Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Báo cáo tốt nghiệp thực trạng sản xuất và biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo ra thị trường thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.69 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….

Báo cáo tốt nghiệp
Đề tài:

Thực trạng sản xuất và biện pháp đẩy mạnh xuất
khẩu gạo ra thị trường thế giới
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Gạo là một trong những mặt hàng thuộc nhóm hàng lương thực, được
sản xuất và tiêu dùng chủ yếu ở Châu Á. Cũng như các mặt hàng lương thực
khác, Chính phủ các nước luôn có chính sách và khuyến khích tăng cung
trong nước để đảm bảo an ninh lương thực. Do vậy, khối lượng gạo trao đổi
chiếm khoảng 6 – 7% so với sản lượng sản xuất của thế giới. Trong thương
mại thế giới, khối lượng và giá trị buôn bán mặt hàng gạo ở mức tương
đương với lúa mì và chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng giá trị thương mại hàng
hóa.
Sản xuất lúa gạo ở Việt Nam kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới,
sản lượng lúa gạo đã gia tăng nhanh chóng. Trong 10 năm (1991 – 2001),
bình quân diện tích tăng 1,73%/năm, năng suất tăng 3,2%/năm và sản lượng
tăng 5%/năm. Việt Nam từ một nước thiếu lương thực trở thành nước xuất
khẩu gạo hàng đầu thế giới, chiếm khoảng 17% lượng gạo xuất khẩu toàn
cầu. Hiện nay, theo mức kim ngạch xuất khẩu, gạo được xem là một trong
những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với giá trị xuất khẩu năm
2002 đạt 726 triệu USD, tăng hơn 3 lần so với năm 1991 và chiếm 4,4%
tổng giá trị xuất khẩu (kể cả xuất khẩu dầu thô).
Tuy nhiên, sản xuất và xuất khẩu lúa gạo ở Việt Nam vẫn chưa hoàn
toàn là một lựa chọn hướng về xuất khẩu. Dư cung gạo không phải bắt
nguồn từ yêu cầu tăng cường xuất khẩu mà chủ yếu từ chính sách an ninh


lương thực. Do vậy trong sản xuất lúa gạo từ trước đến nay, Việt Nam vẫn
chủ yếu chú trọng đến năng suất mà ít quan tâm đến các giống gạo ngon có
giá trị xuất khẩu cao (những giống gạo thường cho năng suất thấp).
Căn cứ vào tình hình và yêu cầu thực tiễn, việc khai thác triệt
để hơn nữa những tiềm năng to lớn của đất nước trong sản xuất cũng như
tìm kiếm cách thức tiếp cận thị trường, giữ vững và phát triển thị phần mặt
hàng gạo có hiệu qủa tối ưu luôn là vấn đề đòi hỏi sự nghiên cứu và giải
quyết.
Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Thực trạng sản xuất và biện pháp
đẩy mạnh xuất khẩu gạo ra thị trường thế giới” để bảo vệ luận văn ngày
ra trường.
Kết cấu luận văn:
2
Chương I: Cơ sở khoa học của việc đẩy mạnh sản xuất và xuất
khẩu gạo
Chương II: Thực trạng sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam
trong thời gian qua.
Chương III: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT
VÀ XUẤT KHẨU GẠO
I. VỊ TRÍ CỦA LÚA GẠO TRONG NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ
VIỆT NAM :
1. Lúa gạo trong nền kinh tế thế giới:
Theo đà phát triển của sức sản xuất và phân công lao động quốc tế,
nhu cầu của con người ngày càng phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, nhu cầu
về ăn và mặc vẫn là nhu cầu cần thiết hơn cả, trong đó nhu cầu về ăn uống
lại đóng vai trò số một trong đời sống hàng ngày. Bởi vậy, lương thực trở
thành yếu tố được chú trọng hàng đầu. Thực tế trong nhiều thập kỷ qua, thế
giới luôn quan tâm, lo lắng đến vấn đề lương thực như một đề tài thời sự cấp

bách. Nhiều sách báo, nhiều tổ chức và cá nhân, nhiều cuộc hội thảo quốc
gai và quốc tế thường xuyên đề cập đến chương trình an ninh lương thực
quốc gia và toàn cầu. Lương thực luôn là mối quan tâm lớn của cả nhân loại
do nguy cơ nạn đói nghiêm trọng đang đe dọa nhiều dân tộc. Theo số liệu
của Liên Hợp Quốc, hiện nay trên thế giới có khoảng trên 800 triêu người ở
những nước nghèo, nhất là ở Châu Phi thường xuyên bị thiếu lương thực,
trong đó khoảng 200 triệu là trẻ em. Trung bình hàng năm trên thế giới có
khoảng 13 triệu trẻ em dưới 5 tuổi do thiếu dinh dưỡng tối thiểu vì nạn đói
nghiêm trọng. Do đó, Hội nghị Dinh dưỡng Quốc tế đã đi đến kết luận rằng:
giải quyết kịp thời vấn đề lương thực là trung tâm của mọi cố gắng hiện nay
để phát triển kinh tế xã hội. Theo thống kê nông nghiệp của FAO, các loại
cây lương thực được sản xuất và tiêu thụ trên thế giới bao gồm trước hết là 5
loại cụ thể: lúa gạo, lúa mì, ngô, lúa mạch và kê… Trong đó lúa gạo và lúa
mì là 2 loại được sản xuất và tiêu dùng nhiều nhất. Với nhu cầu trung bình
hiện nay trên thế giới có thể duy trì sự sống cho khoảng 3.008 triệu người,
chiếm gần 53% dân số thế giới. Tuy sản lượng lúa gạp thấp hơn lúa mì một
3
chút, nhưng căn cứ vào tỷ lệ hư hao trong khâu thu hoạch, lưu thông và chế
biến, căn cứ vào giá trị dinh dưỡng của mỗi loại, riêng lúa gạo đang nuôI
sống hơn một nửa dân số trên thế giới. Gần nửa dân số còn lại được đảm bảo
bằng lúa mì và các loại lương thực khác.
Điều này chỉ rõ vị trí của lúa gạo trong cơ cấu lương thực thế giới và
trong đời sống kinh tế quốc tế.
2. Vị trí của lúa gạo trong nền kinh tế nước ta:
Việt Nam là một trong những nước có nghề truyền thống trồng lúa
nước cổ xưa nhất thế giới. Nông nghiệp trồng lúa vừa đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia, vừa là cơ sở kinh tế sống còn của đất nước. Dân số
nước ta là gần 80 triệu người, trong đó dân số ở nông thôn chiếm 80% và lực
lượng lao động trong nghề trồng lúa chiếm 72% lực lượng lao động cả nước.
Điều đó cho thấy lĩnh vực nông nghiệp trồng lúa thu hút đại bộ phận lực

lượng lao động cả nước đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế quốc dân.
Bên cạnh đó, ưu thế lớn của nghề trồng lúa còn thể hiện rõ ở diện tích
canh tác trong tổng diện tích đất nông nghiệp cũng như tổng diện tích trồng
cây lương thực: Ngành trồng trọt chiếm 4/5 diện tích đất canh tác trong khi
đó lúa giữ vị trí độc tôn, gần 85% diện tích lương thực.
Như vậy bên cạnh sự thu hút về nguồn lực con người thì sự thu hút
nguồn lực đất đai cũng lại khẳng định rõ vị trí của lúa gạo trong nền kinh tế
quốc dân.
Xuất phát từ thực tiễn đó, Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn mạnh vị trí
của lúa gạo Việt Nam: Lúa gạo đóng vai trò quyết định vấn đề cung cấp
lương thực cho cả nước và do đó chi phối sâu sắc sự phát triển kinh tế quốc
dân. Từ đó, Chính phủ đã đề ra các chính sách phát triển nông nghiệp nói
chung và lúa gạo nói riêng, như: Chính sách đầu tư vật chất kỹ thuật thích
đáng về thuỷ lợi, giống lúa, thâm canh, quảng canh lúa qua từng thời kỳ. Lúa
gạo đã được đưa vào 2 trong 3 chương trình kinh tế lớn của quốc gia (như
văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc tháng 12/1986 đã nêu). Nhờ đó, từ năm
1989 đến nay kim ngạch xuất khẩu gạo đã không ngừng tăng, mang lại
nguồn thu ngoại tệ lớn góp phần không nhỏ cho công cuộc đổi mới và xây
dựng đất nước.
II. NHU CẦU GẠO CỦA THỊ TRƯỜNG GẠO THẾ GIỚI:
1. Tình hình tiêu thụ gạo của thế giới:
Gạo là một trong những mặt hàng thiết yếu, ít phụ thuộc vào thu nhập
của các hộ gia đình. Do đó, khối lượng gạo tiêu thụ chỉ tăng ở một số nước
4
đang phát triển hoặc kém phát triển do tăng dân số và mức tiêu dùng gạo ở
các nước đó còn thiếu.
Nhìn chung, khối lượng tiêu dùng gạo đã ở mức bão hoà ở các nước
phát triển. Theo thống kê của Bộ nông nghiệp Mỹ (USDA), mức tiêu trụ gạo
toàn cầu từ năm 1998 – 2002 chỉ tăng 5,5%, từ 387,145 triệu tấn năm
1998/1999 lên 408,764 triệu tấn năm 2002/2003, trong đó khu vực Bắc Mỹ

