Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN NỀN KINH TẾ XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 1985 1986

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.01 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-----------------------------

TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG CƠNG
CUỘC ĐỔI MỚI TỒN DIỆN NỀN KINH TẾ - XÃ
HỘI GIAI ĐOẠN 1985 - 1986


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-----------------------------

TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG CƠNG
CUỘC ĐỔI MỚI TỒN DIỆN NỀN KINH TẾ - XÃ
HỘI GIAI ĐOẠN 1985 - 1986


MỤC LỤC
LỜI NĨI ĐẦU............................................................................................................................1
1.

Đặt vấn đề.........................................................................................................................1

2.



Mục đích nghiên cứu........................................................................................................1

3.

Đối tượng nghiên cứu.......................................................................................................2

4.

Cấu trúc dự kiến của đề tài...............................................................................................2

NỘI DUNG.................................................................................................................................3
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ KINH
TẾ - XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 1985-1986...................................................................................3
1. Bối cảnh thế giới:.............................................................................................................3
2. Bối cảnh các nước thuộc khối Xã hội chủ nghĩa:.............................................................3
2.1. Liên Xô:.....................................................................................................................3
2.2. Trung Quốc:...............................................................................................................5
2.2.1. Trung Quốc thời kỳ "Đại nhảy vọt"và "Cách mạng văn hoá" (1958-1977).......5
2.2.2. Cải cách mở cửa ở Trung Quốc..........................................................................5
3. Tình hình Việt Nam:.........................................................................................................7
4. Kết luận............................................................................................................................8
II. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ THỰC HIỆN CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ VỀ KINH TẾ XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 1985-1986...........................................................................................9
1. Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (8/1979) - Tiền đề cho các bước đột phá tiếp theo.......9
2. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá V (6-1985) - Bước đột phá
thứ hai.................................................................................................................................10
3. Hội nghị Bộ Chính trị khố V (8-1986) - Bước đột phá thứ ba.....................................11
4. Thành tựu về kinh tế - xã hội của Việt Nam sau các bước đột phá................................13
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI 1985-1986 VÀ
VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘC XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY........................15

Bài học thứ nhất về xây dựng Đảng...................................................................................15
Bài học thứ hai về dân........................................................................................................16
Bài học thứ ba về lãnh đạo.................................................................................................16
Bài học thứ tư về thể chế và giải quyết các mối quan hệ...................................................16
Bài học thứ năm về quốc phòng, an ninh...........................................................................16
KẾT LUẬN...............................................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................19


LỜI NĨI ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Bởi đổi mới là cơng cuộc có tính tổng thể, được chuẩn bị bài bản, theo
cách thức, với từng đường đi nước bước cụ thể, được cân nhắc chắc chắn, triển
khai một cách sâu rộng và đồng bộ, cho nên 37 năm qua, công cuộc đổi mới đã
thật sự gắn bó với vận mệnh dân tộc, vận mệnh đất nước, gắn bó với mỗi người
Việt Nam, và được bạn bè quốc tế hết sức quan tâm. Qua 37 năm đổi mới, đất
nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở
thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bộ mặt đất nước, đời sống của nhân dân
thật sự thay đổi; dân chủ XHCN được phát huy và mở rộng; đại đoàn kết tồn
dân tộc được củng cố, tăng cường. Cơng tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị được đẩy mạnh; sức mạnh về mọi mặt
của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và
chế độ XHCN được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào
chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao…
Những thành tựu trên là kết quả của quá trình đổi mới đầy nỗ lực và sáng tạo của
toàn thể nhân dân Việt Nam, mà khởi nguồn là chủ trương của Đảng về thực
hiện các bước đột phá trong đổi mới kinh tế - xã hội giai đoạn 1985-1986. Nhận
thức được tầm quan trọng và tác động to lớn của những chủ trương đó, nhóm tác
giả lựa chọn đề tài: “Vai trị lãnh đạo của Đảng trong cơng cuộc đổi mới tồn

diện kinh tế - xã hội giai đoạn 1985-1986”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trong bối cảnh xu thế tồn cầu hố, hội nhập quốc tế và dưới cuộc tác
động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, công cuộc
đổi mới cần được thực hiện cấp thiết, mang tính tồn cầu và phù với những yêu
cầu khách quan của thời đại. Văn kiện Đại hội XIII trong bối cảnh mới đã chỉ rõ:
1


"Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta là đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ
cơng cuộc Đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết
chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội
là nhiệm vụ trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền
tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên". Đề tài
“Vai trị lãnh đạo của Đảng trong cơng cuộc đổi mới toàn diện kinh tế - xã hội
giai đoạn 1985-1986” đã nêu ra những nội dung về chủ trương Đảng ta trong
thời kỳ đổi mới năm 1985-1986. Qua đó nhóm tác giả đã tóm tắt nội dung và
đánh giá tác động của những chủ trương của Đảng trong việc giúp nước ta thoát
khỏi cuộc khủng hoảng những năm 80 của thế kỉ XX. Từ đó đề cao vai trị lãnh
đạo sáng suốt của Đảng và rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu vận dụng
trong công cuộc đổi mới và phát triển bền vững hiện nay cho nước ta.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng: Chủ trương đổi mới kinh tế - xã hội
Phạm vi thời gian: 1985-1986
Phạm vi không gian: Việt Nam
4. Cấu trúc dự kiến của đề tài
Phần I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ CÁC BƯỚC
ĐỘT PHÁ KINH TẾ - XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 1985-1986
Phần II: CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ THỰC HIỆN CÁC BƯỚC ĐỘT
PHÁ VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 1985-1986

Phần III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
1985-1986 VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘC X Y DỰNG ĐẤT NƯỚC
HIỆN NAY

2


NỘI DUNG
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ CÁC BƯỚC
ĐỘT PHÁ KINH TẾ - XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 1985-1986
1. Bối cảnh thế giới:
Từ những năm 1980, các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục
phát triển một cách mạnh mẽ, đem đến nhiều tác động đáng kể đến mọi mặt đời
sống của các quốc gia, dân tộc. Xu hướng tự do hóa và tồn cầu hóa nền kinh tế,
cùng sự phát triển của các tập đoàn đa quốc gia đã thay đổi bộ mặt toàn cầu từ
sau năm 1980.
Mở đầu với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3, bắt đầu khoảng từ
1970, với sự ra đời và lan tỏa của công nghệ thông tin (CNTT), sử dụng điện tử
và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Cuộc cách mạng này thường
được gọi là cuộc cách mạng máy tính hay cách mạng số bởi vì nó được xúc tác
bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân (thập niên
1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990).
Vào giữa những năm 80 của thế kỷ XX, cuộc Cách mạng khoa học và
công nghệ chuyển sang giai đoạn mới: giai đoạn hiện đại hóa với cơng nghiệp
siêu dẫn, giai đoạn vi điện tử, giai đoạn tin học hóa.
Bên cạnh đó, các nước thuộc khối Xã hội Chủ nghĩa lại đang rơi vào
khủng hoảng sâu sắc. Đặc biệt là Liên Xơ, tuy có sự tăng trưởng về kinh tế cao
hơn trước, chính trị lại diễn biến ngày càng phức tạp và bất ổn.
Trên phạm vi toàn thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột,
tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới bấy giờ là hòa bình và hợp

tác cùng nhau phát triển. Các quốc gia, các tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế
lần lượt thực hiện điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành
động cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bên trong và đặc điểm của thế giới
Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước
đang phát triển đặc biệt là khu vực Châu Á và Đông Nam Á bắt buộc phải đổi
mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế.
2. Bối cảnh các nước thuộc khối Xã hội chủ nghĩa:
2.1. Liên Xô:
Trong nửa đầu của thế kỷ XX, nền kinh tế của Liên Xô ghi nhận mức tăng
trưởng kỷ lục, đưa Liên Xô lên vị thế cường quốc thứ hai trên thế giới và là mối
3


lo ngại với Mỹ. Viện sĩ V.O.T.Sharapova sinh năm 1924, Cựu chiến binh Chiến
tranh Vệ quốc, từng làm việc trong Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Liên Xô, người
được giải thưởng của Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, trong một loạt bài giảng năm
2008 về Liên Xô đã viết: "Từ năm 1924 đến năm 1955 là thời kỳ thu nhập quốc
dân của Liên Xô đạt kỷ lục thế giới với mức tăng trưởng tới 15%, kể cả những
năm Chiến tranh thế giới thứ hai. Tiềm lực công nghiệp của Liên Xô vào năm
1922 mới đạt 3% so với Mỹ, nhưng tới năm 1955, con số này là 60%. Liên Xô
trở thành cường quốc thứ hai trên thế giới sở hữu vũ khí hạt nhân, cơng nghệ tên
lửa và cơng nghệ vũ trụ, phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên vào năm 1957. Vượt
qua hai cuộc chiến, mức sống của người dân Xô viết đạt mức khá cao so với thế
giới, nợ quốc gia hầu như bằng không."
Tuy nhiên, càng về sau, mơ hình kế hoạch hóa càng để lại những “di sản
âm tính”. Đó là sự thiếu vắng cạnh tranh lành mạnh; khơng có động cơ của cả
người lao động và xí nghiệp về tay nghề và năng suất lao động, từ đó hàng hóa
sản xuất ra có chất lượng không cao, đồng thời tỷ suất tiêu thụ nguyên liệu của
nền sản xuất quan liêu - mệnh lệnh quá cao. Khâu kế hoạch hóa nền kinh tế chu

