Tải bản đầy đủ (.docx) (166 trang)

Định hướng quy hoạch tái chế chất thải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 166 trang )

Định hướng quy hoạch xử lý chất thải rắn tại TPHCM đến 2020 tầm nhìn 2030
CHƯƠNG 1: THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1. GIỚI THIỆU CHUNG
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt, trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo,
khoa học công nghệ, có vị trí chính trị quan trọng của cả nước; đầu mối giao lưu quốc tế; trung
tâm công nghiệp, dịch vụ đa lĩnh vực của khu vực và Đông Nam Á (Qui hoạch chung xây dựng
thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025). Với diện tích 2.095 km
2
và dân số (đăng kí và vãng lai)
hơn 9 triệu người (2010), nằm trong vùng kinh tế năng động nhất Việt Nam, bao gồm đồng bằng
sông Cửu Long và Vùng Đông Nam Bộ, trong đó có Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam, bao gồm
thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long
An và Tiền Giang, thành phố Hồ Chí Minh là đầu tầu kinh tế không những trong Vùng mà còn của
cả nước, với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm đạt 12% trở lên, GDP bình quân đầu
người năm 2010 đạt 2.800 USD bằng 1,68 lần năm 2005 và đóng góp trên 22,5% ngân sách quốc
gia (Báo cáo Chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh lần IX).
Bên cạnh việc sản xuất ra một khối lượng lớn sản phẩm phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu,
thành phố Hồ Chí Minh cũng tiêu thụ một khối lượng khổng lồ các nguồn tài nguyên thiên nhiên
và năng lượng (49 triệu KWh/ngày), đồng thời thải vào môi trường một khối lượng tương ứng
(hơn 2 triệu tấn/ngày) các loại chất thải (lỏng, khí, rắn và bùn), bao gồm cả chất thải không nguy
hại và chất thải nguy hại, chất thải có thể tái chế và chất thải chưa có khả năng tái chế. Chất lượng
môi trường tự nhiên và cuộc sống của con người đang bị đe dọa do sự phát triển thiếu bền vững
(sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên và năng lượng không hiệu quả) và do các loại chất thải
này. Các thành tựu đạt được về xóa đói giảm nghèo, nâng cao sức khỏe cộng đồng và vệ sinh môi
trường, …, do quá trình phát triển kinh tế và xã hội mang lại trong nhiều năm qua, có nguy cơ đổ
vỡ do nạn ô nhiễm môi trường. Không những thế, nguồn tài chính do nhiều năm phát triển kinh tế
mang lại sẽ không đủ để phục hồi các tổn hại sức khỏe của người dân, khắc phục hậu quả do ô
nhiễm môi trường và suy thoái đa dạng sinh học,… đặc biệt là mất đi lợi thế cạnh tranh về đầu tư
kinh tế trong và ngoài nước.
Nguyên nhân làm cho chất lượng môi trường ngày càng bị đe dọa và tính chất nguy hại tiềm ẩn
ngày càng cao có rất nhiều, kể cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng hai nguyên chính


(theo thứ tự ưu tiên) cần phải xác định rõ là (1) hệ thống quản lý Nhà nước trong lĩnh vực chất thải
chưa theo kịp tốc độ phát triển của thành phố và (2) cơ sở hạ tầng tái chế, xử lý chất thải và bảo vệ
môi trường còn thiếu rất nhiều để giải quyết khối lượng các loại chất thải phát sinh hàng ngày. Vì
vậy, xây dựng một hệ thống quản lý môi trường nói chung và chất thải nói riêng, đặc biệt là hệ
thống quản lý Nhà nước, bao gồm con người và cơ sở vật chất hỗ trợ, phù hợp với điều kiện của
thành phố Hồ Chí Minh và Việt Nam, mang tính quyết định đến sự phát triển bền vững kinh tế và
xã hội của thành phố Hồ Chí Minh, một trong những định hướng chiến lược của Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI, đặc biệt trong điều kiện hiện tượng Biến đổi khí hậu đang diễn ra ở khắp các
nơi trên thế giới với cường độ ngày càng khốc liệt, phạm vi ngày càng rộng và thành phố Hồ Chí
Minh là một trong 10 thành phố trên thế giới sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Để làm được việc này,
sau Chiến lược bảo vệ môi trường, Qui hoạch bảo vệ môi trường trong đó có Qui hoạch quản lý
chất thải là một việc bắt buộc phải thực hiện.
Từ năm 2000 đến nay, gần như không có các nghiên cứu hoặc đề xuất, một cách có hệ thống,
khách quan và khoa học, về hệ thống quản lý môi trường nói chung và quản lý chất thải nói riêng
cho thành phố Hồ Chí Minh. Số liệu thống kê và thực tế cho thấy rằng, trong nhiều năm qua, số
lượng cán bộ làm việc cho ngành môi trường (bao gồm cả kỹ thuật-công nghệ và quản lý Nhà
nước) ngày càng tăng, trình độ học vấn ngày càng cao, cơ sở vật chất và kinh phí đầu tư ngày càng
1
lớn, các văn bản pháp lý ra đời ngày càng nhiều, nhận thức xã hội về môi trường ngày càng rõ
ràng, nhưng mức độ ô nhiễm môi trường (được đánh giá qua các thông số về nồng độ các chất gây
ô nhiễm môi trường) chưa được cải thiện như mong muốn, các khu vực bị ô nhiễm ngày càng rộng
và tính nguy hại có xu hướng ngày càng nghiêm trọng, các ảnh hưởng sẽ xảy ra không phải chỉ có
một thế hệ mà nhiều thế hệ, không chỉ có thân thể (điều kiện sinh lý) bị ảnh hưởng mà cả ý thức
(tâm lý) cũng đang bị ảnh hưởng. Trong hệ thống quản lý chất thải, rất nhiều vấn đề cũ tích lũy và
nhiều các vấn đề mới nảy sinh. Hệ thống này đang giải quyết các vấn đề theo sự vụ nhiều hơn là
theo định hướng lâu dài, …, đặc biệt là vấn đề đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, nhân tố quyết định
đến hiệu quả của một hệ thống quản lý đô thị. Do đó, hiệu quả quản lý chất thải của thành phố Hồ
Chí Minh không cao, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tế trong giai đoạn phát triển hiện nay,
cũng như trong tương lai. Một trong những nguyên nhân là do thành phố vẫn chưa có Qui hoạch
tổng thể hệ thống quản lý chất thải (bao gồm hệ thống kỹ thuật – công nghệ và hệ thống quản lý

Nhà nước) làm kim chỉ nam cho các giai đoạn phát triển của thành phố.
Báo cáo này trình bày nội dung Qui hoạch định hướng hệ thống quản lý chất thải thành phố Hồ
Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, hướng đến hệ thống quản lý xanh, trên cơ sở
các Chiến lược và Qui hoạch phát triển kinh tế và xã hội của quốc gia và thành phố Hồ Chí Minh,
áp dụng các thành tựu cập nhật về kỹ thuật – công nghệ tái chế và xử lý chất thải, về khoa học
quản lý đô thị và môi trường, học tập một số trường hợp điển hình đã được áp dụng thành công ở
một số thành phố trên thế giới và điều kiện thực tế của thành phố Hồ Chí Minh trong mối quan hệ
Vùng, quốc gia và khu vực, từ đó trên cơ sở mối quan hệ biện chứng giữa vật chất (cơ sở hạ tầng,
trang thiết bị, tài chính, …) và tinh thần (con người) nhằm từng bước cải thiện tiến đến xây dựng
một hệ thống hoàn chỉnh, hiện đại hóa hệ thống kỹ thuật – công nghệ, nâng cao hiệu quả hệ thống
quản lý Nhà nước trong lĩnh vực quản lý chất thải trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội bền vững và tăng trưởng xanh.
1.2. CƠ SỞ HẠ TẦNG
1.2.1 Giao thông
Thành phố Hồ Chí Minh kết nối với các tỉnh lân cận bằng hệ thống đường bộ, sôi động nhất là
quốc lộ 51 từ thành phố Hồ Chí Minh đi Vũng Tàu; quốc lộ 1A, tỉnh lộ 50, 824 và 825 đi Long
An; tỉnh lộ 25B, quốc lộ 1A đi Đồng Nai; tỉnh lộ 824 và quốc lộ 13 đi Bình Dương; quốc lộ 22
hoặc theo đường Trung Lập Hạ đi Tây Ninh. Trong tương lai, thành phố sẽ tiếp tục hiện đại hóa,
mở rộng các tuyến đường bộ nhằm tạo điều kiện thuận lợi để giao lưu giữa các vùng kinh tế trong
nước và với nước ngoài. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho việc phát triển công nghiệp cũng
như mở rộng giao lưu trong nước và quốc tế.
Mạng lưới đường trong thành phố được phân bố theo dạng hướng tâm gồm 12 trục chính theo các
hướng Đông Bắc - Tây Nam và Tây Bắc - Đông Nam. Chiều dài mạng lưới đường bộ do thành
phố quản lý khoảng 1.521 km. Mạng lưới đường trừ một vài khu có qui hoạch trước, còn đa số đều
phát triển tùy tiện từ kích thước, khổ đường, lộ giới, vĩa hè, nhiều hẻm chỉ còn lại 2m. Một số
đường bị gián đoạn ở các chỗ thắt nút hẹp, các dòng sông chắn ngang, các đầu mối giao thông,
chợ... là những điểm thường xuyên gây cản trở lớn cho giao thông nội bộ thành phố.
1.2.2 Cấp nước
Nguồn cung nước
Nhà máy nước Thủ Đức: là nguồn cung cấp nước sạch chính cho thành phố hiện nay. Hiện công

suất của Nhà máy là 750.000 m
3
/ngày đêm. Nước thô cung cấp cho nhà máy được lấy từ sông
Đồng Nai qua trạm bơm Hóa An. Đường ống chuyển tải nước thô về thành phố có đường kính
1.800 mm, dài 10,8 km.
2
Nhà máy nước BOT Bình An: công suất 100.000 m
3
/ngàyđêm, bắt đầu cấp nước từ tháng 8/1999.
Nhà máy lấy nước thô từ sông Đồng Nai qua trạm bơm đặt tại chân cầu Đồng Nai (huyện Thuận
An, tỉnh Bình Dương) công suất 105.000 m
3
/ngày đêm. Nhà máy xử lý đặt tại đồi Bình An, huyện
Thuận An - Tỉnh Bình Dương. Đường ống nước thô dài 3,2 km, đường kính 1.200 mm bằng thép
dẫn nước thô đến nhà máy xử lý. Đường ống nước sạch dài 6 km, đường kính 1.000 mm bằng thép
dẫn nước từ nhà máy xử lý đến bể chứa tại nhà máy nước Thủ Đức.
Nhà máy nước Tân Hiệp: công suất 300.000 m
3
/ngđ, bắt đầu cấp nước từ 2004. Nguồn nước thô
lấy từ sông Sài Gòn, gần cầu Bình Dương.
Nhà máy nước ngầm Hóc Môn: công suất 50.000 m
3
/ngày đêm, bắt đầu cấp nước vào tháng 8 năm
1995, cung cấp nước cho các quận Tân Bình, quận 6, quận 11, được nối với mạng lưới đường ống
hiện có thành một hệ thống liên hoàn hỗ trợ cho nhau.
Hệ thống giếng ngầm: ngoài nhà máy nước Thủ Đức, Bình An và Hóc Môn, hệ thống cấp nước
thành phố còn được bổ sung nguồn nước từ hệ thống gồm 39 giếng do Công ty Cấp nước quản lý
bao gồm cụm giếng Tân Sơn Nhất, Gò Vấp, và các giếng khoan nằm rải rác trong thành phố.
Trong đó có 11 giếng được xây dựng sau năm 1975, 28 giếng cũ đã được sửa chữa phục hồi hiện
đang khai thác. Nước giếng bơm lên một số phải xử lý sắt mới hòa vào lưới phân phối để cung