công tăng 1,1%, châu Mỹ La Tinh tăng 8,9%, EU tăng 5,3%, Các nước
thuộc Liên Xô cũ tăng 15,2%, Trung Đông tăng 15,7%, Bắc Phi tăng 18,7%,
các nước Châu Phi tăng 27,1%, Nam Á tăng 5,9%, các nước Châu Á khác
tăng 3,4%, Châu Úc giảm 14,7%và các nước thuộc Đông Âu giảm 2,2%.
Theo đánh giá chung, mức tiêu thụ gạo tính theo đầu người trên thế
giới là 58% kg/người/năm, tại các nước Viễn Đông châu Á hiện nay ổn định
ở mức 95 kg/người/năm, Trung Quốc là 94kg/người/năm, Ấn Độ là
76kg/người/năm, cận Đông Châu Á là 20kg/người/năm, Châu Phi là
17kg/người/năm, Mỹ La Tinh là 26kg/người/năm, Mỹ là 19,7kg/người/năm,
Thái Lan là 106kg/người/năm.
Gạo chủ yếu được tiêu dùng ở châu Á, chiếm khoảng gần 90% lượng
gạo tiêu thụ trên toàn thế giới, trong đó Nam Á chiếm khoảng 29%. Tỷ trọng
tiêu thụ gạo ở các khu vực khác tương đối thấp : châu Mỹ chiếm khoảng 5%,
châu Phi 4,3%, Liên Xô và Đông Âu 0,4%, Trung Đông 1,7% và EU Là
0,6%.
Bảng 1: Sản lượng gạo tiêu thụ trên thế giới theo nước
(quy gạo xay theo niên vụ)
Đơn vị: ngàn tấn
Stt Các nước 1998/99 1999/00 2000/01 2001/02 2002/03
1 Băngladét 21.854 23.766 24.958 25.553 26.700
2 Brazil 7.950 8.025 8.050 8.075 8.100
3 Myanmar 9.350 9.500 9.700 9.900 10.100
4 Trung Quốc 133.570 133.763 134.356 134.581 134.800
5 Ấn Độ 81.154 82.670 75.851 87.831 82.500
6 Indonesia 35.033 35.400 35.887 36.358 36.790
7 Iran 2.775 2.850 2.925 3.000 3.075
8 Ai Cập 2.771 2.856 3.015 3.150 3.275
9 Nhật Bản 9.100 9.450 9.000 9.000 8.975
10 Bắc Triều Tiên 1.559 2.000 1.837 2.004 1.800
11 Hàn Quốc 5.021 4.986 5.000 5.100 5.100

12 Philippines 8.000 8.400 8.750 8.900 9.105
13 Nam Phi 525 535 550 600 650
14 Đài Loan 1.325 1.315 1.199 1.150 1.150
15 Thái Lan 8.900 9.300 9.348 9.767 9.922
5
16 Việt Nam 15.763 16.771 17.250 17.400 17.600
17 EU 2.113 2.190 2.207 2.215 2.225
18 Các nước khác 36.795 40.888 41.998 42.336 43.051
19 Mỹ 3.587 3.846 3.676 3.880 3.846
Tổng thế giới 387.145 398.511 395.547 410.800 408.764
Nguồn : FAS, USDA, tháng 5 năm 2003
2. Tình hình xuất – nhập khẩu gạo trên thế giới:
2.1.Tình hình nhập khẩu gạo:
Theo dự báo của USDA, lượng gạo nhập khẩu toàn cầu năm 2003 sẽ
đạt mức 26,8 triệu tấn, giảm 5% so với 28,1 triệu tấn năm 2002 do nhu cầu
nhập khẩu từ nhiều nước nhập khẩu chính do sản lượng nội địa tăng và
chính phủ các nước khuyến khích sản xuất trong nước bắng nhiều biện pháp
như trợ cấp, trợ giá, giảm giá vật tư nông nghiệp và hỗ trợ kỹ thuật…
Theo USDA, niên vụ 2002/2003, sản lượng gạo nhập khẩu toàn cầu
ước tính khoảng 26,334 triệu tấn. Nhu cầu nhập khẩu gạo chủ yếu là ở các
nước Châu Phi, Trung Đông và Châu Á, trong đó nhập khẩu gạo ở các nước
Châu Phi và Trung Đông chiếm đến 42% tổng lượng gạo nhập khẩu toàn
cầu. Trong khi đó, Châu Á sản xuất đến trên 90% lượng gạo trên thế giới
nhưng chỉ nhập khẩu khoảng 34% tổng lượng gạo nhập khẩu toàn cầu.
Trong năm 2003, sản lượng gạo nhập khẩu Iran, Banglades, EU, Arapsaudi,
Trung Quốc, Nga sẽ tăng, các nước Indonesia, Irắc, Senegal và Brazil giảm.
Theo thống kê của USDA, nước nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới là
Indonesia với mức nhập khẩu là 3,5 triệu tấn niên vụ 2002/2003, thứ hai là
Nigeria nhập khẩu 1,5 triệu tấn tiếp đến là Philipin là 1,2 triệu tấn, Irắc 1,1
triệu tấn, Iran 1 triệu tấn và Trung Quốc 1 triệu tấn.

Trung Quốc dự tính sẽ nhập khẩu khoảng 300.000 tấn gạo trong năm
2003, tăng 7,5 ngàn tấn so với năm 2002. Phần lớn gạo nhập khẩu của Trung
Quốc là loại gạo thơm của Thái Lan để tiêu dùng cho người có thu nhập cao
của thành phố. Theo cam kết với WTO, Trung Quốc áp dụng hạn ngạch thuế
quan đối với mặt hàng gạo. Thuế nhập khẩu trong hạn ngạch tương đối thấp,
1% đối với hàng thô, không quá 10% đối với gạo xay xát, thuế ngoài hạn
ngạch là 80%, sau đó giảm xuống 40% vào năm 2004.
Theo USDA, Trung Đông nhập khẩu khoảng 4,71 triệu tấn gạo tăng
11% so với năm 2002. Khu vực này hàng năm nhập khẩu khoảng 2/3 lượng
gạo tiêu dùng của mình do khu vực này rất khó mở rộng sản xuất. Đây là thị
trường lớn nhất thế giới về các loại gạo chất lượng cao như gạo phơi một
phần, gạo hạt dài cao cấp, basmati. Các nước Iran, Irắc, ArapSaudi là những
6
nước nhập khẩu lớn nhất, còn các nước như Thổ Nhĩ Kỳ, Jordani nhập khẩu
ít hơn chủ yếu là loại gạo Japonica.
Dự báo nhập khẩu gạo của khu vực Cận Sahara và Nam Phi là 6,2
triệu tấn trong năm 2003 giảm 3% so với năm 2002 và giảm 4% so với mức
kỷ lục năm 2001 là 6,4 triệu tấn.
Nhập khẩu của Châu Mỹ La Tinh và Caribe là 2,75 triệu tấn năm
2003, giảm chút ít so với năm 2002. Tình hình nhập khẩu của khu vực này
phụ thuộc rất nhiều vào hiện tượng thời tiết, đó là El Nino, năm 1998 lượng
gạo nhập khẩu của khu vực đạt mức kỷ lục là 3,65 triệu tấn.
Bảng 2: Nhập khẩu gạo thế giới theo nước (quy gạo xay)
Đơn vị: nghìn tấn
1999 2000 2001 2002 2003
Bangladesh 1.220 638 402 311 500
Brazil 781 700 673 548 1.000
Canada 248 250 262 237 250
Trung Quốc 178 278 267 305 300
Côlômbia 38 60 163 31 75