kỳ trước 5 năm quá tốn kém và không đáng tin cậy trong bối cảnh tranh đua kinh
tế quyết liệt với phương Tây, khơng có khả năng xử lý nhanh với các thiên tai,
thảm họa tự nhiên và phát sinh trong thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mơ hình kinh tế kế hoạch, bao cấp nặng nề “đẻ ra” nạn tham nhũng, ăn cắp của
cơng. Thời Nikita Khrushchev làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô (19531964), ông  gạch khỏi Hiến pháp Liên Xô Điều 131: “Mỗi công dân Xô viết có
nghĩa vụ gìn giữ và củng cố tài sản XHCN, như nền móng thiêng liêng bất khả
xâm phạm của chế độ, cũng chính là nguồn cho cuộc sống văn hóa vơ cùng
phong phú của tồn thể những người lao động”. Theo học giả Sharapova,
Khrushchev vơ hình trung tạo những tiền đề cần thiết để cho các tổ chức mafia
xuất hiện, “bật đèn xanh” cho việc cướp phá tài sản quốc gia và sự trù úm những
ai đấu tranh chống tiêu cực.
Trong hai nhiệm kỳ của Tổng bí thư Leonid Brezhnev (1964-1982), Liên
Xơ đã trải qua một thời kỳ trì trệ kéo dài. Nguyên nhân là do sự gia tăng dân số
yêu cầu lượng hàng tiêu dùng lớn hơn, nhưng kế hoạch cứng nhắc của nhà nước
khơng khuyến khích được các doanh nghiệp gia tăng năng suất và chất lượng
hàng hoá. Mức lương của công nhân rất cao, trong khi giá cả giữ ở mức thấp và
khả năng sản xuất thấp dẫn đến hiện tượng thiếu hụt nguồn cung xảy ra thường
xuyên. Cùng lúc đó, khoản chi tiêu khổng lồ trong cuộc chạy đua vũ trang với
4


Mỹ làm giảm khả năng đầu tư vào hiện đại hố cơng nghiệp và cải thiện tiêu
chuẩn sống. 
Tình hình trên dẫn đến những kêu gọi về cải cách nền kinh tế quan liêu,
nhiều yếu điểm nhằm cải thiện đời sống nhân dân Liên Xô.
2.2. Trung Quốc:
2.2.1. Trung Quốc thời kỳ "Đại nhảy vọt"và "Cách mạng văn hoá" (1958-1977)
Vào năm 1958, sau kế hoạch 5 năm lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Nhân
dân Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã kêu gọi phát triển một cuộc "Chủ nghĩa xã
hội triệt để" nhằm đưa Trung Quốc bước lên một tầm cao mới, xây dựng một xã

