Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Biến động lãi suất Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (664.35 KB, 37 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐÀ NẴNG
KHOA TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
Đề tài:
DIỄN BIẾN LÃI SUẤT VIỆT NAM

GVHD: Nguyễn Thanh Hương
Nhóm Thực Hiện: Nhóm 1 - Lớp học phần: TCTT3_5
1. Hàn Thị Thu Hà – Lớp: 36K03.2
2. Nguyễn Thị Thắm – Lớp: 36K03.2
3. Nguyễn Thị Tường Vi – Lớp: 36K
4. Đỗ Thanh Mai – Lớp: 37K06.1
5. Trịnh Anh Khoa – Lớp: 37K06.1
6. Trương Thị Thắm – Lớp: 37K06.1
Đà Nẵng, tháng 01 năm 2013
Page | 1

Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương
2
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương
MỤC LỤC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐÀ NẴNG 1
KHOA TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG 1
DIỄN BIẾN LÃI SUẤT VIỆT NAM 1
Đà Nẵng, tháng 01 năm 2013 1
MỤC LỤC 3
II.Hệ thống ngân hàng, trần lãi suất và các công cụ điều hành chính sách tiền tệ trong giai đoạn 1994-
1997 13
III.Hệ thống ngân hàng và chính sách lãi suất trong hai năm 1998-99 chịu tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính Đông Á 15
IV.Chính sách lãi suất từ năm 2000 – 2002 17
II.Cách giải quyết của Ngân hàng TW 22


III.Chính sách của Chính Phủ 23
CHƯƠNG IV 23
I.Tình hình lãi suất Việt Nam giai đoạn 2009 – 2010 24
II.Chính sách của Chính Phủ 25
CHƯƠNG V 27
I. Tình hình lãi suất tại Việt Năm năm 2010 – 2011 27
Nhận xét 29
I.Tình hình lãi suất ở Việt Nam năm 2011 – 2012 31
KẾT LUẬN 34
3
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thức được rõ rằng tăng trưởng
kinh tế là một trong những điều kiện tiên quyết để nâng cao vị thế của nước nhà trên
trường quốc tế. Trong những thập kỷ gần đây, vấn đề tăng trưởng kinh tế không chỉ đặt ra
ở những nước đang phát triển mà còn đối với cả những nước phát triển.
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam cũng không đứng ngoài xu
hướng này. Trong những năm gần đây, khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đã có tác
động khá rõ nét đối với nền kinh tế và xã hội Việt Nam, đặc biệt là khu vực Tài chính
ngân hàng. Âm thầm, lặng lẽ nhưng cuộc chạy đua lãi suất tiết kiệm giữa các ngân hàng
để huy động vốn diễn ra vô cùng quyết liệt, trong đó có sự tham gia của cả các ngân hàng
4
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương
nhỏ và ngân hàng lớn, ngân hàng mới thành lập và cả những ngân hàng đã có uy tín hoạt
động nhiều năm.
Lãi suất là một biến số phức tạp không những về kỹ thuật tính toán, mà còn cả về
vấn đề xác định những nhân tố ảnh hưởng, dự báo và hoạch định chính sách lãi suất. Diễn
biến của lãi suất có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hằng ngày của mỗi chủ thể kinh tế.
Nó tác động trực tiếp đến các chủ thể kinh tế, quyết định đến lợi nhuận của các nhà kinh
doanh Ngân hàng, quyết định hiệu quả kinh tế trong các doanh nghiệp sản xuất kinh

doanh. Do những ảnh hưởng đó, lãi suất được coi là một trong những biến số được theo
dõi chặt chẽ nhất trong nền kinh tế và diễn biến của nó được đưa tin hầu như hằng ngày
trên các phương tiện thông tin đại chúng. Quan tâm đến vấn đề lãi suất, không ai có thể
phủ nhận lãi suất là một công cụ sắc bén trong điều hành kinh tế vĩ mô. Song sử dụng
công cụ lãi suất cũng giống như sử dụng con dao hai lưỡi. Muốn điều hành nền kinh tế
hiệu quả, đòi hỏi phải nắm bắt, nghiên cứu kĩ lưỡng lãi suất, nếu không nó sẽ đem lại
những kết quả ngoài dự kiến.
Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về lãi suất trên cơ sở các kiến thức đã học và xuất
phát từ ý nghĩa thực tiễn cùng với tính thời sự của vấn đề này, nhóm em đã thực hiện đề
tài “ Diễn biến lãi suất Việt Nam”. Tuy nhiên, với tính chất phức tạp của vấn đề, trong
giới hạn của bài viết này nhóm xin đề cập chủ yếu đến diễn biến lãi suất Việt Nam từ
năm 2008 – 2012.
5
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẦN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT
I. Khái niệm về lãi suất
Kể từ khi hoạt động kinh tế xã hội của loài người đang còn ở hình thức sơ khai cho
đến nay đã phát triển đến trình độ cao, trong nền kinh tế luôn tồn tại mâu thuẫn, đó là: tại
một thời điểm nhất định trong nền kinh tế tồn tại những tác nhân tạm thời thừa và tạm
thời thiếu vốn. Mâu thuẫn này xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn của vốn trong nền kinh tế
và có thể được giải quyết thông qua hệ thống ngân hàng của tổ chức tín dụng.
Với mạng lưới hoạt động rộng khắp của mình trong nền kinh tế, các ngân hàng
thương mại, các tổ chức tín dụng, đã huy động được phần lớn lượng vốn tạm thời nhàn
rỗi trong xã hội để tạo lập các quỹ cho vay. Như bất cứ một doanh nghiệp nào khác, các
ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng muốn kinh doanh phải có sản phẩm mang ra
trao đổi trên thị trường và vốn tiền tệ là “hàng hóa” đặc biệt mà các tổ chức này mang ra
6
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương
trao đổi. Nhưng hàng hóa đặc biệt này không được mua, bán theo đúng nghĩa đen của nó