Cốtđivoa 600 450 654 700 650
Cuba 431 415 481 538 600
Ghana 125 186 368 350 250
Guinea 300 275 325 300 300
Haiti 235 245 250 305 300
Honduras 75 80 96 103 80
Inđônêsia 3.729 1.500 1.500 3.500 3.500
Iran 1313 1.100 765 964 1.000
Irắc 779 1.247 959 1.178 1.100
Nhật 633 656 680 616 650
Triều Tiên 159 400 537 654 300
Hàn Quốc 137 151 99 148 150
Malysia 617 596 633 480 500
Mêhicô 342 415 388 530 550
Nigêria 950 1.250 1.906 1.822 1.500
Nicaragua 88 60 117 106 75
Pêru 116 86 62 33 40
Philippin 1.000 900 1.175 1.180 1.200
Nga 580 400 247 406 350
Arap xê út 750 992 1.053 938 950
Sênêgal 621 589 874 858 750
Singapore 421 354 444 358 375
Nam Phi 514 523 572 800 650
Syria 200 150 172 204 150
Thổ Nhĩ Kỳ 321 309 231 342 250
Uzbêkistan 40 30 142 65 100
Các tiểu vương quốc Ả rập
thống nhất
75 75 75 80 80
Yêmen 217 210 202 210 250

7
EU 784 852 923 875 875
Đông Âu 361 343 381 364 379
Mỹ 358 308 413 419 390
Tổng thế giới 24.941 22.846 24.442 27.922 26.334
Nguồn: FAS, USDA, tháng 5 năm 2003
2.2. Tình hình xuất khẩu gạo trên thế giới:
Sản lượng thóc năm 2002 giảm sẽ làm giảm cung xuất khẩu của Ấn
Độ và Úc trong năm 2003. Do đó, sức ép cạnh tranh giảm đi từ Ấn Độ sẽ
khuyến khích xuất khẩu của Thái Lan và Việt Nam tăng lên. Xuất khẩu cũng
có triển vọng tăng lên từ Ai Cập, Pakixtan và Mỹ, trong khi xuất khẩu của
Trung Quốc duy trì ở mức 2,25 triệu tấn năm 2003.
Bảng 3: xuất khẩu gạo của thế giới (quy gạo xay)
Đơn vị: Nghìn tấn
1999 2000 2001 2002 2003
Ác hen ti na 674 32 363 233 200
Úc 667 617 618 360 300
Myanmar 57 159 670 1.002 600
Trung Quốc 2.708 2.951 1.847 1.963 2.250
Ai Cập 320 500 705 473 500
Guyana 252 167 175 150 175
Ấn Độ 2.752 1.449 1.936 6.650 4.000
Pakistan 1.838 2.026 2.417 1.603 1.400
Thái Lan 6.679 6.549 7.521 7.245 7.500
Uruguay 681 642 806 526 650
Việt Nam 4.555 3.370 3.528 3.245 4000
EU 348 308 264 350 475
Các nước khác 766 929 1.051 831 734
Mỹ 2.644 2.847 2.541 3.291 3.550
Tổng thế giới 24.941 22.846 24.442 27.922 26.334

Nguồn: FAS, USDA, tháng 5 năm 2003
Theo USDA, xuất khẩu gạo toàn đạt 24,9 triệu tấn năm 1999, 22,8
triệu tấn năm 2000, 24,4 triệu tấn năm 2001, 27,9 triệu tấn năm 2002 và ước
đạt 26,3 triệu tấn năm 2003.
2.3 Diến biến giá gạo trên thị trường thế giới:
Trên thị trường thế giới, giá gạo đã liên tục sụt giảm từ năm 1998 và
luôn duy trì ở mức thấp trong những năm gần đây. Theo số liệu của FAO,
diễn biến giá xuất khẩu của một số loại gạo chính trong giai đoạn 1998 –
tháng 3/2003, như sau:
8
Theo số liệu về chỉ số giá của FAO, giá xuất khẩu của hầu hết các loại
gạo đều giảm trên 25% so với mức giá trung bình của các năm 1998 – 2000,
trong đó gạo Japonica có chỉ số giá giảm lớn nhất, từ 34% trong giai đoạn
2000 – 3/2003.
Mặc dù đã có dấu hiệu cho thấy giá gạo trên thị trường bắt đầu phục
hồi, nhưng triển vọng giá gạo trong thời gian tới vẫn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khó xác định như diễn biến chính trị ở Trung Đông, nhu cầu và chính
sách nhập khẩu của các nước Châu Phi… Mặt khác, nhu cầu nhập khẩu
trong năm 2003 có xu hướng giảm đi từ nhiều nước nhập khẩu chính như
Indonesia, Philippin, Iran… sẽ là những yếu tố làm cản trở giá gạo tăng trở
lại trong thời gian tới.
3. Dự báo triển vọng thị trường gạo tới năm 2010:
3.1 Triển vọng tiêu thụ:
Theo dự báo của USDA, tổng mức tiêu thụ gạo của thế giới đến năm
2010 là 439.324 ngàn tấn. Tốc độ tăng trưởng tiêu thụ gạo bình quân từ nay
đến năm 2010 là 0,9%/năm, trong đó số lượng gạo dùng làm thực phẩm là
399.023 ngàn tấn, sử dụng làm thực phẩm với mức độ tăng bình quân là
1%/năm.
Dự báo tiêu thụ gạo theo nhóm nước: Tổng mức tiêu thụ của các nước
đang phát triển sẽ tăng khoảng 1%/năm và tại các nước phát triển chỉ tăng

0,5%/năm. Dự báo tiêu thụ gạo theo mục đích sử dụng: Tiêu dùng gạo như
thực phẩm tại các nước đang phát triển sẽ tăng bình quân 1,1%/năm còn tại
các nước phát triển là 0,3%/năm.
Nếu xét về cơ cấu tiêu thụ theo đầu người thì Myanmar có mức tiêu
thụ theo đầu người cao nhất đạt 183,8kg/người/năm vào năm 2010, tiếp đến
là Campuchia với 166kg/người/năm, thứ 3 là Indonesia là 158kg/người/năm.
3.2 Triển vọng buôn bán gạo trên thị trường thế giới:
Theo dự báo mới nhất của Bộ Nông Nghiệp Mỹ (USDA), buôn bán
gạo toàn cầu dự báo sẽ tăng bình quân 2,4%/năm trong giai đoạn 2003 –
2012. Tới năm 2012, buôn bán gạo dự báo sẽ đạt trên 33 triệu tấn, tăng 25%
so với mức kỷ lục đạt trong năm 1998.
*Nhập khẩu:
Gạo hạt dài (Indica) sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng giao dịch
gạo toàn cầu. Các nước nhập khẩu gạo chủ yếu là các nước Châu Á, Trung
Đông, Cận Sahara Châu Phi và Mỹ La Tinh, trong đó phải kể đến Indonesia,
9
Iran, Irắc, Philippin và Arập-xê-út sẽ vẫn là những nước nhập khẩu gạo hạt
dài chủ yếu.
*Xuất khẩu:
Thái Lan và Việt Nam, hai nước đứng đầu về xuất khẩu gạo hạt dài,
dự báo sẽ chiếm khoảng 44% trong tổng lượng gạo xuất khẩu toàn câù.
Năng suất tăng trong khi mức tiêu thụ bình quân đầu người trên thị trường
nội địa có xu hướng giảm đi sẽ tạo điều kiện tăng nguồn cung xuất khẩu của
hai nước này.
Ấn Độ vẫn duy trì là nước xuất khẩu gạo lớn từ giữa thập niên 90 mặc
dù gạo xuất khẩu của Ấn Độ chủ yếu là gạo hạt dài chất lượng thấp, gao cao
cấp basmati chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng lượng xuất khẩu gạo của
nước này.
Xuất khẩu gạo của Trung Quốc – nước đứng thứ 5 thế giới về xuất
khẩu gạo – chỉ tăng nhẹ trong những năm tới do Trung Quốc chuyển từ sản