cấp. Tổng công suất phát nước của hệ thống giếng này khoảng 40.000 m
3
/ngày đêm. Ngoài ra còn
một số lượng lớn giếng ngầm của chương trình nước sạch nông thôn do UNICEF tài trợ hiện do
Sở Lao động, Thương binh và Xã hội quản lý và khoảng 100.000 giếng do các đơn vị sản xuất -
dịch vụ và hộ dân tự khoan đang được sử dụng.
Trạm cấp nước Bình Trị Đông: công suất 12.000 m
3
/ngđ, bắt đầu cung cấp nước từ tháng
2/1999.
Mạng lưới chuyển tải và phân phối
Mạng lưới chuyển tải nước sạch
Gồm 3 tuyến ống chính:
- Tuyến thứ nhất từ nhà máy nước Thủ Đức về thành phố có đường kính 2000 mm, dài 12,4
km bằng bê tông cốt thép dự ứng lực, có nòng thép. Năm 1991, Công ty Cấp nước đo kiểm định
hệ số dẫn nước C (hệ số HAZEN) chỉ còn 107,4 giảm rất nhiều so với khi mới xây dựng là 140.
Tuy nhiên chưa phát hiện dấu hiệu hư hại, do đó dự đoán khả năng vẫn có thể chuyển tải ở mức
750.000 m
3
/ngày đêm. Riêng đoạn ống đi ngầm qua đáy sông Sài Gòn ở độ sâu 21 m nên gặp khó
khăn khi xác định tính chất bảo đảm an toàn.
- Tuyến thứ hai từ nhà máy nước Thủ Đức đến khu công nghiệp Biên Hòa cung cấp nước cho
khu công nghiệp có đường kính 600 mm dài 13,28 km bằng bê tông cốt thép dự ứng lực, có nòng
thép, riêng đoạn qua cầu Đồng Nai là hai tuyến ống bằng thép 350 mm dài 450 m song song nhau.
Tuyến ống bắt đầu sử dụng từ năm 1967 và đến nay đã qua ba lần sửa chữa.
- Tuyến thứ ba từ nhà máy nước ngầm Hóc Môn về Tân Hóa theo đường Cách Mạng Tháng 8
và Hương lộ 14 có đường kính 800 mm đến 1.000 mm dài tổng cộng 7 km bằng thép có lớp bảo vệ
chống ăn mòn hóa học bên ngoài và tráng xi măng bên trong, chuyển tải nước sạch từ nhà máy qua
Tân Bình về quận 11. Ống mới, còn sử dụng tốt, có khả năng chuyển tải 100.000 m
3

/ngày đêm.
Mạng lưới phân phối
Mạng lưới phân phối nước của thành phố rất phức tạp và đa dạng do việc phát triển không đồng
bộ qua nhiều thời kỳ khác nhau. Chủ yếu trên khu vực nội thành cũ với diện tích khoảng 140 km
2
,
gồm các quận 1, 3, 4, 5, 6, 8, 10, 11, Gò Vấp, Bình Thạnh, Phú Nhuận. Ngoài ra mạng lưới còn
cung cấp nước cho khu chế xuất Tân Thuận, khu công nghiệp Hiệp Phước và một số khu vực ở các
3
quận mới. Các khu vực còn lại trong thành phố tuy có mạng lưới đường ống nhưng còn rất hạn chế
nên chỉ cung cấp nước cho một bộ phận dân cư.
- Mạng cấp I: chủ yếu để chuyển nước từ ống 2000 mm sang mạng cấp II, cấp III.
- Mạng cấp II: tiếp nhận nước từ ống chuyển tải hoặc các ống cấp I để thông qua mạng cấp III
(có khi trực tiếp không qua mạng cấp III) cấp nước cho một hoặc nhiều địa bàn tiêu thụ.
- Mạng cấp II, III tại thành phố thường là ống gang xám, ống gang dẻo, ống nhựa PE, ống
nhựa PVC. Trong đó, khoảng 9% chiều dài mạng lưới là ống gang cũ, đã sử dụng trên 50 năm,
nhiều đoạn đã bị ăn mòn, tập trung ở các quận trung tâm như quận 1, một phần quận 3 và quận 5.
Các tuyến ống đặt trong giai đoạn từ 1940-1960 với 50 % ống 80 mm, còn lại đa số là ống 150
mm và 250 mm, chủ yếu ở vùng phía đông quận 5 và phía nam quận 10, cũng bị mục bể nhiều.
Một số ống fibroximăng (abestos cement) có đường kính từ 80 mm đến 500mm với tổng chiều dài
khoảng 1.301 km, ngoài ra cũng còn tồn tại một số ít ống cỡ 40 - 60 - 80 mm ở các đường nhỏ cụt
làm nhiệm vụ như ống cấp III với tổng chiều dài khoảng 1.800 km. Hiện có khoảng 430 km ống
cấp II - III có tuổi thọ trên 80 năm cần được cải tạo để giảm thiểu thất thoát nước, ngăn ngừa
nhiễm bẩn làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng nước.
1.2.3 Thoát nước
Hệ thống thoát nước đô thị của thành phố cho đến nay đang có thay đổi lớn với các dự án xây
dựng mạng lưới thoát nước lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè và Tàu Hủ - Bến Nghé, nhà máy xử lý
hỗn hợp nước thải sinh hoạt và công nghiệp Bình Hưng Hòa công suất 30.000 m
3
/ngđ, nhà máy xử

lý nước thải sinh hoạt Bình Hưng công suất 141.000 m
3
/ngđ. Hệ thống thoát nước của thành phố là
hệ thống thoát nước riêng một nửa, tức là vẫn áp dụng một mạng lưới thoát nước chung cho cả
nước thải sinh hoạt, công nghiệp và nước mưa, nhưng sẽ tách ra khi mưa lớn. Sự phân cấp quản lý
và thực hiện duy tu sửa chữa, xây dựng các công trình thoát nước theo địa bàn quản lý vẫn giữ
nguyên như thời kỳ trước, chưa có sự thay đổi.
Trên địa bàn thành phố có khoảng 1.200 km kênh rạch, trong đó có 234 km do Công ty Thoát nước
đô thị quản lý dùng cho chức năng thoát nước. Hệ thống sông ngòi, kênh rạch chịu tác động của
chế độ bán nhật triều không đều của biển Đông, nên gây khó khăn cho việc thoát nước của cả hệ
thống cống - kênh rạch - sông lớn. Lòng lạch bị bồi lắng, làm khả năng tiêu thoát nước tự nhiên
của hệ thống này bị giảm đi khoảng 50 - 60 %.
Mạng lưới cống ngầm được xây dựng từ 1890, sau đó được phát triển thêm vào cuối những năm
1960, vừa thu nước thải và vừa thu nước mưa, phát triển đến nay mang tính chắp vá và phân bố
không đều trên điạ bàn, tập trung ở các quận trung tâm. Hiện nay mạng lưới này đang được xây
mới. Khu vực các quận mới như quận 2, quận 9, quận 12 mạng lưới thoát nước còn rất ít. Nhiều
khu tập trung dân cư ở các quận ven, trong nội thành chưa có cống thoát nước. Nước thải được
thải trực tiếp xuống mặt đất, chảy tràn lan và tự thấm gây ô nhiễm môi trường. Theo số liệu thống
kê của Viện Qui hoạch, hiện trên địa bàn, các quận trung tâm có hệ thống thoát nước 100%
(quận1, 3, và 5), các quận mới và huyện có tỉ lệ được phục vụ thoát nước thấp, riêng Bình Chánh
chỉ có 0.3%. Diện tích phục vụ chung của mạng lưới thoát nước khoảng 12% trên tổng diện tích
lãnh thổ.
Mạng lưới cấp 1 là sông/kênh rạch chính tự nhiên. Công ty TNHH MTV Thoát nước Đô thị
(UDC) quản lý các kênh rạch nhỏ trực tiếp nhận nước thải và làm nhiệm vụ thoát nước và Khu
Đường sông quản lý các kênh, sông rạch lớn làm nhiệm vụ vừa thoát nước, vừa phục vụ giao
thông vận tải đường thủy, tiếp nhận và pha loãng nước thải và thoát nước thải ra biển Đông. Như
vậy hệ thống kênh rạch tự nhiên đóng một vai trò không kém phần quan trọng trong hệ thống thoát
nước so với hệ thống đường ống cống. Sau khi được nạo vét thông thoáng và cải tạo kênh rạch sẽ
tăng cường được nhiệm vụ thoát nước và phát triển giao thông vận tải đường thủy.
4

Hiện nay kênh Nhiêu lộc - Thị Nghè đã tiến hành giải tỏa các nhà lấn chiếm 2 bờ, xây dựng hạ
tầng kỹ thuật dọc kênh giai đoạn I với 1.311 m bờ kè dọc kênh, 10.125 m đường dọc hai bên kênh,
lắp đặt 1.736 cống thoát nước 400 đến 800. Một số các kênh rạch nhỏ ở như rạch Cầu (Q.4),
rạch Đầm Sen (Q.11), Ông Buông, Tân Hóa, v.v... do Công ty TNHH MTV Thoát nước đô thị
nạo vét.
Ngoài ra, trên kênh Tàu Hủ, kênh Đôi, kênh Tẻ, cửa rạch Bến Nghé khu vực tập trung ghe thuyền
cũng được nạo vét phuc vụ cho việc cải tạo bến cảng và giao thông thủy.
Tổng chiều dài của tuyến cống thoát nước được tính từ cấp 2 đến cấp 4 chia theo 2 cấp quản lý:
tuyến cấp 2 và cấp 3 nhận nước mưa/nước thải từ tuyến cống cấp 3 và cấp 4 có đường kính từ 400
mm trở lên do Công ty TNHH MTV Thoát nước đô thị quản lý ước tính có chiều dài khoảng 516
km; tuyến cống cấp 4 do quận quản lý ước tính có chiều dài khoảng 415 km. Như vậy tổng cộng
có khoảng 931 km đường cống thoát nước, gần 200 cửa xả trên diện tích lãnh thổ khoảng 650 km
2
cần phải phục vụ thoát nước (140 km
2
nội thành, và 510 km
2
khu vực xung quanh nội thành). Mật
độ mạng lưới bình quân là 0,143 mét/ha lãnh thổ (số liệu tổng hợp từ Dự án JICA,1999). Chất
lượng cống rất kém do xây dựng từ lâu, hay bị tắc nghẽn, riêng các cống tròn và cống hộp đa số
mới xây dựng nên chất lượng còn khá tốt.
Tổng số trên toàn tuyến có 65.106 cái hầm ga. Hiện tại, khả năng hoạt động của các hầm ga chỉ
đạt 70 – 80%. Trong năm 1999 đã xây thêm gần 200 hầm ga, làm biển báo cửa xả 122 cái, giải tỏa
và nạo vét 65 cửa xả. Vấn đề tồn tại nghiêm trọng nhất hiện nay đối với thoát nước đô thị là úng
ngập. Có khoảng 28% dân số bị ảnh hưởng thường xuyên do bị ngập trong các mùa mưa.
Các dự án môi trường (1) Dự án thoát nước và vệ sinh môi trường (lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè,
do Ngân hàng Thế giới WB cho vay, (2) Dự án cải thiện vệ sinh và nâng cấp đô thị lưu vực Tân
Hóa – Lò Gốm, do chính phủ Bỉ tài trợ, (3) Dự án cải thiện vệ sinh môi trường nước lưu vực kênh
Tàu Hủ - Bến Nghé, kênh Đôi – Tẻ, do JBIC tài trợ, và (4) Dự án thoát nước Hàng Bàng, do Ngân
hàng Phát triển Châu Á tài trợ, đang làm thay đổi hệ thống thoát nước của thành phố Hồ Chí Minh.

