Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

quan hệ thương mại việt nam trung quốc (13)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.25 KB, 10 trang )

lƣợng công nghệ, giá trị gia tăng thấp.
Trong thƣơng mại với các nƣớc, Trung Quốc và Việt Nam có một số mặt hàng
cạnh tranh nhau nhƣ may mặc, da giày, một số mặt hàng bổ sung, hợp tác với nhau nhƣ
nông sản của Việt Nam xuất sang Trung Quốc, nguyên phụ liệu may mặc Trung Quốc
cung cấp cho công nghiệp may Việt Nam.
3.4.2.2. Tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Việt Nam và Trung Quốc cùng tham gia ngày càng nhiều các liên minh, các khối
thƣơng mại quy mô khu vực.
Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN - năm 1995), là
thành viên sáng lập của Diễn đàn kinh tế Á – Âu (ASEM - năm 1998), trở thành thành
viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dƣơng (APEC - năm 1998) và
đặc biệt là gia nhập Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO - năm 2007), đánh dấu sự hội
nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu. Đến nay, Việt Nam đã hoàn thành ký kết 15
FTA ở cấp độ song phƣơng và khu vực (trong đó đang thực thi 14 FTA, 1 FTA đã ký
nhƣng chƣa có hiệu lực), và đang đàm phán 2 FTA. Trong số đó, nổi bật nhất là 3 FTA
thế hệ mới gồm Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dƣơng
(CPTPP), Hiệp định thƣơng mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA)
và Hiệp định thƣơng mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vƣơng quốc Anh và Bắc Ailen (UKVFTA); và 1 FTA có quy mơ lớn nhất thế giới trong khn khổ ASEAN là Hiệp
định Đối tác Kinh tế tồn diện khu vực (RCEP) [77].
Trung Quốc và Việt Nam đều đã tham gia vào Tổ chức Thƣơng mại Thế giới
(WTO) nên nhiều hàng rào thuế quan đƣợc rỡ bỏ theo xu hƣớng tự do hóa thƣơng mại
của WTO. Hai nƣớc là hai nƣớc láng giềng nên có nhiều ƣu đãi riêng cao hơn trong
thƣơng mại biên mậu, thƣơng mại biên mậu nằm trong trƣờng hợp ƣu đãi ngoại lệ mà
WTO chấp nhận.
Hiệp định ACFTA (ASEAN-China Free Trade Area), hay còn gọi là Hiệp định
Thƣơng mại hàng hóa ASEAN - Trung Quốc đƣợc kí kết ngày 29/11/2004 tại Lào. Hiệp
định ACFTA hƣớng tới tăng cƣờng các quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn trong thế kỉ 21,
giảm thiểu các rào cản thƣơng mại và làm sâu sắc hơn mối liên kết kinh tế giữa các quốc

