Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

SKKN: Nghiên cứu một số bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích nhảy xa cho học sinh nam lớp 11 trường THPT Tam Phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.26 KB, 30 trang )
























































SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Trường THPT Tam Phước

Mã số:

(Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)





SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM



Đề Tài: NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BÀI TẬP THỂ LỰC
NHẰM NÂNG CAO THÀNH TÍCH NHẢY XA CHO HỌC
SINH NAM LỚP 11 TRƯỜNG THPT TAM PHƯỚC



Người thực hiện: Lê Thị Hòa
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục 
- Phương pháp dạy học bộ môn: Thể dục 
(Ghi rõ tên bộ môn)
- Phương pháp giáo dục:Nhảy xa
- Lĩnh vực khác: 








Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong bản in SKKN
 Mô hình  Phần mềm  Phim ảnh  Hiện vật khác



Năm học: 2012 -2013



BM 01-Bìa SKKN


SƠ YẾU LÝ LỊCH



I. Thông tin chung về cá nhân
1. Họ và tên: Lê Thị Hòa
2. Sinh ngày: 28 – 12 – 1978
3. Địa chỉ: Khu chợ, Ấp Long Khánh 3, Tam Phước, Long Thành, Đồng
Nai
4. Điện thoại: 01667205812
II. Trình độ đào tạo
1. Học vị: Cử nhân
2. Năm nhận bằng: 2001
3. Chuyên ngành đào tạo: Sư phạm thể dục
III. Kinh nghiệm đào tạo
1. Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy môn thể dục
2. Số năm kinh nghiệm: 13
3. Các sáng kiến kính nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: có 01
+ Sáng kiến : Đề tài ứng dụng một số bài tập phát triển thể lực chuyên môn
nhằm nâng cao thành tích chạy 100m cho học sinh nam lớp 10





I/. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Những năm gần đây, tình hình kinh tế-chính trò-xã hội của nước ta đã ổn
đònh và có bước phát triển đáng kể về mọi mặt, tạo điều kiện cho việc thực hiện
tốt các nhiệm vụ mục tiêu kinh tế-chính trò-xã hội đã đề ra. Tiếp tục quán triệt,
cụ thể hóa các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước mà điển
hình là chỉ thò số 36 CT/TW ngày 24/3/1994 của ban chấp hành Trung Ương
Đảng Cộng Sản Việt Nam. “Phát triển thể dục thể thao là một bộ phận quan
trọng trong chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước ta nhằm
bồi dưỡng nhân tố con người”. Vì thế, Bộ Giáo dục – Đào tạo về công tác giáo
dục thể chất trường học giai đoạn mới là tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc
giải quyết những tồn tại hiện nay về chất lượng giáo dục thể chất trong trường
học nói chung, từng bước nâng cao năng lực thể chất cho học sinh.
Giáo dục thể chất cũng như các hoạt động giáo dục khác trong nhà
trường phổ thông, có nhiệm vụ trang bò kiến thức khoa học và các kỹ năng, kỹ
xảo vận động cho học sinh nhằm đáp ứng mục tiêu đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện. Giáo dục thể chất tạo cho các em học sinh lòng hăng say
học tập, lao động, giữ gìn vệ sinh khắc phục bệnh tật.
Giáo dục thể chất trong trường phổ thông các cấp thì điền kinh là một bộ
môn cơ bản rất phong phú và đa dạng gồm nhiều phân môn khác nhau như:
chạy, nhảy, ném, đẩy,… là nền tảng phát triển các tố chất thể lực, làm cơ sở cho
các môn thể thao khác. Qua quan sát các buổi học điền kinh, tôi nhận thấy
thành tích trong môn nhảy xa của các em học sinh vẫn còn hạn chế. Để đạt
được thành tích cao trong một môn thể dục nào đó thì cần hội đủ nhiều yếu tố
như: năng lực cơ thể (hình thái, chức năng, tố chất), kỹ năng (kỹ thuật, chiến
thuật), năng lực, tâm lý (tâm lý, trí lực). Các yếu tố xã hội (trình độ huấn luyện
viên, điều kiện tập luyện, dinh dưỡng…).
Tuy nhiên, trong thực tế học sinh tỏ ra khơng mấy mặn mà với kĩ thuật nhảy

xa kiểu ‘’ưỡn thân’’ , các em chỉ đọc lướt qua qua, học để đối phó khi làm bài
kiểm tra. Tình trạng này bắt nguồn từ nhiều ngun nhân trong đó cũng có ngun
nhân xuất phát từ cả hai phía phía thầy và trò. Về phía học sinh, các em khơng cảm
thấy hứng thú với kĩ thuật nhảy xa kiểu ‘’ưỡn thân’’, khơng chịu khó ơn bài trước
mỗi tiết học. Về phía giáo viên, các giáo viên cũng ít tìm tòi, nghiên cứu bổ sung
bổ sung một số bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích kĩ thuật nhảy xa kiểu
‘ưỡn thân’, ngồi phần mà sách giáo viên đã cung cấp.
Khi lên lớp thì còn thụ động về phương pháp, chưa lơi cuốn được học sinh,
hầu hết các giáo viên chỉ dừng lại ở việc diễn giải kiến thức mà sách giáo viên đã
trình bày. Vì vậy, những giờ dạy
về kĩ thuật nhảy xa kiểu ‘’ưởn thân’’ thường nhàm chán, tẻ nhạt, khơng tạo được
hứng thú cho cả người học và người dạy. Kết quả học tập vì thế mà cũng khơng đạt


được hiệu quả cao. Bản thân tôi cũng gặp rất nhiều khó khăn khi giảng dạy , kĩ
thuật nhảy xa kiểu ‘’ưởn thân’’ điều đó khiến tôi thật sự trăn trở. Tôi đã tiến hành
vận dụng nhiều cách thức khi dạy kĩ thuật nhảy xa kiểu ‘’ưởn thân’’ nhằm tạo sự
hứng thú cho học sinh, giúp các em có thể tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng
hơn. Trên cơ sở đã vận dụng vào việc giảng dạy, tôi xin trình bày một vài kinh
nghiệm của mình về cách thức tiến hành giảng dạy kĩ thuật nhảy xa kiểu ‘’ưởn
thân’’.
Những cách thức mà tôi tiến hành vận dụng khi giảng dạy kiểu bài này không mới.
Trên thực tế, những cách thức này đã được các đồng nghiệp vận dụng trong quá
trình giảng dạy. Tuy nhiên, việc vận dụng còn chưa thường xuyên, chưa thể hiện
một cách rõ ràng trong quá trính giảng dạy. Vì vậy, tôi viết đề tài với hi vọng sẽ
giúp quí đồng nghiệp có thêm một vài kinh nghiệm khi giảng dạy. kĩ thuật nhảy xa
kiểu ‘’ưởn thân’’.
Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quí đồng nghiệp. Tôi xin chân
thành cảm ơn.
II. THỰC TRẠNG THÀNH TÍCH NHẢY XA KIỂU ƯỠN THÂN CỦA HỌC

SINH NAM LỚP 11 Ở NHỮNG NĂM TRƯỚC ĐÂY THÔNG KÊ NHƯ
SAU:
2.1.Thực trạng:
Nhảy xa là một môn thể thao không đòi hỏi nhiều về trang thiết bị, kỹ thuật
tương đối đơn giản, dể phổ cập, phù hợp với mọi lứa tuổi, giới tính, do đó nó là nội
dung cơ bản trong chương trình giáo dục thể chất. Thông qua giảng dạy và luyện
tập môn học này sẽ phát triển sức mạnh và sức mạnh góp phần nâng cao thể chất
cho học sinh, trang bị những kiến thức kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho cuộc sống,
không những có lợi cho sức khỏe mà còn có lợi cho cả học tập, lao động sản xuất
và bảo vệ tổ quốc.
Qua nghiên cứu tài liệu sách báo, phim ảnh, nhảy xa được nhiều nhà nghiên
cứu, huấn luyện viên trong và ngoài nước nghiên cứu nhằm tìm ra những biện
pháp huấn luyện để nâng cao thành tích. Tuy nhiên việc nghiên cứu các bài tập
nhằm ứng dụng cụ thể cho đối tượng học sinh phổ thông ở nông thôn với những hố
nhảy xa chưa chuẩn như là đường chạy đà bằng đất sỏi, trời nắng thì quá cứng, trời
mưa thì trơn, hầu như chưa có ai nghiên cứu cụ thể. Qua điều tra nhảy xa cũng
được nhiều học sinh ưa thích và tập luyện thường xuyên. Các trường học trên toàn
quốc thì hầu như nơi nào cũng giảng dạy nghiêm túc, đầy đủ theo đúng chương
trình môn thể dục.
Việc giảng dạy môn này trong nhiều năm qua ở tỉnh Đồng Nai và nhất là ở
trường THPT Tam Phước đã được chú trọng và được phát triển bề rộng. nhưng
chất lượng dạy và học vẫn chưa đạt được hiệu quả cao, cụ thể qua các kỳ hội khỏe
Phù Đổng.
Nhằm mục đích đề ra phương pháp, nội dung giảng dạy và huấn luyện có
hiệu quả hơn, từ đó nâng cao thành tích nhảy xa của học sinh trường THPT Tam
Phước, đồng thời qua những kết quả nghiên cứu sẽ góp phần tháo gở sự khó khăn
trong việc đánh giá khách quan trình độ của học sinh ở các nội dung trên và qua đó


thúc đẩy tôi tiếp tục nghiên cứu nâng cao trình độ về kỹ thuật, thể lực và nâng cao

thành tích cho các học sinh ở các môn khác trong chương trình giảng dạy môn thể
dục của trường THPT Tam Phước như : Đẩy tạ, nhảy cao, chạy ngắn, chạy cư ly
trung bình, chạy cự ly dài. …
2.2 Khó khăn:
- Học sinh thường không chủ động, tự giác tích cực trong tập luyện.
- Do tình trạng lười học, học đối phó ở học sinh hiện nay diễn ra khá phổ biến.
- Do tâm lý chung là xã hội không coi trọng môn thể dục nên các em học sinh
cũng không hứng thú trong việc tự giác tích cực trong tập luyện môn thể dục nói
chung và luyện tập kĩ thuật nhảy xa kiểu ‘’ưởn thân’’ nói riêng.
- Sân bãi tập luyện thì chưa được tốt lắm.
- Do đăc thù môn học ở ngoài trời nên thời tiết có lúc nắng. nóng.
- Do các thầy cô giáo ít chú ý đến việc đổi mới phương pháp dạy phù hợp
với kiểu bài.
Sau đây thực trạng thành tích nhảy xa của học sinh nam lớp 11 trườngTHPT
Tam Phước ở những năm trước đây.
 Năm học 2009 – 2010 :
X
= 4.15 (mét)
 Năm học 2010 – 2011 :
X
= 4.17 (mét)
 Đầu năm học 2011 – 2012 :
X
= 4.16 (mét)