1.2.4 Năng lượng (điện và nhiên liệu)
Điện
Hệ thống điện của thành phố được cung cấp từ nguồn điện Miền Nam qua 3 trạm Hóc Môn, Sài
Gòn, Phú Lâm. Hệ thống lưới điện phân phối có 12 trạm ngắt cấp điện áp 15 KV, hầu hết phân bổ
ở nội thành.
Lưới phân phối bao gồm:
- Lưới điện trung thế với hai cấp điện áp 15KV và 6,6KV. Nhiều tuyến trung thế dây có tiết
diện quá nhỏ, mức mang tải lại quá lớn.
- Lưới hạ thế có các cấp điện áp 220/380V (lưới 3 pha) và 220V (lưới 1 pha) vận hành theo sơ
đồ hình tia, tổng chiều dài là 4.651km (chưa kể phần mạng lưới do khách hàng đang quản lý).
Phần lớn sử dụng dây trần không được chuẩn hóa gây tổn thất kỹ thuật và phi kỹ thuật cao. Đây là
khu vực có tổn thất điện năng lớn nhất so với toàn hệ thống, đặc biệt ở ngoại thành và các ngõ
hẻm trong nội thành.
Nhiên liệu
Toàn bộ nhiên liệu tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí Minh được phân phối qua hệ thống các trạm xăng
dầu và vận chuyển bằng các loại xe bồn chuyên dụng. Cho đến nay, thành phố vẫn chưa có đường
ống dẫn khí đốt.
1.2.5 Thông tin truyền thông
Từ 1991 đến nay, những chủ trương và biện pháp cải cách mạnh mẽ, đã tạo nên sức bật mới và
ngành bưu chính viễn thông đã khơi đầu một giai đoạn phát triển, trong đó bưu điện thành phố Hồ
5
Chí Minh là một nhân tố tích cực đẩy mạnh phát triển trên cả hai lĩnh vực bưu chính và viễn
thông. Giai đoạn 1996-1998 ngành bưu chinh - viễn thông chuyển sang giai đoạn tăng tốc, hiện
đại hóa mạng lưới và cất cánh, góp phần làm tiền đề cho phát triển một số ngành kinh tế quốc dân,
làm cầu nối trong lĩnh vực trao đổi tin tức và giao lưu tình cảm. Để phù hợp với tình hình phát
triển kinh tế - xã hội của thành phố, mạng Bưu chính - Viễn thông dần chuyển sang thành mạng đa
trung tâm, đa dạng hóa dịch vụ; hiện đại hóa công nghệ; tự do hóa thị trường Bưu chính-Viễn
Thông trong nước theo chủ trương chung của Chính phủ.
1.3 CHIẾN LƯỢC, QUI HOẠCH TỔNG THỂ VÀ QUI HOẠCH CHUYÊN NGÀNH
Qui hoạch định hướng Hệ thống quản lý chất thải thành phố Hồ Chí Minh được thực hiện dựa

trên:
- Chiến lược phát triển;
- Qui hoạch tổng thể;
- Qui hoạch chuyên ngành.
1.3.1 Chiến lược
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam 2011 – 2020;
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hồ Chí Minh 2011 – 2020 (dự thảo);
- Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010, tầm nhìn 2020 (2003);
- Chiến lược quản lý môi trường thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010, tầm nhìn đến năm
2020 (2002);
- Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm
2050 (2010).
1.3.2 Qui hoạch tổng thể
Hiện nay thành phố Hồ Chí Minh đã có các qui hoạch tổng thể sau:
- Qui hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020;
- Qui hoạch chung xây dựng thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn 2050.
- Qui hoạch phát triển giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và tầm nhìn
sau năm 2020.
- Qui hoạch tổng thể hệ thống thoát nước thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020;
- Qui hoạch phát triển ngành y tế thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm
2025.
- Qui hoạch phát triển công nghiệp đến năm 2010 có tính đến năm 2020;
Quan điểm phát triển thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020
Định hướng phát triển thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 dựa trên các quan điểm chủ
đạo sau đây:
1./ Phát triển phải mang tính bền vững. Bền vững trong lĩnh vực kinh tế là đảm bảo cho nền
kinh tế Thành phố phát triển lâu dài. Do đó, cần tạo các nền tảng cơ bản cho phát triển dài hạn.
Bền vững là không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Đặc biệt chú trọng đến
bảo vệ môi trường và phát triển đô thị bền vững.
2./ Phát triển kinh tế phải hài hòa với phát triển văn hóa-xã hội. Đặt con người vào trung tâm

của phát triển và các mục tiêu sau cùng là nhằm phát triển con người. Văn hóa vừa là nền tảng vừa
là động lực cho phát triển kinh tế. Sự giàu có về vật chất phải đi liền với sự phát triển tương xứng
về đời sống tinh thần, để đảm bảo cho một xã hội phát triển văn minh, hiện đại.
6
3./ Kinh tế thành phố là kinh tế đô thị, khác với kinh tế quốc gia. Phát triển đô thị và phát triển
kinh tế gắn kết chặt chẽ với nhau. Thực chất của phát triển kinh tế Thành phố là giải quyết các vấn
đề phát triển đô thị.
4./ Phát triển Thành phố phải gắn với phát triển vùng. Thành phố là hạt nhân phát triển của
Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam. Do đó, các quy hoạch, định hướng phát triển của Thành phố
phải gắn kết chặt chẽ với toàn vùng.
5./ Giai đoạn sắp tới là giai đoạn mà kinh tế cả nước sẽ hội nhập hơn nữa vào nền kinh tế khu
vực và thế giới. Là thành viên WTO, chúng ta sẽ tiếp tục đàm phán, ký kết và thực hiện các cam
kết mậu dịch tự do với các nước khu vực. Kế hoạch và chiến lược phát triển Thành phố cần đặt
trong bối cảnh hội nhập như trên. Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh, nhất là của doanh nghiệp
cần xem là một trong những ưu tiên hàng đầu. Quan điểm của Thành phố là chủ động hội nhập và
tăng tốc phát triển. Phải sử dụng cho được công cụ hội nhập đề làm đòn bẩy phát triển Thành phố.
Các qui hoạch tổng thể trên đã xác định dân số thành phố, cơ sở hạ tầng (giao thông, cấp nước,
thoát nước, thông tin, năng lượng, …) và cơ sở thượng tầng (giáo dục, y tế, khoa học kỹ thuật, …).
1.3.3 Các qui hoạch chuyên ngành
Các qui hoạch chuyên ngành có liên quan đến công tác qui hoạch hệ thống quản lý chất thải rắn
bao gồm: qui hoạch sử dụng đất, qui hoạch phát triển công nghiệp và một số chuyên ngành công
nghiệp (cơ khí, hóa chất, điện – điện tử, vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm, …), qui hoạch y
tế.
1.4 MỘT SỐ ĐỊNH NGHĨA VÀ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
Quản lý môi trường nói chung và quản lý chất thải (rắn) nói riêng là những lĩnh vực mới trong
quản lý đô thị của Việt Nam nói chung và của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Vì vậy, việc xây
dựng hệ thống định nghĩa và khái niệm cơ bản một cách hợp lý và chính xác về các vấn đề liên
quan nói trên sẽ góp phần không nhỏ trong công tác quản lý nhà nước và kỹ thuật – công nghệ,
cũng như thực hiện luật pháp một cách chặt chẽ.
Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt

hoặc hoạt động khác (Luật Bảo vệ Môi trường, 11-2005).
Thực tế quản lý chất thải tại thành phố Hồ Chí Minh trong nhiều năm qua đòi hỏi phải xem xét lại
định nghĩa này, nhất là khi cả thế giới đang có xu hướng tăng cường hoạt động tái chế và quản lý
chất thải chặt chẽ hơn.
Trong chất thải (hiểu theo nghĩa hiện nay), có nhiều chất có thể tái sử dụng một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp cho một hoặc nhiều đối tượng sử dụng khác. Vì vậy định nghĩa về chất thải cần được
hiểu như sau, các chất có thể sử dụng trực tiếp cho một hoặc nhiều ngành sản xuất khác để sản
xuất ra sản phẩm thì phải được xem là nguyên liệu, còn các chất chỉ có thể sử dụng làm nguyên
liệu sau một hoặc một số quá trình xử lý (tái chế) thì bị xem là chất thải. Các chất thải này gọi là
các chất thải có khả năng tái chế. Về nguyên tắc, tất cả các chất thải đều có khả năng tái sử dụng
hoặc tái chế.
Ví dụ, chất thải rắn xây dựng (hiểu theo nghĩa hiện nay) nếu sử dụng phần gạch, đá, bê tông, … để
sản xuất vật liệu xây dựng (như gạch không nung) với công nghệ và thiết bị sử dụng như khi dùng
nguyên liệu là đá, cát, xi măng, thì không coi là chất thải rắn mà là nguyên liệu. Bia quá hạn sử
dụng nhưng vẫn đủ chất lượng để sản xuất dấm ăn thì không coi là chất thải lỏng mà là nguyên
liệu sản xuất dấm ăn. Trong khi đó dầu thải muốn sử dụng lại phải qua các công đoạn xử lý như
tách nước, lọc cặn, … rồi mới sử dụng cho mục đích bôi trơn hoặc chạy máy thì bị coi là chất thải
hoặc chất thải có khả năng tái chế, nhưng nếu sử dụng trực tiếp đốt trong lò hơi để sản xuất hơi
nước sử dụng cho phát điện hoặc sấy khô thì có thể coi là nguyên liệu sản xuất.
7
Về mặt vật lý, định nghĩa về Chất thải theo Luật Bảo vệ môi trường (2005) chưa đề cập đến các
loại vật chất không nằm trong dạng rắn, lỏng và khí. Ví dụ bùn hoặc hỗn hợp các loại trên.
Vì vậy, một cách tổng quát và thực tế, chất thải cần được định nghĩa như sau:
Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí hoặc hỗn hợp các thể trên (bùn – sludge, mud; semi-solid)
được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác của con người mà
không thể sử dụng trực tiếp lại được nữa.
Chất thải được phân thành chất thải nguy hại và chất thải thông thường (Luật Bảo vệ Môi trường,
11-2005).
Chất thải rắn là chất thải ở thể rắn, được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc
các hoạt động khác (Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 09 tháng 04 năm 2007 về Quản lý chất

thải rắn).
Chất thải rắn là tất cả các chất thải, phát sinh từ các hoạt động của con người và động vật, thường
ở dạng dạng rắn và bị đổ bỏ vì không thể trực tiếp sử dụng lại được hoặc không được mong muốn
nữa (Tchobanoglous et al., 1993).
Chất thải rắn sinh hoạt là chất thải rắn phát sinh từ sinh hoạt cá nhân, các khu nhà ở (biệt thự, hộ
gia đình riêng lẻ, chung cư, ...), khu thương mại và dịch vụ (cửa hàng, chợ, siêu thị, quán ăn, nhà
hàng, khách sạn, nhà nghỉ, trạm dịch vụ, ...), khu cơ quan (trường học, viện và trung tâm nghiên
cứu, các cơ quan hành chánh nhà nước, văn phòng công ty, nhà tù, ...), từ các hoạt động dịch vụ
công cộng (quét dọn và vệ sinh đường phố, công viên, khu giải trí, tỉa cây xanh,...), từ sinh hoạt
(ăn uống, vệ sinh, ...) của các cơ sở y tế (phòng khám, trung tâm đa khoa, bệnh viện không lây
nhiễm, …), từ sinh hoạt của cán bộ, công nhân (văn phòng, căn tin, nhà ăn, nhà vệ sinh, …) trong
các cơ sở công nghiệp (khu công nghiệp, nhà máy, cơ sở sản xuất vừa và nhỏ).
Chất thải rắn nguy hại sinh ra từ các nguồn trên được gọi là chất thải rắn sinh hoạt nguy hại.
Chất thải rắn công nghiệp là chất thải rắn phát sinh trong quá trình sản xuất của các khu công
nghiệp, nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ.
Chất thải rắn công nghiệp bao gồm cả chất thải rắn và bùn sinh ra từ hệ thống xử lý chất thải lỏng
và khí thải. Chất thải rắn công nghiệp không bao gồm chất thải rắn sinh hoạt của cán bộ, công
nhân thải ra từ nhà bếp, căntin, nhà vệ sinh, văn phòng, … của các khu công nghiệp, nhà máy, xí
nghiệp, các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ.
Chất thải rắn công nghiệp cũng còn được chia làm hai loại: (1) chất thải rắn không nguy hại, và (2)
chất thải rắn nguy hại, hoặc (1) chất thải rắn có thể tái sử dụng, tái chế, và (2) chất thải rắn không
thể tái sử dụng, tái chế (về khía cạnh kinh tế).
Chất thải rắn phát thải trong sinh hoạt cá nhân, hộ gia đình, nơi công cộng được gọi chung là chất
thải rắn sinh hoạt. Chất thải rắn phát thải từ hoạt động sản xuất công nghiệp, làng nghề, kinh
doanh, dịch vụ hoặc các hoạt động khác được gọi chung là chất thải rắn công nghiệp.
Bùn thải là hỗn hợp chất thải rắn và nước có thành phần đồng nhất trong toàn bộ thể tích, có kích
thước hạt nhỏ hơn 0,1mm và có hàm lượng nước (độ ẩm) từ 70 – 95%.
Bùn thải bao gồm các loại sau: (1) bùn thải từ hệ thống thoát nước thải sinh hoạt/đô thị, bao gồm
mạng lưới thoát nước và trạm/nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt/đô thị; (2) bùn thải từ hệ thống
thoát nước thải công nghiệp, bao gồm mạng lưới thoát nước và trạm/nhà máy xử lý nước thải công