hội Cộng sản theo mơ hình tự cung tự cấp. Để thực hiện, Mao khởi xướng kế
hoạch có tên gọi là “cuộc Đại nhảy vọt”, thiết lập các “Xã Nhân dân đặc biệt”
(thường gọi là Công xã nhân dân) ở nông thôn Trung Quốc – thông qua việc sử
dụng lao động tập thể và vận động quần chúng. Rất nhiều “Công xã nhân dân
đặc biệt” được huy động chỉ để sản xuất một mặt hàng duy nhất là thép. Cộng
với việc tiếp tục xuất khẩu lương thực mặc cho sự thiếu thốn cục bộ trong nước
và sự che giấu của các nhà lãnh đạo khi đã phóng đại các số liệu thống kê về sản
lượng thép, nhân dân Trung Quốc đã trải qua nạn đói cướp đi sinh mạng của
khoảng 20-30 triệu người. 
Sau thất bại của "Đại nhảy vọt", Mao Trạch Đông mong muốn giành lại
quyền kiểm soát Đảng Cộng sản Trung Quốc bằng cách phát động "Cách mạng
văn hoá" từ ngày 16/05/1966 nhằm loại bỏ các phần tử "tư sản tự do", để tiếp tục
sự nghiệp đấu tranh của tầng lớp cách mạng, cộng sản. Cách mạng văn hóa mở
đầu với việc nổ tận gốc "Tứ Cựu" nghĩa là Tư duy cũ, Văn hóa cũ, Tập quán cũ,
Thói quen cũ. Thể hiện qua việc đập phá các cơng trình nghệ thuật lâu đời, phá
hủy bảo tàng, đặt tên mới cho các ngành nghề bằng tên Cách mạng, treo ảnh và
khẩu hiệu ca ngợi Mao Trạch Đông khắp nơi. Nhân tố thứ hai Mao muốn trừ khử
là giáo dục, bởi ơng ta cho rằng người có học có khả năng tư duy, điều đó là
khơng được phép. Thế nên giới tri thức là những người hứng chịu nặng nề nhất.
Giáo viên bị đánh đến chết bằng thắt lưng,bị tra tấn khi bị ép đeo mũ hề, bị ép
cúi đầu và nhận lỗi, bị bỏ tù mà thực chất nhà tù đó là "chuồng bị". Những đội
Hồng Vệ Binh được thành lập và trao quyền bởi Mao Trạch Đông đã gây ra
những cuộc bạo lực tràn lan khắp Trung Quốc với các hình thức đấu tố, tra tấn,
ngược đãi, làm nhục và sát hại. Kéo dài đến năm 1977, đây được đánh giá là thời
kỳ đen tối nhất của văn hố Trung Quốc, thay vì biến Trung Quốc thành "ngọn
hải đăng của chủ nghĩa cộng sản" thì đây là sự mở đường cho cuộc cải cách kinh
tế sau đó của Đặng Tiểu Bình.
5



2.2.2. Cải cách mở cửa ở Trung Quốc
Tháng 12 - 1978, Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lần
thứ III, khoá XI, đã vạch ra đường lối mới, mở đầu cho công cuộc cải cách kinh
tế - xã hội ở Trung Quốc. Hội nghị đã quyết định từ bỏ việc “lấy đấu tranh giai
cấp làm then chốt”, chuyển trọng tâm sang xây dựng hiện đại hoá xã hội chủ
nghĩa với “Bốn hiện đại hoá” làm cơ sở (Hiện đại hố cơng nghiệp, nơng nghiệp,
quốc phịng và khoa học kỹ thuật). Qua các Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc
lần thứ XII (9 -1982), XIII (10 - 1987), XIV (10 - 1992), XV (1997), đường lối
này không ngừng được bổ sung và hoàn chỉnh, trở thành đường lối chung của
công cuộc cải cách kinh tế - xã hội ở Trung Quốc hiện nay. Đường lối đó là:
“Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, đường lối cơ bản của Đảng về xây
dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc là lãnh đạo và đoàn kết các
dân tộc cả nước, lấy xây dựng kinh tế làm trọng tâm, kiên trì bốn nguyên tắc cơ
bản, kiên trì cải cách mở cửa, tự lực cánh sinh, gian khổ lập nghiệp, phấn đấu
xây dựng nước ta thành nước xã hội chủ nghĩa hiện đại, giàu mạnh, dân chủ, văn
minh”. Trong quá trình thực hiện đường lối này cần chú ý 3 nội dung:
Thứ nhất: Xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc tức là:
“không thể làm theo sách, cũng khơng thể làm theo nước ngồi, phải xuất phát từ
tình hình đất nước, kết hợp với nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác với thực
tiễn Trung Quốc, mở ra con đường xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc
trong thực tiễn”; 
Thứ hai: đường lối cơ bản của  cải cách là “một khâu trọng tâm, hai điểm
cơ bản”, tức là lấy  xây dựng kinh tế làm nhiệm vụ trọng tâm, cải cách và mở
cửa  là hai biện pháp chính. Để thực hiện điều đó phải kiên trì 4 nguyên tắc cơ
bản: Kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, kiên trì chun chính dân chủ nhân
dân, kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác
- Lê Nin và tư tưởng Mao Trạch Đông; 
Thứ ba: Xác định “giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội” có thể kéo dài
hàng trăm năm.
Nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình kiên định quan điểm phải mở cửa để hội