Qua kết quả thống kê thành tích nhảy xa của những năm trước đây với
thành tích đầu năm 2011 – 2012 không có sự vượt trội.
III/. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
3.1CƠ SỞ LÝ LUẬN:
3.1.1.Vài nét về giáo dục thể chất trong nhà trường phổ thông:

Thể thao là một bộ môn của nền văn hoá chung, là sự tổng hợp những thành
tựu khoa học của xã hội và sử dụng những biện pháp chuyên môn để điều khiển sự
phát triển thể chất con người một cách chủ định nhằm nâng cao sức khoẻ.
Bác Hồ – Vị lãnh tụ vĩ đại tôn kính của dân tộc Việt Nam từ lòng yêu thương, quý
trọng con người, từ ý chí suốt đời vì nước, vì dân nên người đã phát triển rất cụ
thể, rõ ràng là biện chứng mối quan hệ hữu cơ giữa sức khoẻ, hạnh phúc của mỗi
người với sự nghiệp của đất nước, của dân tộc, của xã hội loài người. Người dạy “
Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức
khẻo mới thành công. Mỗi một người dân yếu ớt, tức là làm cho cả nước yếu ớt
một phần, mỗi người dân khoẻ mạnh, tức là góp phần cho cả nước mạnh khoẻ”.
Bác Hồ còn chỉ bảo cụ thể hơn “ Muốn giữ gìn sức khoẻ thì nên thường xuyên tập
luyện thể dục thể thao”.
Bên cạnh đó, Hiến pháp nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam năm
1992, điều 41 có ghi “…Quy định chế độ giáo dục thể chất bắt buộc trong trường
học”. Cho nên giáo dục thể chất trong trường học đã được xem là một bộ phận
quan trọng trong sự nghiệp thể dục thể thao nói chung.


Giáo dục có thể chất trong nhà trường phổ thông là nhằm hoàn thiện thể chất
cho học sinh, góp phần đào tạo thế hệ thanh thiếu niên thành những người” phát
triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về
đạo đức… “ Giáo dục thể chất trong nhà trường là một nội dung của nền giáo dục
toàn diện cho học sinh, hoạt động giáo dục thể chất cũng phù hợp với tính năng
động của học sinh. Vì vậy hoạt động giáo dục thể chất trong nhà trường là một
hoạt động không thể thiếu được và phải được quan tâm đúng mức để phong trào
rèn luyện thân thể của học sinh trong nhà trường ngày càng phát triển tốt hơn. Hiện
nay giáo dục thể chất trong trường học các cấp đã và đang trở thành nhu cầu không
những về mặt giáo dục mà còn là nhu cầu hoạt động văn hoá của học sinh”.
Chương trình giáo dục thể chất trong nhà trường nổi bật các đặc tính: Tính
mục đích, tính nhân văn, tính khoa học. Từ bậc tiểu học đến trung học phổ thông

học sinh học hai tiết thể dục thể thao trên một tuần, nội dung chương trình bao gồm
thể dục, điền kinh, cầu lông, đá cầu, TDNĐ, trò chơi vận dụng. Ngoài ra còn một
số môn tự chọn gồm: bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, bơi lội… và trong đó điền
kinh được xem là môn thể thao cơ bản, nền tảng để phát triển các môn thể thao
khác.
Ngày nay trước tình hình kinh tế của đất nước ngày càng phát triển, con
người phải phát triển không ngừng để đáp ứng nhu cầu bức thiết của xã hội thì con
người phải bảo đảm điều kiện sức khoẻ để đáp ứng nhu cầu ấy, do vậy vấn đề giáo
dục thể chất trong nhà trường ngày càng có vai trò quan trọng hơn giúp rèn luyện
những nhân tài cho đất nước cả về trí tuệ cũng như thể chất.
3.1.2. Các giai đoạn và đặc điểm chính của kỹ thuật nhảy xa kiểu ưỡn
thân
Kỹ thuât này được chia thành 4 giai đoạn : chạy đà, giậm nhảy, trên không,
tiếp đất.
Kỹ thuật chạy đà:
Đối với HSTHPT cự li chạy đà khoảng 15 – 25m. Đo đà, điều chỉnh đà để tìm
ra cự li chạy đã hợp lí, phù hợp với mỗi người tập là mọt việc rất quan trọng trong
nhảy xa.
Khi chạy đà độ dài của các bước chạy cần tăng dần kết hợp với nâng dần thân
lên, đặc biệt phải tăng dần tốc độ cho đến khi đạt được tốc độ cao nhất. Tiếp theo
duy trì tốc độ cao đó bằng cách giữ ổn định khoảng cách, trật tự và tần số bước
chạy. khi chạy đà, đặt nữa trước bàn chân chạm đất, chân đạp sau tích cực và duỗi
thẳng, thân trên hơi ngã về phía trước, tay phối hợp tự nhiên. Riêng bước đà cuối
cùng, khi đặt chân giậm nhảy vào ván cần bước nhanh và ngắn hơn bước trước đó
khoảng 1/2 - 1 bàn chân, đặt cả bàn chân chạm ván chuẩn bị cho giậm nhảy. Lúc
này thân trên không ngả ra trước hoặc ra sau, mà giữ ở tư thế thẳng đứng, hai tay
sẳn sàng đánh phối hợp với giậm nhảy đưa người về trước – lên cao. Chạy đà là
một trong hai giai đoạn quan trọng trong nhảy xa.
Giậm nhảy:



Giậm nhảy là giai đoạn quan trọng nhất trong nhảy xa. Giai đoạn giậm nhảy
bắt đầu khi đặt chân giậm nhảy vào ván giậm nhảy. Lúc này chân giậm nhảy hơi
khuỵu gối, sau đó dùng sức mạnh của chân và toàn thân đạp mạnh, nhanh lên ván
như sức bật của một chiếc lò xo. Khi giậm nhảy, phải chủ động đạp mạnh duỗi
thẳng chân, phối hơp với đánh tay và đưa chân lăng ra trước – lên cao và giữ cơ thể
được thăng bằng. Giậm nhảy phải phối hợp nhịp nhàng với tốc độ nằm ngang của
chạy đà tạo nên.
Kết quả nghiên cứu của nhiều công trình khoa học về giai đoạn giậm nhảy
trong nhảy xa cho thấy thành tích đạt được phụ thuộc vào sức mạnh của chân, sự
linh hoạt của cổ chân, sức bật của bàn chân, sự phối hợp nhịp nhàng của toàn bộ cơ
thể đặc biệt là sự phối hợp chính xác giữa lực giậm nhảy với lực do chạy đà tạo
nên và góc độ giậm nhảy hợp lí. Góc giậm nhảy khoảng 70 – 80
0
(so với mặt đất ở
phía trước) để đạt góc bay khoảng 20 – 24
0
.
Trên không:
Giai đoạn trên không của nhảy xa “Ưỡn thân” bắt đầu từ tư thế “bước bộ trên
không” khi chân giậm nhảy rời khỏi ván giậm, không đưa ngay ra trước như nhảy
xa kiểu “Ngồi”, mà đưa về phía sau, co dần lại, chân lăng từ phía trước chủ động
đưa xuống dưới – về sau phối hợp với chân giậm nhảy và ngực ưỡn căng thân ra
sau, mặt nhìn lên cao, hai tay có thể đưa lên cao chếch về sau hoặc dang ngang. Tư
thế hai tay , ngực, hông và hai chân lúc này chủ động ưỡn ngực căng về sau sao
cho thân người căng như một hình cánh cung. Tiếp theo gập nhanh thân trên, đồng
thời hai chân vươn ra trước hết sức tích cực phối hợp với đánh hai tay từ trên cao –
ra trước vòng xuống dưới – ra sau để chuẩn bị giai đoạn tiếp đất. Chính nhờ gập
thân và vươn hai chân ra trước chủ động và nhanh, mà nhảy xa “Ưỡn thân” tận
dụng được tối đa đường bay của trọng tâm cơ thể trong không gian. Đó cũng là lợi

thế của nhảy xa kiểu “Ưỡn thân” so với nhảy xa kiểu “Ngồi”.
Tiếp đất:
Khi hai chân bắt đầu tiếp đất, chủ động khuỵu gối để giảm chấn động, đồng
thời rướn thân, vươn hai tay ra trước để giữ thăng bằng không để mông hoặc tay
chạm cát ở phía sau. Sau đó đứng lên đi về trước, rời khỏi hố nhảy. Không đi sang
ngang hoặc lùi, vì theo luật thi đấu thành tích sẽ tính từ bộ phận cơ thể chạm cát
gần ván nhất. Động tác tiếp đất đòi hỏi phải khéo léo, nhanh nhẹn, mềm dẻo và hết
sức chủ động bởi vì tuy không phải là giai đoạn chủ động tạo ra thành tích, nhưng
tận dụng được tối đa thành tích hay không chính là nhờ sự khéo léo đó.
3. 1.3. Cơ sở lý luận trong huấn luyện điền kinh.
3.1.3.1. Nội dung huấn luyện Điền kinh:
Nội dung huấn luyện Điền kinh cũng như các môn thể thao khác là quá trình
huấn luyện về các mặt: thể lực, kỹ thuật, chiến thuật, đạo đức, ý chí, tâm lý và lý
luận. Tất cả các mặt chuẩn bị này có liên quan chặt chẽ với nhau và tạo thành một
quá trình thống nhất của việc hoàn thiện thể thao cho vận động viên Điền kinh.
Quá trình này được thực hiện thông qua việc sử dụng các phương tiện, phương
pháp huấn luyện, huấn luyện chuyên môn và các hình thức khác nhau của lượng
vận động trong tập luyện và thi đấu.
3.1.3.2. Một số nguyên tắc cơ bản trong huấn luyện Điền kinh:


Các nguyên tắc về phương pháp giáo dục thể chất đều có mối quan hệ với
nhau. Trong mối quan hệ này nguyên tắc tự giác tích cực giữ vai trò chủ đạo bởi vì
tính tích cực của người tập thể hiện qua hoạt động tự giác, gắng sức nhằm hoàn
thành nhiệm vụ học tập, được bắt nguồn từ thái độ hoàn thành tốt nhiệm vụ học
tập, cố gắng nắm được những kỹ năng kỹ xảo cùng hiểu biết có liên quan, phát
triển thể chất và tinh thần. Rõ ràng tính hiệu quả của quá trình sư phạm phụ thuộc
rất nhiều vào sự tự giác, tích cực của học sinh.
Nguyên tắc vừa sức: Là một trong những nguyên tắc sư phạm giảng dạy và
tập luyện TDTT. Tập luyện TDTT muốn đạt được hiệu quả thì các bài tập phải phù

hợp với những đặc điểm về trí tuệ, sức khỏe, giới tính, thể lực, tâm lý và trình độ
vận động của người học.
Theo nguyên tắc vừa sức, việc lựa chọn và thực hiện các bài tập để học kỹ
thuật động tác, phát triển các tố chất thể lực cần phù hợp với sức khỏe, giới tính,
trình độ vận động và thể lực của người tập. Tuy nhiên vừa sức không có nghĩa
không có khó khăn, mà ngược lại để thực hiện các yêu cầu tập luyện người tập cần
phải có sự nỗ lực rất lớn về thể chất và tinh thần.
Những bài tập quá dễ, thực hiện với số lần lặp lại nhỏ hoặc thực hiện trong
thời gian ngắn, hay yêu cầu tập luyện quá thấp sẽ không mang lại hiệu quả tập
luyện. Bởi vì chúng không mang lại hiệu quả cần thiết để tạo nên những thích ứng
mới cho cơ thể. Ngược lại những bài tập quá khó, lượng vận động vượt quá mức
chịu đựng của học sinh cũng không mang lại hiệu quả tập luyện, thậm chí còn gây
ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người tập.
Nguyên tắc hệ thống: Là một trong những nguyên tắc sư phạm chỉ rõ giảng
dạy và tập luyện TDTT cần phải dựa trên cơ sở khoa học, phải được tiến hành theo
một trật tự, một cấu trúc thống nhất và chặt chẽ.Nguyên tắc này dựa trên các quy
luật của quá trình nhận thức và mối quan hệ mang tính quy luật của quá trình nhận
thức và mối quan hệ mang tính quy luất giữa lượng vận động tập luyện và sự phát
triển năng lực vận động. Theo nguyên tắc tập luyện hệ thống, quá trình tập luyện
TDTT muốn đạt được hiệu quả cao cần phải đảm bảo tính mục đích, tính tuần tự
và tính liên tục.
Muốn tiếp thu được những kỹ năng kỹ xảo vận động cũng như phát triển được
các tố chất thể lực thì các em cần hiểu được mục đích, nội dung của bài tập, tạo
được cảm giác, tri giác vận động và hình thành được biểu tượng vận động.Vì vậy
muốn đạt được hiệu quả tập luyện, việc chọn lựa sắp xếp các bài tập, các phương
pháp tập luyện cần tuân theo một trật tự nhất định mang tính mục đích, tính khoa
học.
Tập luyện TDTT thường xuyên sẽ dẫn đến quá trình thích ứng nâng cao sức
khỏe, nâng cao trình độ thể lực và mức độ hoàn thiện các kỹ năng kỹ xảo vận động
cũng như các phẩm chất tâm lý. Ngừng tập luyện sẽ làm giảm dần và mất đi các

thích ứng đã đạt được, do vậy muốn nâng cao sức khỏe, thể lực và hoàn thiện kỹ
thuật các động tác TDTT cần phải tập luyện thường xuyên và liên tục.



3.1.3.3. Các tố chất vận động ảnh hưởng đến sự phát triển thể lực:
Tố chất mạnh: Là khả năng con người sinh ra lực cơ học bằng nỗ lực của cơ
bắp, nói cách khác là khả năng sức mạnh khắc phục lực đối kháng bên ngoài hoặc
đề kháng lại nó bằng nỗ lực của cơ bắp.
Tố chất nhanh: Sức nhanh được coi là tố chất thể lực quan trọng, là khả năng
của con người hoàn thành những hoạt động vận động trong khoảng thời gian ngắn
nhất. Sức nhanh có 3 hình thức biểu hiện chủ yếu: Thời gian tiềm phục của phản
ứng vận động, tốc độ từng cử động riêng lẻ (khi lực cản bên ngoài bé), tần số động
tác Chính vì vậy, chỉ số để đánh giá sức nhanh rất phong phú. Những hình thức
biểu hiện đơn giản của sức nhanh tương đối độc lập với nhau, nhất là các chỉ số
của thời gian phản ứng trong nhiều trường hợp, những chỉ số ấy tương ứng với
những chỉ số của tốc độ động tác. Có thể phản ứng thì vô cùng mau lẹ và trái lại thì
động tác thì tương đối chậm hoặc ngược lại. Sự kết hợp 3 hình thức đã nêu trên xác
định mọi trường hợp biểu hiện sức nhanh.
Tố chất bền: Là năng lực thực hiện một hoạt động với cường độ cho trước,
hay là năng lực duy trì khả năng vận động trong thời gian dài nhất mà cơ thể có
thể chịu đựng được.
Tố chất khéo léo: Khéo léo cũng là một tố chất thể lực. Khéo léo là tổng hợp
các năng lực phối hợp vận động hay nói cách khác khéo léo là năng lực tiếp thu
nhanh các động tác mới.

3.1.3.4. Cơ sở lý luận của việc huấn luyện nâng cao thành tích nhảy xa:
Tố chất thể lực tăng trưởng đều đặn cùng với sự tăng của lứa tuổi. Sự tăng
trưởng này gọi là tăng trưởng tự nhiên, khuynh hướng của sự tăng trưởng này có
tốc độ nhanh, biên độ lớn trong thời kỳ dậy thì: nam vào khoảng 14 tuổi, nữ vào

khoảng 12 tuổi. Giữa nam và nữ trước 12 tuổi, sự khác biệt các tố chất thể lực
không lớn lắm, nhưng từ 16–18 tuổi sự khác biệt này tăng lên, sau 18 tuổi thì có xu
hướng ổn định. Giai đoạn lứa tuổi khác nhau, tốc độ phát triển tố chất thể lực khác
nhau, tức là trong cùng một lứa tuổi tố chất thể lực khác nhau phát triển thay đổi
cũng không giống nhau. Sự phát triển tố chất thể lực tự nhiên bao gồm 2 giai đoạn:
Giai đoạn tăng trưởng là giai đoạn tố chất thể lực tăng liên tục, trong đó có
giai đoạn tăng nhanh và tăng chậm.
Giai đoạn ổn định là giai đoạn tố chất thể lực tăng chậm rõ ràng hoặc dừng lại
hoặc giảm xuống.
Qua các khái niệm ở các phần trên cho ta biết tố chất thể lực bao gồm: (nhanh,
mạnh, bền, mềm dẻo và khéo léo), như ta biết trong quá trình phát triển tự nhiên
các tố chất thể lực tăng theo lứa tuổi. Ở lứa tuổi 14–18 tuổi quá trình phát triển
theo 3 giai đoạn: giai đoạn tăng nhanh, giai đoạn tăng chậm và giai đoạn ổn định.
Tố chất thể lực từ giai đoạn tăng trưởng chuyển sang giai đoạn ổn định theo thứ tự
phát triển như sau: Tố chất nhanh phát triển đầu tiên, sau đó là tố chất bền và tố
chất mạnh. Quy luật này ở nam và nữ đều giống nhau.
3.1.3.4.1. Huấn luyện sức mạnh–nhanh (tốc độ):
Sự phát triển huấn luyện sức mạnh–nhanh đòi hỏi không những phải nâng cao
tốc độ co cơ mà còn phải nâng cao sức mạnh tối đa. Ý nghĩa của sức mạnh tối đa


này đối với năng lực sức mạnh nhanh phụ thuộc vào các yêu cầu của cấu trúc thành
tích môn thi đấu. Trong những môn mà sức mạnh tối đa là cơ sở quyết định tốc độ
vận động tối ưu thì phải phối hợp huấn luyện sức mạnh tối đa cả sức mạnh nhanh
với nhau. Đó là phương pháp huấn luyện đặc biệt. Việc huấn luyện phải đảm bảo
sự biến đổi một cách tốt nhất năng lực sức mạnh–nhanh. Do đó hiện nay vấn đề
này đang gây ra những khó khăn và người ta chưa nhận rõ đủ về phần đóng góp
của năng lực sức mạnh tối đa vào thành tích sức mạnh–nhanh và tỷ lệ tối ưu giữa
huấn luyện sức mạnh tối đa và sức mạnh nhanh cho các môn thi đấu riêng biệt.
Nhiệm vụ chủ yếu của vận động viên cự ly ngắn là mau chóng đạt được tốc độ