nghiệp; (3) bùn thải từ các nhà máy xử lý nước cấp; (4) bùn thải từ các hoạt động nạo vét kênh
rạch định kì; (5) bùn thải từ bể tự hoại (hầm cầu); (6) bùn thải từ các công trường xây dựng; và (7)
các loại bùn khác.
Sự khác nhau cơ bản giữa bùn thải và chất thải rắn đô thị là tính đồng nhất của loại chất thải. Sự
khác nhau cơ bản giữa bùn thải và nước thải là nồng độ của các chất trong dung dịch. Nếu bùn thải
8
và nước thải được coi là hỗn hợp đồng nhất (homogeneous), thì chất thải rắn đô thị được coi là
hỗn hợp không đồng nhất (heterogeneous). Đó là lí do tại sao khi phân tích thành phần bùn
thải/chất thải lỏng, mẫu bùn/nước chỉ cần dung tích nhỏ (vài mL đến vài trăm mL), mẫu chất thải
rắn cần đến 900 kg.
Chất thải xây dựng là chất thải phát sinh tại các công trường xây dựng, không bao gồm chất thải
phát sinh từ sinh hoạt của công nhân trên công trường. Chất thải xây dựng bao gồm chất thải rắn
xây dựng (gạch, vữa, bê tông, sắt thép, gỗ, đá, đất, cát, …) và bùn thải từ các hố móng.
Chất thải rắn đô thị bao gồm chất thải rắn sinh hoạt, chất thải rắn xây dựng và đập phá (xà bần),
bùn thải từ các bể tự hoại, từ các hoạt động nạo vét cống rãnh và kênh rạch, chất thải rắn và bùn
thải của các nhà máy xử lý (nhà máy xử lý nước cấp, nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt), lò đốt
chất thải rắn sinh hoạt.
Chất thải rắn đô thị thường không đồng nhất. Nhưng các chất thải sau quá trình phân loại thường
đồng nhất và được gọi là phế liệu.
Nói cách khác, trong điều kiện thu gom hiện nay, chất thải rắn đô thị bao gồm chất thải rắn sinh
hoạt của các khu dân cư và hành chính, chất thải rắn sinh hoạt từ các cơ sở y tế không lây nhiễm,
chất thải rắn sinh hoạt từ các cơ sở công nghiệp, chất thải rắn từ các nhà máy xử lý nước và bùn
thải từ hệ thống cống rãnh thoát nước, nạo vét kênh rạch.
Chất thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn, dễ lây
nhiễm, gây ngộ độc hoặc đặc tính nguy hại khác (Luật Bảo vệ Môi trường, 11-2005).
Rõ ràng và chi tiết hơn, chất thải nguy hại có thể được định nghĩa như sau:
Chất thải nguy hại là chất thải hoặc hợp chất của các chất thải rắn, do khối lượng, nồng độ hoặc do
tính chất vật lý, hoá học hoặc lây nhiễm có thể:
(A) gây hoặc góp phần đáng kể làm tăng số lượng tử vong hoặc làm tăng các bệnh nguy hiểm.
(B) gây nguy hại đến sức khỏe con người hoặc môi trường khi không được xử lý, lưu trữ, vận

chuyển, đổ bỏ, hoặc quản lý không hợp lý
Chất thải nguy hại là các loại chất thải (rắn, bùn, lỏng và các loại khí đóng bình) trừ các chất thải
phóng xạ (và lây nhiễm), do hoạt tính hóa học của chúng hoặc tính chất độc hại, cháy nổ, ăn mòn,
hoặc các tính chất khác, gây nên mối nguy hiểm hoặc tương tự đến sức khỏe hoặc môi trường, dù
đơn độc hay tiếp xúc với các chất thải khác.
Như vậy, chất thải nguy hại là chất thải có một trong bốn tính chất dễ cháy (ignitable), ăn mòn
(corrosive), phản ứng (reactive), hoặc độc hại (toxic) (LaGrega et. al., 2001):
Chất thải dễ cháy (Ignitable wastes): các chất thải dễ cháy là các chất lỏng có nhiệt độ chớp cháy
nhỏ hơn 60
o
C hoặc chất rắn có khả năng gây cháy ở nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn.
Chất thải ăn mòn (Corrosive wastes): các chất thải ăn mòn là các chất thải lỏng có pH thấp hơn 2
hoặc trên 12,5, hoặc ăn mòn thép ở tốc độ hơn 0,25 inches/năm.
Chất thải phản ứng (Reactive wastes): các chất thải phản ứng thường là các chất không ổn định,
phản ứng mãnh liệt với nước hoặc không khí, hoặc tạo thành hỗn hợp có khả năng nổ với nước.
Loại chất thải này cũng bao gồm các chất thải có thể bốc khói khi trộn với nước và các chất có thể
gây cháy nổ.
Chất độc (Toxicity): tính chất của chất độc khó xác định hơn. Mục đích của thông số này là để xác
định xem các thành phần độc hại trong mẫu chất thải rắn sẽ thấm vào nước ngầm nếu chất thải
được đặt trong bãi chôn lấp chất rắn đô thị.
Chất thải có thể cháy được là các loại chất thải có nhiệt lượng lớn hơn 1.500 kcal/kg. Về nguyên
tắc tất cả các chất hữu cơ và các chất không hữu cơ có khả năng bị oxy hóa (bằng oxy O
2
) đều là
các chất có thể cháy được. Chất hữu cơ càng bền vững nhiệt lượng càng cao.
9
Chất thải rắn y tế là chất thải rắn sinh ra từ các cơ sở y tế (bệnh viện, trung tâm chuyên khoa, trung
tâm y tế, phòng khám đa khoa, trạm y tế, phòng khám tư nhân, nhà thuốc, ...)
Chất thải y tế có thể được chia làm các loại sau:
1. Chất thải lâm sàng

Chất thải lâm sàng gồm 5 nhóm:
Nhóm A: là chất thải nhiễm khuẩn, bao gồm: những vật liệu bị thấm máu, thấm dịch, các chất bài
tiết của người bệnh như băng, gạc, bông, găng tay, bột bó, đồ vải, các túi hậu môn nhân tạo, dây
truyền máu, các ống thông, dây và túi đựng dịch dẫn lưu...
Nhóm B: là các vật sắc nhọn, bao gồm bơm tiêm, kim tiêm, lưỡi và cán dao mổ, đinh mổ, cưa, các
ống tiêm, mảnh thủy tinh vỡ và những vật liệu có thể gây ra các vết cắt hoặc chọc thủng, cho dù
chúng có thể bị nhiễm khuẩn hoặc không nhiễm khuẩn.
Nhóm C: là chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao phát sinh từ các phòng xét nghiệm, bao gồm găng
tay, lam kính, ống nghiệm, bệnh phẩm sau khi sinh khiết/xét nghiệm/nuôi cấy, túi đựng máu,…
Nhóm D: là chất thải dược phẩm bao gồm:
- Dược phẩm quá hạn, dược phẩm bị nhiễm khuẩn, dược phẩm bị đổ, dược phẩm không còn
nhu cầu sử dụng.
- Thuốc gây độc tế bào.
Nhóm E: là các mô và cơ quan người - động vật, bao gồm: tất cả các mô của cơ thể (dù bị nhiễm
khuẩn hay không nhiễm khuẩn); các cơ quan, tay, chân, nhau thai, bào thai, xác xúc vật (có thể gọi
nhóm chất thải này là bệnh phẩm).
2. Chất thải phóng xạ
Chất thải phóng xạ là chất thải có hoạt độ riêng giống như các chất phóng xạ. Tại các cơ sở y tế
chất thải phóng xạ phát sinh tại các hoạt động chuẩn đoán, hóa trị liệu và nghiên cứu. Chất thải
phóng xạ bao gồm chất thải rắn, lỏng và khí.
Chất thải phóng xạ rắn: bao gồm các vật liệu sử dụng trong xét nghiệm, chuẩn đoán, điều trị như
ống tiêm, kim tiêm, kính bảo hộ, giấy thấm, gạc sát khuẩn, ống nghiệm, chai lọ đựng hóa chất,...
Chất thải phóng xạ lỏng: bao gồm dung dịch có chứa nhân phóng xạ phát sinh trong quá trình
chuẩn đoán, điều trị như nước tiểu của người bệnh, các chất bài tiết, nước xúc rửa các dụng cụ có
chứa phóng xạ,...
Chất thải phóng xạ khí: bao gồm các chất khí dùng trong lâm sàng như
133
Xe, các khí thoát ra từ
các kho chứa chất phóng xạ,...
3. Chất thải hóa học

Chất thải hóa học bao gồm các chất thải rắn, lỏng, khí. Chất thải hóa học trong các cơ sở y tế
được chia thành hai loại:
Chất thải hóa học không gây hại như đường, acid béo, một số muối vô cơ và hữu cơ.
Chất thải hóa học gây nguy hại, bao gồm:
- Formaldehyde: được sử dụng trong khoa giải phẫu bệnh, lọc máu, ướp xác và dùng
bảo quản các mẫu xét nghiệm ở một số khoa khác.
- Các hóa chất quang hóa học: có trong các dung dịch cố định và tráng phim.
- Các dung môi bao gồm: các hợp chất halogen như methylene chloride, chloprofom,
freons, trichloro ethylen, các thuốc mê bốc hơi như halothane; các hợp chất không có halogen như
xylen, acetone, isopropanol, toluen, ethyl acetate và acetonitrile.
10
- Oxit ethylen - Oxit ethylen được sử dụng để tiệt khuẩn các thiết bị y tế, các phòng
phẫu thuật nên được đóng thành bình và gắn với thiết bị tiệt khuẩn. Loại khí này có thể gây ra
nhiều độc tính và có thể gây ra ung thư ở người.
- Các chất hóa học hỗn hợp: bao gồm các dung dịch làm sạch và khử khuẩn như
phenol, dầu mỡ và các dung môi làm vệ sinh,...
4. Các bình chứa khí có áp suất
Các cơ sở y tế thường có các bình chứa khí có áp suất như bình đựng oxy, CO
2
, bình gas, bình khí
dung, và các bình chứa khí dùng một lần. Các bình này dễ cháy, nổ khi thiêu đốt vì vậy phải thu
gom riêng.
5. Chất thải sinh hoạt có và không có vi sinh vật lây nhiễm
Chất thải không bị nhiễm các yếu tố nguy hại: phát sinh từ các buồng bệnh, phòng làm việc, hành
lang, các bộ phận cung ứng, nhà kho, máy giặt, nhà ăn, ... bao gồm: giấy bó, tài liệu, vật liệu đóng
gói, thùng carton, túi nylon, túi đựng phim, vật liệu gói thực phẩm, thức ăn dư thừa của người
bệnh và rác quét dọn từ sàn nhà, ...
Chất thải ngoại cảnh: lá cây và rác từ khu vực ngoại cảnh,...
Như vậy, trong các cơ sở y tế chất thải rắn có thể được phân loại thành chất thải rắn y tế nguy hại
và chất thải rắn sinh hoạt.