nhập với thế giới bên ngoài, mở rộng trao đổi với các nước khác trên cơ sở bình
đẳng và cùng có lợi… Trung Quốc quyết định mở cửa thêm 184 thành phố,
huyện trong nội địa cho người nước ngồi vào kinh doanh; nới lỏng việc kiểm
sốt khu vực kinh tế tư nhân trong nước, gần đây là cải cách khu vực kinh tế nhà
nước (cổ phần hoá các xí nghiệp nhỏ, làm ăn thua lỗ...). Trong đó, tiêu biểu cho
sự thành công của đường lối này là Thâm Quyến - đặc khu kinh tế đầu tiên của
6


Trung Quốc - là sự thử nghiệm của mơ hình kinh tế thị trường. Từ một làng chài
với 30.000 dân, Thâm Quyến đã trở thành một trung tâm kinh tế có 12 triệu
người, kéo theo sự ra đời sau đó của các đặc khu kinh tế khác: Chu Hải, Sán Đầu
và Hạ Môn, tạo ra động lực phát triển cho toàn bộ đất nước Trung Quốc.
Với đường lối trên, sau 10 năm cải cách (từ 1978 - 1988) mức tăng bình
quân hàng năm của tổng sản phẩm quốc dân là 9,6%, xuất nhập khẩu tăng gấp 4
lần, thu nhập bình quân hàng năm của nông dân tăng 11,8%, của cư dân thành thị
tăng 6,5%. Năm 1988, tổng giá trị sản phẩm quốc dân tăng 1.401,5 tỷ nhân dân
tệ, thu nhập quốc dân là 1.177 tỷ nhân dân tệ (tăng 20 lần so với năm 1949). Sản
lượng công nghiệp từ 1978 đến 1990 tăng trung bình hàng năm là 12,6%.
3. Tình hình Việt Nam:
Cuối thập niên 70 của thế kỷ trước cho đến những năm 1985-1986, nền
kinh tế Việt Nam vận hành theo kiểu kế hoạch hóa tập trung và cùng với cơ chế
quan liêu bao cấp đã bắt đầu bộc lộ bất cập, tác động tiêu cực đến sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp và đời sống xã hội.
Sản xuất công nghiệp thiếu nguyên liệu, các hợp tác xã nông nghiệp trì trệ,
sản lượng lương thực thấp, kéo theo giá trị ngày công lao động cũng rất thấp.
Đồng tiền mất giá theo từng năm, vì thế mọi giao dịch như bán nhà, xe máy hay
các vật dụng có giá trị đều tính bằng cây, bằng chỉ (vàng). Theo Niên giám
Thống kê năm 1988, lạm phát cuối năm 1986 ở mức 587,2% so với 1985. Tại Hà
Nội, tiêu chuẩn lương thực cung cấp cho cán bộ và nhân dân vẫn như vậy song

ngành lương thực chạy bở hơi tai vẫn không lo đủ nên các  cửa hàng chỉ bán một
số lượng nhất định cho một lần mua. Có gia đình tiêu chuẩn chỉ 60 cân gạo
nhưng phải mua tới 6 lần và dĩ nhiên một lần mua gạo là một lần vất vả. Lương
của cán bộ và công nhân viên chức chỉ đủ sống từ 1 tuần đến 10 ngày.
Do chưa thể tăng lương, nhà nước buộc phải áp dụng chế độ phụ cấp nên
các cơ quan, xí nghiệp, nhà máy phải bươn chải làm kế hoạch “ba chạy vạy”
mua thực phẩm, lương thực thông qua mối quan hệ để lo đời sống cho cán bộ,
công nhân. Năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đã mn vàn khó khăn lại thêm hậu
quả của cuộc khủng hoảng do cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền năm 1985
nên càng khó khăn hơn. Tiền phát hành ra không đủ phục vụ lưu thông, các xí
nghiệp, nhà máy khơng có vốn lưu động, khơng có tiền trả lương cho cơng nhân.

