tranh cãi.

Trên cả nước mới chỉ có Hải Phòng dám loại bỏ khoán việc mà mọi
xã viên nông nghiệp trên cả nước ngán sợ đã lâu và chuyển sáu
huyện ngoại thành sang khoán sản phẩm, nông dân quen gọi là
khoán lúa.

Nông thôn Hải Phòng khoán mầu rồi khoán lúa đã được hơn bốn
tháng, đã họp sơ kết nhưng chưa được báo chí ủng hộ, nhắc đến.
Báo chí vẫn chỉ tuyên truyền cho khoán việc.

Hải Phòng đứng mũi chịu sào, những địa phương, những cơ quan
ở Trung ương vẫn kiên trì bảo vệ khoán việc đã lên án gay gắt lãnh
đạo Hải Phòng đưa nông thôn hợp tác hoá trở lại làm ăn tư hữu, cá
thể, phân hoá giàu nghèo, làm xói mòn chủ nghĩa xã hội.


Những người đồng tình với cách làm ăn mới của Hải Phòng đều hồi
hộp, lo lắng, Hải Phòng rất có thể lại như Vĩnh Phúc với khoán hộ.

Gặp anh Mạnh, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hải
Phòng phụ trách nông nghiệp tôi hỏi anh về áp lực của một số đoàn
do cơ quan ở Trung ương cử về ra sức thuyết phục lãnh đạo Hải
Phòng quay về với khoán việc và ý kiến của mấy đồng chí lãnh đạo
Đảng đã về tìm hiểu khoán lúa ở Hải Phòng.

Anh Mạnh trả lời: - Số người đến Hải Phòng góp ý kiến loại bỏ
khoán sản phẩm không đông nhưng hầu hết lại là cán bộ có chứe
có quyền ở nhiều cơ quan.
Có đồng chí về Hải Phòng gặp các học trò cũ là lãnh đạo huyện hoặc
lãnh đạo cơ quan trên thành phố, tỏ ra rất buồn phiền vì học trò lại
tham gia khoán lúa, đi ngược đường lối của Đảng trong cải tạo
nông nghiệp.
Có đồng chí thành kiến với khoán lúa đến mức đến đâu có khoán lúa
đều gán cho trọng tội ! "Khoán lúa, nếu vậy thì đốt hết sách Mác -
Lênin à".
Lãnh đạo của ehúng tôi căn dặn, khoán lúa trúng lắm rồi, nhưng
khoán lúa còn mới mẻ, rất mong các đồng chí ở xa đến vạch cho
thấy những lệch lạc để tiếp tục hoàn thiện. Còn đối với ý kiến muốn
Hải Phòng trở về với khoán việc, chúng tôi đều nói rõ đáng lẽ phải
loại bỏ khoán việc từ hàng chục năm trước, đến nay mới loại bỏ là
đã quá muộn, còn muốn bắt nông dân chịu cực khổ đến bao giờ
nữa.

Một số đồng chí Trung ương về Hải Phòng động viên, khuyến khích
chúng tôi tiếp tục giương cao ngọn cờ khoán lúa.


Đặc biệt, ngày 12-lO-1980 đồng chí Phạm Văn Đồng về Hải Phòng
thăm huyện Đồ Sơn. Tôi, đồng chí Đài, Chủ tịch huyện, đồng chí
Thu, Trưởng phòng nông nghiệp huyện báo cáo với Thủ tướng
những việc nông thôn ngoại thành đang làm, chăm sóc lúa mùa và
làm vụ đông.

Thủ tướng hoan nghênh nông thôn Hải Phòng đang đổi mới. Thủ
tướng bác bỏ mọi lời buộc tội Hải Phòng đang phá hoại phong trào
hợp tác hoá nông nghiệp, đồng chí giải thích rất kỹ, cái mới bao giờ
cũng dễ va vấp, người lội nước đi trước dễ sa hố, sa hầm, có sai thì
sửa, không có sai mới lạ

Thủ tướng căn dặn chúng tôi cố gắng làm ra nhiều lương thực,
thựe phẩm, đây là thước đo hiệu quả của một cơ chế quản lý, càng
làm ra nhiều lúa, nhiều lợn, càng đúng hướng, và được lòng dân.
Khoán việc kéo dài bao nhiêu năm, các hợp tác xã thiếu ăn triền
miên, còn tiếc rẻ, cố giữ làm gì nữa.

Lời căn dặn của Thủ tướng đã củng cố lý lẽ eủa chúng tôi trong
suốt mấy tháng qua luôn luôn phải đối phó với những lời gièm pha,
truy chụp.