- Chất thải rắn y tế gồm có chất thải lâm sàng, chất thải phóng xạ rắn, chất thải hoá học rắn,
các bình chứa khí có áp suất dùng một lần và chất thải sinh hoạt lây nhiễm.
- Chất thải rắn sinh hoạt là chất thải không bị nhiễm các yếu tố nguy hại, phát sinh từ các
buồng bệnh, phòng làm việc, hành lang, các bộ phận cung ứng, nhà kho, máy giặt, nhà ăn,... bao
gồm: giấy bó, tài liệu, vật liệu đóng gói, thùng carton, túi nylon, túi đựng phim, vật liệu gói thực
phẩm, thức ăn dư thừa của người bệnh và rác quét dọn từ sàn nhà, ...
- Các bình chứa khí tại các cơ sở y tế không do các cơ sở y tế xử lý. Sau khi dùng hết khí, đơn
vị y tế trả lại cho công ty sản xuất.
Theo quy chế quản lý chất thải y tế, màu sắc túi, hộp và thùng đựng chất thải phát sinh trong các
cơ sở y tế được quy định như sau:
- Túi nylon màu vàng: đựng chất thải lâm sàng;
- Túi nylon màu xanh: đựng chất thải sinh hoạt;
- Túi nylon màu đen: đựng chất thải hóa học, chất thải phóng xạ, thuốc gây độc tế bào;
- Vật sắc nhọn đựng trong hộp bằng vật liệu cứng màu vàng.
- Các túi, hộp và thùng có màu trên chỉ được sử dụng để dựng chất thải và không dùng vào
các mực đích khác.
Các thành phần chính trong chất thải rắn y tế là: bông, gạc, plastic, thuỷ tinh, giấy, cao su (găng
tay y tế và dây truyền dịch, các ống thông,…), gỗ, kim loại, mốp xốp, vải, bột băng, bệnh phẩm,
hoá chất, thực phẩm lây nhiễm,…
Dây rác là một tuyến thu gom chất thải rắn trong các khu dân cư với số lượng các hộ (nguồn) phát
sinh chất thải rắn xác định do 01 tổ (người) thu gom thực hiện trong một thời gian xác định.
Theo qui định của thành phố, số lượng hộ (nguồn) thu gom trong một dây rác không được vượt
quá 190 hộ. Tuy nhiên, một tổ (người) thu gom rác có thể thực hiện 2-3 dây rác trong một ngày và
một “đầu nậu” có thể quản lý 5-7 dây rác. Với phí thu gom rác khoảng 15.000-20.000 đ/hộ, một
dây rác có số thu khoảng 2 – 3 triệu đồng/tháng, sau khi nộp cho “đầu nậu” khoảng 01 triệu, thu
nhập của người làm công, kết hợp với tiền bán phế liệu phân loại và thu gom được, khoảng 2,0-3,0
triệu đ/tháng. Trong khi đó, thu nhập hàng tháng của các “đầu nậu” có khi lên đến hàng chục triệu
đồng và đây cũng là lý do công ty TNHH MTV DVCI của một số quận trung tâm, do muốn quản
11
lý tốt chất lượng vệ sinh của mặt tiền đường, đã phải “mua lại” dây rác của các “đầu nậu” với giá

hàng chục cây vàng.
Phế liệu là sản phẩm, vật liệu bị loại ra từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng (sau khi sử dụng trong
sinh hoạt, làm việc) được (phân loại và) thu hồi để (sử dụng lại – trực tiếp) hoặc để dùng làm
nguyên liệu sản xuất (Luật Bảo vệ Môi trường, 11-2005).
Phế liệu bao gồm:
a) Nguyên liệu thứ phẩm là nguyên liệu không đáp ứng yêu cầu về qui cách, phẩm chất để sản xuất
một loại sản phẩm nhất định nhưng có thể được gia công để sản xuất lại sản phẩm ấy hoặc để sản
xuất các loại sản phẩm khác;
b) Nguyên liệu vụn là nguyên liệu được (bị) loại ra của một quá trình sản xuất (đầu mẩu, đầu tấm,
đầu cắt, phoi, sợi rối, mảnh vụn);
c) Vật liệu tận dụng là vật liệu đồng nhất về chất được tháo dỡ, bóc tách, thu hồi từ sản phẩm đã
qua sử dụng hoặc từ thứ phẩm, phế phẩm
Như vậy, các loại sản phẩm không đáp ứng (đạt) yêu cầu về qui cách tại các kho lưu giữ hàng hóa,
cửa hàng bán sỉ, lẻ, … phải chuyển trả về nhà máy để sửa chữa và tái chế thì là phế liệu và không
coi là chất thải.
Plastic bao gồm:
● PVC – Polyvinyl Chloride;
● PET – Polyethylene terephthalate
● HDPE – High-density polyethylene
● LDPE – Low- density polyethylene
● PP – Polypropylene
● PS – Polystyrene
● Các loại vật liệu plastic nhiều lớp khác.
Tái chế là quá trình biến đổi chất thải hoặc phế liệu trở thành vật chất hữu ích để tiếp tục sử dụng
hoặc làm nguyên liệu sản xuất.
Xử lý chất thải là một quá trình hoặc tập hợp các quá trình biến đổi chất thải có khả năng gây ô
nhiễm thành các chất không gây ô nhiễm môi trường hoặc gây ô nhiễm ít hơn.
Công nghệ xử lý (tái chế) là tập hợp các quá trình, phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết,
công cụ, phương tiện theo một trình tự nhất định được sử dụng để xử lý (tái chế) chất thải nhằm
bảo đảm các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sản phẩm (nguyên liệu) và môi trường.

Dịch vụ môi trường là hoạt động bảo vệ môi trường do tổ chức, cá nhân thực hiện vì lợi ích của tổ
chức cá nhân khác, có thu phí hoặc không thu phí theo qui định của pháp luật.
Xã hội hóa là quá trình chuyển giao để khu vực dân sự (ngoài nhà nước) "gánh đỡ" những công
việc trước đây do Nhà nước làm hoặc "quán tính" của tư duy cũ vẫn cho rằng đúng ra Nhà nước
phải làm.
Tiêu chí là tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự vật, một khái niệm.
(Nguồn: từ điển VDict)
Tiêu chuẩn là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý dùng làm chuẩn để phân loại, đánh
giá sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh
tế - xã hội nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đối tượng này (Luật Tiêu chuẩn và qui
chuẩn kỹ thuật, 2006).
Qui chuẩn là quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội
12
phải tuân thủ để bảo đảm an toàn, vệ sinh, sức khoẻ con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi
trường; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu
khác (Luật Tiêu chuẩn và qui chuẩn kỹ thuật, 2006).
Hệ thống kỹ thuật – công nghệ quản lý chất thải là cấu trúc hạ tầng của một đô thị bao gồm toàn
bộ các thiết bị, công trình, cơ sở hạ tầng, qui trình được áp dụng để phân loại, tồn trữ, thu gom,
trung chuyển và vận chuyển, tái sử dụng và tái chế, xử lý và chôn lấp đạt tiêu chuẩn môi trường.
Hệ thống quản lý Nhà nước là cấu trúc thượng tầng của một đô thị bao gồm tổ chức, nhân lực, vật
lực và hệ thống văn bản pháp luật để điều hành hoạt động của một đô thị.
Khu vực dân cư là khu vực sinh sống của người dân đô bao gồm biệt thự, nhà phố (hộ gia đình)
riêng lẻ, nhà phố nhiều hộ, chung cư cao tầng, trung bình và thấp tầng.
Khu vực thương mại là khu vực cửa hàng, nhà hàng/cửa hàng ăn uống, chợ/siêu thị, văn phòng
làm việc, khách sạn, nhà nghỉ, cửa hàng/cửa hiệu dịch vụ, trạm sửa chữa và bảo trì xe máy.
Khu vực cơ quan là khu vực trường học, bệnh viện, nhà tù và cơ quan Nhà nước.
Dịch vụ đô thị (công cộng) là dịch vụ thiết yếu đối với đời sống, kinh tế, xã hội của đất nước,
cộng đồng dân cư của một khu vực lãnh thổ hoặc bảo đảm quốc phòng, an ninh mà việc sản xuất,
cung cấp theo cơ chế thị trường thì khó có khả năng bù đắp chi phí đối với doanh nghiệp sản xuất,

cung ứng dịch vụ này, do đó được Nhà nước đặt hàng, giao kế hoạch, đấu thầu theo giá hoặc phí
do Nhà nước quy định (Luật Doanh nghiệp, 2003).
Hay nói một cách ngắn gọn dịch vụ công cộng là các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu công cộng của
đô thị, như vệ sinh, cấp nước, thoát nước, … mà trước đây thường được cho là chỉ có công ty nhà
nước thực hiện.
Phát triển bền vững là “Phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại
đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hoà
giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường” (Luật Bảo vệ môi trường,
2005).
Hoặc “Sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại cho việc
đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau” (Nguyễn Tấn Dũng, 2010).
Quản lý chất thải là hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử
lý, tiêu hủy, thải loại chất thải (Luật Bảo vệ môi trường, 2005).
Quản lý môi trường, theo định nghĩa chung, “Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật
pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và
phát triển bền vững kinh tế xã hội quốc gia”
Quản lý Nhà nước
Nội dung công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực môi trường của Việt Nam được thể hiện trong
các Điều, Khoản của Luật Bảo vệ Môi trường, gồm các điểm:
1. Ban hành và tổ chức việc thực hiện các văn bản pháp quy về bảo vệ môi trường, ban hành hệ
thống tiêu chuẩn môi trường.
2. Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường, kế hoạch phòng chống,
khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường.
3. Xây dựng, quản lý các công trình bảo vệ môi trường, các công trình có liên quan đến bảo vệ môi
trường.
4. Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường, dự báo
diễn biến môi trường.
5. Thẩm định các báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và các cơ sở sản xuất kinh
doanh.
13

6. Cấp và thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường.
7. Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường, giải quyết các
khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về bảo vệ môi trường, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
8. Ðào tạo cán bộ về khoa học và quản lý môi trường.
9. Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
10. Thiết lập quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Quản lý chính sách là các hoạt động soạn thảo chiến lược, qui hoạch, chương trình, kế hoạch hành
động và văn bản pháp luật làm cơ sở cho các hoạt động quản lý. Thực hiện công tác quản lý chính
sách yêu cầu các cán bộ có trình độ khoa học (kỹ thuật-công nghệ và quản lý) cao và có kinh
nghiệm lâu năm trong nhiều lĩnh vực. Hoạt động này cần nhân lực hơn là cơ sở vật chất, thiết bị
kỹ thuật hỗ trợ. Hoạt động này thường được thực hiện chủ yếu ở cấp Trung ương và thành phố với
sự hỗ trợ (góp ý) của các quận/huyện và phường/xã.
Quản lý điều hành là các hoạt động thực hiện chương trình, kế hoạch hành động. Ví dụ thực hiện
các chương trình quan trắc, kiểm tra, giám sát, thông tin, tuyên truyền, xây dựng qui trình vận
hành, giải quyết khiếu nại, … Hoạt động này diễn ra ở cả cấp Trung ương, thành phố, quận/huyện
và phường/xã với các mức độ và trình độ khác nhau. Trung ương và thành phố thường quản lý các
chương trình và kế hoạch hành động lớn, cần sự phối hợp đồng bộ giữa các địa phương và các sở
ban ngành. Các quận/huyện và phường xã quản lý các vần đề cụ thể.
Công cụ quản lý môi trường là các biện pháp hành động thực hiện công tác quản lý môi trường
của nhà nước, các tổ chức khoa học và sản xuất. Mỗi một công cụ có một chức năng và phạm vi
tác động nhất định, liên kết và hỗ trợ lẫn nhau.
Công cụ quản lý môi trường có thể phân loại theo chức năng gồm: (1) công cụ điều chỉnh vĩ mô,
(2) công cụ hành động và (3) công cụ hỗ trợ. Công cụ điều chỉnh vĩ mô là luật pháp và chính sách.
Công cụ hành động là các công cụ có tác động trực tiếp tới hoạt động kinh tế - xã hội, như các quy
định hành chính, quy định xử phạt v.v... và công cụ kinh tế. Công cụ hành động là vũ khí quan
trọng nhất của các tổ chức môi trường trong công tác bảo vệ môi trường. Thuộc về loại này có các
công cụ kỹ thuật như GIS, mô hình hoá, đánh giá môi trường, kiểm toán môi trường, quan trắc môi
trường.
Công cụ quản lý môi trường có thể phân loại theo bản chất thành các loại cơ bản sau:
- Công cụ luật pháp chính sách bao gồm các văn bản về luật quốc tế, luật quốc gia, các văn