113



gia khu vực ASEAN và Trung Quốc. Sau khi Trung Quốc và Asean ký kết Hiệp định về
thƣơng mại hàng hoá và Thoả thuận cơ chế giải quyết tranh chấp tháng 11 năm 2004 tại
Viêng Chăn, hoạt động thƣơng mại của Việt Nam và Trung Quốc dần hƣớng tới quan hệ
trong khuôn khổ Hiệp định ký kết giữa Trung Quốc và ASEAN, khu vực mậu dịch tự do
ASEAN – Trung Quốc (ACFTA).
Với việc Trung Quốc và Việt Nam đều tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn
diện Khu vực, ngƣời Việt Nam, đặc biệt là nông dân địa phƣơng, có thể đƣợc hƣởng các
chính sách xuất khẩu thuận lợi hơn nhƣ thuế quan và rào cản giảm và thu hút nhiều hơn
đầu tƣ của Trung Quốc vào Việt Nam.
Việc tham gia vào các Hiệp ƣớc thƣơng mại quốc tế là CPTTP, FTA với EU và
FTA với Hàn Quốc là những Hiệp ƣớc có ảnh hƣởng tích cực mạnh mẽ nhất đến nền
kinh tế Việt Nam và sẽ giúp Việt Nam giảm lệ thuộc vào kinh tế Trung Quốc. Đặc biệt là
thƣơng mại hàng hóa với mục tiêu chính là giảm thuế và những rào cản hàng hóa dịch
vụ. Khi Việt Nam giam gia, sẽ có cơ hội gia tăng số lƣợng hàng hóa xuất khẩu đến các
quốc gia CPTTP. Với nguyên tắc là đòi hỏi nguyên liệu phải nhập từ các nƣớc CPTTP
thay vì nhập từ Trung Quốc, sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam giảm nhập nguyên phụ liệu từ
Trung Quốc, thu hút đầu tƣ từ các nƣớc CPTTP và có thị trƣờng xuất khẩu từ nƣớc này
mà không phải cạnh tranh với Trung Quốc.
3.4.2.3. Việt Nam trong việc đối phó với các chính sách thương mại chiến lược
mà một số nước, trong đó có Trung Quốc sử dụng để tăng tính cạnh tranh của sản phẩm
nước mình.
Trong khi hàng rào thuế quan đƣợc dỡ bỏ dần, các nƣớc lại gia tăng rào cản phi
thuế quan (NTM), đặc biệt là hàng rào kỹ thuật đối với thƣơng mại, các biện pháp vệ
sinh dịch tễ, chống trợ cấp, chống phá giá và tự vệ. Việc các nƣớc đặt ra rào cản kỹ thuật
rất khắt khe là thách thức lớn đối với xuất khẩu của Việt Nam. Trong khi thuế quan có
mục tiêu chính sách, cách thức thực hiện tƣơng đối rõ ràng và đơn giản, mục tiêu thực
hiện của các NTM lại khá trừu tƣợng nên các nƣớc (đặc biệt các nƣớc phát triển, các
nƣớc có kinh nghiệm trong các vụ tranh chấp thƣơng mại) có thể tận dụng để gây khó
khăn cho việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam.


114


Theo số liệu về NTM của Hội nghị Liên hợp quốc về thƣơng mại và phát triển
(UNCTAD), hàng xuất khẩu của Việt Nam chịu tác động của 44.408 NTM, chiếm 72%
của tổng số hơn 67.780 NTM của thế giới; trong tổng số NTM của Việt Nam, có 54% là
các rào cản kỹ thuật đối với thƣơng mại (TBT), 27% thuộc biện pháp kiểm dịch động,
thực vật (SPS),... Tỷ lệ này cũng tƣơng tự với tỷ lệ số lƣợng NTM của thế giới, dù tỷ lệ
các biện pháp TBT và SPS của thế giới cân bằng hơn ở Việt Nam và số lƣợng TBT ít
hơn số lƣợng SPS, lần lƣợt là 40% và 41% [78].
Từ lâu, các nƣớc trên thế giới đã sử dụng cơng cụ phịng vệ thƣơng mại (PVTM)
để bảo vệ các doanh nghiệp (DN) của mình đối với các hành vi cạnh tranh khơng lành
mạnh của hàng hóa nhập khẩu. Trong đó giai đoạn 1995 - 2014, biện pháp chống bán
phá giá là công cụ đƣợc sử dụng nhiều nhất, chiếm 88% trong tổng số 5.432 biện pháp
PVTM, chống trợ cấp: 7%, biện pháp tự vệ: 5%. Đặc biệt, trong giai đoạn suy thoái kinh
tế, các quốc gia đều sẵn sàng áp dụng các biện pháp PVTM bảo vệ các ngành công
nghiệp nội địa khỏi cạnh tranh nƣớc ngồi.
Nhìn chung, số lƣợng NTM theo đối tác song phƣơng ít hơn rất nhiều so với đối
tác đa phƣơng. Về song phƣơng, Mỹ, Niu Di-lân và Hàn Quốc là các nƣớc thuộc các khu
vực Bắc Mỹ, châu Đại Dƣơng, châu Á có nhiều NTM nhất đối với hàng xuất khẩu của
Việt Nam, tập trung vào biện pháp SPS; về đa phƣơng, Trung Quốc, Mỹ, Niu Di-lân, Ôxtrây-li-a, Ca-na-đa, Thái Lan là những quốc gia nổi bật trong các khu vực có số lƣợng
NTM lớn đối với các nƣớc và Việt Nam. Tuy nhiên, số lƣợng TBT chiếm ƣu thế hơn so
với số lƣợng SPS, trừ Thái Lan. Số lƣợng các biện pháp PVTM tập trung vào các vụ,
việc song phƣơng của Mỹ với Việt Nam [78].
Việt Nam và Trung Quốc đều có những biện pháp phi thuế quan để hạn chế bớt
nhập khẩu trong thƣơng mại với các đối tác.
3.4.2.5. Trung Quốc và Việt Nam đều sử dụng thương mại như là một cơng cụ
của chính sách đối ngoại.
Với việc Trung Quốc và Việt Nam đều tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn

diện Khu vực, ngƣời Việt Nam, đặc biệt là nơng dân địa phƣơng, có thể đƣợc hƣởng các
chính sách xuất khẩu thuận lợi hơn nhƣ thuế quan và rào cản giảm và thu hút nhiều hơn

115


đầu tƣ của Trung Quốc vào Việt Nam. Trung Quốc có thể tận dụng cơ hội này để tạo ảnh
hƣởng tích cực hơn ở Việt Nam và nâng cao quyền lực mềm của mình trong khu vực.
Việc lệ thuộc vào xuất nhập khẩu với Trung Quốc, do lợi thế về khoảng cách địa
lý là nƣớc láng giềng, có thƣơng mại biên mậu; và do Trung Quốc có nhiều lợi thế khác
nhƣ qui mô thị trƣờng rộng lớn cho xuất khẩu, giá rẻ cho nhập khẩu nguyên liệu máy
móc đầu vào cho sản xuất, có thể khiến chính sách đối ngoại của Việt Nam cũng bị phụ
thuộc vào Trung Quốc hơn so với các nƣớc khác.
Trong bối cảnh lợi ích trong nƣớc của Việt Nam bị đe dọa, với ví dụ là sự kiện
xung đột biển Đông Gần đây, sự quyết đoán và hành động ngày càng tăng của Trung
Quốc tại các vùng biển tranh chấp đã làm dấy lên các cuộc biểu tình chống Trung Quốc
ở Việt Nam. Các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc nổ ra vào năm 2014 để phản ứng
lại việc Trung Quốc triển khai giàn khoan dầu trong khu vực tranh chấp [89]. Với suy
nghĩ này, Việt Nam có nhiều khả năng xây dựng quan hệ đối tác mạnh mẽ hơn với Hoa
Kỳ và tìm kiếm sự hỗ trợ từ Hoa Kỳ để giúp nƣớc này đạt đƣợc lợi ích quốc gia của
mình tại các vùng biển tranh chấp. Tranh chấp vùng Biển Đơng có thể làm các doanh
nghiệp hai nƣớc có xu hƣớng thay đổi đối tác thƣơng mại, tìm các đối tác thƣơng mại
mới ở các nƣớc khác.
Trong bối cảnh khi xung đột thƣơng mại giữa các đối tác thƣơng mại ảnh hƣởng
đến thƣơng mại Việt Trung, việc sử dụng các chính sách thƣơng mại chiến lƣợc để tăng
lợi ích, giảm bất lợi. Cuộc chiến thƣơng mại Mỹ - Trung Quốc sẽ tác động đến việc
chuyển hƣớng xuất, nhập khẩu hàng hóa; nguy cơ lẩn tránh xuất xứ hàng hóa của một số
nƣớc vào Việt Nam; thay đổi chuỗi cung ứng; thay đổi dòng vốn đầu tƣ. Hơn nữa, việc
Việt Nam tham gia các FTA nên Trung Quốc cũng có thể lợi dụng Việt Nam để tránh
các rào cản thƣơng mại từ các nƣớc khác.