xuất gạo cấp thấp sang các loại gạo có chất lượng cao nhưng năng suất thấp
để đáp ứng nhu cầu tăng lên về loại gạo này từ thị trường nội địa cũng như
thị trường xuất khẩu.
Mặc dù nguồn thu từ xuất khẩu gạo chiếm vị trí quan trọng trong
nguồn thu ngoại tệ của Pakixtan, nhưng những khó khăn về nguồn nước tưới
cũng như cơ sở hạ tầng ngăn cản Paxkitan tăng sản xuất và xuất khẩu gạo,
làm lượng xuất khẩu của nước này, sau khi tăng nhẹ, lại giảm xuống mức
2,4 triệu tấn, tương đương với mức xuất khẩu năm 2000
III.SỰ CẦN THIẾT PHẢI XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM:
1. Lợi thế so sánh của Việt Nam trong sản xuất và xuất khẩu gạo:
1.1 Điều kiện đất đai:
Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng hàng đầu của canh tác lúa gạo.
Độ phì nhiêu của đất chi phối sâu sắc khả năng thâm canh và giá thành sản
phẩm Tổng diện tích tự nhiên cả nước có trên 33,1 triệu ha, trong đó đất
giành để trồng lúa khoảng 4,3 triệu ha, chiếm trên 13% diện tích đất cả
nước, bình quân đất theo đầu người của nước ta tuy thấp nhưng quỹ đất có
khả năng trồng lúa lại chiếm tỷ lệ cao trong đất có khả năng nông nghiệp.
Theo khảo sát của Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp thuộc Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, đất có khả năng nông nghiệp nước ta có trên
10 triệu ha, trong đó đất có khả năng trồng lúa là 8,5 triệu ha.
10
Như vậy tài nguyên đất đai của nước ta có lợi thế đồng thời cho cả
hướng thâm canh và quảng canh nhằm tăng nhanh sản lượng lúa.
1.2 Khí hậu:
Tài nguyên khí hậu đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái, cung
cấp nguồn năng lượng và các yếu tố khác như độ ẩm và gió mưa. Khí hậu
của nước ta có điều kiện lý tưởng đối với cây lúa do có sự kết hợp chặt chẽ
giữa các yếu tố trên. Nghiên cứu các yếu tố về đIều kiện sinh tháI cho thấy
rõ thêm, không phải vô cớ mà cây lúa là cây bản địa của Việt Nam với lịch
sử nhiều ngàn năm cua nghề trồng lúa. Đặc biệt ở 2 vựa lúa chính, có chế độ

thâm canh và luân canh tối ưu để khai thác triệt để những lợi thế đó.
1.3. Nước tưới tiêu:
TàI nguyên nước rất dồi dào cũng là một lợi thế nổi bật của nghề
trồng lúa ở Việt Nam. Số ngày mưa lý tưởng 120-140 ngày/năm ở hai đồng
bằng lớn không chỉ cung cấp cho lúa nguồn nươc trời quý giá mà còn đồng
thời bồi bổ cho lúa nguồn phân đạm thiên nhiên dễ hấp thụ nhất mà nước và
đạm nhân tạo không thể so sánh. Cùng với nước mưa trời, dòng chảy mặt
còn sản sinh trên lãnh thổ nước ta khoảng 300 tỉ m≥ nước. Ngoài ra, hệ
thống thuỷ lợ nước ta, với 10% ngân sách Nhà nước đầu tư hàng năm đã đạt
được thành qủa bước đầu đáng mừng. Có thể nói, nước, nguồn tài sản thiên
nhiên vốn quý giá, cộng thêm sự chú trọng phát thuỷ lợi hơn nữa của Nhà
nước trong thời gian qua, là yếu tố rất cơ bản thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu
gạo tăng mạnh trong những năm gần đây.
1.4. Nhân lực:
Yếu tố nhân lực không chỉ có ưu thế lớn về số lượng nhân lực mà còn
có ưu thế lớn về chất lượng, về sự tinh thông, am hiểu nghề trồng lúa. Lịch
sử sản xuất lúa của Việt Nam đã trải qua hơn 6000 năm kể từ thưở cộng
đồng nguyên thuỷ ngươì Việt cho đến khi ra đời nhà nước Văn Lang và cho
tới nay, đã được các thế hệ đúc rút và để lại nhiều tri thức, kinh nghiệm quí
báu. Kho tàng kinh nghiệm đó thực sự là một lợi thế đặc biệt, nó cho phép
khai thác triệt để những lợi thế thông thường của các tàI sản thiên nhiên như
tàI sản đất, tài sản nước, tàI sản khí hậu.
1.5. Địa lý và cảng khẩu:
Hầu hết khối lượng gạo trong buôn bán quốc tế bấy lâu thường được
vận chuyển bằng đường biển. So với các phương thức vận tải quốc tế bằng
đường sắt, đường hàng không, vận tải biển quốc tế thường đảm bảo tiện lợi,
thông dụng vì có mức cước phí rẻ hơn. Do vậy, riêng phương thức này đã
11
chiếm khoảng trên 80% buôn bán quốc tế. Việt Nam có vị trí giao thông
đường biển rất thuận lợi. Hệ thống cảng biển Việt Nam nói chung đều nằm

gần sát đường hàng hải quốc tế và có thể hành trình theo tất cả các tuyến đI
Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Thái Bình Dương, Trung Cận Đông, Châu Âu,
Châu Mỹ… Từ cảng Sài Gòn đến đường hàng hảI quốc tế thường chỉ hết 3
giờ hành trình với 40 hải lý. Từ cảng Sài Gòn, nếu xuất khẩu gạo đi
Singapore thường hết 2 ngày hành trình, Nhật: 6 ngày,Indonesia: 3 ngày,
Hàn Quốc: 5 ngày, Hồng Kông : 1 ngày, Pháp: 25 ngày, Hà Lan: 34 ngày,
Anh: 35 ngày, Mỹ (Los Angelss): 25 ngày.
Tóm lại, Việt Nam có nhiều lợi thế cơ bản trong sản xuất và xuất khẩu
gạo.
2. Sự cần thiết phải xuất khẩu gạo đối với Việt Nam:
Bên cạnh những lợi thế trên như là một tiềm năng trong sản xuất và
phát triển sản xuất lúa gạo để xuất khẩu, thì sự cần thiết phải xuất khẩu gạo
đối với Việt Nam có thể qui tụ vào những lẽ cơ bản sau đây:
2.1 Tích luỹ vốn cho sự nghiệp đổi mới đất nước:
Mục tiêu chủ yếu sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện
nay là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy, đẩy mạnh xuất khẩu
nói chung là đòi hỏi cấp bách nhằm tăng ngoại tệ, giải quyết vốn cho công
nghiệp hóa. Trước tình hình đó, lúa gạo đã đột phá vươn lên để giữ vị trí mặt
hàng xuất khẩu lớn thứ 2 của nước ta, sau dầu thô. Trong suốt 13 (1991 –
10/2003) năm qua, riêng kim ngạch xuất khẩu gạo đã đạt trên 8 tỷ USD…
Con số đó đã nói rõ sự cần thiết của việc xuất khẩu gạo đối với công cuộc
đổi mới kinh tế của đất nước.
2.2 Cải thiện đời sống:
Đối với mỗi quốc gia, việc phát triển nguồn nhân lực là nội dung lớn
thuộc chiến lược phát triển con người để thực hiện thắng lợi các chiến lược
kinh tế – xã hội của đất nước.
Dân số nước ta với 80% dân số tập trung ở nông thôn, phần lớn sinh
sống bằng sản xuất lúa gạo và trồng cây lương thực. Trong khi đó, đời sống
ở nông thôn và thành thị có sự chênh lệch đáng kể. Đời sống của người nông
dân còn thấp, xét cả về mức thu nhập bình quân đầu người, điều kiện vật