tối đa và duy trì nó đến hết cự ly. Trong đó giữa tần số và độ dài bước có mâu
thuẫn với nhau ở mức nhất định. Việc tăng độ dài bước chạy sẽ làm giảm tần số
bước và ngược lại. Vì vậy trong thực tế vận động viên cự ly ngắn không thể chạy
với độ dài bước tối đa hoặc tần số bước tối đa, mà chỉ có thể chạy với tần số và
độ dài bước cao để không làm giảm tốc độ chạy.
Người ta thấy rằng việc tăng một yếu tố nào trong khi duy trì được độ lớn của
yếu tố kia hoặc đồng thời tăng được cả hai là một công việc rất phúc tạp. Thực tế
cho thấy con đường để giải quyết nhiệm vụ trên là tăng đến mức tối đa vai trò các
thành phần của tốc độ trong mối quan hệ giữa chúng. Sử dụng các bài tập chuyên
môn để phát triển tần số và độ dài bước. Tốc độ chạy khi đó không đạt được mức
tối đa, nhưng tăng được các thành phần của tốc độ chạy và tiếp theo sẽ tạo được
khả năng để vận động viên phối hợp độ dài bước ở mức độ cao hơn để nâng được
tốc độ chạy.
Phương pháp tổ chức có hiệu quả nhất nhằm huấn luyện sức mạnh nhanh (tốc
độ) và sự phối hợp với biên độ bước cho cự ly ngắn, thường sử dụng những bài tập
sau: Gánh tạ đạp sau nhanh, chạy có người kéo, lặp lại những bài 30m, 60m tốc độ
cao…
3.1.3.4.2. Huấn luyện sức bền tốc độ:
Những điều kiện cơ bản trong huấn luyện sức bền tốc độ là thực hiện một khối
lượng vận động lớn tới mức cho phép với một lực cản được nâng cao hơn với
những điều kiện thi đấu. Tuy các năng lực sức bền tốc độ cần thiết cho thành tích
thể thao cũng được phát triển qua các hình thức của lượng vận động để huấn luyện
sức mạnh nhanh và sức bền. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các môn thể thao
mang tính chất sức bền tốc độ như chạy: 200m, 400m.
Huấn luyện sức bền tốc độ được tiến hành trước hết bằng các bài tập chuyên
môn gắn liền với hình thức vận động của môn thi đấu. Đối với cự ly ngắn thường
sử dụng những bài tập lặp lại cự ly 200m, 300m nhiều lần với thời gian nghỉ vừa,
mạch đập từ 120–130 lần/phút.
3.1.4. Tóm tắt đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi 16:
3.1.4.1.Sinh lý: Ở tuổi này hệ thống thần kinh trung ương đã khá hoàn thiện,

hoạt động phân tích trên vỏ não về tri giác có định hướng sâu sắc hơn. Ở tuổi này
khả năng nhận hiểu cấu trúc động tác và tái hiện chính xác hoạt động vận động
được nâng cao. Ngay từ tuổi thiếu niên đã diễn ra quá trình hoàn thiện cơ quan
phân tích và những chức năng vận động quan trọng nhất, đặc biệt là những cảm
giác bản thể trong điều khiển động tác. Khả năng phân biệt chính xác về không


gian của nam đạt mức cao nhất, còn nữ ở lứa tuổi này lại giảm xuống do thiếu tập
luyện vận động cần thiết, nếu tập thì có thể tránh được. Lứa tuổi này các em có thể
thực hiện khá đầy đủ những bài tập đơn giản của giáo viên giao gần như dựa theo
chỉ dẫn bằng lời nói, bước đầu biết xác định những khâu, đoạn then chốt trong vận
động phức tạp, chỉ ra được khá rõ những sai xót của bản thân và đồng đội. Vì vậy
khi giảng dạy cần chú ý bồi dưỡng khả năng tự phân tích động tác, tự đánh giá tình
hình tập luyện của các em. Khi dạy động tác kỹ thuật cần khéo vận dụng đúng mức
những hiểu biết đã học về vật lý, sinh học…
3.1.4.2.Tâm lý: Ở lứa tuổi này quá trình tăng trưởng cơ thể của các em còn
chưa kết thúc. Dù hoạt động thần kinh cao cấp ở các em đã đến mức phát triển cao,
nhưng ở một số em vẫn phần nào hưng phấn mạnh hơn ức chế, dễ còn có những
phản ứng thiếu kìm hãm cần thiết, do đó dễ làm rối sự phối hợp vận động, gây khó
khăn cho việc tiếp thu và củng cố các kỹ năng vận động. Ở tuổi này các em dễ tự
ái, tiêu cực nhất là nữ khi bị người khác nói những yếu kém của mình trước tập
thể, nhất là trước các bạn khác giới. Tính tình trạng thái tâm lý ở tuổi này dễ thay
đổi, có lúc rất tích cực hăng hái, nhưng cũng có lúc lại buồn chán, tiêu cực.
3.2. PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
3. 2.1. Phương pháp nghiên cứu:
Để giải quyết các mục tiêu trên Tôi sử dụng các phương pháp sau:
3.2.1.1. Phương pháp tham khảo tài liệu có liên quan
Đọc sách và tài liệu tham khảo có liên quan đến đề tài nghiên cứu là một mặt
không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu khoa học. Ngay từ khâu chọn đề tài.
Phương pháp này cho tôi hệ thống lại những các kiến thức có liên quan đến

lĩnh vực nghiên cứu hình thành cơ sở lý luận, xác định mục đích, mục tiêu nghiên
cứu, hình thành cở sở lý luận xác định mục đích, mục tiêu nghiên cứu, đồng thời
xây dựng tổng quan, xử lý phân tích kết quả nghiên cứu của đề tài.
3.2.1.2 Phương pháp phỏng vấn:
Mục đích của việc sử dụng phương pháp này là nhằm tìm hiểu việc sử dụng
các bài tập phát triển thể lực chuyên môn nhằm nâng cao thành tích nhảy xa kiểu
ưỡn thân của các đồng nghiệp, tham khảo ý kiến của các chuyên gia. Để từ đó chọn
lọc một số bài tập phát triển thể lực chuyên môn nhằm nâng cao thành tích nhảy xa
kiểu ưỡn thân.
Đối tượng phỏng vấn là các giáo viên trực tiếp giảng dạy môn nhảy xa ở các
trường phổ thông trong và ngòai tỉnh.
Hình thức phỏng vấn gián tiếp thông qua bảng câu hỏi.
3.2.1.3 Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
- Để nghiên cứu tác dụng của các bài tập phát triển thể lực nhằm nâng cao thành
tích nhảy xa cho học sinh nam lớp 11 tôi tiến hành thực nghiệm trên 02 nhóm đối
tượng theo kiểu thực nghiệm được lựa chọn là kiểu thực nghiệm so sánh song song
bao gồm một nhóm thực nghiệm và một nhóm đối chứng:
+ Nhóm thực nghiệm gồm 50 em học sinh nam lớp 11 do Tôi chọn ngẫu
nhiên, thời gian tập luyện mỗi tuần 1 buổi, mổi buổi 2 tiết. Nội dung tập luyện do
Tôi biên soạn dựa theo các bài tập đã được chọn qua kết quả phỏng vấn, và được
thực hiện vào 15 phút đầu của buổi tập.


+ Nhóm đối chứng gồm 50 em học sinh nam lớp 11 do Tôi chọn ngẫu nhiên,
thời gian tập luyện giống nhóm thực nghiệm. Mỗi tuần tập 1 buổi, mỗi buổi 2 tiết.
Nội dung tập luyện theo chương trình học của Bộ.
Sau 1 năm Tôi tiến hành khảo sát các bài tập trên để tìm hiểu mức độ phát
triển nhằm xác định tác dụng của các bài tập phát triển thể lực chuyên môn để
nâng cao thành tích nhảy xa cho học sinh nam lớp 11.
Khâu chọn đề tài, xây dựng đề cương, bắt tay vào nghiên cứu và đến khi

chuẩn bị dự thảo, báo cáo kết quả, người nghiên cứu đã sử dụng phương pháp này.
Phương pháp này cho phép tôi hệ thống hóa các kiến thức có liên quan đến
lĩnh vực nghiên cứu, hình thành cơ sở lí luận, xác định mục đích, mục tiêu nghiên
cứu, đồng thời xây dựng tổng quan, xử lý và phân tích kết quả nghiên cứu của đề
tài.
3.2.1.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm:
Tiến hành lấy số liệu ban đầu và số liệu sau 1 năm tập luyện của 50 học sinh
nam thực nghiệm và 50 học sinh nam đối chứng.
Lần 1: tổ chức kiểm tra thành tích nhảy xa kiểu ưỡn thân (mét) cho đối tượng
nghiên cứu (chưa áp dụng bài tập)
Lần 2: Tổ chức kiểm tra thành tích cho nhóm thực nghiêm và nhóm đối
chứng.
* Nhảy xa có đà:
+ Sân bãi, dung cụ: hố cát, thước dây, cờ, giấy, bút…
+ Phương pháp tiến hành: Thực hiện lần lượt từng người sau khi nghe gọi tên,
thì nhanh chóng thực hiện chạy đà, giậm nhảy, và rơi xuống đất, hoàn thiện kỹ
thuât nhảy xa kiểu ưỡn thân, thành tích được xác định ở các điểm rơi gần ván
giậm.
* Chạy 30m tốc độ cao:
+ Sân bãi, dụng cụ: Sân bê tông, đồng hồ bấm giây điện tử, cờ, giấy, bút, phát
lệnh…
+ Phương pháp tiến hành: một người thực hiện ở tư thế xuất phát cao, sau khi
nghe lệnh “Xuất phát” thì nhanh chóng rời khỏi vạch xuất phát và chạy nhanh về
đích. Thành tích được tính từ điểm phất cờ đến chạm dây đích và qua mặt phẳng
đích (30m). Kết quả đo được tính bằng giây, mỗi học sinh thực hiện hai lần và lấy
lần chạy có thành tích tốt nhất, người thực hiện được nghỉ đầy đủ giữa hai lần
chạy.
* Chạy 30m, 60m, 100m xuất phát thấp:
+ Sân bãi, dụng cụ: Sân bê tông, đồng hồ bấm giây điện tử, bàn đạp xuất phát,
cờ, giấy, bút, pháp lệnh

+ Phương pháp tiến hành: Mỗi lần chạy một học sinh. Xuất phát thấp có bàn
đạp, sau khi có lệnh người chạy nhanh chóng rời khỏi bàn đạp chạy nhanh về đích.
Thành tích được tính từ vạch xuất phát đến điểm đích (30m, 60m, 100m). Kết quả
tính bằng giây, mỗi học sinh chỉ được chạy một lần.
* Bật xa tại chỗ:
+ Sân bãi, dụng cụ: Tiến hành kiểm tra bật xa trên hố cát, điểm rơi cùng nằm
trên mặt phẳng nằm ngang, thước dây, giấy bút ghi chép.