7


4. Kết luận
Sau một loạt những thành tựu to lớn có ảnh hưởng sâu sắc đến đến đời
sống chính trị thế giới, bắt đầu từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX, hệ thống
các nước XHCN Đông Âu và Trung Quốc rơi vào thời kỳ khủng hoảng. Tương
tự, Việt Nam cũng đối mặt với tình trạng khủng hoảng, ảnh hưởng nghiệm trọng
đến mọi mặt của đời sống nhân dân. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến khủng
hoảng, nhưng có thể khái quát lại lý do lớn là duy trì quá lâu khuyết tật của mơ
hình chủ nghĩa xã hội cũ, phủ định cực đoan những thành tựu của chủ nghĩa tư
bản dẫn đến chậm trễ trong cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ. Trong Chính
sách kinh tế mới (NEP) được thông qua tại Đại hội X Đảng Cộng sản Nga,
V.I.Lênin đã chỉ rõ trong điều kiện mới, việc sử dụng những hình thức kinh tế
quá độ là một bộ phận rất quan trọng của chính sách này. Theo V.I.Lênin, thông
qua việc sử dụng CNTB nhà nước, giai cấp vô sản có thể học tập, kế thừa và
phát huy có chọn lọc tất cả những tài sản vật chất- kỹ thuật và tinh hoa chất xám
trong kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh của các nhà tư bản cũng như tri thức

khoa học - kỹ thuật và trình độ quản lý kinh tế của các chuyên gia tư sản. Nhà
nước vô sản có thể sử dụng CNTB nhà nước như là một hệ thống các chính sách,
cơng cụ, biện pháp nhằm điều tiết hoạt động của các xí nghiệp tư bản còn tồn tại
trong thời kỳ quá độ, nhằm hướng tới mục đích vừa sử dụng, vừa cải tạo bằng
phương pháp hịa bình đối với các thành phần kinh tế TBCN và sản xuất nhỏ.
Với ý nghĩa đó, CNTB nhà nước cịn có thể coi là một trong những phương thức,
phương tiện, con đường có hiệu quả trong việc thúc đẩy xã hội hóa và làm tăng
nhanh lực lượng sản xuất của CNXH. Đảng Cộng sản Trung Quốc là một trong
những ví dụ tiêu biểu của thực hiện thành cơng cải cách và ngày càng đạt được
những thành tựu to lớn. Đây là bối cảnh thúc đẩy Đảng ta tiến đến đưa ra những
bước đột phá nhằm đổi mới đất nước một cách toàn diện lấy đổi mới kinh tế làm
trung tâm.

8


II. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ THỰC HIỆN CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ
VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 1985-1986
1. Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (8/1979) - Tiền đề cho các bước đột phá
tiếp theo
Với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh
tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung
ra”. Theo đó, Hội đồng Chính phủ ra quyết định (10-1979) về việc tận dụng đất
đai nơng nghiệp để khai hoang, phục hóa được miễn thuế, trả thù lao và được sử
dụng toàn bộ sản phẩm; quyết định xóa bỏ những trạm kiểm sốt để người sản
xuất có quyền tự do đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường. Nội dung Hội
nghị đã:
 Phủ định một số yếu tố của thể chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp.
 Phê phán những lệch lạc, tả khuynh trong việc thực hiện cải tạo công
thương nghiệp và cải tạo nông nghiệp

 Thừa nhận phải kết hợp kế hoạch với những quy luật của thị trường
 Chủ trương sử dụng kinh tế tư nhân và cả tư bản tư nhân trong việc phát
triển kinh tế, có sự kiểm sốt của nhà nước, tức là trở lại với quan điểm
kinh tế nhiều thành phần
 Sửa đổi hệ thống giá cả và cơ chế quản lý giá đã trở thành khơng thích hợp
và gây trở ngại cho sản xuất.
Như vậy, Hội nghị đã đột phá vào khâu quan trọng nhất của cơ chế kế hoạch hóa
tập trung quan liêu bao cấp: Chế độ công hữu và kế hoạch hóa trực tiếp. 
Có thể nhìn nhận những tư duy  đột phá về kinh tế được thể hiện trong
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá IV, trong Chỉ thị 100-CT/TW của Ban
Bí thư và trong các Quyết định của Chính phủ thời kỳ này như sau: “Đó là
những tư duy kinh tế ban đầu, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và tồn diện, nhưng
là bước mở đầu có ý nghĩa quan trọng. Tư duy kinh tế nổi bật trong những tìm
tịi đó là “cởi trói”, "giải phóng lực lượng sản xuất" , “làm cho sản xuất bung
ra”, trên cơ sở khắc phục những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo
xã hội chủ nghĩa, tạo ra động lực cho sản xuất :hú ý kết hợp ba lợi ích, quan tâm
hơn lợi ích thiết thân của người lao động. Những tư duy kinh tế ban đầu đó đã
đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới sau này.”
Tuy nhiên, do những khó khăn bởi chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây
Nam gây ra, do thiếu đồng bộ của tư tưởng đổi mới và chưa có đủ thời gian để
9