Từ tháng 2-2018, thép Việt Nam xuất khẩu có nguồn gốc Trung Quốc chịu mức
thuế kỷ lục chống trợ cấp và chống bán phá giá là 522%, trong khi thép chống ăn mịn
Việt Nam sản xuất từ phơi thép Trung Quốc sẽ phải chịu mức thuế 238% vì bị cho rằng,
việc nhập khẩu các sản phẩm thép này là hành vi né tránh lệnh chống bán phá giá và
chống trợ cấp của Mỹ (AD/CVD) áp dụng đối với thép CORE và thép cán nguội nhập

116


khẩu từ Trung Quốc [78]. Các công ty Trung Quốc có xu hƣớng tránh/giảm thiểu tác
động tiêu cực của chiến tranh thƣơng mại Mỹ - Trung thông qua vận dụng các hiệp định
thƣơng mại tự do của Việt Nam . Việt Nam đã đƣợc sử dụng nhƣ một nền tảng trung
chuyển thuận tiện cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc để tránh thuế quan do Hoa Kỳ áp
đặt đối với Trung Quốc. Điển hình là việc thép Trung Quốc đƣợc đƣa vào Việt Nam và
đóng gói lại thành thép Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ. Điều này đã dẫn đến căng thẳng
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, với việc Mỹ áp thuế hơn 400% đối với thép cán nguội và
thép dẹt của Việt Nam. Những sự việc trên cho thấy Việt Nam cần cân nhắc trong việc
so sánh về mặt lợi ích khi nhập đầu vào sản xuất của nƣớc ta còn quá phụ thuộc vào
Trung Quốc, trong khi Trung Quốc vẫn trong cáo buộc sử dụng chính sách thƣơng mại
khơng cơng bằng trong thƣơng mại quốc tế nhƣ chính sách phá giá tiền tệ.
3.4.2.6. Phát triển bền vững với thương mại quốc tế.
Một số các vấn đề phức tạp về thƣơng mại liên quan đến thẩm quyền pháp lý, vấn
đề ngoại giao thƣơng mại trong thƣơng mại Trung Quốc và Việt Nam.
Xét về mặt lợi ích, thƣơng mại Việt Nam – Trung Quốc vẫn có lợi cho cả hai
nƣớc. Hai nƣớc vẫn tiếp tục tăng cƣờng các hoạt động quảng bá, xúc tiến đầu tƣ, thƣơng
mại, nâng cao hình ảnh quốc gia với nhiều hình thức đa dạng để củng cố thị trƣờng
truyền thống và tiếp tục mở rộng thƣơng mại. Tháng 5 năm 2021, tại buổi làm tiếp Đại
sứ nƣớc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam Hùng Ba, Bộ trƣởng Bộ Công
Thƣơng Nguyễn Hồng Diên đã khẳng định, Đảng, Chính phủ và Bộ Cơng Thƣơng Việt
Nam rất coi trọng quan hệ hợp tác toàn diện với Trung Quốc, đặc biệt là quan hệ hợp tác

kinh tế, thƣơng mại. Bộ trƣởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị Đại sứ và Đại sứ quán Trung
Quốc thời gian tới, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thƣơng tháo gỡ kịp thời
những khó khăn, vƣớng mắc trong quan hệ hợp tác kinh tế, thƣơng mại song phƣơng,
nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của doanh nghiệp hai nƣớc.
Trong đó bao gồm việc mở cửa thị trƣờng cho hàng nông sản Việt Nam, miễn kiểm tra
vi-rút SARS-CoV-2 đối với nông sản, thủy sản và thực phẩm đông lạnh Việt Nam, khôi
phục các cửa khẩu, cặp chợ đang tạm thời dừng thông quan do dịch Covid-19, hỗ trợ các
hoạt động kết nối doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp Trung Quốc….Đặc biệt tại