+ Phương pháp tiến hành: Người thực hiện đứng sau vạch giậm nhảy, 2 chân
rộng khoảng bằng vai, 2 tay để thả lỏng, hơi khuỵu gối xuống 2 tay vung lên cao,
xuống dưới, ra sau để tạo đà và bật nhảy về phía trước, rơi 2 chân xuống hố cát và
ngả người về phía trước (không ngã hoặc chống về sau). Mỗi học sinh thực hiện 2
lần, lấy thành tích ở lần đạt cao nhất, thành tích được tính từ mũi bàn chân ngón cái
lúc đứng chuẩn bị cho đến gót chân gần nhất khi bật xa kết thúc.
* Ngồi xổm bật cóc 30m:
+ Sân bãi, dụng cụ: sân trường, đồng hồ bấm giây, cờ, giấy bút.
+ Cách tiến hành: thực hiện lần lượt từng người, tư thể ngồi xổm trên hai
chân, hai tay chống hông, bật về trước thực hiện hết cự ly 30m, bấm giây tính
thành tích.
* Bật lò cò 30m:
+ Sân bãi, dụng cụ: sân trường, đồng hồ bấm giây
+ Cách tiến hành: thực hiện lần lượt từng người, tư thể thực hiện xuất phát
cao, khi có hiệu lệnh xuất phát thực hiện lò cò một chân, thực hiện bằng chân trụ,
cự ly 30m, bấm giây tính thành tích.
* Bật xa 3 bước:
+ Sân bãi, dụng cụ: Tiến hành kiểm tra bật xa trên hố cát, điểm rơi cùng nằm
trên mặt phẳng nằm ngang, thước dây, giấy bút ghi chép.
+ Phương pháp tiến hành: Người được đo đứng sau vạch xuất phát cách vạch
3 bước, 2 chân rộng khoảng bằng vai. Khi có lệnh người được đo lấy đà nhanh

chóng bước 3 bước, về vạch xuất phát rồi dùng sức của bàn chân, cẳng chân, đùi
và kết hợp giậm mạnh bằng chân thuận về trước. Thành tích được tính (cm)
khoảng cách từ vạch xuất phát đến gót chân hoặc, một bộ phận cơ thể gần nhất.
3.2.1.5. Phương pháp toán thống kê:
Để xử lý các số liệu trước và sau thực nghiệm, giúp cho việc rút ra kết luận
Tôi sử dụng các thuật toán trong đề tài là:
Tính trị số trung bình: (
X
)




n
ni
X
i
n
X
1
(I = 1, 2, 3…n) n ≥ 30

Tính độ lệch chuẩn:

S
x
= n ≥ 30
n

Nhịp độ tăng trưởng: (W%)


 
%100
5,0
%
12
1
2




XX
XX
W





n

n

i
(X – X)
2

i






Hệ số biến thiên :
V% =


Sai số tương đối:




Chỉ tiêu t: (Student}

t = với n ≥ 30

3.2.2. TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU:
3. 2.2.1 Đối tượng nghiên cứu: Gồm 100 em học sinh nam lớp 11, chia làm
hai nhóm, trong đó
+ Nhóm thực nghiệm 50 học sinh
+ Nhóm đối chứng 50 học sinh
Đối tượng thường xuyên tham gia tập luyện trong giờ nội khóa, có thể phát triển
bình thường không bị dị tật
3. 2.2.2. Địa điểm nghiên cứu:
Trường THPT Tam Phước, Biên Hòa, Đồng Nai
3. 2.2.3. Thời gian tổ chức nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu từ tháng 09 năm 2011 đến tháng 10 năm 2012.
- Từ ngày 10 tháng 09 năm 2011 đến ngày 01 tháng 05 năm 2012 chuẩn bị
điều kiện nghiên cứu xây dựng phiếu phỏng vấn kiểm tra lấy số liệu và xử lý số

liệu.
- Từ ngày 10 tháng 06 năm 2012 đến ngày 30 tháng 09 năm 2012. Viết đề
tài trình giáo viên trong tổ chỉnh sửa.
- Từ ngày 01 tháng 10 đến 25 tháng 10 năm 2012. Viết đề tài lần 2.
3.2.2.4. Dụng cụ nghiên cứu:
- Thước dây: là loại thước dây bằng vải thong thường dài 3000mm dùng để đo
chiều dài quảng đường chạy, bật xa, …
- Đồng hồ bấm dây điện tử với tốc độ chính xác 1/100 giây dùng để xác định
thành tích chạy, nhảy, …
- Đường chạy đà và hố nhảy xa: tất cả đều đảm bảo an toàn cho học sinh trong
quá trình tập luyện và kiểm tra.
- Một số vật dụng khác : vật chuẩn, cờ hiệu,hộp phát lệnh, mcòi, bút, giấy, v.v.



IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Lựa chọn các bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích nhảy xa của
học sinh nam lớp 11 trường THPT
Để xác định các bài tập phát triển thể lực nhằm nâng cao thành tích nhảy xa
tôi tiến hành thực hiện các bước sau :
Bước 1: Thu thập, tổng hợp các bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích
nhảy xa của nam học sinh lớp 11.
Bước 2: Dùng các phiếu phỏng vấn để lấy ý kiến của các cán bộ quản lý, các
giáo viên, huấn luyện viên TDTT, các chuyên gia điền kinh về các bài tập thể lực
nhằm nâng cao thành tích nhảy xa. Trên cơ sở đó tôi sẽ chọn những bài tập được
nhiều người đồng ý sau khi lấy ý kiến thăm dò, phỏng vấn (trên 70% đồng ý) đưa
vào chương trình thực nghiệm. Còn những bài tập được lựa chọn ít hơn (dưới 70%
đồng ý) tôi sẽ loại bỏ không sử dụng trong chương trình thực nghiệm.
4.1.1.Thu thập, tổng hợp các bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích
nhảy xa của nam học sinh lớp 11.

Các tác giả Xirixơ.P.Đ – Gaidrơxca P.M – Ratrep K.I, trong “Nghiên cứu
đánh giá trình độ tập luyện trong các thời kỳ khác nhau”, đã dùng các bài tập sau
để đánh giá trình độ thể lực của vận đông viên nhảy xa : nhảy xa (cm). chạy 20m
có đà (gy), bật cao (cm), bật xa (cm), bật 3 bước (cm), lực lưng (kg).
Trong tiêu chuẩn kiểm tra đánh giá trình độ tập luyện và tuyển chọn vận động
viên điền kinh, các tác giả Trung Quốc đã đưa ra hệ thống các chỉ tiêu và xác định
cả tỷ trọng của các chỉ tiêu trong tuyển chọn nam VĐV nhảy xa lứa tuổi 13 – 17 là
: Điều kiện cơ thể : Chỉ số Quetelet, dài chân, B/chiều cao, công năng tim. Trình
độ kỹ thuật : Chạy 100m (gy), nhảy xa ( cm), đẩy tạ (cm), chạy 1500 (gy), chạy
30m tốc độ cao (gy), hất tạ (4kg) quay đầu ra sau (cm), đà 5 bước nhảy 5 bước, đà
7 bước nhảy xa, kỹ thuật nhảy xa.
Pôpốp V.B, đã đưa ra các chỉ tiêu đánh giá trình độ chuẩn bị sức mạnh tốc độ
của vận động viên trong nhảy xa bằng thành tích lập bài tập thông qua các nội
dung mà hầu hết đều nhằm đánh giá sức mạnh chân dưới các góc độ khác nhau,
như : chạy 30m (gy), chạy 60m (gy), chạy 100m có xuất phát (gy), nhảy cao kiểu
bước qua (cm), nhảy bật 50 lần trên 1 chân với 6 bước đà (xác định độ dài và thời
gian), chạy 30m (gy), chạy 60m (gy), chạy 100m có xuất phát (gy), nhảy cao kiểu
bước qua (cm), nhảy bật cao 5 lần liên tục (gy), ngồi xuống đứng lên với trọng
lượng tối đa (kg), nâng 2 chân lên thang thể dục 10 lần (gy).
Trong “Kiểm tra năng lực thể chất và thể thao” của Lê Bửu – Nguyễn Thế
Truyền đã đưa ra 9 test và 1 chỉ số tuyển chọn vận động viên nhảy xa thì có đến 6
test gắn liền với sức mạnh cơ chân: chạy 20m tốc độ cao (gy), bật cao tại chỗ (gy),
bật xa tại chỗ (gy), bật ba bước tại chỗ (cm), nhảy xa có đà (cm), lực lưng (kg),
thời gian giậm nhảy trong nhảy xa toàn đà (gy), chiều cao, thể trọng, chỉ số thể
trọng.
Cũng theo Lê Bửu – Nguyễn Thế Truyền trong sách “Lý luận và phương pháp
thể thao trẻ”, tuy có những test khác nhau, nhưng 2 ông cũng đã giới thiệu 7 chỉ
tiêu mà hầu như chỉ để kiểm tra các mặt khác nhau của sức mạnh cơ chân với mục