những chủ trương đổi mới phát huy tác dụng, những tìm tịi đổi mới ban đầu đó
đã phải trải qua các thử thách rất phức tạp. Tư duy cũ về kinh tế hiện vật còn ăn
sâu, bám rễ trong nhiều người. Bên cạnh những tư duy cũ trên đây, trước đòi hỏi
của thực tiễn cuộc sống, cũng đã xuất hiện khuynh hướng muốn đổi mới mạnh
mẽ hơn, tiếp tục đẩy tới tư duy thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật
của sản xuất hàng hoá trong chủ nghĩa xã hội. 
Nhìn một cách khái quát, những đổi mới tư duy kinh tế trên đây là những

nhận thức về sự cần thiết phải giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, sự cần
thiết phải tạo ra động lực thiết thực cho người lao động - đó là quan tâm đến lợi
ích kinh tế, lợi ích vật chất thiết thân của người lao động,... Những tư duy đổi
mới về kinh tế đó tuy mới mang tính chất từng mặt, từng bộ phận, chưa cơ bản
và toàn diện, nhưng lại là những bước chuẩn bị quan trọng, tạo tiền đề cho bước
phát triển nhảy vọt ở Đại hội VI.  Bắt đầu từ Hội nghị Trung ương 6 khóa IV
(tháng 8-1979) với chủ trương và quyết tâm làm cho kinh tế bung ra. Đó là
“bước đột phá đầu tiên”, rồi đến chủ trương dứt khốt xóa bỏ tập trung quan liêu,
bao cấp, thực hiện cơ chế một giá.
2. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá V (6-1985) Bước đột phá thứ hai
Sau Đại hội V, Trung ương Đảng có nhiều Hội nghị cụ thể hố, thực hiện
Nghị quyết Đại hội. Nổi bật là Hội nghị Trung ương 6 (7-1984) chủ trương tập
trung giải quyết một số vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông với hai loại công
việc cần làm ngay: Một là, phải đẩy mạnh thu mua nắm nguồn hàng, quản lý
chặt chẽ thị trường tự do; Hai là, thực hiện điều chỉnh giá cả, tiền lương, tài
chính cho phù hợp với thực tế. Hội nghị Trung ương 7 (12-1984) xác định kế
hoạch năm 1985 phải tiếp tục coi mặt trận sản xuất nông nghiệp là một trận hàng
đầu, trước hết là sản xuất lương thực, thực phẩm. Nổi bật nhất là Hội nghị Trung
ương 8 khoá V (6-1985) được coi là bước đột phá thứ hai trong q trình tìm tịi,
đổi mới kinh tế của Đảng. 
Tại Hội nghị này, Trung ương chủ trương xoá bỏ cơ chế tập trung quan
liêu hành chính bao cấp, lấy giá lương tiền là khâu đột phá để chuyển sang cơ
chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nội dung xoá bỏ cơ chế quan liêu,
bao cấp trong giá và lương là tính đủ chi phí hợp lý trong giả thành sản phẩm;
giả cả bảo đảm bù đắp chỉ phí thực tế hợp lý, người sản xuất có lợi nhuận thoả
đáng và Nhà nước từng bước có tích luỹ; xố bỏ tình trạng Nhà nước mua thấp,
10