chất và cơ sở hạ tầng v v… Với tình trạng đó thì việc phát triển sản xuất lúa
gạo và xuất khẩu gạo để nâng cao thu nhập cho nông dân góp phần xây
dựng nông thôn ngày một giàu mạnh là điều thật sự cần thiết.
2.3 Phát huy lợi thế trong nước:
12
Sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam có những lợi thế cơ bản như
lợi thế về đất đai, khí hậu, nước tưới tiêu, nguồn nhân lực, vị trí địa lý và
cảng khẩu. Một chiến lược đúng đắn nhất phải là chiến lược khai thác triệt
để nhất các lợi thế. Chính những lợi thế đó đã làm cho sản lượng lúa tăng
đều đặn trong những năm qua. Qua những điều cơ bản đã nêu ở trên, chúng
ta thấy rõ sự cần thiết phải xuất khẩu gạo cũng như tính đúng đắn của định
hướng xuất khẩu gạo là tất lẽ dĩ ngẫu.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU GẠO CỦA
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA.
I. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT TRONG NƯỚC:
1. Tình hình và triển vọng sản xuất:
Trong giai đoạn 1992 – 1997, diện tích trồng lúa tăng bình quân
1,85%, năng suất tăng bình quân 3,10%/năm và sản lượng tăng bình quân
4,97%/năm. Trong giai đoạn tiếp theo (1997 – 2002), mặc dù diện tích trồng
lúa chỉ tăng 1,05%/năm, nhưng do năng suất tăng cao hơn so với giai đoạn
trước, đạt 3,25%/năm, nên sản lượng lúa cả năm vẫn đạt tốc độ tăng
4,3%/năm. Bảng 4 cho thấy các số liệu cụ thể về diện tích, năng suất và sản
lượng lúa qua các năm. Như vậy, trong giai đoạn 1992 – 1997, khoảng trên
60% mức tăng trưởng sản lượng lúa là do tăng năng suất và trong giai đoạn
1997 – 2002 là khoảng 75%.
Bảng 4: Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam
Năm Diện tích lúa cả
năm
Năng suất Sản lượng

1000 ha % tăng Tạ/ha % tăng 1000 tấn % tăng
1991 6.302,8 31,1 19.621,9
1992 6.475,3 102,7 33,3 107,1 21.590,4 110,0
1993 6.559,4 101,3 34,8 104,4 22.836,5 105,8
1994 6.598,6 100,6 35,7 102,4 23.528,2 103,0
1995 6.765,6 102,5 36,9 103,4 24.963,7 106,1
1996 7.003,8 103,5 37,7 102,1 26.396,6 105,7
1997 7.099,7 101,4 38,8 102,8 27.523,9 104,3
13
1998 7.362,7 103,7 39,6 102,1 29.145,5 105,9
1999 7.648,1 103,9 41,0 103,6 31.393,8 107,7
2000 7.665,4 100,2 42,4 103,3 32.529,4 103,6
2001 7.484,2 97,6 42,7 100,6 31.970,0 98,3
2002 7.485,0 100,0 45,5 106,6 34.000,0 106,4
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Năm 2002, sản lượng lúa của Việt Nam đã đạt 34 triệu tấn, tăng 15,2
triệu tấn (80% so với năm 1989, đạt tốc độ tăng 6,43%/năm). Trong khi đo,
tốc độ tăng dân số của Việt Nam cùng thời kỳ chỉ là 1,9%/năm, nên sản lượn
lương thực bình quân đầu người tăng từ 324,4kg/người năm 1990 lên
372kg/người năm 1995 và 435kg/người năm 2002, nhưng mức sản lượng
bình quân cao nhất đạt được vào năm 2000 là 455kg/người.
2. Thị trường lúa, gạo Việt Nam:
2.1 Sản xuất và cung ứng lúa, gạo:
Tham gia vào sản xuất lúa ở Việt Nam có tới 70% số hộ cả nước, hay
84% số hộ ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, do đặc điểm của sản xuất phân
bố rộng, qui mô nhỏ và yêu cầu đảm bảo tiêu dùng lương thực trong các hộ
gia đình, nên tỷ lệ số hộ có bán lúa chỉ chiếm khoảng 60%. Nếu xét theo
vùng sản xuất, thì ĐBSCL có tỷ lệ số hộ bán lúa chiếm khoảng 76% (cao
nhất trong cả nước).
2.2 Tiêu dùng và mua lúa, gạo:

Chỉ có khoảng 98% số hộ gia đình ở khu vực thành thị và3/4 số hộ gia
đình ở khu vực nông thôn phải mua gạo trên thị trường. Trong khu vực nông
thôn, thì ĐBSCL có tỷ lệ số hộ mua gạo cao nhất, chiếm khoảng 89%. Nếu
xét theo nhóm thu nhập, thì trong nhóm hộ giàu, tỷ lệ số hộ mua gạo trên thị
trường cao hơn so với nhóm thu nhập thấp. Bình quân lượng gạo mua trong
một năm của một hộ gia đình là trên 300kg, bình quân cao nhất là ở vùng
ĐBSCL (350kg/hộ/năm) và thấp nhất là ở vùng ĐBSH (100kg/hộ/năm).
II. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM:
1. Tình hình xuất khẩu:
Từ năm 1989 đến nay, 14 năm liên tục, Việt Nam được xem là một
thế lực chủ yếu trên thị trường gạo thế giới với số lượng và chất lượng ngày
càng tăng. Trong giai đoạn (1992 – 1997), xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng
bình quân 12,94%/năm về lượng và 15,80%/năm về trị giá. Mặc dù trong
giai đoạn gần đây (1997 – 2002), xuất khẩu gạo của Việt Nam đã có dấu
hiệu tăng chậm lại. Điều này có nguyên nhân từ sự suy giảm giá chung trên
thị trường thế giới. Tuy nhiên, năm 1999 Việt Nam đã xuất khẩu 4,5 triệu
14
tấn gạo, với giá trị xuất khẩu đạt 1,025 tỷ USD, so với năm 1989, lượng tăng
gấp 3,2 lần và giá xuất khẩu bình quân tăng 1,11 lần và giá trị tăng gấp 3,53
lần. Năm 2000, xuất khẩu 3,5 triệu tấn, do khó khăn về thị trường và giá cả
giảm, năm 2001 xuất 3,7 triệu tấn và năm 2002 xuất 3,2 triệu tấn.
Bảng 5: Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam 1991 – 2003
Năm
Sản lượng gạo
Kim nghạch
xuất khẩu
Gía bình quân
1 tấn
(1000 kg) (Triệu tấn) (USD)
1991 1033 234 227

1992 1946 418 215
1993 1722 362 210
1994 1983 424 214
1995 1988 530 267
1996 3003 855 285
1997 3575 870 243
1998 3730 1024 275
1999 4508 1025 227
2000 3476 672 192
2001 3729 619 165
2002 3240 726 224
Dự báo
2003
3200 750 234
Nguồn : Niên giám Thống kê Việt Nam
Tính chung 14 năm, nước ta đã cung cấp cho thị trường gạo thế giới
trên 37 triệu tấn, bình quân 2,64 triệu tấn/năm và tổng giá trị xuất khẩu gạo
đạt trên 8 tỷ USD, bình quân 572 triệu USD/năm. Năm 2003, mặc dù thị
trường Irắc có biến động, nhưng các thị trường mới đã mở ra như Iran,
Libăng, Xi-ri, Châu Phi, xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn ở mức cao. Kế
hoạch xuất khẩu 3,2 triệu tấn gạo năm 2003 đã hoàn toàn có thể đạt hoặc
vượt.
Bên cạnh sự tăng trưởng về khối lượng gạo xuất khẩu, chất lượng gạo
xuất khẩu của Việt Nam cũng ngày càng được nâng cao cả về chất lượng
gạo và chất lượng chế biến (phân theo tỷ lệ tấm). Trong những năm đầu
xuất khẩu gạo, tỷ lệ gạo chất lượng trung bình, với tỷ lệ tấm cao trên 25%
15
chiếm đến 80 – 90%, nên sức cạnh tranh kém, giá cả thấp. Nguyên nhân chủ
yếu là đầu tư vào lĩnh vực xay sát, đánh bóng chưa được quan tâm đúng
mức.