bản khác dưới luật, các kế hoạch và chính sách môi trường quốc gia, các ngành kinh tế, các địa
phương.
- Các công cụ kinh tế gồm các loại thuế, phí đánh vào thu nhập bằng tiền của hoạt động sản
xuất kinh doanh. Các công cụ này chỉ áp dụng có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường.
- Các công cụ kỹ thuật quản lý thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát nhà nước về chất lượng
và thành phần môi trường, về sự hình thành và phân bố.
1.5 SỰ CẦN THIẾT CỦA QUI HOẠCH TỔNG THỂ (ĐỊNH HƯỚNG) HỆ THỐNG
QUẢN LÝ CHẤT THẢI
Về nguyên tắc, trong công tác quản lý lãnh thổ (địa phương/quốc gia) nói chung và đô thị/thành
phố nói riêng, các chiến lược phát triển và bảo vệ đất nước (kinh tế - xã hội - môi trường, đối
ngoại, quốc phòng, …) phải được xây dựng trước tiên với các giai đoạn phát triển xác định (20-30
năm hoặc lâu hơn nữa, 50-100 năm) trên cơ sở các mục tiêu, điều kiện và tiềm năng cụ thể, tiếp
theo sau là các qui hoạch tổng thể quốc gia/địa phương và qui hoạch lĩnh vực/chuyên ngành (hoặc
ngược lại theo một số quan điểm, xây dựng qui hoạch địa phương hoặc chuyên ngành phải được
14
thực hiện trước, qui hoạch quốc gia hoặc lĩnh vực sẽ được thực hiện sau trên cơ sở các qui hoạch
trên) với các chương trình và kế hoạch hành động cụ thể cho các giai đoạn 1 năm, 2 năm và 5 năm.
Quản lý môi trường là lĩnh vực mới trong công tác quản lý đô thị ở Việt Nam nói chung và thành
phố Hồ Chí Minh nói riêng. Trong đó, quản lý chất thải mới chỉ được quan tâm trong những năm
gần đây. Vì vậy, mặc dù Chiến lược Quản lý Môi trường thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 đã
được phê duyệt năm 2002, Chiến lược Bảo vệ Môi trường Quốc gia đến năm 2015, tầm nhìn đến
năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2003, Chiến lược quốc gia về quản lý
tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt theo Quyết định số 2149/QĐ – TTg ngày 17 tháng 12 năm 2009, nhưng cho đến nay
(11/2011) chỉ có một số ít địa phương lập qui hoạch quản lý chất thải rắn sinh hoạt, nhưng ở mức
độ đơn giản và tập trung vào qui hoạch hệ thống kỹ thuật (khu xử lý và chôn lấp vệ sinh), chưa có
địa phương nào xây dựng Qui hoạch tổng thể.
Với qui mô lớn thứ hai về diện tích, đông dân nhất và có tốc độ phát triển kinh tế, tốc độ công
nghiệp hóa và đô thị hóa cao nhất Việt Nam, đồng thời là trung tâm của cả vùng và khu vực về
nhiều mặt, thành phố Hồ Chí Minh đang là nơi phát sinh lớn nhất và tiếp nhận từ các tỉnh lận cận,

quốc tế một khối lượng đáng kể các loại chất thải, đặc biệt là chất thải rắn công nghiệp và chất thải
công nghiệp nguy hại, đây cũng là nơi có số lượng các cơ sở tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải
nhiều nhất của cả nước. Mặc dù các hoạt động phân loại chất thải rắn tại nguồn, thu gom và vận
chuyển, tái sử dụng và tái chế, xử lý trong thời gian qua đã đóng góp đáng kể cho sự nghiệp bảo vệ
môi trường, phát triển bền vững công nghiệp, kinh tế và xã hội, nhưng toàn bộ hệ thống đang hoạt
động một cách thiếu kế hoạch lâu dài, bộ máy quản lý nhà nước hoạt động chưa có định hướng rõ
ràng, thiên về giải quyết sự vụ, chưa tạo điều kiện và hỗ trợ cho các doanh nghiệp hoạt động, công
nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt vẫn chủ yếu là chôn lấp vệ sinh tiêu tốn đất đai, gây mùi và nước
rỉ rác, thành phố chưa có các khu xử lý tập trung cho chất thải nguy hại, đặc biệt thiếu bãi chôn lấp
an toàn (secure landfill), …, hệ thống văn bản pháp luật, đặc biệt là qui chuẩn/tiêu chuẩn còn thiếu
rất nhiều, định hướng áp dụng công nghệ mới (thông tin) vào hệ thống quản lý còn yếu, chưa có
các chính sách khuyến khích các hoạt động tái sử dụng và tái chế, … Vì vậy, việc xây dựng Qui
hoạch tổng thể hệ thống quản lý chất thải, bao gồm cả hệ thống kỹ thuật và hệ thống quản lý Nhà
nước, sẽ là bước tiếp theo để thực hiện Chiến lược quản lý chất thải, góp phần phát triển bền vững
thành phố Hồ Chí Minh, “Hòn Ngọc Viễn Đông” của Việt Nam.
Tuy nhiên, việc thực hiện Qui hoạch Hệ thống quản lý chất thải rắn theo hướng dẫn của Bộ Xây
dựng sẽ gặp nhiều khó khăn vì những lý do sau đây:
- Cơ sở (ngân hàng) số liệu về các loại chất thải của thành phố nói riêng và của cả nước nói
chung không đầy đủ hoặc thiếu hoàn toàn do kinh phí không đầy đủ và thiếu chương trình điều tra
tổng thể (ví dụ, chất thải rắn xây dựng, bùn thải, …) để có thể tính toán và dự đoán nguồn thành
phần, khối lượng và công nghệ tái chế, xử lý chất thải trong tương lai (gần và xa) nhằm phục vụ
qui hoạch.
- Thành phần và khối lượng chất thải bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố khách quan (các
tỉnh/thành lân cận, các dự án, sự phát triển kinh tế trong vùng, khu vực và thế giới, …) sẽ làm ảnh
hưởng (sai lệch) lớn đến kết quả dự đoán.
- Các qui hoạch tổng thể và chuyên ngành của thành phố và quốc gia bị điều chỉnh liên tục.
- Trình độ kỹ thuật và công nghệ trong lĩnh vực xử lý môi trường nói chung và tái chế, xử lý
chất thải nói riêng phát triển nhanh chóng.
- Các quan điểm và kiến thức về khoa học quản lý môi trường liên tục được cập nhật. Đặc
biệt, quản lý chất thải rắn là một trong các mục tiêu quan trọng hàng đầu của Chương trình ứng

15
phó Biến đổi khí hậu toàn thế giới và của Tổ chức Nhóm lãnh đạo về khí hậu của các thành phố
lớn trên thế giới.
- Qui hoạch truyền thống thường “cứng nhắc” và mỗi lần thay đổi sẽ tốn nhiều công sức, thời
gian và thủ tục hành chính.
- Hướng dẫn của Bộ Xây dựng chỉ đề cập đến chất thải rắn thông thường và chỉ tập trung vào
các công trình, nhà máy, khu liên hợp xử lý chất thải rắn. Trong khi đó hệ thống quản lý Nhà nước
đóng vai trò quyết định đến hiệu quả của công tác quản lý đô thị.
- Đánh giá tác động môi trường chiến lược sẽ cần một khoản kinh phí khá lớn và thời gian
thích hợp. Trong khi đó các Khu liên hợp tái chế và xử lý chất thải tại thành phố Hồ Chí Minh đã
được xác định rõ ràng về mặt vị trí, về các vấn đề môi trường sẽ nảy sinh và các biện pháp giảm
thiểu sau gần 20 năm quản lý. Hơn nữa, mỗi dự án đầu tư vào hệ thống quản lý chất thải đều phải
xây dựng Báo cáo Đánh giá tác động môi trường và cấp phê duyệt là Tổng cục Môi trường theo ủy
quyền của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Vì những lý do trên, đồng thời theo xu hướng trên thế giới và nhiều lĩnh vực tại Việt Nam đã thực
hiện về Qui hoạch định hướng một cách mểm dẻo linh hoạt, nhưng đảm bảo các yếu tố “bất di bất
dịnh”, như bảo vệ môi trường, tái chế ở mức độ cao nhất, “phát thải cacbon thấp, tăng trưởng
xanh”, … đồng thời đáp ứng được các điều kiện cụ thể của thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, như
giảm chi phí công, thiếu cán bộ, cơ sở dữ liệu chưa đầy đủ, các hoạt động trong lĩnh vực quản lý
chất thải ngày càng được xã hội hóa toàn diện, đã có kinh nghiệm hơn 25 năm quản lý môi trường,
gần 20 năm kinh nghiệm trong quản lý chất thải sinh hoạt, 8 năm quản lý nhà nước trong lĩnh vực
chất thải công nghiệp và chất thải nguy hại, … Qui hoạch tổng thể hệ thống quản lý chất thải thành
phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, hướng đến Hệ thống quản lý xanh
(Green Management System), theo phương án Qui hoạch định hướng, tập trung vào việc xây dựng
các phương án dự phòng, được kiến nghị thực hiện.
Mục tiêu qui hoạch
Mục tiêu Qui hoạch tổng thể Hệ thống quản lý chất thải của thành phố Hồ Chí Minh được xác
định dựa trên cơ sở sau:
1. Chiến lược quản lý môi trường thành phố Hồ Chí Minh năm 2015, tầm nhìn 2020 (2002)
2. Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2015, tầm nhìn 2020 (2004).

3. Quyết định số 1440/QĐ-TTg ngày 06/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
quy hoạch xây dựng khu xử lý chất thải rắn 3 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Trung và phía
Nam đến năm 2020.
4. Quyết định số 2149/QĐ-TTg ngày 17/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt
Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050.
5. Quy hoạch chung xây dựng thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025 (đã được phê duyệt)
6. Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025 (đã được phê
duyệt).
bao gồm:
Mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
Lưu giữ, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng và tái chế, xử lý và chôn lấp vệ sinh/an toàn 100%
lượng chất thải phát sinh trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và vận chuyển từ các tỉnh/thành phố
khác về thành phố với công nghệ ngày càng hiện đại, tiêu tốn ít hoặc tái sinh năng lượng, nguyên
liệu cao nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh, sản xuất công nghiệp/nông
nghiệp và kêu gọi đầu tư.
Mục tiêu kinh tế
16
Xây dựng hệ thống phân loại chất thải rắn tại nguồn, thu gom và vận chuyển, tái sử dụng và tái
chế các loại chất thải và phế liệu, xử lý và chôn lấp vệ sinh/an toàn với hiệu quả kinh tế cao nhất,
có khả năng tự đầu tư và sinh lợi cho các doanh nghiệp. Giảm việc sử dụng các nguồn tài nguyên
không tái tạo. Hoàn thiện hệ thống quản lý Nhà nước với chi phí thấp nhất. Thành lập thị trường
trao đổi chất thải và phế liệu.
Mục tiêu xã hội
Tạo công việc ổn định cho 18.000 – 20.000 lao động của thành phố. Xây dựng ý thức sử dụng
hợp lý và tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là các nguồn tài nguyên không tái
tạo, và năng lượng. Xây dựng ý thức làm việc và bảo vệ môi trường theo pháp luật cho toàn xã
hội.
Mục tiêu quản lý nhà nước
Hoàn thiện cấu trúc tổ chức nhà nước với khả năng hoạt động đồng bộ (phối hợp) cao nhất, đội
ngũ cán bộ có trình độ cao và số lượng nhỏ nhất, hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật – công nghệ

hỗ trợ, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật quản lý chất thải và khuyến khích các hoạt động tái
sử dụng và tái chế.
Giới hạn qui hoạch
Qui hoạch này giới hạn trong lĩnh vực quản lý chất thải trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, bao
gồm:
Loại chất thải
1. Chất thải rắn sinh hoạt/đô thị (thông thường) và chất thải sinh hoạt nguy hại;
2. Chất thải rắn công nghiệp và chất thải công nghiệp nguy hại;
3. Chất thải rắn y tế và chất thải y tế nguy hại;
4. Chất thải rắn xây dựng;
5. Bùn thải, bao gồm:
● Bùn thải từ hệ thống thoát nước thải sinh hoạt, bao gồm mạng lưới thoát nước và trạm
(chung cư hoặc cụm dân cư)/nhà máy xử lý (tập trung) nước thải sinh hoạt;
● Bùn thải từ hệ thống thoát nước thải công nghiệp, bao gồm mạng lưới thoát nước và trạm
(nhà máy)/nhà máy xử lý (khu công nghiệp) nước thải công nghiệp;
● Bùn thải từ hoạt động nạo vét định kì kênh rạch thành phố;
● Bùn thải từ bể tự hoại;
● Bùn thải từ các công trường xây dựng (mud);
● Bùn từ nhà máy xử lý nước cấp;
Lĩnh vực quản lý
1. Hệ thống kỹ thuật – công nghệ, bao gồm:
● Nguồn phát sinh chất thải;
● Thành phần và khối lượng;
● Phân loại và tồn trữ tại nguồn;
● Thu gom (tại nguồn thải và trên đường phố);
● Trung chuyển và vận chuyển;
● Tái chế và xử lý;
● Chôn lấp (vệ sinh và an toàn);
2. Hệ thống quản lý Nhà nước, bao gồm:
● Chức năng và nhiệm vụ;