đích tuyển chọn vận động viên nhảy xa trẻ 11 – 14 tuổi vào trường năng khiếu thể
thao bao gồm: nhảy 3 bước tại chỗ (cm), bật xa tại chỗ (cm), chạy 30 xuất phát
thấp (gy), chạy 30m xuất phát từ xa (gy), chạy 60m xuất phát thấp (gy), nhảy cao
có chạy đà (cm), nhảy xa có chạy đà (cm).
Nguyễn Đại Dương – Nguyễn Đăng Điệp đã nghiên cứu và dùng các chỉ tiêu
thể lực sau đây để tuyển chọn học sinh chuyên sâu nhảy xa chuyên ngành giáo dục
thể chất của trường Đại học TDTT I. đó là những chỉ tiêu chủ yếu và trước hết
nhằm xác định toàn diện sự phát triển sức mạnh đôi chân là: chạy 30m xuất phát
cao (gy), chạy 30m tốc độ cao (gy), chạy 40m xuất phát cao (gy), chạy 60m xuất
phát cao (gy), chạy 60m tốc độ cao (gy), bật cao tại chỗ (gy), bật 3 bước tại chỗ
(m), bật 5 bước tại chỗ (m), nhảy xa có đà (m).
Qua quá trình tìm hiểu, thu thập, tổng hợp và phân tích tài liệu của các tác giả
khác nhau, trong thực tiễn giảng dạy và huấn luyện, đặc điểm phát triển thể chất và
sinh lí lứa tuổi, căn cứ vào đặc điểm của nội dung nhảy xa. Tôi đã sưu tầm được 15
bài tập nhằm phát triển thể lực, nâng cao thành tích nhảy xa cho nam học sinh lớp
11 và lập phiếu phỏng vấn (phụ lục 1) để tham khảo ý kiến đóng góp của 35 cán bộ
quản lí, các giáo viên, huấn luyện viên TDTT, các chuyên gia điền kinh về mức độ
liên quan của các bài tập đến việc nâng cao thành tích nhảy xa cho nam học sinh
lớp 11.
4.1.2 Kết quả phỏng vấn:
Để chọn lựa các bài tập phát triển thể lực nhằm nâng cao thành tích nhảy xa
cho nam học sinh lớp 11, tôi đã tiến hành phỏng vấn bằng phiếu với số lượng 35
gười gồm : các cán bộ quản ly, các giáo viên, huấn luyện viên TDTT, các chuyên
gia điền kinh tại địa phương. Số phiếu phát ra là 35, số phiếu thu về là 30, tôi thu
được kết quả như sau:



Bảng 1


NỘI DUNG BÀI TẬP
KẾT QUẢ PHỎNG VẤN
ĐỒNG Ý TỶ LỆ
1.

Chạy 30m xuất phát thấp (gy)
25/30 83,33%
2.

Chạy 60m xuất phát thấp (gy) 21/30 70%
3.

Chạy lặp lại 5 x 30m (gy) 17/30 56,66%
4.

Chạy 30m tốc độ (gy) 23/30 76,66%
5.

Chạy 100m xuất phát thấp (gy) 23/30 76,66%
6.

Chạy 40m xuất phát thấp (gy) 17/30 56,66%
7.

Chạy đạp sau 60m (gy) 19/30 63,3%
8.

Bật lò cò 30m (gy) 29/30 96,66%
9.


Bật 3 bước (m) 27/30 90%
10.

Bật 10 bước (m) 19/30 63,3%
11.

Bật xa tại chỗ (m) 24/30 80%
12.

Bật cao tại chỗ (m) 16/30 53,33%
13.

Bật cao 5 lần liên tục (gy) 18/30 60%
14.

Ngồi xổm bật cóc 30m (gy) 26/30 86,66%

Căn cứ vào kết quả phỏng vấn, tôi đã chọn được 8 bài tập có hơn 70% ý kiến
đồng ý để đưa vào chương trình thực nghiệm, đó là các bài tập sau:

Bảng 2

STT

BÀI TẬP TỶ LỆ
1 Chạy 30m tốc độ 76,66%
2 Chạy 30m xuất phát thấp 83,33%
3 Bật xa tại chỗ 80%
4 Chạy 60m xuất phát thấp 70%
5 Bật lò cò 30m 96,66%

6 Chạy 100m xuất phát thấp 76,66%
7 Bật xa 3 bước 90%
8 Ngồi xổm bật cóc 30m 86,66%

Sau kết quả phỏng vấn tôi tiến hành lấy số liệu của 8 bài tập cả 2 nhóm thực
nghiệm và đối chứng


4.2 Đánh giá các bài tập qua kết quả kiểm tra lần 1
Bảng 3: Nhóm đối chứng (lần 1)

TT BÀI TẬP ĐV
X

S
x
V% ε
1.


Chạy 30m tốc độ
Giây 3.74 0.12 3.19 0.009
2.


Chạy 30m xuất phát thấp
Giây 4.84 0.25 5.25 0.015
3.



Bật xa tại chỗ
Mét 2.31 0.19 8.37 0.024
4.


Chạy 60m xuất phát thấp
Giây 9.04 0.14 1.52 0.054
5.


Bật lò cò 30m
Giây 9.25 0.40 4.29 0.012
6.


Chạy 100m xuất phát thấp
Giây 17.55 0.46 2.61 0.007
7.


Bật xa 3 bước
Mét 5.98 0.22 3.72 0.011
8.


Bật cóc 30m
Giây 15.80 1.01 6.40 0.018

Qua kết quả được tình bày ở bảng 3, tôi nhận thấy các chỉ số của hệ số biến
thiên (V%) nằm tỏng khoản từ 1.52% đến 8.37% (< 10%), nên mẫu có độ đồng

nhất cao. Các chỉ số của sai số tương đối (ε) nằm trong khoản từ 0.004 đến 0.024
(< 0.05). Điều này cho ta thấy giá trị trung bình mẫu đủ tính đại diện. Vậy giá trị
trung bình của tập hợp mẫu có độ tin cậy cao.
Bảng 4 : Nhóm thực nghiệm (lần 1)

TT BÀI TẬP ĐV
X

S
x
V% ε
1.


Chạy 30m tốc độ
Giây 3.75 0.10 2.80 0.008
2.


Chạy 30m xuất phát thấp
Giây 4.77 0.24 5.04 0.014
3.


Bật xa tại chỗ
Mét 2.36 0.17 7.14 0.020
4.


Chạy 60m xuất phát thấp

Giây 9.05 0.13 1.47 0.004
5.


Bật lò cò 30m
Giây 9.12 0.85 9.36 0.047
6.


Chạy 100m xuất phát thấp
Giây 17.44 1.52 3.00 0.009
7.


Bật xa 3 bước
Mét 6.00 0.29 4.80 0.014
8.


Bật cóc 30m
Giây 15.38 1.30 8.44 0.024

Qua bảng 4 tôi có nhận xét sau : các chỉ số của hệ số biến thiên (V%) nằm
trong khoản từ 1.25% đến 6.54% (<10) nên mẫu có độ đồng nhất cao. Các chỉ số
của sai số tương đối (ε) nằm trong khoản từ 0.004 đến 0.019 (< 0.05). Điều này
cho ta thấy giá trị trung bình mẫu đủ tính đại diện. Vậy giá trị trung bình của tập
hợp mẫu có độ tin cậy cao.
4.3.Đánh giá thành tích nhảy xa lần 1 (bảng 5)
Bảng 5 : Thành tích nhảy xa (lần 1 )


Nhảy xa (lần 1)
X

S
x
V% ε
Nhóm đối chứng
4.15 0.14 3.42 0.010
Nhóm thực nghiệm
4.17 0.16 3.76 0.011

Qua bảng 5 tôi có nhận xét sau : các chỉ số của hệ số biến thiên (V%) nằm
trong khoản từ 3.42% đến 3.76% (<10) nên mẫu có độ đồng nhất cao. Các chỉ số


của sai số tương đối (ε) nằm trong khoản từ 0.010 đến 0.011 (< 0.05). Điều này
cho ta thấy giá trị trung bình mẫu đủ tính đại diện. Vậy giá trị trung bình của tập
hợp mẫu có độ tin cậy cao.
4.4. Đánh giá mối tương quan giữa 8 bài tập với thành tích nhảy xa:
4.4.1. Thành tích nhảy xa lần 2 :
Qua một năm tập luyện tôi thu được kết qủa các nhóm như sau:
Bảng 6 : Thành tích nhảy xa (lần 2 )

Nhảy xa (lần 2)
X

S
x
V% ε
Nhóm đối chứng

4.19 0.08 1.82 0.005
Nhóm thực nghiệm
4.27 0.10 2.34 0.007

Qua số liệu ở bảng 6 cho thấy các chỉ số của hệ số biến htiên (V%) nằm
trong khoản từ 1.82% đến 2.34% (<10) nên mẫu có độ đồng nhất cao. Các chỉ số
của sai số tương đối (ε) nằm trong khoản từ 0.004 đến 0.019 (< 0.05). Điều này
cho ta thấy giá trị trung bình mẫu đủ tính đại diện. Vậy giá trị trung bình của tập
hợp mẫu có độ tin cậy cao. Thành tích nhảy xa lần 2 của cả hai nhóm đối ch ứng
và thực nghiệm đều tốt hơn lần 1.
Tuy nhiên thành tích nhóm thực nghiệm vượt trội hơn hẳn so với thành tích
nhóm đối chứng.
4.4.2. Thành tích 8 bài tập (lần 2)
Qua một năm tập luyện tôi thu được kết quả của các nhóm như sau:
Bảng 7: Nhóm đối chứng (lần 2)