Bảng 6: Tỷ lệ một số loại gạo xuất khẩu chính của Việt Nam
Loại Thị phần%
25% tấm 37,90
5% tấm 26,56
15% tấm 15,50
10% tấm 13,11
Tấm 5,30
Nếp và gạo thơm 1,46
Các loại khác 1,17
Nguồn: Niên giám Thống kê Việt Nam
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam cũng được tăng dần cùng với xu
hướng tăng của chất lượng gạo và quan hệ cung – cầu của thị trường lúa gạo
thế giới. Giá gạo xuất khẩu bình quân 4 năm 1995 – 1998 là 269 USD/tấn,
tăng 61 USD/tấn so với giá bình quân 6 năm trước đó (1989 – 1994).
Khoảng cách giữa giá gạo Việt Nam với giá gạo Thái Lan đã giảm dần: từ
40 – 55 USD/tấn những năm 1989 – 1994 xuống 20 – 25 USD/tấn những
năm 1995 – 2000. Nhìn chung, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam hiện nay
vẫn còn thấp so với mặt bằng chung của thế giới.
2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam:
Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam: ngày càng được mở rộng.
Năm 1991, gạo Việt Nam mới xuất khẩu sang trên 20 nước, bước sang năm
1993 – 1994 tăng lên trên 50 nước, và hiện nay đã xuất khẩu đến trên 80
nước và có mặt ở cả 5 châu lục. Trong đó, thị trường nhập khẩu chính của
gạo Việt Nam là các nước Châu Á với 29 nước, Châu Âu 29 nước, Châu Mỹ
17 nước, Châu Phi 16 nước va Châu Đại Dương 3 nước. Trong đó, Châu Á
và Châu Phi là 2 thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam. Giai đoạn
1991 – 2000 hai thị trường ày chiếm tỷ lệ tương ứng là 58,8% va 18,8%.
Các thị trường nhập khẩu với lượng lớn và ổn định la Philippine, Inđônêsia,
16
Malaysia, Irắc. Các nước Singapore, Thuỵ Sỹ, Hà Lan và Mỹ nhập khẩu

gạo của ta chủ yếu là để tái xuất.
3. Một số nước nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam:
Inđônêsia: Trong 5 năm trở lại đây, Inđônêsia đã nhập khẩu gạo của
Thái Lan, Việt Nam, Mỹ, Myanma và Đài Loan. Chính phủ Indonesia chủ
yếu nhập khẩu gạo 25% tấm. Năm 1999 nhập 1804 ngàn tấn (40%) và 2001
chỉ còn 350 ngàn tấn (14%), năm 2002 là 744,0 ngàn tấn.
Philippine: Hàng năm, gạo Việt Nam chiếm 40 – 60% tổng lượng gạo
nhập khẩu của nước này.Năm 2000, Việt Nam xuất khẩu sang Philippine
370 ngàn tấn (trên thực tế là 530 ngàn tấn vì một số công ty nước ngoài nhập
khẩu gạo của Việt Nam rồi xuất sang đây).
Malaysia: Nhập khẩu gạo của Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc,
Myanma, Mỹ, Ấn Độ, với giá trị 36,52 triệu USD.
Singapore: Năm 1999, đã nhập khẩu 112 ngàn tấn gạo của Việt Nam,
năm 2000 là 221 ngàn tấn, 260 ngàn tấn trong năm 2001 và 97,36 ngàn tấn
năm 2002.
Irắc: Hàng năm, Irắc nhập khẩu gạo chủ yếu từ Việt Nam loại gạo 5%
tấm – khoảng 500 ngàn tấn, đây là thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam
tương đối ổn định và có giá trị cao song cũng gặp nhiều khó khăn nhất là
tình hình chính trị không ổn định (năm 2002, Irắc nhập của Việt Nam 876,37
ngàn tấn gạo, với trị giá 276,17 triệu USD).
4. Dự báo xuất khẩu gạo Việt Nam trong thời gian tới:
Việt Nam có rất nhiều cơ hội tăng sản lượng và chất lượng gạo xuất
khẩu. Nếu Việt Nam tận dụng được cơ hội nhu cầu thị trường tăng lên (trong
khi các nước có tiềm năng cạnh tranh trong sản xuất và xuất khẩu gạo,
Myanma, Pakistan và Camphuchia còn đang chậm hơn trong nâng cao hiệu
quả đầu tư sản xuất và tìm cách mở rộng thị trường), đồng thời, tăng cường
có hiệu qủa áp dụng các kỹ thuật mới trong sản xuất đi đôi với cải thiện cơ
chế chính sách và phương thức xúc tiến thương mại, bắt kịp Thái Lan, Trung
Quốc và ấn độ trong cạnh tranh xuất khẩu vào các thị trường mới mở, Việt
Nam sẽ có thể mở rộng xuất khẩu trên cả hai thị trường gạo phẩm cấp cao và

chất lượng gạo trung bình.
Với xu thế phat triển của đất nước, tương quan với tình hình thị
trường và các nước cạnh tranh xuất khẩu có thể nhận định chung: Việt Nam
vẫn là một trong các nước có nhiều khả năng và nằm trong 4 nước xuất khẩu
gạo lớn nhất trên thế giới trong vòng 10 năm tới. Dự báo, trong bối cảnh
17
cạnh tranh bám đuổi mạnh mẽ giữa các nước, tăng thêm thị phần xuất khẩu
trong thời gian tới là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam. Một số
nhà kinh tế cho rằng, tiếp tục giữ được thị phần như hiện nay ở các khu vực
thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam là khả năng xảy ra cao nhất, theo đó,
xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ đạt 4,61 triệu tấn/năm trong thời kỳ 2001 – 2005
và 5,42 triệu tấn/năm trong thời kỳ 2006 – 2010 Thị trường quan trọng của
gạo Việt Nam vẫn là Châu Phi, hàng năm có thể xuất vào 1,9 – 2,7 triệu tấn
gạo, Châu á là 1,3 – 1,5 triệu tấn, tiếp theo là khu vực Mỹ La Tinh và
Caribee có thể xuất vào mỗi năm 0,5 – 0,9 triệu tấn.
Bảng 7: Dự báo thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam giai đoạn
2001 - 2010
Đơn vị: Nghìn tấn
Thị trường 2001 – 2005 2006 – 2010
Châu Á 1.570 1.490
Châu Phi 2.190 2.730
Mỹ La Tinh & Caribê
620 880
Khu vực còn lại 230 320
Tổng 4.610 5.420
Nguồn: Nghiên cứu kinh tế số 284
III. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KHẢ NĂNG CẠNH
TRANH CỦA GẠO XUẤT KHẨU VIỆT NAM:
1.Chất lượng gạo xuất khẩu:
Chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đã được cảI thiện tương đối

ấn tượng trong hơn một thập kỷ qua. Tốc độ tăng xuất khẩu gạo 5% tấm đã
tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung và hiện đã chiếm
26,56% tổng lượng gạo xuất khẩu. Đây là kết qủa của quá trình đầu tư cảI
tiến công nghệ trong khâu chế biến và những vấn đề có liên quan. Tuy
nhiên, nhìn chung chất lượng gạo xuất khẩu vẫn còn ở mức thấp nên ảnh
hưởng lớn đến giá bán và thị trường trong xuất khẩu.
2.Yếu tố mùa vụ trong xuất khẩu gạo của Việt Nam:
Do tính mùa vụ của sản xuất lúa, nên xuất khẩu gạo cũng mang đậm
tính mùa vụ. Thời điểm từ tháng 4 đến tháng 9 là khoảng thời gian xuất khẩu
gạo chủ yếu của Việt Nam (cùng với thời đIểm thu hoạch Đông Xuân và Hè
Thu). Đồng thời, khoảng thời gian tháng 1, tháng 2 là thời điểm xuất khẩu
gạo thấp nhất của Việt Nam.
3. Giá cả (giá trong nước và giá xuât khẩu):
18
Chi phí sản xuất lúa ở Việt Nam có lợi thế hơn nhiều so với Thái Lan:
chi phí lao động bằng 1/3, tỷ lệ diện tích được tưới gấp 2 lần, hệ số quay
vòng đất gấp 1,33 lần, năng suất gấp 1,5 lần, các chỉ tiêu liên quan về giá vật
tư đầu vào bằng 50% - 80% chi phí của Thái Lan. Do vậy chi phí sản xuất
lúa gạo của Việt Nam bình quân từ 90 – 110 USD/tấn, đặc biệt vụ Đông
Xuân 2002 giá thành sản xuất lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 920 –
1000 đồng/kg, trong khi chi phí của Thái Lan là 120 – 150 USD/tấn (tỷ giá
35bat/USD).
Tuy nhiên, chênh lệch giữa giá gạo trong nước và giá giao tại cảng lại
khá lớn do chi phí dịch vụ xuất khẩu gạo của Việt Nam cao. Điều đó xuất
phát từ sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng, vận tải, bốc dỡ. Chi phí bốc
dỡ xếp hàng và chi phí tại cảng Sài Gòn cao chiếm 1,6% giá xuất khẩu, ở
Thái Lan chi phí này bằng 1/2 Việt Nam, tốc độ bốc dỡ chậm so với Thái
Lan 6 lần, làm tốn thêm 6000/ngày. Mặt khác, theo kết qủa điều tra Viện
Công nghệ sau thu hoạch và tổng cục thống kê 1995 cho thấy tổn thất sau
thu hoạch ở nước ta cao: ở khâu thu hoạch là 1,3 – 1,7%, vận chuyển là 1,2 –