117


buổi làm việc, Bộ trƣởng Nguyễn Hồng Diên đã đề nghị ngài Đại sứ và Đại sứ quán
Trung Quốc tạo điều kiện cho việc tiêu thụ các loại hoa quả, nông sản của Việt Nam,
nhất là những loại trái cây sắp vào vụ thu hoạch nhƣ vải thiều, nhãn, xoài của Bắc Giang,
Hải Dƣơng, Sơn La và các địa phƣơng khác của ba miền [75].
3.4.2.7. Cạnh tranh bá quyền của các nước lớn.
Chiến tranh thương mại, tài chính tiền tệ và xung đột quân sự ở thế giới.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, khu vực hóa và xu thế hội nhập kinh tế tiếp tục diễn
ra mạnh mẽ nhƣ hiện nay, sự phụ thuộc và tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày
càng gia tăng, biến động chính trị ảnh hƣởng đến quan hệ kinh tể, thƣơng mại giữa các
quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Quan hệ thƣơng mại Việt Nam - Trung Quốc đƣợc đặt trong các tam giác quan
hệ với các quốc gia khác, trong đó các cặp quan hệ trọng điểm là quan hệ với khu vực
Đông Nam Á (quan hệ Trung Quốc - ASEAN - Việt Nam); với châu Á - Thái Bình
Dƣơng (quan hệ Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản); với các cƣờng quốc lớn trong quá
trình cạnh tranh tầm ảnh hƣởng (quan hệ Hoa Kỳ - Trung - ASEAN). Trong những mối
quan hệ phức tạp này, những thay đổi chính trị - xã hội bất thƣờng trong mỗi quốc gia có
thể khiến chính sách đối ngoại của quốc gia khác bị ảnh hƣởng.
Quan hệ ASEAN - Trung Quốc đã đạt đƣợc nhiều thành tựu trên các phƣơng diện

từ kinh tế (thƣơng mại, đầu tƣ), đến chính trị (ngoại giao), và văn hóa xã hội. Hai bên đã
ký kết nhiều thỏa thuận hợp tác ngoại giao quan trọng làm nền tảng cho các quan hệ kinh
tế, chính trị nhƣ Tuyên bố chung Trung Quốc - ASEAN hƣớng tới thế kỷ XXI năm
1997, Tuyên bố về hành vi ứng xử của các bên ở biển Đông năm 2002, Tuyên bố chung
về quan hệ đối tác chiến lƣợc năm 2003 và Chƣơng trình hành động năm 2004, và rất
nhiều các văn bản hợp tác về an ninh phi truyền thống khác nhƣ chống khủng bố, tội
phạm xuyên quốc gia, an ninh biển, không phổ biến vũ khí hạt nhân... Tuy nhiên, giữa
hai bên vẫn tồn tại những tranh chấp, bất đồng về chính trị - an ninh, chủ quyền quốc gia,
đặc biệt trong vấn đề biển Đông. Tuy nhiên, về cơ bản, các quốc gia ASEAN, trong đó
có Việt Nam, đều coi trọng việc thúc đẩy hợp tác kinh tế - thƣơng mại với Trung Quốc,
coi sự trỗi dậy về kinh tế của Trung Quốc là "cơ hội cho tất cả" [52].

118


Tuy nhiên, quan hệ Trung Quốc với các quốc gia ASEAN cũng chịu sự chi phối
của các cặp quan hệ khác nhƣ quan hệ Trung Quốc - Nhật Bản hay Trung Quốc - Hoa
Kỳ. Các cƣờng quốc trong cuộc cạnh tranh khẳng định vai trị và vị thế của mình trên
bản đồ thế giới không thể không cần đến các nƣớc nhỏ, do vậy, hình thành nên những
mối liên kết kinh tế - chính trị đan xen giữa các quốc gia. Trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dƣơng, Nhật Bản và Trung Quốc là hai nƣớc lớn, có ảnh hƣởng lớn đến kinh tế của
nhiều quốc gia trong khu vực, nhƣng quan hệ ngoại giao khá mờ nhạt và chứa đựng
nhiều mâu thuẫn của hai quốc gia này khiến khả năng hình thành một liên minh kinh tế chính trị trong khu vực là khó khả thi. Bên cạnh đó, chiến lƣợc xoay trục sang châu Á
của Mỹ (những năm qua đã giúp ảnh hƣởng của Mỹ tại khu vực ngày càng gia tăng, đặc
biệt tại Malaysia, Indonesia, Philippines. Tuy vậy, nỗ lực này bị đứt quãng khi Hiệp định
đối tác xuyên Thái bình dƣơng – TPP) bị hủy bỏ.
Gần đây, Chiến tranh Thƣơng mại Mỹ Trung (2018) bắt đầu nổ ra, có tác động
sâu sắc tới luồng thƣơng mại, đầu tƣ ra vào Trung Quốc – Việt Nam, nhất là những mặt
hàng mà Mỹ trừng phạt Trung Quốc.
Đại dịch Covid-19 bùng phát toàn cầu cũng làm đứt gãy các dịch vụ thƣơng mại,