như là việc mua bán các hàng hóa thông thường khác, chúng ta xem quá trình mua, bán là
việc trao đổi hàng hóa tiền tệ thì giá cả được tính như thế nào? Lãi suất chính là giá cả
của loại hàng hóa này.
Thật vậy, ngân hàng tiến hành hoạt động kinh doanh của mình bằng cách đi vay để
cho vay. Để đảm bảo hoạt động an toàn và có hiệu quả thì giữa khoản tiền đi vay và cho
vay của ngân hàng phải có sự chênh lệch nhất định, khoản chênh lệch này được gọi là lợi
tức ( tiền lãi ). Vậy “ Lãi suất là giá cả của tín dụng – giá cả của quan hệ vay mượn hoặc
cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc các dạng thức tài sản khác
nhau” ( Trang 224 – “GIÁO TRÌNH TÀI CHÍNH TIỀN TỆ”, Khoa Tài chính – Ngân
hàng, Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng – Đại học Đà Nẵng ).
II. Vai trò của lãi suất
 Xét ở tầm vĩ mô: Lãi suất là công cụ thể hiện chính sách tiền tệ, góp phần
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Thể hiện:
• Điều chỉnh lượng cung tiền, từ đó tác động đến sự tăng giảm sản lượng để thực
hiện điều tiết nền kinh tế ( ổn định lạm phát, công ăn việc làm và phát triển sản phẩm )
• Tác động tới tổng cung và tổng cầu thông qua tác động tới hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, đến tiêu dùng và tiết kiệm của dân cư.
• Làm công cụ điều hòa cung cầu ngoại tệ, góp phần cân bằng cán cân thanh toán
quốc tế.
• Điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu khu vực nhằm đảm bảo sự thích ứng của nền
kinh tế với nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế.
 Xét ở tầm vi mô:
• Lãi suất là công cụ thực hiện các hoạt động của các trung gian tài chính trong điều
kiện cạnh tranh lành mạnh để đảm bảo tính tự chủ tài chính của các tổ chức này, tạo ra
nguồn lực tài chính để các tổ chức này tồn tại và phát triển.
• Lãi suất tác động tới hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp và đời
sống dân cư.
7
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất

a. Quan hệ cung cầu quỹ cho vay
Bất kì sự thay đổi nào của cung hoặc cầu hoặc cả cung và cầu quỹ cho vay không
cùng tỉ lệ thì sẽ thay đổi lãi suất trên thị trường.
b. Lạm phát kì vọng
Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ
có xu hướng tăng.
c. Bội chi ngân sách ( BCNS )
BCNS sẽ làm tăng cầu của quỹ cho vay → lãi suất sẽ tăng .
BCNS ảnh hưởng đến tâm lý công chúng về mức tăng lạm phát → gây áp lực làm
tăng lãi suất.
Khi BCNS tăng chính phủ thường phát hành trái phiếu → Cung trái phiếu tăng →
Giá trái phiếu trên thị trường giảm → Lãi suất thị trường tăng.
Tài sản có của các ngân hàng gia tăng khoản mục trái phiếu chính phủ → Lãi suất
ngân hàng sẽ tăng.
d. Những thay đổi về thuế
Khi các loại thuế thu nhập cá nhân và thu nhập doanh nghiệp tăng lên, thì thu nhập
của những tổ chức và cá nhân cung cấp dịch vụ tín dụng hay kinh doanh chứng khoán sẽ
giảm đi. Vì vậy, để duy trì lợi nhuận không đổi có thể họ sẽ cộng thêm vào lãi suất
những thay đổi của thuế.
Rủi ro vỡ nợ: Là rủi ro do người đi vay hoặc người phát hành không có khả năng
thanh toán lãi hoặc cả vốn lẫn lãi khi đến hạn vì vậy khi tham gia lưu thông sẽ có một
mức bù rủi ro cao, tức là lãi suất sẽ cao.
Rủi ro thanh khoản ( Tính lỏng ): Khi các công cụ có tính lỏng cao, tức là dễ dàng
chuyển đối sang tiền mặt nhanh chóng thì nó càng được ưa chuộng. Những công cụ kém
lỏng bao giờ cũng có lãi suất cao hơn những công cụ có tính lỏng cao.
8
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương
Thuế thu nhập: Khi thuế thu nhập tăng lên thì lãi suất phải tăng tương ứng để bù đắp
số tiền lời giảm đi do nộp thuế. Khi thuế thu nhập giảm thì lãi suất sẽ thấp hơn. Mức độ
rủi ro của món vay càng cao, lãi suất món vay đó càng cao.

CHƯƠNG II
DIỄN BIẾN LÃI SUẤT VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 2008
I. Tình hình lãi suất Việt Nam trước năm 1989
 Từ hệ thống ngân hàng một cấp tới hai cấp và đợt tự do hóa tài chính đầu tiên
Trong hệ thống kế hoạch hóa tập trung ở Việt Nam, mọi hoạt động giao dịch tài
chính chính thức đều do Nhà nước độc quyền thực hiện thông qua Ngân hàng Nhà nước
(SBV). Hệ thống ngân hàng trước năm 1988 là một hệ thống đơn cấp với NHNN thực
hiện chức năng của cả ngân hàng thương mại và ngân hàng nhà nước. Bên cạnh đó, Nhà
nước sở hữu và trực tiếp kiểm soát hai ngân hàng chuyên doanh là Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV).
Bên cạnh việc cùng hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), Vietcombank có
chức năng cụ thể là tài trợ cho hoạt động ngoại thương và quản lý ngoại hối, còn BIDV
thực hiện cấp vốn dài hạn cho các dự án cơ sở hạ tầng và công trình công cộng. Toàn bộ
hệ thống ngân hàng chỉ là một công cụ để thực hiện các chính sách nhà nước, đáp ứng
9
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương
nhu cầu tài chính của ngân sách và của các DNNN. Tín dụng chỉ định với lãi suất danh
nghĩa thấp và lạm phát cao tạo ra lãi suất thực âm. Hơn thế nữa, lãi suất cho vay còn thấp
hơn lãi suất tiền gửi, thể hiện chính sách trợ cấp lãi suất của chính phủ.
Năm 1988 đánh dấu đợt cải cách mạnh mẽ đầu tiên trong hệ thống tài chính – ngân
hàng của Việt Nam. Nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 do Hội Đồng Bộ Trưởng ban
hành mở đầu cho công cuộc cải tổ hệ thống ngân hàng ở Việt Nam, với ba nội dung cải tổ
quan trọng:
Thứ nhất là tách bộ phận quản lý quỹ ngân sách ra khỏi Ngân hàng Nhà nước để
hình thành nên hệ thống Kho Bạc Nhà nước.
Thứ hai là tách chức năng kinh doanh ra khỏi hệ thống Ngân hàng Nhà nước giao
cho các ngân hàng chuyên doanh.
Thứ ba là thành lập hai ngân hàng chuyên doanh mới đó là Ngân hàng Công
Thương Việt Nam và Ngân hàng Phát triển Nông Nghiệp Việt Nam (sau này đổi tên
thành Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn) cùng với hai ngân hàng có trước