1,5%, đập tuốt là 1,4 – 1,8%, phơi sấy là 1,9 – 2,1%, bảo quản 3,0 – 3,4%,
xay xát chế biến là 4,1 –4,5%. Mặt khác, tổng tổn thất lên đến 12 – 15%,
đồng nghĩa với giá thành bị đẩy lên tương đương.
Bên cạnh những yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng làm tăng chi phí
dịch vụ xuất khẩu, mối quan hệ giữa giá trong nước và giá giao tại cangr này
còn là một tham số phản ánh tính hiệu qủa thấp của hệ thống marketing lúa
gạo.
4. Bao gói, quy cách, mẫu mã sản phẩm xuất khẩu:
Một số yêu cầu cơ bản về gạo xuất khẩu: chiều dài hạt gạo đạt 7mm,
tỷ lệ chiều dài/chiều rộng lớn hơn, hạt gạo phải trong, điểm bạc bụng cho
phép từ 0 – 1mm và một số tiêu chuẩn khác như: tỷ lệ tấm, tỷ lệ hạt hẩm, hạt
đỏ, tỷ lệ bạc bụng, tỷ lệ thóc, độ bóng v v… Tuy nhiên, gạo Việt Nam hầu
như chưa đáp ứng các yêu cầu trên.
Ngoài các yếu tố được nêu trên, thì bao bì xuất khẩu Việt Nam cũng
chưa đảm bảo yêu cầu: chất lượng bao bì không đều, mật độ sợi thấp, độ bền
sợi thấp, đường khâu hai bên lỏng lẻo, đóng miệng chưa chắc chắn nên khi
vận chuyển rất dễ bị vỡ và khó bảo quản. Tất cả các nguyên nhân trên khiến
cho gạo Việt Nam không đáp ứng được các yêu cầu về mẫu mã của thị
trường, làm giảm khả năng cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam so với Thái Lan
và Mỹ.
19
5. Tiếp cận tín dụng xuất khẩu:
Những hạn chế trong việc tiếp cận tín dụng của các doanh nghiệp xuất
khẩu Việt Nam hiện nay được xem như một trở ngại quan trọng nhất trong
việc tăng trưởng xuất khẩu của các nhà xuất khẩu chủ yếu.
Các cơ quan cung cấp tín dụng chủ yếu cho các doanh nghiệp xuất
khẩu gạo của Việt Nam là Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, Ngân hàng
Thương mại Việt Nam và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Các cơ quan
này chỉ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp sau khi đã có hợp đồng xuất
khẩu. Vì vậy, nếu không được cấp tín dụng kịp thời, nhà xuất khẩu sẽ không

thể mua được gạo xuất khẩu theo hợp đồng và có thể còn bị phạp do không
thực hiện đúng hợp đồng. Các doanh nghiệp nhà nước ở ĐNB và ĐBSCL
đều cho rằng tiếp cận tín dụng hiện nay còn nhiều hạn chế, thông thường
Ngân hàng chỉ đáp ứng được 1/3 nhu cầu vay của doanh nghiệp.
6. Kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu:
Cơ quan kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu (đối với các sản phẩm
nông nghiệp và phi nông nghiệp) quan trọng nhất ở Việt Nam hiện nay là
VINACONTROL. Đối với mặt hàng gạo xuất khẩu, VINACONTROL kiểm
tra tới 95% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Quy trình kiểm tra của
VINACONTROL gồm 3 bước: (1) kiểm tra chất lượng gạo trong kho của
nhà xuất khẩu; (2) kiểm tra chất lượng gạo tại nơi xếp hàng chờ xuất khẩu;
(3) kiểm tra chất lượng gạo trước khi giao hàng, chi phí kiểm tra chất lượng
gạo là 0,3USD/tấn.
7. Vận chuyển tàu biển:
Vận chuyển gạo xuất khẩu là dịch vụ đắt đỏ ở Việt Nam do thiết bị
cảng lạc hậu, năng lực bốc xếp thấp, lệ phí cảng cao và năng lực vận tải
thấp…
Do năng lực vận tải biển thấp, phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu
sử dụng phương thức xuất khẩu FOB (sử dụng tàu vận tải nước ngoài), chỉ
có những lô hàng xuất khẩu theo ký kết của Chính phủ mới sử dụng tàu của
các công ty tàu biển trong nước.
Trong số các cảng biển của Việt Nam thì lượng gạo xuất khẩu thông
qua cảng Sài Gòn chiếm tới 70%. Điều này không chỉ xuất phát từ vị trí gần
gũi của cảng với nguồn hàng xuất khẩu chính, mà còn từ mức cước phí vận
tải biển từ cảng Sài Gòn thường thấp hơn cảng Hải Phòng và cảng Đà Nẵng.
Tuy nhiên, mức phí cảng của cảng Sài Gòn lại cao hơn.
8. Hoạt động tiếp cận thị trường:
20
Phần lớn quan hệ giao dịch buôn bán gạo thường được người mua
nước ngoài hoặc là trực tiếp, hoặc là thông qua cơ quan Chính phủ. Các

doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam chưa chủ động tìm kiếm thị trường: chưa
có được các hơp đồng lớn ổn định. Các hợp đồng chủ yếu là các hợp đồng
Chính phủ chiếm 1/2 lượng gạo xuất khẩu.
Hoạt động của Hiệp hội Xuất nhập khẩu lương thực Việt Nam trong
việc cung cấp thông tin về giá cả, thị trường chưa có hiệu qủa. Mặt khác, do
gạo là nguồn an ninh lương thực quốc gia nên Nhà nước quản lý hoạt động
xuất khẩu bằng việc cấp QUOTA nên các doanh nghiệp cũng không chủ
động trong việc ký hợp đồng.
Các hoạt động hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu gạo cũng chưa được quan
tâm đầy đủ, chưa tận dụng được các phương tiện thông tin, văn phòng đại
diện, cơ quan tham tán, người Việt Nam ở nước ngoài … để tổ chức tuyên
truyền, quảng bá gạo Việt Nam đến người tiêu dùng. Đối với thị trường có
nhu cầu lớn về gạo có phẩm cấp thấp như Châu Phi, chúng ta lại chưa xuất
khẩu trực tiếp do ta chưa có chính sách tín dụng hỗ trợ ban trong thanh toán.
Ở các thị trường có sức mua lớn đòi hỏi chất lượng cao , gạo của ta cũng
chưa tiếp cận được.
Nhìn chung hoạt động tiếp cận thị trường của doanh nghiệp được giao
xuất khẩu của chúng ta chưa xứng đáng với tiềm năng và vị trí nước xuất
khẩu gạo thứ 2 thế giới làm giảm khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam.
IV. PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ NHỮNG ĐIỂM MẠNH, ĐIỂM
YẾU CŨNG NHƯ CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI SẢN XUẤT VÀ
XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM:
1. Điểm mạnh:
Việt Nam đã trở thành một thế lực chủ yếu trênt thị trường gạo thế
giới.
Sản xuất và xuất khẩu gạo là một trong những hướng ưu tiên phát
triển của Chính Phủ không chỉ xuất phát từ chính sách an ninh lương thực
quốc gia mà còn là mặt hàng xuất khẩu có lợi thế của Việt Nam hiện nay.
Điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho sự phát triển của cây lúa, chi phí
nguồn lực nội địa thấp.