chuỗi cung ứng cũng nhƣ nhân lực. Anhr hƣởng sâu rộng tới nhiều nƣớc, trong đó có
Trung Quốc và Việt Nam.
Chiến sự Nga-Ucraina nổ ra cũng có tác động sâu rộng lên mức giá cả tồn cầu,
luồng thƣơng mại nhiều nƣớc, trong đó có Mỹ, Trung Quốc và Việt Nam.
3.4.3. Nguyên nhân tạo nên lợi ích, hạn chế trong quan hệ thương mại Việt
Nam - Trung Quốc
3.4.3.1 Nguyên nhân tạo nên lợi ích từ quan hệ thương mại trong nước
Thành tựu, lợi ích từ dịng thƣơng mại lớn giữa 2 nƣớc chủ yếu đến từ các
nguyên nhân sau:
Một là, hai nƣớc nhận thực đƣợc lợi ích từ mở cửa thƣơng mại để thúc đẩy
thƣơng mại, đầu tƣ giữa hai nƣớc, qua đó, các chính sách giữa 2 nƣớc ngày càng mở, qua
đó nâng cao lợi ích quốc gia. Việt Nam và Trung Quốc cùng tham gia ngày càng nhiều
các liên minh, các khối thƣơng mại quy mô khu vực.

119


Hai là, những lợi thế so sánh có đƣợc của từng nƣớc. Những lợi thế này tạo lợi
thế cạnh tranh lẫn bổ sung lẫn nhau. Thị trƣờng Trung Quốc là rất lớn, rất đa dạng, đƣợc
coi là một nền kinh tế khu vực thu nhỏ, với nhu cầu rất đa dạng và vẫn tƣơng đối dễ tính.
Là 2 nƣớc láng giềng, Việt Nam có thị trƣờng tƣơng đối lớn trên thế giới, là cửa ngõ
xuống phía Nam của Trung Quốc, nhất là đã có FTA với hầu hết các nƣớc trên thế giới.
Ba là, bản thân khu vực FDI năng động, cùng với nền kinh tế khá mở của Việt
Nam cũng thúc đẩy các luồng thƣơng mại, xây dựng chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị giữa 2
nƣớc và trong khu vực.
Bốn là, những xung đột thƣơng mại (nhất là Chiến tranh thƣơng mại Mỹ Trung), việc kiểm soát đại dịch Covid-19 khá hiệu quả, vị trí địa kinh tế thuận lợi của cả
hai nƣớc cũng giúp thúc đẩy luồng vốn FDI, thƣơng mại chuyển ra, né Trung Quốc để
xuống Việt Nam.
3.4.3.2. Nguyên nhân của hạn chế trong quan hệ thương mại Việt Nam - Trung
Quốc