đó là Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam
đảm nhận chức năng kinh doanh thay cho hệ thống Ngân hàng Nhà nước.
Cả bốn ngân hàng chuyên doanh (NHCD) hoạt động dưới hình thức ngân hàng
chuyên doanh trong lĩnh vực của mình cho đến năm 1990, khi giới hạn này được xóa bỏ
và hệ thống ngân hàng. thương mại (NHTM) ra đời theo tinh thần của Pháp lệnh Ngân
hàng Nhà nước và Pháp lệnh các tổ chức tín dụng năm 1990.
Lãi suất tiền gửi và cho vay của các ngân hàng TMQD đều do Ngân hàng Nhà nước
quy định. Cũng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại duy
trì các mức lãi suất cho vay khác nhau đối với cho vay nông nghiệp, công nghiệp và
thương mại ( Bảng 1 ). Mức biến thiên lãi suất này thể hiện ưu tiên đầu tư vào những lĩnh
vực cụ thể, thay vì phản ánh rủi ro tương đối của các dự án đầu tư.
10
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương
Năm 1988 cũng đánh dấu nỗ lực tự do hóa tài chính đầu tiên của Việt Nam bằng
quyết định của Hội đồng Bộ trưởng (9/3/1988) cho phép tất cả các tổ chức kinh tế, bao
gồm cả các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh, được vay tiền và huy động vốn từ công
chúng. Giai đoạn 1986-1988 là thời gian mất ổn định kinh tế vĩ mô nhất mà nền kinh tế
Việt Nam từng trải qua. Với việc chính phủ sử dụng in tiền để bù đắp thâm hụt ngân
sách, lạm phát ở mức phi mã ba chữ số trong cả ba năm này.
Trong thời gian này, các quỹ và hợp tác xã tín dụng mọc lên rất nhiều. Đến cuối
thập niên 80, tổng số quỹ và hợp tác xã tín dụng lên tới 7.180, trong khi vào năm 1983 thì
hợp tác xã tín dụng đầu tiên mới được thành lập ở miền Nam (Vuong Nhat Huong và các
tác giả [2002]). Hàng loạt các quỹ tín dụng ở thành thị đua nhau tăng lãi suất để huy động
vốn. Cả hệ thống rơi vào vòng xoáy của vấn đề lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại. Ban đầu,
có lẽ chỉ có một số quỹ tín dụng đưa ra lãi suất tiết kiệm cao và thu hút người gửi tiền.
Nhưng các tổ chức còn lại ngày càng phải chịu áp lực cạnh tranh khi thấy khách hàng gửi
tiền của mình chuyển tiết kiệm sang các quỹ trả lãi cao hơn. Các tổ chức này, do vậy,
cũng bị buộc phải tăng lãi suất tiền gửi lên mức hấp dẫn đối với người tiết kiệm. Đây
11
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương

chính là một trường hợp điển hình của lựa chọn bất lợi. Đồng thời, việc không có quy
định về vốn tạo ra tâm lý ỷ lại. Đầu tư rủi ro mong thu được lợi nhuận cao rồi dùng một
phần để trả lãi cho vốn huy động là hành vi tối đa hóa lợi nhuận hoàn toàn hợp lý khi quỹ
tín dụng không chịu quy định về đủ vốn (capital adequacy). Nếu đầu tư thắng, lợi nhuận
thu được sẽ đủ trả lãi tiền gửi và còn được một khoản lợi nhuận còn lại lớn. Còn nếu
thua, thì cũng không mất mát nhiều do vốn tự có ban đầu bỏ ra không bao nhiêu.
Việc theo đuổi lợi nhuận của các quỹ tín dụng (và sau đó là sự nhập cuộc của cả các
đơn vị kinh tế) bằng cách huy động vốn với lãi suất cao trong bối cảnh không có quy định
và giám sát đã nhanh chóng dẫn tới các hành vi lừa đảo. Ví dụ tiêu biểu là Hãng Nước
hoa Thanh Hương vào năm 1990. Cuộc điều tra sau sự sụp đổ của Thanh Hương cho thấy
đây là vụ lừa đảo tín dụng dưới kiểu huy đồng vốn hình tháp (financial pyramid/ponzi
scheme) mà hầu như hệ thống tài chính của bất cứ nước nào trên thế giới cũng đều gặp
phải. Điều mà Thanh Hương làm là huy động tiền tiết kiệm từ công chúng với lãi suất
tiền gửi danh nghĩa lên tới 12%/tháng. Làm thế nào Thanh Hương trả được khoản lãi cao
đến thế này? Câu trả lời là tiền gửi. Tức là tiền tiết kiệm của người gửi tiền sau được
dùng để trả lãi cho người gửi tiền trước. Việc Thanh Hương trả được lãi lại làm tăng
thêm uy tín tài chính và vì vậy càng thu hút nhiều người đổ tiền cho hãng nước hoa này.
Giống như ở mọi nơi khác, các tổ chức tiết kiệm/cho vay theo kiểu ponzi này đều có kết
cục là đổ vỡ với hàng chục ngàn người mất tiền tiết kiệm của mình. Sau Thanh Hương,
hàng loạt các quỹ tín dụng khác ở thành thị đều nối đuôi nhau phá sản, tạo ra một cuộc đổ
vỡ tín dụng mang tính hệ thống nhất từ trước tới nay ở Việt Nam. Mất ổn định vĩ mô
cũng có thể là yếu tố dẫn đến sự sụp đổ của các quỹ tín dụng, bên cạnh các yếu tố đã đề
cập ở trên. Mặc dù lạm phát đã giảm xuống, nhưng vẫn còn ở mức 70-80%/năm. Do vậy,
mặc dù không có kiểm soát lãi suất, nhưng các tổ chức tín dụng vẫn không thể dựa vào
thị trường để thẩm định các dự án đầu tư.
Cho đến cuối năm 1990, tổng số quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng chỉ còn 160.
Bên cạnh sự mất mát về tiền, cuộc khủng hoảng tín dụng năm 1990 còn tạo ra một tác
động tâm lý sâu rộng với sự sụt giảm lòng tin nghiêm trọng của người dân đối với hệ
12
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương

thống ngân hàng. Một số nghiên cứu lúc đó cho rằng sự mất niềm tin này cùng với lãi
suất thực âm vào lúc đó khiến rất nhiều người dân rút tiền tiết kiệm của mình và chuyển
sang vàng hay đô-la Mỹ. Mức độ phát triển tài chính theo chiều sâu (biểu diễn bằng tỷ lệ
M3/GDP) giảm từ 27,8% năm 1989 xuống 24,6% năm 1992 (NHTG, 1994).
II. Hệ thống ngân hàng, trần lãi suất và các công cụ điều hành chính sách tiền
tệ trong giai đoạn 1994-1997
Sau khi ban hành pháp lệnh (và các nghị định, thông tư hướng dẫn) để điều tiết hoạt
động của các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP), ngân hàng
liên doanh và chi nhánh ngân hàng được phép thành lập và tham gia cung cấp dịch vụ tài
chính. Các ngân hàng TMQD đã chuyển đổi từ những tổ chức cho vay chính sách chuyên
doanh cho từng khu vực kinh tế cụ thể sang các tổ chức trung gian tài chính theo hướng
thương mại hơn. Cơ cấu hệ thống ngân hàng của Việt Nam vào cuối năm 1994 và 1998.
Ta có thể thấy, mặc dù có sự xuất hiện của nhiều ngân hàng ngoài quốc doanh, nhưng các
ngân hàng TMQD vẫn chiếm ưu thế, với tỷ lệ trong tổng tài sản có của hệ thống ngân
hàng chỉ giảm từ 89% năm 1994 xuống 82% năm 1998.
Ngân hàng Nhà nước đã có những phản ứng tương đối tích cực sau cuộc đổ vỡ tín
dụng bằng cách đưa ra các quy định quản lý hoạt động của ngân hàng, trao thêm quyền tự
chủ cho các ngân hàng TMQD và tăng cường công tác giám sát. Lạm phát giảm mạnh
xuống mức trong phạm vi kiểm soát được, khi Ngân hàng Nhà nước không còn phải in
tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách. Trên lý thuyết, Ngân hàng Nhà nước sử dụng một loạt
các công cụ chính sách tiền tệ bao gồm lãi suất, trần tín dụng, dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn
và đấu thầu tín phiếu kho bạc (xem Hộp 1). Tuy nhiên, trên thực tế, mức cung tiền được
kiểm soát chủ yếu bằng trần tín dụng áp đặt cho từng ngân hàng thương mại (bắt đầu từ
năm 1994). Nói một cách khác, ngân hàng trung ương áp dụng cơ chế kiểm soát cung
tiền một cách trực tiếp thay vì sử dụng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ như ở
nhiều nềnkinh tế thị trường.
Thực tế là việc sử dụng các công cụ gián tiếp không phát huy tác dụng trong bối
cảnh của hệ thống tài chính Việt Nam lúc đó. Công cụ lãi suất là một phần không thể
13
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương

thiếu của hệ thống áp chế tài chính, thay vì là một công cụ để kiểm soát cung tiền. Từ
năm 1990, Ngân hàng Nhà nước đưa ra trần lãi suất cho vay tối đa đối với cả nội tệ và
ngoại tệ, phân biệt theo khu vực kinh tế. Tức là các mức trần lãi suất khác nhau được áp
dụng cho vay nông nghiệp, công nghiệp và thương mại - dịch vụ. Lãi suất tiền gửi cũng
được phân biệt giữa hộ gia đình và doanh nghiệp.
Tuy vậy, theo thời gian việc điều hành chính sách lãi suất đã được cải thiện đáng kể.
Ngân hàng Nhà nước gắn lãi suất danh nghĩa với chỉ số giá để đảm bảo lãi suất thực
dương từ năm 1992. Bảng 1 cũng cho thấy bắt đầu từ năm 1992, lãi suất cho vay đã được
nâng lên cao hơn lãi suất tiền gửi - một yêu cầu thiết yếu cho sự hoạt động thông thường
của các ngân hàng. Vào năm 1993, việc phân biệt lãi suất cho vay theo khu vực kinh tế
được loại bỏ và chỉ còn được phân biệt theo cho vay đầu tư cố định và cho vay vốn lưu
động. Tuy vậy, lãi suất cho vay đầu tư vốn cố định lại thấp hơn lãi suất cho vay vốn lưu
động, tạo ra một cơ cấu lãi suất ngược không phù hợp. Tức là, lãi suất dài hạn thấp hơn
lãi suất ngắn hạn. Chính sách này làm cho các ngân hàng không hề có động cơ khuyến
khích cho vay dài hạn. Mãi cho đến năm 1996, lãi suất cho vay ngắn hạn mới giảm xuống
thấp hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn.
Ngân hàng Nhà nước tiếp dục duy trì trần lãi suất cho vay. Từ năm 1995, Ngân
hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được tự do định mức lãi suất tiền gửi
với mục tiêu tăng cường cạnh tranh trong huy động vốn. Tuy nhiên, mức chệnh lệch lãi
suất cho vay và lãi suất tiền gửi tối đa được phép là 0,35%/tháng. Như vậy, về một khía
cạnh nào đó, các ngân hàng vẫn phải chịu cả trần lãi suất tiền gửi và cho vay, cho dù mức
chênh lệch lãi suất thực tế có thể khác nhau giữa các ngân hàng tùy thuộc vào cơ cấu chi
phí cụ thể. Chính sách này giúp các ngân hàng thương mại có thể duy trì một tỷ lệ lợi
nhuận, nhưng không có lợi cho người gửi tiền. NHTG (1995) lập luận rằng đó chính là
nguyên nhân giải thích cho sự tăng trưởng chậm chạp của tiền gửi ngân hàng và tỷ lệ tiền
mặt cao trong tổng cung tiền.1
Lý do căn bản của trần lãi suất là để hạn chế vấn đề lựa chọn bất lợi; tức là hạn chế
xu hướng các ngân hàng nâng lãi suất để cạnh tranh huy động vốn rồi cho vay rủi ro, một
14
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương

tình trạng đã xảy ra trong cuộc đổ vỡ quỹ tín dụng vào năm 1990. Tuy vậy, trong trường
hợp của Việt Nam, chính sách trần lãi suất là một bộ phận không thể thiếu của hệ thống
áp chế tài chính (ít nhất là trong đầu thập niên 90) và kết hợp với sự chỉ định tín dụng
nhằm đảm bảo các khu vực ưu tiên của chính phủ nhận được vốn vay với lãi suất vừa
phải. Một minh chứng cho nhận định này là các ngân hàng có thể huy động và cho vay
với lãi suất vượt trần đối với “vốn huy động cho mục tiêu cụ thể” (purposes-linked
mobilized funds). Tức là đối với những dự án đã xác định, ngân hàng có thể huy động
tiền gửi với lãi suất cao hơn trần lãi suất tiền gửi, rồi cho dự án vay toàn bộ với lãi suất
cho vay cao hơn lãi suất trần. Nếu ngăn chặn lựa chọn bất lợi là lý do chính yếu để áp đặt
trần lãi suất thì kiểu “vốn huy động cho mục tiêu cụ thể” không bao giờ được phép.
Thập niên 90 cũng chứng kiến nỗ lực phát triển thị trường cho vay liên ngân hàng.
Thị trường này được thiết lập vào năm 1993. Mục tiêu là để Ngân hàng Nhà nước có thể
dựa vào đó làm căn cứ định các mức lãi suất. Tuy nhiên, lượng giao dịch trên thị trường
cho vay liên ngân hàng không có xu hướng tăng ổn định do thiếu niềm tin giữa các ngân
hàng (Hộp 2). Thị trường tiền tệ mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc cũng bắt đầu được phát
triển. Cũng như những nỗ lực phát triển thị trường khác, các đợt đấu thầu tín phiếu kho
bạc không tạo ra lãi suất phản ánh tín hiệu thị trường do Chính phủ đưa ra lãi suất chỉ đạo
(tức là trần lãi suất) trong mỗi đợt đấu thầu.
III. Hệ thống ngân hàng và chính sách lãi suất trong hai năm 1998-99 chịu tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á
Với đồng tiền chưa có khả năng chuyển đổi, tài khoản vốn đóng, và giá trị tiền cùng
với tài sản nợ tài chính (M3) còn nhỏ so với GNP, hệ thống ngân hàng của Việt Nam
không phải chịu các tác động trực tiếp từ cuộc khủng hoảng châu Á. Chính vì vậy, trong
năm 1997 và đầu năm 1998, Ngân hàng Nhà nước đã không xiết chặt kiểm soát lãi suất
mà thậm chí còn nới lỏng. Trần lãi suất được nâng lên để các ngân hàng thương mại (đặc
biệt là các ngân hàng cổ phần) có thể tăng lãi suất tiền gửi để huy động vốn trong năm
1997. Trong bối cảnh bắt đầu có sự cạnh tranh lãi suất giữa các ngân hàng, quy định giới
hạn chênh lệch lãi suất cho vay và tiền gửi trong khoảng 0,35%/tháng dần dần không còn
15
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương

tác dụng và cuối cùng được hủy bỏ.
Tuy nhiên, trái với nhiều dự đoán của chính phủ, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu chịu
tác động khá mạnh (mặc dù là gián tiếp) của cuộc khủng hoảng từ giữa năm 1997. Trong
lĩnh vực tài chính- ngân hàng, chất lượng tài sản có của các ngân hàng suy giảm khi các
doanh nghiệp vay nợ gặp khó khăn do tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và đầu tư trực tiếp
nước ngoài suy giảm (Vuong Nhat Huong và các tác giả khác [2002]). Nhiều khoản cho
vay DNNN của các ngân hàng thương mại quốc doanh trở thành nợ khó đòi. Đặc biệt,
các doanh nghiệp nhập khẩu mở một khối lượng tín dụng thư trả chậm (deffered L/Cs)
lớn trong hai năm 1995, 1996 và đáo hạn vào cuối năm 1997, đầu 1998. Việc nhiều
doanh nghiệp trong số này không có khả năng thanh toán (mà tình hình còn trầm trọng
hơn sau khi đồng nội tệ được phá giá 10% vào tháng 8 năm 1998) buộc các ngân hàng
phải chịu gánh nặng chi trả cho phía nước ngoài. Một số ngân hàng cổ phần vì thế rơi vào
tình trạng gần như phá sản.
Từ cuối năm 1998, Chính phủ đã đưa ra một loạt các biện pháp nhằm giảm nhẹ khó
khăn tài chính cho các DNNN, trong đó bao gồm: giãn nợ từ 1-3 năm tới 1-5 năm cho các
DNNN khó khăn; các DNNN có thể vay vốn mà không cần tài sản thế chấp (nhưng
không áp dụng cho các doanh nghiệp tư nhân);3 và giảm lãi suất cho vay.
Đồng thời tín dụng nội địa được hệ thống ngân hàng ‘bơm’ mạnh vào nền kinh tế.
Bảng 3 cho thấy trong năm 1997 và 1998, tăng trưởng tín dụng cao gấp 2,8 lần tăng
trưởng kinh tế; nhưng tỷ số này đã lên tới 4,0 trong năm 1999 và 5,6 trong năm 2000.
Chính sách đẩy mạnh tín dụng nội địa của chính phủ có lẽ nhằm vào hai mục đích: (i)
giúp các DNNN duy trì sản xuất và việc làm trong giai đoạn khó khăn; và (ii) thực hiện
chính sách kích cầu đầu tư (thay vì phải thực hiện các cải cách cơ cấu) với hy vọng sẽ
vực dậy tăng trưởng kinh tế.
Việc hạ lãi suất và nới lỏng tín dụng đã có tác động gì? Thứ nhất, lãi suất giảm
nhưng lượng tiền gửi tại ngân hàng vẫn ổn định. Thứ hai, tín dụng nội địa tăng không
hoàn toàn do lãi suất giảm. Hầu hết sự gia tăng tín dụng nằm ở hạng mục tín dụng chỉ đạo
bao gồm tín dụng cho các DNNN, chương trình mía đường, cơ sở hạ tầng, nông nghiệp
16
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương

và khắc phục hậu quả thiên tai. Thứ ba, gia tăng tín dụng cho khu vực nhà nước trong khi
tiền gửi không tăng, nên các ngân hàng thương mại giảm dự trữ phụ trội cũng như tăng
vay vốn từ Ngân hàng Nhà nước. Đặc biệt, khi dự trữ phụ trội cạn kiệt, Ngân hàng Nhà
nước đã ra quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng từ 10% xuống 7%
lượng tiền gửi ngắn hạn vào tháng 2/1999 (IMF [1999]).
IV. Chính sách lãi suất từ năm 2000 – 2002
Chính sách mở rộng tín dụng trong năm 1999 đã không kích thích được tăng trưởng
kinh tế. Suy giảm tăng trưởng GDP và đầu tư nước ngoài sau cuộc khủng hoảng Đông Á
đã tạo một áp lực cải cách nhanh chóng hơn. Năm 2000 đánh dấu nhiều cải cách trong hệ
thống ngân hàng. Bốn ngân hàng TMQD được kiểm toán độc lập, áp dụng hệ thống phân
loại nợ vay và dự phòng rủi ro gần với tiêu chuẩn quốc tế hơn, và được tái cấp vốn theo
một lịch trình ba năm dựa trên kết quả hoạt động và mức độ cải thiện hiệu quả kinh
doanh. Các ngân hàng TMCP được củng cố. Một số ngân hàng bị đóng cửa, một số đặt
trong tình trạng giám sát đặc biệt, và một số được sáp nhập. So với năm 2000, số lượng
ngân hàng TMCP trong năm 2001 đã giảm 40%. Theo ước tính của IMF, tổng chi phí tái
cấp vốn và thu hồi nợ của hệ thống ngân hàng là 24.000 tỷ đồng (tương đương 5% GDP).
Vào tháng 8 năm 2000, Ngân hàng Nhà nước đưa ra một cơ chế lãi suất mới trong
đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do Ngân
hàng Nhà nước công bố. Tuy nhiên, các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt
quá lãi suất cơ bản cộng 0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với vốn
trung, dài hạn.
Cơ chế giới hạn biên độ lãi suất so với lãi suất cơ bản về bản chất không khác gì so
với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế mức trần (lãi suất cơ bản cộng
biên độ) được định ở mức cao hơn trần lãi suất theo cơ chế cũ rất nhiều. Hình 5 cho thấy
lãi suất cho vay của ngân hàng luôn thấp hơn giới hạn biên độ cho phép. Trước thời điểm
áp dụng lãi suất cơ bản, lãi suất cho vay bình quân của bốn ngân hàng thương mại quốc
doanh đã kịch trần (0,85%/tháng). Thực tế là trong năm 1999, các ngân hàng thương mại
không theo kịp 5 đợt hạ trần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, và kết quả, như trên Hình
17
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương

5, là lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân vượt trên trần lãi suất.
Từ tháng 8/2000, lãi suất cơ bản được đặt ở mức mà khi cộng với biên độ
0,3%/tháng đã cao hơn hẳn lãi suất cho vay thực tế. Như vậy, từ khi có cơ chế lãi suất cơ
bản, các ngân hàng đã bắt đầu ấn định lãi suất trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng độ lãi
suất cơ bản. Chênh lệch lãi suất, do vậy, đã giảm đi rõ rệt
Một điểm đáng chú ý nữa là lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại, mặc dù
luôn cao hơn lãi suất cơ bản, nhưng thay đổi theo lãi suất cơ bản. Trong năm 2000 và
2001, cả hai mức lãi suất này đều giảm. Nhưng trong thời gian đó, lãi suất tiền gửi lại
tăng lên. Cạnh tranh giữa các ngân hàng đã dẫn tới gia tăng lãi suất huy động vốn, nhưng
lãi suất cho vay vẫn không tăng và nằm trong biên độ lãi suất cơ bản. Chênh lệch lãi suất
do vậy đã giảm đi rõ rệt.
Vào tháng 11 năm 2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ, từ đó cho phép
những người vay ngoại tệ trong nước có thể thương lượng lãi suất với các ngân hàng nội
địa và ngân hàng nước ngoài. Vào tháng 6 năm 2002, lãi suất được tự do hóa hoàn toàn
với việc các ngân hàng được phép xác định lãi suất cho vay trên cơ sở tự thẩm định và
thương lượng với khách hàng.
Như đã trình bày, các ngân hàng đã chủ động xác định lãi suất tiền gửi và cho
vay từ thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản. Với việc chính thức tự do hóa lãi suất thì lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố chỉ còn tính chất tham khảo. Lãi suất tiền
gửi tiếp tục gia tăng. Đồng thời, ngay sau khi ra quyết định tự do hóa, lãi suất cho vay
của các ngân hàng đã lập tức nhích lên.
18
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương
CHƯƠNG III
DIỄN BIẾN LÃI SUẤT NĂM 2008 -2009
I. Tình hình biến động
Năm 2008, thị trường NH trong nước đã trải qua những biến động chưa từng có về
lãi suất, tỷ giá…Tính chung cả năm, NHNN đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản.
Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng
Cụ thể như sau:

Hoạt động cho vay của các NH có sự thay đổi căn bản; khái niệm “lãi suất cho vay
tối đa” xuất hiện trên thị trường, đồng nghĩa với những mức lãi suất cho vay từ 22%-25%
trước đó được loại bỏ cùng với các loại phí thu thêm; trần lãi suất huy động thỏa thuận
giữa các thành viên Hiệp hội NH VN có từ những năm trước cũng bị xóa bỏ.
Mấy ngày cuối tháng 1/2008, lãi suất qua đêm thị trường liên NH vọt lên tới 27% trong
khi đầu tháng, thị trường này đã bắt đầu với lãi suất 6,52%. Sở dĩ lãi suất qua đêm cao
như vậy bởi các NH phải nhanh chóng tập trung 1 lượng tiền mặt lớn nhằm đáp ứng quy
định tăng dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11%. Ngày 13/2 NHNN lại ra quyết định buộc các
NHTM phải mua 1 lượng tín phiếu trị giá 20.300 tỷ đồng, nhu cầu tiền mặt ngay lập tức
lên tới hơn 40.000 tỷ đồng làm náo loạn các tổ chức tín dụng. Các NH cổ phần buộc lòng
phải tăng lãi suất huy động. Sự chênh lệch về lãi suất đã khiến cho các tổng công ty NN
rút tiền từ các NHQD lãi suất thấp gửi sang NH cổ phần. Chỉ trong ngày 18/2, các tổng
cty NN đã rút ra hơn 4000 tỷ đồng. Các NHQD vốn vẫn dùng nguồn tiền lãi suất thấp từ
NN đem cho các NH nhỏ vay lại, nay thiếu tiền đột ngột vội vàng ép các NH này. Cơn
19
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương
khát tiền mặt toàn hệ thống đã đẩy lãi suất thị trường liên NH trong những ngày đó có khi
lên tới 40%. Trên thị trường tiền tệ các NHTM liên tục bám đuổi nhau tăng lãi suất huy
động vốn nội tệ, chỉ trong vòng 1 tuần 1 số NHTM điều chỉnh lãi suất tới 2-3 lần. Ngày
20/2 Sea Bank công bố biểu lãi suất với mức lãi suất kỷ lục 12%/năm, ngày 21/2 SHB
đưa ra chương trình siêu lãi suất với mức lãi suất cao nhất lên tới 12,5%/năm cho kỳ hạn
1 tháng, ngày 22/2 SCB đưa ra mức lãi suất cao hơn huy động vốn kỳ hạn 12 tháng với
lãi suất 13,5%/năm
Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất liên NH tăng cao chóng mặt, đặc biệt
lãi suất liên NH ngày 15/2/2008 lên tới 30,1%/năm, ngày 18/2/2008 lên tới 33%/năm,
ngày 19/2/2008 lên tới 43%/năm. Lãi suất thị trường mở qua đấu thầu giấy tờ có giá ngắn
hạn tại NHNN lên tới 10%, thậm chí 15%/năm cho kỳ hạn vay 2 tuần, gấp 2-3 lần mức
lãi suất bình thường. Ngày 22/2/2008, NHNN phải bơm thêm 6000 tỷ đồng qua nghiệp
vụ thị trường mở cho 1 số NHTM trúng thầu với lãi suất tới 13%/năm cho kỳ hạn 14
ngày, giảm 2% so với mức 15%/ năm của ngày 21/2/2008. Ngày 19/5/2008, các TCTD