Chính sách cơ cấu lại giống lúa đang được quan tâm hơn và bước đầu
đã đem lại hiệu qủa, nâng cao năng suất lúa. Việt Nam hoàn toàn có tiềm
năng về phát triển gạo chất lượng cao.
21
Tăng trưởng xuất khẩu gạo chưa vượt quá ngưỡng an toàn lương thực
quốc gia do mức tăng trưởng sản lượng cao.
Bên cạnh các doanh nghiệp Nhà nước, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã
tham gia vào thị trường sản xuất, chế biến, xuất khẩu gạo và đã có ít nhiều
kinh nghiệm xuất khẩu gạo.
2. Điểm yếu:
Thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam chủ yếu là thị trường có mức thu
nhập trung bình và thấp, chủ yếu tiêu thụ gạo có chất lượng trung bình và
thấp.
Diện tích sản xuất rộng lớn, nhưng qui mô sản xuất của các hộ nông
dân thấp, chủ yếu sử dụng các lao động không chuyên nghiệp, mức đầu tư
vào các thiết bị sản xuất trong phạm vi hộ thấp.
Việc cơ cấu lại giống lúa cho chất lượng cao mới chỉ ở giai đoạn khởi
động và diễn ra khá chậm chạp.
Tổn thất ở khâu thu hoạch lúa lớn làm giảm hiệu quả sản xuất.
Khâu chế biến gạo xuất khẩu còn nhiều khó khăn cả về mức công
suất, trình độ công nghệ và mức độ lẫn loại của nguồn lúa nguyên liệu.
Cơ sở hạ tầng nông thôn kém phát triển, chi phi vận chuyển cao làm
gia tăng giá thành phẩm.
Môi trường, điều kiện tiếp cânj thông tin thị trường và công nghệ còn
yếu.
Những qui định hạn chế tiếp cận tín dụng đối với các doanh nghiệp
xuất khẩu.
Mùa vụ thu hoạch và xuất khẩu của Việt Nam trái với mùa vụ chung
trên thị trường thế giới.
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu gạo chưa công bằng đối với các doanh

nghiệp ngoài quốc doanh.
Khả năng giao dịch, đàm phán của các doanh nghiệp Việt Nam với
khách hàng nước ngoài thấp.
Hệ thống kho dự trữ, bảo quản và chuẩn bị giao hàng phân tán, qui mô
nhỏ.
3. Cơ hội:
Theo dự báo về nhu cầu nhập khẩu gạo trên thị trường thế giới, khả
năng tăng trưởng gạo xuất khẩu trong tương lai còn rất lớn tại các khu vực
thị trường thế giới.
22
Xu hướng tự do hóa thương mại và yêu cầu mở cửa thị trường cho các
sản phẩm nông nghiệp sẽ tác động mạnh đến chính sách tự cung về lương
thực và làm tăng nhập khẩu lương thực của các nước đang nhập khẩu dòng
về lương thực, như: các nước thuộc Châu Á (thị trường xuất khẩu chính của
Việt Nam).
Chính sách cắt giảm viện trợ lương thực của các nước phát triển cho
các nước kém phát triển cũng làm tăng lượng nhập khẩu lương thực theo
điều kiện thương mại thông thường của các nước này, nhất là với các nước
Châu Phi.
Những yêu cầu về cắt giảm trợ cấp xuất khẩu các sản phẩm nông
nghiệp và giảm hỗ trợ trong nước sẽ làm tăng giá gạo chất lượng cao trên thị
trường thế giới, nhất là giá gạo của Mỹ, Nhật Bản. Điều này sẽ tạo điều kiện
cho Việt Nam tham gia vào thị trường gạo chất lượng cao.
4. Thách thức:
Cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu gạo sẽ mạnh hơn do sự tham gia
của các nước xuất khẩu tiềm năng như: Trung Quốc, Pakistan, Myanmar,
Campuchia…
Trong ngắn hạn, việc giảm giá của đồng USD hiện nay sẽ tác động
mạnh đến các nước xuất khẩu nói chung và đối với xuất khẩu gạo nói riêng.
Năng lực hoạt động marketing xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam thấp

và rất khó được cải thiện trong ngắn hạn.
Mặc dù Việt Nam được xem là một thế lực trên thị trường lúa gạo thế
giới, như thường là gắn liền với loại gạo chất lượng trung bình, thấp và độ
ổn định về chất lượng kém.
Việc hạ thấp chi phí xuất khẩu liên quan đến việc sử dụng cơ sở hạ
tầng không thể giải quyết trong ngắn hạn.
Những khó khăn trong việc phổ biến giống lúa chất lượng cao do hạn
chế về nghiên cứu chuyển giao, các quy định liên quan đến quyền sử dụng
đất đai, qui mô sản xuất của các hộ nông dân nhỏ, lẻ, năng lực tài chính thấp.
23
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU TRONG
THỜI GIAN TỚI
I. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU
LÚA GẠO CỦA VIỆT NAM.
Sản xuất lương thực nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng luôn là
ngành quan trọng bậc nhất của nông nghiệp Việt Nam nhằm thực hiện 3 mục
tiêu:
* Đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, tăng thêm khối
lượng lương thực dự trữ, thoả mãn nhu cầu lương thực trong bất kỳ tình
huống nào.
* Đảm bảo nguồn nguyên liệu cho cung cấp công nghiệp.
* Tăng năng suất cây trồng và tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản
phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng gạo xuất khẩu Việt
Nam.
Xuất phát từ mục tiêu trên, các định hướng cơ bản được đề xuất là:
- Tăng cường thâm canh tăng năng xuất, kết hợp khai hoang tăng vụ ở
những nơi có điều kiện. Trong đó thâm canh tăng năng suất là hướng chủ
yếu lâu dài, kết hợp với nâng cao chất lượng lúa hàng hoá. Tuy nhiên, một
số diện tích trồng lúa kém hiệu quả ở ĐBSCL có thể sẽ chuyển sang canh tác

các loại hoa màu khác hay nuôi trồng thủy sản sao cho có hiệu quả kĩ thuật
cao hơn.
24
- Đa dạng hóa trong sản xuất, đa dạng hóa về chủng loại gạo (gạo thông
thường, gạo đặc sản, gạo cao cấp), đa dạng hóa về phẩm cấp các giống lúa
(cùng một giống lúa nhưng có thể có giống siêu thuần chủng, thuần chủng
cấp 1, cấp 2), đa dạng hóa nguồn lúa gạo cho xuất khẩu. Tuy nhiên, việc đa
dạng phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường quốc tế để sản xuất ra những
sản phẩm thích hợp.
- Tích cực ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất để
vừa tăng năng suất vừa tăng chất lượng gạo. Nhưng chúng ta phải chú ý kèm
với áp dụng khoa học kĩ thuật là bảo vệ môi trường sinh thái.
1, Mục tiêu và phương hướng phát triển xuất khẩu lúa gạo.
Các mục tiêu chủ yếu là:
- Tăng lượng gạo xuất khẩu trên cơ sở vẫn phải đảm bảo lương thực
quốc gia và có lãi cho người sản xuất và người xuất khẩu.
- Mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời phải xây dựng được một hệ
thống phân phối trên thị trường quốc tế. Cùng với việc thúc đẩy mở rộng thị
trường là chú trọng chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của
gạo Việt Nam.
- Nâng cao kim ngạch xuất khẩu trên cơ sở nâng cao giá gạo xuất khẩu
trên thị trường quốc tế.
2. Xuất phát từ mục tiêu trên chúng ta cần có định hướng sản
xuất như sau:
- Đa dạng hóa chủng loại gạo với nhiều loại khác nhau để có thể đáp
ứng các nhu cầu của thị trường thế giới. Chúng ta đa dạng hóa chủng loại
sản phẩm nhưng phải mang tính tích cực, càng ngày càng có nhiều chủng
loại tốt, cấp cao, đặc sản phù hợp với nhu cầu thị hiếu của các thị trường gạo
trên thế giới.
- Đa phương hóa thị trường tiêu thụ gạo, xác định và có sự ưu tiên đối

với thị trường xuất khẩu gạo mang tính chiến lược, lâu dài bằng ổn định số
lượng và nâng cao chất lượng hàng hoá. Khi có cơ hội phải chiếm lĩnh và
biến những thị trường tiềm năng thành những thị trường quen thuộc và
truyền thống của mình.
- Khuyến khích và tạo điều kiện cho nhiều hình thức tổ chức tham gia
xuất khẩu để có thể đáp ứng được mọi nhu cầu ở mọi nơi, mọi lúc, mọi quy
mô của khách hàng. Như vậy đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước phải có cơ
chế linh hoạt mềm dẻo thích ứng với kịp thời những biến động của thị
trường.
25

×