TT

BÀI TẬP ĐV
X

S
x
V% ε
1 Chạy 30m tốc độ Giây 3.70 0.10 2.72 0.008
2 Chạy 30m xuất phát thấp Giây 4.76 0.18 3.70 0.011
3 Bật xa tại chỗ Mét 2.38 0.16 6.54 0.010
4 Chạy 60m xuất phát thấp Giây 9.01 0.12 1.28 0.004
5 Bật lò cò 30m Giây 9.11 0.46 5.04 0.014
6 Chạy 100m xuất phát thấp


Giây 17.40 0.22 1.25 0.014
7 Bật xa 3 bước Mét 6.07 0.23 3.78 0.011
8 Bật cóc 30m Giây 15.42 1.00 6.52 0.019

Qua số liệu ở bảng 7 cho thấy các chỉ số của hệ số biến thiên (V%) nằm
trong khoản từ 1.47% đến 9.36% (<10) nên mẫu có độ đồng nhất cao. Các chỉ số
của sai số tương đối (ε) nằm trong khoản từ 0.004 đến 0.027 (< 0.05). Điều này
cho ta thấy giá trị trung bình mẫu đủ tính đại diện. Vậy giá trị trung bình của tập
hợp mẫu có độ tin cậy cao



Bảng 8: Nhóm thực nghiệm (lần 2)

TT

BÀI TẬP ĐV
X

S
x
V% ε
1 Chạy 30m tốc độ Giây 3.67 0.12 2.61 0.007
2 Chạy 30m xuất phát thấp Giây 4.59 0.24 5.17 0.019
3 Bật xa tại chỗ Mét 2.48 0.17 6.82 0.019
4 Chạy 60m xuất phát thấp Giây 9.00 0.11 1.21 0.003
5 Bật lò cò 30m Giây 8.49 0.77 9.13 0.026
6 Chạy 100m xuất phát thấp Giây 17.33 0.53 3.08 0.003
7 Bật xa 3 bước Mét 6.22 0.33 5.23 0.015

8 Bật cóc 30m Giây 14.62 1.05 7.15 0.020

Qua kết quả nghiên cứu trên cho thấy các chỉ số của hệ số biến htiên (V%)
nằm trong khoản từ 1.21% đến 9.13% (<10) nên mẫu có độ đồng nhất cao. Các
chỉ số của sai số tương đối (ε) nằm trong khoản từ 0.004 đến 0.019 (< 0.05). Điều
này cho ta thấy giá trị trung bình mẫu đủ tính đại diện. Vậy giá trị trung bình của
tập hợp mẫu có độ tin cậy cao.
Qua bảng tôi nhận thấy giá trị trung binh của thành tích 8 bài tập lần 2 của cả
2 nhóm đối chứng và tực nghiệm tốt hơn lần 1.
4.5. Đánh giá hiệu quả áp dụng các bài tập phát triển thể lực chuyên
môn
4.5.1. Nhịp độ tăng trưởng 8 bài tập của nhóm đối chứng và thực nghiệm
Qua thống kê tôi có kết quả sau:

Bảng 9: Nhóm đối chứng

TT

BÀI TẬP ĐV
X

(lần
1)
X

(lần 2)
W%
1 Chạy 30m tốc độ Giây

3.74 3.70 - 1.12

2 Chạy 30m xuất phát thấp Giây

4.84 4.76 - 1.69
3 Bật xa tại chỗ Mét 2.31 2.38 2.88
4 Chạy 60m xuất phát thấp Giây

9.04 9.01 - 0.42
5 Bật lò cò 30m Giây

9.25 9.11 - 1.50
6 Chạy 100m xuất phát thấp Giây

17.55 17.40 - 0.81
7 Bật xa 3 bước Mét 5.98 6.07 1.44
8 Bật cóc 30m Giây

15.80 15.42 - 2.50




Bảng 10: Nhóm thực nghiệm

TT

BÀI TẬP ĐV
X

(lần 1)


X

(lần 2)
W%
1 Chạy 30m tốc độ Giây 3.75 3.67 - 2.77
2 Chạy 30m xuất phát thấp Giây 4.77 4.59 - 3.80
3 Bật xa tại chỗ Mét 2.36 2.48 4.17
4 Chạy 60m xuất phát thấp Giây 9.05 9.00 - 0.54
5 Bật lò cò 30m Giây 9.12 8.49 - 7.22
6 Chạy 100m xuất phát thấp Giây 17.44 17.33 - 1.04
7 Bật xa 3 bước Mét 6.00 6.22 3.57
8 Bật cóc 30m Giây 15.38 14.62 - 5.11

Qua bảng 9, 10 tôi có nhận xét sau: Giá trị trung bình lần 2 của các bài tập tốt
hơn lần 1 thành tích các bài tập kiểm tra của 2 nhóm đều có tăng tiến. nhịp độ tăng
trưởng các bài tập của nhóm thực nghiệm có độ tăng trưởng cao rõ hơn so với
nhóm đối chứng như : (chạy 30m tốc độ cao – 1.65; chạy 30m xuất phát thấp
2.11%. bật xa tại chổ 1.29%, bật lò có 30m – 5.72%).
4.5.2. Nhịp độ tăng trưởng nhảy xa của 2 nhóm đối chứng và thực
nghiệm:
Để có những nhận định và đánh giá chính xác hơn về tác dụng của các bài tập
đối với nhóm thực nghiệm và hiệ quả của công tác giảng dạy ở mỗi nhóm, tôi tiến
hành so sánh nhịp độ tăng trưởng về thành tích nhảy xa của cả 2 nhóm sau tohiwf
gian thực nghiệm
Qua thống kê tôi có kết quả sau :

Bảng 11: Nhịp độ tăng trưởng của 2 nhóm

Nhảy xa
X


S
x
V% ε W%

t p
Nhóm đối chứng
Lần 1 4.15 0.14 3.42 0.010

1.07 1.97 >0.05
Lần 2 4.19 0.08 1.82 0.005


Nhóm thực nghiệm
Lần 1 4.17 0.16 3.76 0.011

2.23 3.58 <0.001

Lần 2 4.27 0.10 2.34 0.007



Qua bảng 11 cho chúng ta thấy: Sau quá trình áp dụng các bài tập thể lực
trong tập luyện, thành tích nhảy xa của 2 nhóm đều có tăng tiến. Nhịp độ tăng
trưởng của nhóm thực nghiệm vượt trội so với nhóm đối chứng (W% nhóm đối
chứng 1.07; W% nhóm thực nghiệm: 2.23)
4.6. Kiểm định kết quả thực nghiệm:
Qua kiểm định gỉả thuyết tính thực nghiệm của nhóm đối chứng. Mặc dù
thành tích có tăng so với lần 1 nhưng so sánh hai giá trị trung bình giữa lần 1 và



lần 2 thì giá trị t – student lại không có ý nghĩa thống kêê với ngưỡng xác suất
P>0.05. Trên cơ sở đó tôi có kết luận: sau 1 năm tập luyện thành tích nhảy xa nam
học sinh lớp 11 có sự tăng tiến so với lần 1, nhưng sự tăng tiến lại không có ý
nghĩa thống kê với ngưỡng xác suất P>0.05 ở nhóm đối chứng.
Qua kiểm định gỉả thuyết tính thực nghiệm của nhóm thực nghiệm. có ý
nghĩa thống kêê với xác suất P < 0.001. Cụ thể là : nhảy xa thành tich trung bình
4.27m ± 0.10 (với t = 3.58; P < 0.001). Trên cơ sở đó tôi có kết luận: sau 1 năm tập
luyện thành tích nhảy xa nam học sinh lớp 11 nhóm thực nghiệm trường THPT
Tam Phước, Biên Hòa, Đồng Nai tốt hơn năm đầu.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Từ thực tế vận dụng những cách thức trên khi dạy những bài học kỹ thuật
nhảy xa, tôi thấy đây là phương pháp giảng dạy có tính khả thi, nếu được giáo viên
vận dụng linh hoạt, khéo léo trong giờ học sẽ góp phần nâng cao hiệu quả, chất
lượng, phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học.
Tuy nhiên, để có thể vận dụng phương pháp này cần phải có sự phối hợp từ
nhiều phía:
+ Đối với giáo viên: để có thể tiến hành giảng dạy theo cách trên thì nhất
thiết phải hướng dẫn học sinh những công việc cần chuẩn bị trước ở nhà vào cuối
tiết học trước, bản thân giáo viên cũng cần tìm tòi nghiên cứu để nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, cung cấp thêm cho học sinh những kiến thức ngoài những
phần mà sách giáo khoa và sách giáo viên đã cung cấp, góp phần làm cho giờ dạy
thêm sinh động, tạo cho các em học sinh sự hứng thú.
+ Đối với học sinh: các em cần phải nâng cao năng lực tự giac tập luyện,
phải tích cực chủ động trong việc nghiên cứu, sưu tầm tài liệu.
+ Về phía nhà trường: Nên có đường chạy đà và hố nhảy xa tốt hơn để tập
luyện và kiểm tra nhảy xa.
Nếu có sự phối hợp đồng bộ từ nhiều phía như vậy thì cách thức mà tôi tiến
hành vận dụng trong quá trình giảng dạy, khi dạy kỹ thuật nhảy xa kiểu ‘’ưỡn
thân’’ sẽ mang lại hiệu quả như mong muốn, góp phần nâng cao hiệu quả học tập

trong các tiết thể dục, tạo sự ham thích bộ môn thể dục ở các em học sinh, góp
phần thực hiện chủ trương đổi mới giáo dục của ngành giáo dục nói chung và đổi
mới phương pháp dạy và học môn thể dục trong nhà trường phổ thông nói riêng.