ấn định lãi suất huy động và cho vay bằng VND trên cơ sở lãi suất cơ bản là 12%/năm,
lãi suất cho vay bằng VND tối đa là 18%/năm. Việc điều chỉnh mức lãi suất cơ bản lần
này lên 12%/năm được xác định dựa trên 3 cơ chế là: cơ sở lãi suất thị trường nội tệ liên
NH, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của NHNN, lãi suất huy động đầu vào của TCTD;
xu hướng biến động cung - cầu vốn; mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ trong ngắn
hạn. Hiện nay, do mặt bằng lãi suất thị trường tăng so với tháng 5/2008, đồng thời, dự
báo xu hướng biến động trong tg tới của LP, cung – cầu vốn thị trường, tỷ giá… Để tiếp
tục thực thi chính sách tiền tệ “thắt chặt” nhằm kiếm chế LP, ổn định KT vĩ mô, ngày
10/6/2008 Thống đốc NHNN đã ban hành các Quyết định về việc điều chỉnh lãi suất cơ
bản từ 12%/năm tăng lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 13%/năm lên 15%/năm, lãi
suất tái chiết khấu từ 11%/năm tăng lên 13%/năm và có hiệu lực thực hiện kể từ ngày
11/6/2008. Chính sách thắt chặt tiền tệ đầu năm của NHNN gắn liền với sự căng thẳng về
thanh khoản của các NHTM. Lãi suất huy động VND có kỳ biến động mạnh nhất từ
trước tới nay. Cuộc chạy đua bùng phát trong tháng 5 và tạo những đỉnh điểm nóng sốt
20
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương
trong tháng 6. Trên thị trường liên NH, lãi suất ghi nhận kỷ lục “treo” tới 43%/năm;
nhiều thành viên đồng loạt đẩy mức huy động trong dân cư lên tới trên 19%/năm, cá biết
có trường hợp áp tới 20%/năm. Đó cũng là thời điểm mà hđ cho vay của nhiều NHTM
cầm chừng, DN vay vốn khó khăn cả về lãi suất cao lẫn khả năng tiếp cận vốn, tín dụng
td gần như bị cắt bỏ, tốc độ tăng trưởng tín dụng bước vào vùng thấp nhất trong năm (liên
tục tăng dưới 1%/tháng; cả năm ước chỉ tăng khoảng 21% thay vì mức dự kiến khống chế
30%).Ngược lại, từ cuối tháng 7 cùng với cơ chế cho vay mới, sự hỗ trợ của NHNN với
nguồn vốn khả dụng của hệ thống tăng mạnh lên, lãi suất trên thị trường bắt đầu có đợt
thoái trào.
Đặc biệt từ tháng 9 đến cuối năm, gắn với những điều chỉnh các lãi suất chủ chốt
của NHNN, cả lãi suất huy động và cho vay dồn dập giảm; ít nhất có 8 đợt điều chỉnh
trên diện rộng. Từ đỉnh điểm trên 19%/năm, lãi suất huy động VND rút về quanh mốc
8%/năm; lãi suất cho vay tối đa từ 21%/năm về còn 12,75%/năm. Lãi suất huy động tăng
đã khiến cho các NH phải tăng lãi suất cho vay. Nhiều NH đang buộc khách hàng chấp

nhận lãi suất cho vay 24-25%. Các DN cũng đang khát tiền măt, tình trạng bán hàng dưới
giá hoặc vay với lãi suất cao khiến CPSX tăng đột biến dẫn đến LP 3 tháng đầu năm lên
tới 9,19%. Các bp của NHNN nói là chống LP nhưng đã trực tiếp làm mất giá đồng tiền
khi đặt các NH trong tình thế phải nâng lãi suất lên cao. Các NHTM đã ban hành các
quyết định lãi suất cho vay bằng VND áp dụng từ ngày 5/12/2008 với mức lãi suất cho
vay thấp nhất là 0,83%/tháng (10%/năm) và mức lãi suất cho vay phổ biến là
1,08%/tháng-1,17%/tháng (13%-14%/năm), lãi suất cho vay cao nhất là 1,25%/tháng
(15%/năm). Mức lãi suất này tương đương với mức lãi suất cuối năm 2007 và thấp nhất
trong năm 2008 (giảm 6-11%/năm so với thời điểm cao nhất cuối tháng.
21
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương
Diễn biến lãi suất năm 2008
II. Cách giải quyết của Ngân hàng TW
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước liên tiếp có các văn bản tăng cường hoạt động
thanh tra, xử lý các trường hợp vi phạm việc thực hiện cơ chế lãi suất mới; cũng như
thanh tra những trường hợp tăng lãi suất huy động quá đà.
Tại văn bản số 4426/NHNN-VP, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước yêu cầu Giám
đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố chỉ đạo thanh tra, kiểm tra chặt chẽ
tình hình thực hiện của các Ngân hàng thương mại trên địa bàn.
Trường hợp phát hiện đơn vị huy động vốn và cho vay vi phạm các quyết định về
lãi suất cơ bản (vượt quá 150% lãi suất cơ bản), thanh tra Ngân hàng Nhà nước tiến hành
lập biên bản xử phạt theo quy định của pháp luật và gửi ngay biên bản xử phạt (bằng fax)
về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Tại văn bản số 4428/NHNN-VP, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước yêu cầu thường
xuyên tiến hành kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các ngân hàng thương mại; khi phát
hiện ngân hàng công bố biểu lãi suất bất bình thường (lãi suất huy động tiền gửi sát lãi
suất cho vay tối đa) thì chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố thành lập ngay
đoàn thanh tra thực hiện thanh tra toàn diện tại đơn vị, trong đó chú trọng danh mục cho
22
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương

vay, chi tiêu… và gửi biên bản kết luận thanh tra về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để
báo cáo.
III. Chính sách của Chính Phủ.
Thống đốc NHNN đã triển khai một số giải pháp về điều hành các công cụ chính
sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng
hợp lý, bền vững và chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế. Theo đó, NHNN điều chỉnh
giảm 1%/năm đối với các loại lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn,
lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và lãi suất tiền gửi dự
trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng (TCTD) áp dụng từ ngày
5/12/2008; điều chỉnh giảm 2% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi không kỳ hạn
và có kỳ hạn dưới 12 tháng bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ có hiệu lực thi hành kể từ kỳ
duy trì dự trữ bắt buộc tháng 12/2008.
NHNN Việt Nam đã họp và thông báo việc điều chỉnh lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt
buộc cho các NHTM Nhà nước, NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam và Tổng Thư
ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam để quán triệt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ
và NHNN về mục đích của việc thực hiện các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ là
nhằm tạo điều kiện cho các TCTD và hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đảm bảo khả
năng huy động vốn và thanh toán, hoạt động kinh doanh an toàn, hiệu quả, giảm lãi suất
cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và hộ sản xuất.
CHƯƠNG IV
DIỄN BIẾN LÃI SUẤT NĂM 2009 – 2010
23
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương
I. Tình hình lãi suất Việt Nam giai đoạn 2009 – 2010
Trong năm 2010, duy trì đà tăng của lãi suất huy động vào những tháng cuối năm
2009, lãi suất huy động VND về cơ bản đã gia tăng ở những tháng đầu năm, giảm và duy
trì ổn định trong quý II, quý III và gia tăng mạnh trong hai tháng cuối năm. Tính đến cuối
tháng 12/2010, lãi suất huy động tăng 1,96 – 3,39% cho các kỳ hạn so với cuối năm
2009, tăng cao đặc biệt ở các kỳ hạn ngắn từ 1 tháng đến 3 tháng.
Trong 6 tháng đầu năm lãi suất đã tăng so với cùng kỳ của năm 2009 với hai mốc

tăng tương đối ổn định. Nếu như trong quý I/2010, lãi suất huy động tăng bình quân 0,03
– 0,07% cho tất cả các kỳ hạn chưa kể đến các hình thức khuyến mại thì bước sang tháng
đầu tiên của Quý II, để chấm dứt các chính sách tặng thưởng được xem là hình thức cạnh
tranh không lành mạnh, các NHTM đã từng bước công bố tăng lãi suất vượt ngưỡng
10,5% - là tỷ lệ được duy trì từ tháng 12/2009 để hình thành nên một mặt bằng lãi suất
mới biến động xoay quanh ngưỡng 12%. Việc lãi suất huy động cao đã tác động đẩy mặt
bằng lãi suất cho vay tăng cao trong điều kiện áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận vì
vậy đến tháng 7/2010 để tạo sự thống nhất về mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường,
NHNN và Hiệp hội ngân hàng đã yêu cầu các NHTM đồng thuận giảm lãi suất huy động
vốn bằng VND để góp phần thực hiện hạ mặt bằng lãi suất của thị trường theo Nghị
quyết 23/NQ – CP ngày 7/5/2010 của Chính phủ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản
xuất trong nền kinh tế tiếp cận được với vốn của khu vực ngân hàng khi mà tăng trưởng
tín dụng có xu hướng giảm hoặc tăng nhẹ trong những tháng đầu năm. Và như vậy là sau
khi tăng dần từ đầu năm, đến tháng 7 lãi suất huy động VND đón đợt điều chỉnh giảm
đầu tiên ở mức 11 – 11,2% cho các kỳ hạn và duy trì khá ổn định cho đến tháng 10. Cho
đến ngày 15/10/201, trên bình diện tốc độ huy động vốn đã được cải thiện rất nhiều so
với năm 2009 và trước nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp trong nền kinh tế trong bối cảnh lãi suất vay vốn ngày càng cao, dưới sự hỗ trợ
của NHNN và sự đồng thuận của các ngân hàng, lãi suất huy động một lần nữa được điều
chỉnh xoay quanh mức 10,8 – 11%. Tuy nhiên, trước sức ép của lạm phát vào những
tháng cuối năm, tỷ lệ lãi suất huy động ở lần điều chỉnh giảm thứ hai đã ngay lập tức gia
24
Đề tài: Diễn Biến Lãi Suất Việt Nam GVHD: Nguyễn Thanh Hương
tăng sau khi NHNN thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản lên 9%. Mặt bằng lãi suất
huy động mới được thiết lập ở mức 12%, và tiếp tục có xu hướng gia tăng mạnh, có thời
điểm giao động xoay quay mức 17 – 18%. Trước tình trạng leo thang khó có điểm dừng
của lãi suất huy động dưới nhiều hình thức, NHNN đã phải trực tiếp lên tiếng yêu cầu các
ngân hàng giảm mặt bằng lãi suất huy động, bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi
hình thức, sẽ không vượt quá 14%/năm. Như vậy, mặc dù đã cho phép các ngân hàng
được áp dụng lãi suất thỏa thuận nhưng trước việc chạy đua lãi suất, NHNN đã phải can

thiệp bằng biện pháp hành chính. Mặt bằng lãi suất huy động trung bình một số thời điểm
năm 2010 như sau:
Lãi suất huy động VND một số kỳ hạn tại một số thời điểm năm 2010 (đơn vị: %)
Ngày 1 tháng 2 tháng 3 tháng 6 tháng 9 tháng 12
tháng
18 tháng 24 tháng 36
tháng
31/12/09 10.29 10.289 10.35 10.37 10.36 10.37 10.367 10.387 10.38
26/06/10 11.19 11.28 11.38 11.468 11.47 11.51 11.29 11.32 11.32
31/12/10 13.68 13.69 13.65 13.34 13.05 13.38 12.32 12.34 12.35
Lãi suất huy động năm 2010
Mối quan hệ giữa lãi suất cơ bản & lãi suất huy động một số kì hạn năm 2010
II. Chính sách của Chính Phủ
Các tháng giữa năm, bắt đầu từ tháng 5/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị Quyết
23 ngày 7/5/2010 chỉ đạo NHNN có biện pháp phù hợp để khẩn trương hạ lãi suất huy
25

×