17
● Cấu trúc tổ chức;
● Nhân lực và cơ sở vật chất – kỹ thuật hỗ trợ;
● Hệ thống văn bản pháp luật;
1.6 PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG QUI HOẠCH
1.6.1 Phương pháp
Qui hoạch hệ thống quản lý chất thải dựa trên các cơ sở sau:
1. Văn bản pháp luật
- Luật Bảo vệ Môi trường (2005) và các Luật có liên quan.
- Chiến lược, qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và các qui hoạch chuyên ngành liên
quan.
- Chiến lược bảo vệ (quản lý) môi trường và Chiến lược quản lý chất thải rắn.
- Hướng dẫn xây dựng qui hoạch cơ sở hạ tầng đô thị và ngành của Bộ Xây dựng.
2. Cơ sở kỹ thuật và công nghệ
- Các qui định, qui chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật công nghệ trong nước.
- Các kỹ thuật và công nghệ trên thế giới.
- Thực tế đang áp dụng tại các nhà máy tái chế và xử lý
3. Các phương pháp khoa học
- Điều tra cơ bản (khảo sát thực tế, bản câu hỏi, internet, số liệu lưu giữ).
- Dự đoán (qui luật theo số liệu thống kê, các biến động theo kinh nghiệm, …)
- Liệt kê và ma trận.
- Hệ thống cổ điển và các định hướng hiện đại.
- Tư vấn chuyên gia.
1.6.2 Tổ chức thực hiện
Trên cơ sở số liệu của Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh và Phòng Quản lý
Chất thải rắn, các đề tài nghiên cứu khoa học của Sở Khoa học và Công nghệ, số liệu báo cáo hàng
năm của các Sở, Ban, Ngành và Công ty TNHH MTV Môi trường đô thị (CITENCO), các công ty
TNHH MTV Dịch vụ công ích (DVCI) từ năm 1995, đặc biệt từ năm 2003 đến nay và đề tài
NCKH “Qui hoạch tổng thể Hệ thống quản lý chất thải rắn công nghiệp và chất thải nguy hại”, báo
cáo “Qui hoạch định hướng Hệ thống quản lý chất thải thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025, tầm

nhìn đến năm 2030, theo hướng Quản lý xanh” được xây dựng với sự tham gia của các cán bộ sau:
1. Hiện trạng và qui hoạch hệ thống quản lý kỹ thuật chất thải rắn sinh hoạt
Ths. Võ Thị Huỳnh Anh, Ths. Nguyễn TrọngNhân,KS. Âu NgọcLiên,KS. Đồng Văn Thanh.
2. Hiện trạng và qui hoạch hệ thống quản lý kỹ thuật chất thải rắn công nghiệp và chất thải
công nghiệp/sinh hoạt nguy hại
Ths. Đỗ Thị Diễm Thúy, Ths. Nguyễn Thị Kim Mến, KS. Nguyễn Quốc Thái
3. Hiện trạng và qui hoạch hệ thống quản lý kỹ thuật chất thải rắn y tế
Ths. Hà Minh Châu,KS. Vương Trọng Nghĩa.
4. Hiện trạng và qui hoạch hệ thống quản lý kỹ thuật chất thải rắn xây dụng và bùn thải
Ths. Lê Mạnh Đệ, TS. Nguyễn Trung Việt.
5. Hiện trạng và qui hoạch hệ thống quản lý Nhà nước
Ths. Lê Minh Tâm, Ths. Lê Trung Tuấn Anh, CN Lưu Thị Giang, Ths. Bùi Bích Tuyền, Ths.
Nguyễn Thị Hòa
6. Thống kê số liệu và xây dựng bản đồ dữ liệu, qui hoạch
18
Ths. Phùng Hoàng Vân, Ths. Phạm Kim Ngân, Ths. Bùi Phan Quỳnh Chi,KS. Trần Thị Diễm
Châu,KS. Nguyễn Tiến Dũng.
7. Tổng hợp
KS. Đào Anh Kiệt, Ths. Nguyễn Văn Phước, TS. Nguyễn Trung Việt
Bên cạnh đó, 4 hội nghị sẽ được tổ chức để tiếp thu các ý kiến đóng góp của:
- Sở, ban, ngành của thành phố và cảnh sát Phòng chống tội phạm môi trường (C49B và
PC49);
- Ủy ban Nhân dân và công ty TNHH MTV DVCI các quận/huyện;
- Tổ chức giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ của thành phố;
- Các công ty hoạt động trong lĩnh vực quản lý chất thải;
- Các tổ chức truyền thông (báo, đài truyền hình, đài phát thanh, …);
- Các tổ chức Chính trị - xã hội;
Chương 2
HIỆN TRẠNG HỆ THỐNG KỸ THUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN
2.1 Hiện trạng hệ thống kỹ thuật quản lý chất thải

2.1.1 Chất thải rắn sinh hoạt/đô thị (thông thường)
Nguồn phát sinh
Nguồn phát sinh chất thải rắn sinh hoạt của thành phố Hồ Chí Minh bao gồm 7 nguồn được thống
kê dưới đây:
Khu vực dân cư là khu vực sinh sống của người dân đô thị bao gồm biệt thự, nhà phố (hộ gia
đình) riêng lẻ, nhà phố nhiều hộ, chung cư cao tầng, trung bình và thấp tầng.
Khu vực cơ quan là khu vực văn phòng công sở (cơ quan nhà nước), văn phòng công ty, trường
học, cơ sở y tế, nhà tù, ….
Khu vực thương mại là khu vực cửa hàng tạp hóa, cửa hàng bán sỉ/lẻ, nhà hàng/cửa hàng ăn
uống, chợ/siêu thị, cửa hàng/cửa hiệu dịch vụ, trạm sửa chữa và bảo trì xe máy.
Khu vực khách sạn, nhà nghỉ là khu vực khách sạn với các cấp (sao) khác nhau, nhà nghỉ, phòng
cho thuê, …
Khu vực công cộng là khu vực sinh hoạt chung của cộng đồng (tập trung đông người) như quảng
trường, công viên, sở thú (vườn bách thảo), tượng đài, khu thể thao, rạp chiếu phim, rạp hát, bến
xe, bến tàu, sân bay, đường phố và vỉa hè, …
Khu vực sản xuất là các cơ sở công nghiệp riêng lẻ hoặc các khu công nghiệp tập trung, khu chế
xuất, khu công nghệ cao và cụm công nghiệp
Khu vực chăm sóc sức khỏe cộng đồng là các bệnh viện, trung tâm y tế dự phòng, trung tâm đa
khoa, …
Mọi hoạt động của người dân thành phố đều phát sinh chất thải rắn sinh hoạt. Các cơ sở công
nghiệp phát sinh chất thải sinh hoạt từ căn tin, phòng vệ sinh, văn phòng, … Các cơ sở y tế phát
sinh chất thải sinh hoạt từ căn tin, nhà bếp cho bệnh nhân, phòng vệ sinh và ngay cả từ các phòng
bệnh ở các khoa/bệnh viện không lây nhiễm. Nguồn phát sinh chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn
thành phố thành phố Hồ Chí Minh rất đa dạng với nhiều qui mô khác nhau. Số liệu của các nguồn
phát sinh chất thải rắn sinh hoạt được thống kê trong Bảng 2.1.
Bảng 2.1 Nguồn phát sinh chất thải rắn sinh hoạt
STT Nguồn thải Số lượng Đơn vị
1 Khu vực dân cư
19
STT Nguồn thải Số lượng Đơn vị

Dân số năm 2010 (chưa tính đến khách vãng lai) 7.396.446 người
Dân số năm 2010 (kể cả khách vãng lai) 9.000.000 người
Số hộ nhà biệt lập (tính trung bình 5 người/hộ) 1.479.289 hộ
Số hộ chung cư (ước tính) 400.000 hộ
2 Khu vực cơ quan 2.591 cơ sở
3 Trường học 2.139
Mầm non 696
Tiểu học 468
Trung học cơ sở (bao gồm cấp 1-2) 272
Trung học phổ thông (bao gồm cấp 2-3) 162
Trung cấp chuyên nghiệp 36
Đại học- Cao đẳng 75
Viện, trung tâm nghiên cứu 430
4 Doanh nghiệp nhà nước 452 cơ sở
5 Khu vực thương mại 346 cơ sở
6 Chợ 218
Chợ do thành phố quản lý 18
Chợ do quận huyện quản lý 200
7 Trung tâm thương mại, siêu thị 128
Trung tâm thương mại 31
Siêu thị (bao gồm SG. Co.op, Big C, siêu thị điện máy,
siêu thị sách và các mặt hàng gia dụng khác)
97
8 Khu vực khách sạn, nhà nghỉ và thương mại 354.661 cơ sở
Nhà hàng- khách sạn 62.500
Du lịch 610
Thương mại – dịch vụ 291.551
9 Khu vực công cộng 734 cơ sở
10 Bưu điện 194
11 Sân bay 01

12 Bến tàu 01
13 Bến xe 5
14 Cảng 10
15 Trung tâm văn hoá nghệ thuật, TDTT, thư viện 523
Sân bóng đá 120
Bể bơi 81
Nhà tập 270
Rạp chiếu phim và video 21
Rạp hát 5
Thư viện (thành phố + quận huyện) 26
16 Khu vực sản xuất 53.601 cơ sở
Thực phẩm và đồ uống 6.583
Thuốc lá 05
20
STT Nguồn thải Số lượng Đơn vị
Dệt, nhuộm 3.345
May mặc 12.123
Thuộc da 2.188
Chế biến gỗ 1.954
Giấy, sản phẩm từ giấy 1.394
Xuất bản, in ấn 2.657
Sản xuất than, sản phẩm dầu mỏ 53
Hóa chất 1.450
Sản phẩm từ cao su 4.369
Sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại 1.310
Sản xuất kim loại 488
Sản phẩm từ kim loại 8.877
Sản xuất trang thiết bị, văn phòng 20
Thiết bị điện tử (radio, tivi...) 443
Dụng cụ y tế, dụng cụ quang học, đồng hồ các loại 352

Xe có động cơ, rơ móc 315
Phương tiện vận tải khác 666
Trang trí, nội thất (giường, tủ, bàn ghế...) 3.579
Tái chế 648
Sản xuất và phân phối điện 3
Khai thác và phân phối nước 167
Công nghiệp khai thác 612
17 Khu vực chăm sóc sức khỏe cộng đồng 12.502 cơ sở
Bệnh viện 185
Trạm y tế phường xã 317
Cơ sở y tế tư nhân khác (bao gồm phòng mạch, phòng
nha, phòng khám đa khoa, chuyên khoa, nhà hộ, chốt
điểm sơ cứu, phòng chẩn đoán cận lâm sàng… - ước tính).
12.000
Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh 2010.
Việc xác định và phân loại các loại nguồn thải có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và thực
hiện các chương trình quản lý chất thải rắn của thành phố, như Chương trình phân loại chất thải
rắn tại nguồn, Chương trình thu phí vệ sinh, Chương trình tuyên truyền, … Số liệu này cần được
cập nhật theo khoảng thời gian xác định qua các nguồn thống kê từ các quận/huyện và các Sở. Bên
cạnh đó, có thể xây dựng bổ sung việc phân loại các loại nguồn thải để phục vụ tốt hơn khi thực
hiện các chương trình trên.
Thành phần và khối lượng
Thành phần
Thành phần chất thải rắn tại một số loại nguồn thải như hộ gia đình, trường học, nhà hàng, khách
sạn được phân tích và thống kê dưới đây.
Hộ gia đình: thành phần chất thải rắn chiếm phần lớn nhất là thực phẩm (giá trị trung bình trên
các mẫu là 61 – 96%), ni lông (0,5 – 13,0%), nhựa (0,5 – 10,0%), giấy (0,7 – 14,2%), thủy tinh
(1,7 – 4,0%), vải (1,0 – 5,1%), xà bần và lá cây (1 – 2%), lon đồ hộp (0,98 – 2,30%), gỗ (0,7 –
21
3,1%). Đặc biệt, thành phần giấy carton (đây là thành phần có giá trị kinh tế cao khi bán giấy phế