Một số đồng chí về Hải Phòng phê phán chúng tôi chỉ ham lợi trước
mắt, thấy khoán lúa năng suất, sản lượng cao hơn đã vội bỏ khoán
việc. Làm theo khoán việc nhiều nơi còn thiếu ăn, thà tạm thời chịu
đói còn hơn mất lập trường, bỏ khoán việc, bỏ con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội. Lý lẽ của chúng tôi là năng suất, sản lượng cây
trồng, vật nuôi tăng, dân no ấm, đóng góp cho tập thể và Nhà nước
đầy đủ, như vậy là khoán lúa ưu thế áp đảo, hơn hẳn khoán việc


Giữa tháng 10-1980,ở Hải Phòng có rất nhiều đoàn đi
"chui" (những địa phương lãnh đạo cấm khoán lúa,
nhưng hợp tác xã nông nghiệp ở đó đã lặng lẽ chuyển
sang khoán lúa "chui" và cử cán bộ về Hải Phòng học tập
kinh nghiệm khoán lúa, những cán bộ này khi đi phải rất
kín đáo để lãnh đạo bên trên không biết, do vậy gọi là đi
"chui".

Có tỉnh tìm mọi cáeh ngăn chặn khoán lúa nhưng hầu
như huyện nào trong tỉnh cũng có đoàn đi "chui” đến Hải
Phòng, có huyện lãnh đạo đưa các Chủ nhiệm hoặc Bí
thư Đảng uỷ xã về Hải Phòng tìm hiểu tại chỗ chuyển
sang khoán lúa công tác quản lý khác với thời còn làm
theo khoán việc như thế nào?

Anh Mạnh kể lại, anh đã tranh thủ truyền đạt ý
kiến của đồng chí Phạm Văn Đồng về khoán lúa
và khoán việc cho nhiều đoàn đi “chui" biết, lúc
này truyền miệng rất quan trọng vì báo chí chưa
tuyên truyền cho khoán lúa. . Một số đoàn và cá
nhân về Hải Phòng rất phấn chấn được biết
đồng chí Phạm Văn Đồng đã về Hải Phòng và
khẳng định mạnh mẽ, dứt khoát khoán lúa ở Hải
Phòng là hoàn toàn đúng.

Đồng chí Phạm Văn Đồng theo dõi rất sát vụ lúa mùa đầu
tiên làm theo khoán sản phẩm ở sáu huyện ngoại thành
Hải Phòng. Hôm tiếp tôi, anh Mạnh đã nói: Mới hôm qua,
đồng chí Phạm Văn Đồng gọi tôi đến báo cáo về triển
vọng vụ lúa mùa. Đồng chí căn dặn nếu thu hoạch chỉ

bằng hoặc kém thời khoán việc thì tiếp tục mở rộng
khoán lúa sẽ rất khó khăn. Thủ tướng nhắc nhở thắng lợi
của vụ mùa này ở hợp tác xã nông nghiệp Hải Phòng có
tầm quan trọng hết sức đặc biệt với cục diện chung cả
nước vì chỉ Hải Phòng mới có diện tích vụ mùa lớn nhất
nước làm theo khoán lúa. Thắng lợi vụ mùa này sẽ là
bằng chứng cụ thể để lãnh đạo yên tâm chuyển các hợp
tác xã nông nghiệp trên cả nước sang khoán lúa.

Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ra đời ngày 13-1-
1981, công nhận khoán lúa, khoán chui hợp pháp, khoán việc
không còn độc quyền.

Thắng lợi của khoán lúa mới chỉ là bước đầu, cuộc đấu tranh giữa
hai hình thức khoán vẫn gay gắt, trước hết bắt nguồn từ cách đánh
giá khoán lúa của lãnh đạo còn những điểm khác nhau.

Có đồng chí tán thành khoán lúa nhưng chủ trương chỉ khoán đến
nhóm vì e ngại khoán đến người lao động tức là từng gia đình làm
dễ biến tướng thành khoán hộ như Vĩnh Phú thì rất nguy hiểm.
Khoán đến nhóm, nông dân không muốn làm, lại "cha chung không
ai khóc", khoán đến nhóm là một thứ khoán việe trá hình.

Có đồng chí vẫn rất phân vân, tính toán, đúng là khoán việc đầy rẫy
tiêu cực, nông dân không chịu nổi nhưng chuyển sang khoán sản
phẩm có phải "tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa".

Khoán lúa đã được công nhận hợp pháp
nhưng nông dân vẫn hồi hộp, chờ đợi
chưa rõ số phận của khoán lúa như thế

nào?

Cuối tháng 8-1981, Chính phủ đã triệu tập
Hội nghị toàn quốc tại Hà Nam Ninh sơ
kết tám tháng thực hiện khoán sản phẩm
sau khi có Chỉ thị 100. Tại Hội nghị, đồng
chí Võ Chí Công, Uỷ viên Bộ Chính trị,
Phó Thủ tướng phụ trách nông nghiệp và
là Trưởng Ban cải tạo nông nghiệp đã
trình bày một báo cáo quan trọng eủa
Chính phủ, đầu đề: Mở rộng mạnh mẽ
khoán sản phẩm trong các hợp tác xã và
tập đoàn sản xuất nông nghiệp

×