VI. KẾT LUẬN
6.1. Kiến nghị:
Trong q trình giảng dạy bản thân tơi ln trăn trở tìm nhiều cách thức để
vận dụng vào việc dạy học nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh tạo cho
các em sự hứng thú đối với mơn học này. Trên đây là một số cách thức mà tơi đã
thực hiện khi dạy kỹ thuạt nhảy xa kiểu “ưỡn thân’’.
Từ những kết quả nghiên cứu đã được phân tích tôi có những kết luận:
+ Thông qua các bước nghiên cứu chặt chẽ, đề tài bước đầu xác đònh được
8 bài tập phát triển thể lực nhằm nâng cao thành tích nhảy xa của nam học sinh
lớp 11 trường THPT Tam Phước ứng dụng vào chương trình thực nghiệm bao
gồm:

-

Chạy 30m tốc độ
-

Chạy 30m xuất phát thấp
-

Bật xa tại chỗ
-

Chạy 60m xuất phát thấp
-


Bật lò cò 30m
-

Chạy 100m xuất phát thấp
-

Bật xa 3 bước
-

Bật cóc 30m
+ Qua quá trình thực nghiệm trong 1 năm học, đề tài đã xác đònh được các
bài tập phát triển thể lực để nâng cao thành tích nhảy xa cho nam học sinh lớp
11 ở nhóm thực nghiệm so với nhóm đối chứng đa số phát triển đồng đều, bao
gồm các bài tập sau: chạy 30m xuất phát thấp, chạy 30m tốc độ cao, chạy 100m,
chạy 60m, chạy lò cò 30m, bật xa 3 bước, bật xa tại chỗ, ngồi xổm bật cóc 30m,
các bài tập này đã chứng tỏ được tính ưu việt của hệ thống bài tập được lựa chọn
trước những bài tập hiện hành trong việc nâng cao thành tích nhảy xa cho nam
học sinh lớp 11 trường THPT Tam Phước – Biên Hòa – Đồng Nai.
6.2. Kiến nghị:
Các bài tập trên có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các giáo viên thể dục
các trường THPT trong tỉnh Đồng Nai, nhất là các trường thuộc địa bàn nơng thơn
để nâng cao thành tích nhảy xa.
Tơi sẽ xin ban giám hiệu trường THPT Tam Phước cho tơi áp dụng những
bài tập trên vào chương trình học thể dục của trường nhằm nâng cao thành tích
chung và đặc biệt là các học sinh trong đội tuyển điền kinh của trường.
Các trường THPT nên có đường chạy đà và hố nhảy xa tốt hơn để tập
luyện và kiểm tra nhảy xa.



Phối hợp với ngành TDTT thành lập các câu lạc bộ thể thao trường học để
mỗi học sinh có điều kiện tham gia tập luyện thường xuyên một môn thể thao mà
mình ưa thích. Tăng cường công tác ngoại khoá, thi đấu thể thao theo chuyên đề
cho các dịp lễ, tết trong trường học.
Qua đề tài này Tôi đã rất cố gắng nhưng cũng không tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của các thầy cô trong ban giám khảo để giúp
Tôi hoàn thiện đề tài hơn nữa. Tôi xin chân thành cảm ơn.

VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Chỉ thị 36/Twngày 24, Tháng 3 Năm 1994 của ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng Sản Việt Nam
2. Dương Nghiệp Chí: Đo lường thể thao, NXB TDTT, Hà Nội 1991.
3. Phạm Minh Hạc: Tâm lý học, NXB Giáo dục 1997.
4. Quang Hưng: Bài tập chuyên môn trong Điền kinh, NXB TDTT, Hà Nội 2004.
5. Sách giáo viên Thể Dục Lớp 10 nhà xuất bản Giáo Dục
6. Trịnh Trung Hiếu: Phương pháp giảng dạy thể thao trong nhà trường, NXB
TDTT, Hà Nội 1994.
7. Trịnh Trung Hiếu: (1993) lỳ luân và phương pháp giáo dục TDTT, NXB TDTT
TP HCM
8. Huỳnh Trọng Khải: Giáo trình lý thuyết nghiên cứu khoa học, tài liệu giảng dạy
cho các lớp Đại chuyên tu.
9. Nguyễn Toán – Phạm Danh Tốn: Lý luận và phương pháp TDTT, NXB TDTT,
Hà Nội 2000.
10. Nguyễn Thế Truyền- Nguyễn Kim Minh, Trần Quốc Tuấn: Tiêu chuẩn đánh
giá trình độ tập luyện trong tuyển chọn và huấn luyện thể thao, NXB TDTT , Hà
Nội 2002.
11. Trịnh Hùng Thanh: Đặc điểm sinh lý các môn thể thao, NXB TDTT, Hà Nội
1999.





Người Thực Hiện





Gv: Lê Thị Hoà





DANH SÁCH HỌC SINH NHÓM THỰC NGHIỆM
VÀ NHÓM ĐỐI CHỨNG

NHÓM THỰC NGHIỆM LẦN 1

STT Họ và tên
Nhảy
xa lần
1
Chạy
30m
tốc
độ (s)

Chạy

30m
xpt
(s)
Bật
xa tại
chổ
(m)
Chạy
60m
(s)
Bật
Lò cò
30m
(s)
Chạy
100m
(s)
Bật 3
bước
(m)
Ngồi
xổm
bật cóc
30m (s)

1

Lê Th
ế Bảo


4.3
5

3.7

4.5

2.32

9.13

8.94

16.89

5.05

15.77

2

Trần Vũ Cần 4.34 3.65 4.66 2.15 9.28 8.19 16.2 6.25 15.09
3

Đ
ỗ Văn Chung

4.15

3.83


5.6

2.15

9.24

9.34

17.3

6.03

16.2

4

Đinh Công Đ
ức

4.1

3.71

4.73

2.02

9.23


8.16

16.76

6.1

15.49

5

Nguyễn Lập Đức 4.25 3.59 4.62 2.44 9.02 8.04 16.98 6.45 18.94
6

Mai Văn Dương

3.92

3.9

4.35

2.4

9.17

8.65

15.87

6.27


14.98

7

Lê Thái Hà 4.2 3.77 5.17 2.25 8.75 9.45 16.87 6.15 15.15
8

Trương Đ
ình Hi
ền

4.15

3.91

4.4

2.12

9.02

8.56

15.98

5.65

15.15


9

Lê Văn Hưng 4.11 3.6 4.82 2.45 8.93 8.34 17.2 5.5 13.99
10

Nguy
ễn Quang Huy

3.98

3.83

4.45

2.42

8.79

8.04

16.3

5.9

14.78

11

Tr
ần Th

ành Long

4.23

3.71

4.98

2.35

9.02

8.13

15.88

6.45

13.67

12

Nguyễn Hoàng Minh 4.13 3.48 4.95 2.35 9.22 8.09 16.5 6.65 14.33
13

Nguy
ễn Thanh Nam

4.2


3.78

4.87

2
.3

8.99

7.45

17.04

6.2

13.84

14

Cao Huy Phong 4.28 3.78 4.81 2.43 8.77 8.85 16.8 5.76 15.21
15

Nguy
ễn Văn S
ơn

4.25

3.67


4.82

2.17

8.98

9.65

16.1

6.3

13.43

16

Nguyễn Đình Thủy 3.99 3.69 4.46 2.33 9.01 10.05

17.23 6 18.7
17

Nguyễn Đức Tiến 4.3 3.69 4.52 2.47 9.02 7.55 17.36 6.2 15.35
18

Lê Vi
ết Tr
ình

4.08


3.78

4.69

2.43

8.89

8.88

16.87

6

17.66

19

Phạm Quang Anh Tuấn 3.95 3.49 4.75 2.35 9.21 9.46 17 6 17.8
20

Tr
ịnh Quanh Vinh

4

3.83

4.4


2.6

8.99

8.91

16.87

5.65

15.77

21

Lê Tuấn Vũ 4.1 3.7 4.75 2.24 9.04 8.95 15.87 6.4 18.94
22

Tr
ần Tuấn Anh

40.6

3.67

5.1

2.51

9.15


8.93

17.08

5.9

15.4

23

Phạm Đức Cương 4.15 3.73 4.91 2.32 8.97 8.86 16.76 6.4 15.15
24

Đặng Tiến Đạt 4.15 3.65 4.9 2.45 8.95 10.76

17.06 5.75 14.4
25

Tr
ần Đ
ình
Đ
ạt

3.95

3.8

4.97


2.25

9.05

9.97

17.59

6

15
.67

26

Nguyễn Thuận Đức 4.27 3.79 4.72 2.3 9.02 10.07

16.69 5.75 14.69
27

Nguy
ễn Hữu Hiếu

4.12

3.65

4.69

2.33


9.01

10.34

17.12

6.15

15.37

28

Nguyễn Hữu Huy
Hoàng

4.42 3.79 4.8 2.45 9.12 8.9 16.77 5.7 16.2
29

Đậu Văn Hùng 4.65 3.7 4.75 2.35 9.23 10.76

16.87 6.2 14.01
30

Nguyễn Anh Kiệt 4.05 3.67 4.72 2.1 9.01 10.03

17.6 5.79 16.1
31

Nguyễn Hoàng Lâm 4.12 3.81 4.95 2.05 8.97 9.88 16.87 6 14.78

32

Đào Xuân Lộc 4.18 3.78 4.92 2.46 8.89 10.09

15.76 6.1 16.05
33

Nguy
ễn Văn Long

4.1

3.68

4.83

2.18

9.01

9.64

15.61

6
.03

13.84

34


Nguyễn Thành Luân 4.23 3.77 5.15 2.35 9.34 8.89 17.56 5.76 14.93
35

Nguy
ễn Danh Nam

4

3.82

4.71

2.63

8.97

10.54

16.79

6.31

14.35

36

Cao Sĩ Sơn 4.27 3.6 4.87 2.12 8.99 8.65 16.55 6.26 15.49
37


Nguyễn Ngọc Tài 4.23 3.71 4.43 2.26 9.17 8.56 17.01 6.05 17.66
38

V
ũ Tú Anh

4.32

3.77

5.3

2.45

9.11

8.89

16.76

6.15

15.15

39

Hoàng Phương Bắc 4.18 3.98 4.75 2.56 9.17 9.06 16.87 5.81 16.21

×