liệu) hầu như không xuất hiện trong các mẫu phân tích chất thải rắn từ các hộ dân. Số liệu về thành
phần chất thải rắn sinh hoạt của các hộ gia đình cho thấy, mặc dù hiện nay bản thân các hộ gia
đình đã phân loại để thu hồi phế liệu và bán “ve chai”, nhưng các thành phần có thể tái sinh vẫn
còn đáng kể. Tuy nhiên hầu hết các thành phần có thể tái chế thường bị nhiễm bẩn và có độ ẩm
cao.
Trường học: số liệu phân tích thành phần chất thải rắn phát sinh từ các trường học cho thấy, tại
hầu hết các trường, thành phần có thể tái chế chiếm tỷ lệ khá cao, như ni lông 8,5 – 34,4%, nhựa
3,5 – 18,9% và giấy khoảng 1,5 – 27,5%. Tỷ lệ các thành phần thay đổi tùy thuộc vào cấp học của
học sinh và phương thức sinh hoạt (nội trú, bán trú...).
Trong các mẫu chất thải rắn được phân tích tại các trường học, tỷ lệ phần trăm chất thải rắn thực
phẩm cao nhất tại trường bán trú (23,5 – 75,8%), các trường còn lại có tỷ lệ nhỏ hơn (23,5 –
32,5%). Ngoài ra, khi so sánh tỷ lệ phần trăm chất thải rắn thực phầm thải ra từ các trường học so
với hộ gia đình và chợ, thì trường bán trú có tỷ lệ phần trăm chất thải rắn giống với thành phần của
hộ gia đình hơn.
Nhà hàng, khách sạn: tùy theo quy mô của khách sạn và cách quản lý, thành phần chất thải rắn tại
nhà hàng, khách sạn khác nhau rất lớn. Đối với khách sạn có quy mô lớn hoặc nhà hàng thì hầu
như chất thải rắn đã được phân loại trước khi thải ra ngoài cho dù thành phần đó bán được giá hay
không. Trong khi đó các khách sạn có quy mô nhỏ thì chất thải rắn có hầu hết các thành phần như
hộ gia đình (Bảng 2.2).
Bảng 2.2 Thành phần chất thải rắn của hộ gia đình, trường học, nhà hàng và khách sạn
STT Thành phần
Hộ gia đình Trường học
Nhà hàng và
khách sạn
% (ww) % (ww) % (ww)
1 Thực phẩm 61,0 – 96,6 23,5 – 75,8 79,5 – 100
2 Ni lông KĐK – 13,0 8,5 – 34,4 KĐK – 5,3
3 Nhựa 0,5 – 10,0 3,5 – 18,9 KĐK – 6,0
4 Vải 1,0 – 5,1 1,0 – 3,1 -
5 Cao su mềm KĐK – 0,3 - -

6 Cao su cứng KĐK – 2,8 - -
7 Gỗ 0,7 – 3,1 - -
8 Mốp xốp KĐK – 1,3 1,0 – 2,0 KĐK – 2,1
9 Giấy 0,7 – 14,2 1,5 – 27,5 KĐK – 2,8
10 Thủy tinh 1,65 – 4,0 KĐK – 2,5 KĐK – 1,0
11 Kim Loại 0,9 – 3,3 KĐK -
12 Da - KĐK – 4,2 -
13 Xà bần, đất KĐK – 10,5 - -
14 Sành sứ KĐK – 3,6 - -
15 Carton KĐK – 0,6 - KĐK – 0,5
16 Lon đồ hộp 0,98 – 2 - -
17 Pin - - -
18 Bông gòn KĐK – 2,0 - -
19 Tre, rơm rạ, lá cây1 – 2,0 - -
20 Vỏ sò, xương KĐK – 9,0 - -
22
STT Thành phần
Hộ gia đình Trường học
Nhà hàng và
khách sạn
% (ww) % (ww) % (ww)
động vật
Nguồn: Báo cáo cơ sở dữ liệu quản lý chất thải rắn – 2010 (Sở Tài nguyên và Môi trường).
Ghi chú:
KĐK – không đáng kể khi % theo khối lượng ướt < 0,5%;
ww – trọng lượng ướt (wet weight)
“-“ – không phát hiện
Tại các nguồn thải, chất thải rắn thường “sạch”, dễ phân loại và dễ thu gom, độ ẩm thấp (trừ chất
thải rắn thực phẩm).
Thành phần chủ yếu trong chất thải rắn tại các bãi chôn lấp là chất thải thực phẩm với tỷ lệ khá

cao (83,0 – 88,9% ww). Các thành phần chất thải rắn có khả năng tái chế như plastic, giấy, kim
loại giảm đáng kể do hoạt động phân loại và thu gom phế liệu trong thành phố; phần còn lại ít có
khả năng tái chế, chủ yếu là các chất vô cơ (bùn, đất) (Bảng 2.3).
Bảng 2.3 Thành phần chất thải rắn tại các bãi chôn lấp
STT Thành phần Phước Hiệp(%) Đa Phước(%)
1 Thực phẩm 83,0 – 86,8 83,1 – 88,9
2 Vỏ sò, ốc, cua 0,0 – 0,2 1,1 – 1,2
3 Tre, rơm, rạ 0,3 – 1,3 1,3 – 1,8
4 Giấy 3,6 – 4,0 2,0 – 4,0
5 Carton 0,5 – 1,5 0,5 – 0,8
6 Ni lông 2,2 – 3,0 1,4 – 2,2
7 Nhựa 0,0 – 0,1 0,1 – 0,2
8 Vải 0,2 – 1,8 0,9 – 1,8
9 Da 0 – 0,02 -
10 Gỗ 0,2 – 0,4 0,2 – 0,4
11 Cao su mềm 0,1 – 0,4 0,1 – 0,3
12 Cao su cứng - -
13 Thủy tinh 0,4 – 0,5 0,4 – 0,5
14 Lon đồ hộp - 0,2 – 0,3
15 Kim loại màu 0,1 – 0,2 0,1 – 0,2
16 Sành sứ 0,1 – 0,3 0,1 – 0,2
17 Xà bần 1,2 – 4,5 1,0 – 4,5
18 Tro 0,0 – 1,2 -
19 Mốp xốp (Styrofoam) 0,0 – 0,3 0,2 – 0,3
20 Bông băng, tã giấy 0,9 – 1,1 0,5 – 0,9
21 Chất thải nguy hại (giẻ lau dính dầu, bóng đèn huỳnh
quang)
0,1 – 0,2 0,1 – 0,2
22 Độ ẩm 52,5 – 53,7 52,6 – 53,7
23 VS (% theo khối lượng khô) 81,7 – 82,4 81,7 – 82,4

23
Nguồn: Báo cáo cơ sở dữ liệu quản lý chất thải rắn – 2010 (Sở Tài nguyên và Môi trường
Tp.HCM)
Ghi chú: “-“ thành phần không phát hiện trong mẫu
Kết quả phân tích thành phần chất thải rắn tại các bãi chôn lấp là cơ sở lựa chọn công nghệ tái chế hoặc
xử lý chất thải rắn cho thành phố.
So sánh số liệu thành phần chất thải rắn tại các nguồn thải và tại các bãi chôn lấp cho thấy, các thành
phần có khả năng tái chế với giá trị cao như ni lông, nhựa, giấy, kim loại, cao su, thủy tinh tại các bãi
chôn lấp giảm đáng kể, như ni lông chỉ còn 1,4 – 2,8%, nhựa chỉ còn 0,1 – 0,2%, ... Nguyên nhân là do
hoạt động phân loại (bên ngoài nhà) để thu lượm phế liệu có giá trị. Công việc này do người nhặt phế
liệu “dạo” trên đường phố, người thu gom chất thải rắn từ các nguồn thải và người thu lượm “ve chai”
tại các điểm hẹn và trạm trung chuyển thực hiện. Từ năm 1998, người thu lượm “ve chai” không được
phép hoạt động trên các bãi chôn lấp của thành phố để tránh tai nạn trong quá trình lao động.
Thực tế này cho thấy, mục tiêu chủ yếu của Chương trình phân loại chất thải rắn đô thị tại nguồn là tái
chế nguồn chất hữu cơ có khả năng phân hủy sinh học “sạch” để sản xuất compost chất lượng cao và chế
biến phân hữu cơ/phân hữu cơ vi sinh/phân vi sinh. Đồng thời cần phải chuẩn bị các chính sách khuyến
khích các hoạt động trao đổi chất thải có giá trị.
Khối lượng
Với hơn 9 triệu dân, tổng khối lượng chất thải rắn đô thị phát sinh trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
được ước tính khoảng 7.500 – 8.000 tấn/ngày, tính theo tiêu chuẩn phát sinh chất thải rắn sinh hoạt
(kg/người-ngày) của Bộ Xây dựng. Trong đó, khối lượng thu gom và vận chuyển lên bãi chôn lấp
khoảng 6.500 – 6.700 tấn/ngày, phần còn lại là phế liệu được mua bán để tái chế. Chỉ có một phần nhỏ,
chủ yếu là các chất thải hữu cơ xả xuống đồng ruộng ở vùng ngoại thành. Ước tính tỷ lệ gia tăng khối
lượng hàng năm khoảng 7 – 8 %.
Bảng 2.4 Khối lượng chất thải rắn đô thị (1992-2010)
Năm
Khối lượng chất thải rắn đô thị Tỉ lệ tăng hàng
năm(%)
Tấn/năm Tấn/ngày
1992 424.807 1.164 -

1993 562.227 1.540 32,0%
1994 719.889 1.972 28,0%
1995 978.084 2.680 35,8%
1996 1.058.468 2.900 8,2%
1997 983.811 2.695 -7,0%
1998 939.943 2.575 -4,4%
1999 1.066.272 2.921 13,4%
2000 1.483.963 4.066 39,2%
2001 1.369.358 3.752 -7,7%
2002 1.568.476 4.700 14,5%
2003 1.788.500 4.900 14,0%
2004 1.684.023 4.678 -5,8%
2005 1.746.485 4.785 3,7%
2006 1.895.889 5.194 8,5%
2007 1.971.421 5.401 3,9%
2008 2.021.593 5.538 2,5%
2009 2.121.819 5.813 4,9%
24
2010 2.372.500 6.500 7,4%
(Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường- 2010)
Bảng 2.5 Khối lượng chất thải rắn được thu gom tại từng quận huyện
STT
Khối lượng chất thải rắn thu gom (tấn/ngày)
2007 2008 2009 2010
Cty MTĐT (CITENCO) 2.296,31 2.323,55 2.258,38 2.601,17
Hợp tác xã 529,45 560,81 617,59 799,42
Quận 1 134,06 108,16 107,27 109,71
Quận 2 17,95 18,75 27,78 27,08
Quận 3 53,88 49,78 49,31 53,92
Quận 5 83,84 86,94 85,95 83,67

Quận 6 285,35 297,58 294,90 269,07
Quận 7 11,10 92,68 118,56 150,67
Quận 8 128,78 122,39 121,24 122,25
Quận 9 96,37 99,61 114,78 102,17
Quận 10 57,80 60,15 177,56 211,69
Quận 12 143,72 165,22 193,52 212,23
Phú Nhuận 275,80 266,12 267,36 261,18
Gò Vấp 126,15 120,28 134,50 164,26
Tân Bình 323,84 340,07 380,80 403,19
Tân Phú 189,25 143,31 113,45 110,37
Thủ Đức 189,89 183,36 201,37 215,31
Hóc Môn 109,46 103,93 116,82 119,92
Bình Thạnh 4,84 29,60 31,87 39,41
Bình Chánh 117,34 118,98 130,29 142,37
Bình Tân 155,52 152,98 152,93 154,23
Nhà Bè 1,90 14,53 20,79 25,78
Củ Chi 68,40 79,22 95,98 119,93
TỔNG (làm tròn) 5.401 5.538 5.813 6.500
Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường- 2010
So sánh khối lượng chất thải rắn phát sinh được tính toán theo số liệu dân số và hệ số phát sinh chất thải
rắn kg/người.ngày theo tiêu chuẩn và khối lượng chất thải rắn sinh hoạt được thu gom và xử lý thống kê
qua trạm cân tại các khu liên hợp xử lý chất qua các năm cho thấy, tỉ lệ thu gom và xử lý có xu hướng
tăng dần theo thời gian, từ 75% lên gần 85%. Tuy nhiên, khối lượng chất thải rắn xử lý thu gom được và
vận chuyển lên các bãi chôn lấp (qua trạm cân) năm 2004 giảm so với năm trước đó (-5,8%) là do bãi
chôn lấp Phước Hiệp xảy ra sự cố lún trượt và năm 2005 tỉ lệ tăng khối lượng chất thải rắn thấp hơn các
năm trước là do trạm cân tại công trường Phước Hiệp không hoạt động khối lượng chất thải rắn được
tính trung bình theo khối lượng trước khi trạm cân hư.
Như vậy so với Quyết định số 789/QĐ-TTg ngày 25/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
Chương trình đầu tư xử lý chất thải rắn giai đoạn 2011 đến 2020, theo đó, mục tiêu cụ thể từ 2011 –
2015: ”85% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt đô thị phát sinh được thu gom và xử lý đảm bảo môi

25

×