Nguyên nhân của những hạn chế bao gồm:
Một là, năng lực sản xuất, đổi mới sáng tạo, thị trƣờng của Việt Nam chƣa đủ lớn,
đủ cạnh tranh, hiệu quả từ chính sách bảo hộ của Chính phủ;
Hai là, Việt Nam vẫn chƣa xây dựng đƣợc một nền công nghiệp hỗ trợ đủ hiệu
quả để tự chủ nền kinh tế, kìm nén đƣợc nguồn hàng hóa đầu vào từ Trung Quốc; qua
đó, việc nhập siêu là triền miên, rất lớn.
Ba là, chính sách quản lý nhà nƣớc vẫn còn chƣa đƣợc hữu hiệu nhƣ Trung Quốc.
Nhất là việc buông lỏng công tác quản lý đi cùng với khó khăn của địa hình. Về chống
bn lậu, sự hợp tác giữa các cơ quan Trung ƣơng với các cơ quan địa phƣơng đặc biệt
các ngành dọc trong việc phòng chống bn lậu dọc tuyến biên giới phía Bắc vẫn chƣa
thực sự sát, kịp thời, chặt chẽ. Bên cạnh đó, Trên tuyến đƣờng bộ, đƣờng biển của một số
tỉnh nhƣ: Lạng Sơn, Quảng Ninh, Lào Cai, Điện Biên do có địa hình hiểm trở, nhiều
đƣờng mịn, lối tắt nên đã hình thành nhiều khu vực, địa bàn trọng điểm về bn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, gian lận thƣơng mại và hàng giả.
Về kiểm soát các mặt hàng kém chất lƣợng của Trung Quốc trên thị trƣờng Việt

120


Nam. Việc quản lý các mặt hàng kém chất lƣợng của Trung Quốc trên thị trƣờng của ta
rất kém, điển hình là các mặt hàng hoa quả, rau, củ. Nhiều thƣơng nhân, chủ đầu mối rau
quả tại thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, việc nhập khẩu hàng nơng sản rất dễ dàng,
phần lớn đƣợc đƣa thẳng từ cửa khẩu tới các chợ mà gần nhƣ không qua một khâu kiểm
tra, kiểm dịch nào. Việc tiến hành kiểm tra các loại rau quả lƣu hành trên thị trƣờng Việt
Nam, chủ yếu là mang tính đại diện, trên quy mơ nhỏ, và lực lƣợng chức năng khơng
kiểm sốt đƣợc chất lƣợng thật của các sản phẩm này.
Việc kiểm soát vấn đề thƣơng lái Trung Quốc thao túng việc thu mua nông sản
của Việt Nam vần tƣơng đối phổ biến. Điều này là do việc quản lý của Việt Nam buông
lỏng và chƣa chặt chẽ. Chính quyền các địa phƣơng cũng chƣa sát sao trong việc định
hƣớng cho ngƣời dân trong việc ―ni con gì, trồng cây gì‖, để dẫn đến tình trạng ngƣời

dân trồng ồ ạt các sản phẩm mà thƣơng lái Trung Quốc đang thu mua mạnh, rồi đột ngột
dừng để ép giá. Bên cạnh đó, với tâm lý hám lời trƣớc sự thu mua dễ dàng các sản phẩm
nông sản của Việt Nam, các hộ gia đình đua nhau sản xuất các sản phẩm mà thƣơng lái
Trung Quốc thu mua mạnh.
Buông lỏng quản lý đối với việc khai thác tài nguyên trái phép. Trƣớc nhu cầu về
tài nguyên lớn của Trung Quốc, ta cũng đã có những chính sách về quản lý việc khai
thác tài nguyên. Tuy nhiên, tình trạng khai thác tài nguyên trái phép vẫn chƣa đƣợc kiểm
sốt hiệu quả. Về khách quan, Việt Nam có nhiều điểm mỏ nhỏ, lẻ, dễ khai thác nằm dọc
tuyến biên giới phía Bắc. Với địa hình liền kề Trung Quốc với nhiều, đã tạo điều kiện
cho hoạt động khai thác trái phép tài nguyên thiên nhiên xuất khẩu sang Trung Quốc. Về
chủ quan, theo Bộ Công thƣơng, việc thiếu kiểm soát chặt chẽ sau cấp phép, hay cấp
phép cho tổ chức, cá nhân không đủ năng lực dẫn đến chuyển nhƣợng, mua bán mỏ bất
hợp pháp ngồi tầm kiểm sốt của Nhà nƣớc, cùng với việc chủ trƣơng không cho xuất
khẩu đối với một số loại khoáng sản nhƣ ilmenit, sắt, đồng, chì, kẽm, cromit, bauxit,
mangan, apatit, đá hoa trắng v.v... (trong khi các dự án chế biến sâu trong nƣớc không
đáp ứng đƣợc yêu cầu) là những nguyên nhân làm gia tăng hoạt động khai thác trái phép
và xuất lậu khống sản.
Bốn là, chính sách thƣơng mại của Trung Quốc, nhất là thƣơng mại biên mậu vẫn

121


cịn bất cập, đơi khi chậm cập nhật, chƣa đủ minh bạch. Việc xuất khẩu nông sản của
Việt Nam nhiều khi bị ách tắc, thậm chí bị giảm giá trị vì đợi thống quan q lâu có phần
quan trọng là đơi khi phía Trung Quốc khơng thống báo kịp thời về chính sách biên mậu
(thời gian, mặt hàng, thủ tục, cửa khẩu nhập khẩu từ Việt Nam)
Năm là, thống kê thƣơng mại Việt Nam – Trung Quốc tại 2 quốc gia lại chênh
nhau rất nhiều, do khó khăn trong thống kê thƣơng mại tiểu ngạch qua đƣờng biên giới 2
nƣớc. Chẳng hạn năm 2014, phía Trung Quốc thống kê thƣơng mại 2 chiều khoảng 83 tỷ
USD, nhƣng phía Việt Nam thống kê chỉ 58 tỷ [88].

Sáu là, Trung Quốc sử dụng thƣơng mại nhƣ là một cơng cụ của chính sách
đối ngoại.
Trong bối cảnh lợi ích bị đe dọa, với ví dụ là sự kiện xung đột biển Đơng Gần
đây, sự quyết đoán và hành động ngày càng tăng của Trung Quốc tại các vùng biển tranh
chấp đã làm dấy lên các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Việt Nam. Các cuộc biểu
tình phản đối Trung Quốc nổ ra vào năm 2014 để phản ứng lại việc Trung Quốc triển
khai giàn khoan dầu trong khu vực tranh chấp [89]. Với suy nghĩ này, Việt Nam có nhiều
khả năng xây dựng quan hệ đối tác mạnh mẽ hơn với Hoa Kỳ và tìm kiếm sự hỗ trợ từ
Hoa Kỳ để giúp nƣớc này đạt đƣợc lợi ích quốc gia của mình tại các vùng biển tranh
chấp. Tranh chấp vùng Biển Đơng có thể làm các doanh nghiệp hai nƣớc có xu hƣớng
thay đổi đối tác thƣơng mại, tìm các đối tác thƣơng mại mới ở các nƣớc khác.
T ểu kết h

n 3

Các chính sách của Trung Quốc là nguyên nhân kinh tế chính trị chính trong
thƣơng mại Việt Nam – Trung Quốc, nó gồm 4 nội dung chính. Thứ nhất, chỉ ra về vai
trò (hay tầm quan trọng về lợi ích thƣơng mại) của Trung Quốc đối với Việt Nam trong
mối quan hệ thƣơng mại giữa hai nƣớc hiện nay. Thứ hai, nêu các chính sách thƣơng mại
chiến lƣợc để tăng cƣờng lợi ích mà Trung Quốc đang sử dụng. Thứ ba, chỉ ra việc sử
dụng các chính sách thƣơng mại chiến lƣợc để tăng lợi ích, giảm bất lợi, khi xung đột
thƣơng mại giữa các đối tác thƣơng mại ảnh hƣởng đến thƣơng mại Việt Trung, với ví
dụ là chiến tranh thƣơng mại Mỹ Trung. Thứ tƣ, chỉ ra việc sử dụng các chính sách
thƣơng mại chiến lƣợc trong bối cảnh lợi ích trong nƣớc của Việt Nam bị đe dọa, với ví

122




×