bán thấp và bù lỗ; thực hiện cơ chế một giá trong tồn bộ hệ thống, khắc phục

tình trạng thủ nổi trong việc định giá và quản lý giá. Thực hiện cơ chế một giá,
xoá bỏ chế độ bao cấp bằng hiện vật theo giả thấp, chuyển mọi hoạt động sản
xuất, kinh doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Giá, lương, tiền
coi là khâu đột phá để chuyển đổi cơ chế. Thực hiện trả lương bằng tiền có hàng
hố bảo đảm, xố bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, thoát ly giá trị hàng
hoá. Xoá bỏ các khoản chỉ của ngân sách trung ương, địa phương mang tính chất
bao cấp tràn lan. Nhanh chóng chuyển hẳn cơng tác ngân hàng sang hạch tốn
kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. 
3. Hội nghị Bộ Chính trị khố V (8-1986) - Bước đột phá thứ ba 
Thực chất, các chủ trương của Hội nghị Trung ương 8 đã thừa nhận sản
xuất hàng hoá và những quy luật sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân.
Trong quá trình tổ chức thực hiện lại mắc những sai lầm như vội vàng đổi tiền và
tổng điều chỉnh giá, lương trong tình hình chưa chuẩn bị đủ mọi mặt. Cuộc điều
chỉnh giá, tiền, lương đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng
sâu sắc hơn.
Hội nghị Bộ Chính trị khố V (8-1986) đưa ra “Kết luận đối với một số
vấn đề thuộc quan điểm kinh tế". Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế,
đồng thời cũng là bước quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của
Đảng. Nội dung đổi mới có tính đột phá là:
Về cơ cấu sản xuất, Hội nghị cho rằng, chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề
ra một số chủ trương quá lớn về quy mô, quá cao về nhịp độ xây dựng cơ bản và
phát triển sản xuất. Đây là một nguyên nhân quan trọng khiến cho sản xuất trong
5 năm gần đây như dẫm chân tại chỗ. Cần tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về
cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư theo hướng thật sự lấy nông nghiệp là một trận
hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, việc phát triển cơng nghiệp nặng
phải có lựa chọn cả về quy mô và nhịp độ, chú trọng quy mô vừa và nhỏ, phát
huy hiệu quả nhanh nhằm phục vụ đắc lực yêu cầu phát triển nông nghiệp, công
nghiệp nhẹ và xuất khẩu, cần tập trung lực lượng, trước hết là vốn và vật tư, thực
hiện cho được ba chương trình quan trọng nhất về lương thực, thực phẩm, hàng
tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu. 


11


Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Hội nghị cho rằng, do chưa nắm vững quy
luật đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta đã phạm nhiều khuyết
điểm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, phải biết phải nhận thức đúng đắn
đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế có cơ
cấu nhiều thành phần, đó là sự cần thiết khách quan để phát triển lực lượng sản
xuất, tận dụng các tiềm năng, tạo thêm việc làm cho người lao động, phải sử
dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; cải tạo xã hội chủ nghĩa không chỉ là sự
thay đổi chế độ sở hữu, mà còn thay đổi cả chế độ quản lý, chế độ phân phối, đó
là một q trình gắn liền với mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất.
Về cơ chế quản lý kinh tế, Hội nghị cho rằng, bố trí lại cơ cấu kinh tế phải
đi đối với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, làm cho hai mặt ăn khớp với nhau tạo
ra động lực mới thúc đẩy sản xuất phát triển. Nội dung chủ yếu của cơ chế quản
lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa là: Đổi mới kế hoạch hố theo ngun tắc phát
huy vai trị chủ đạo của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời sử dụng
đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hoá- tiền tệ; làm cho các đơn vị kinh tế
có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; phân biệt chức năng quản lý hành
chính của Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị
kinh tế.
Những kết luận trên đây là kết quả tổng hợp của cả q trình tìm tịi, thử
nghiệm, phù hợp với yêu cầu trước mắt là khắc phục cho được khủng hoảng kinh
tế-xã hội. Nguyên nhân khách quan dẫn đến khủng hoảng kinh tế-xã hội do xây
dựng đất nước từ nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, bị bao
vây, cấm vận nhiều năm, nguồn viện trợ từ nước ngoài giảm mạnh; hậu quả nặng
nề của 30 năm chiến tranh chưa kịp hàn gắn thì chiến tranh ở biên giới ở hai đầu
đất nước làm nảy sinh những khó khăn mới. Về chủ quan là do những sai lầm

của Đảng trong đánh giá tình hình, xác định mục tiêu, bước đi, sai lầm trong bố
trí cơ cấu kinh tế; sai lầm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong lĩnh vực phân
phối, lưu thơng; duy trì q lâu cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp; bng lỏng
chun chính vơ sản trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội và trong dấu tranh
chống âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của địch. Các bước đột phá tháng 81979, tháng 6-1985 và tháng 8-1986 phản ánh sự phát triển nhận thức từ quá
trình khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ sáng kiến và nguyện vọng lợi ích của
nhân dân để hình thành đường lối đổi mới.
12


4. Thành tựu về kinh tế - xã hội của Việt Nam sau các bước đột phá
Sau năm 1986, quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng ta tiếp
tục diễn ra từng bước theo hướng vừa làm vừa thử nghiệm, sửa đổi, bổ sung, cải
tiến trên cơ sở đúc rút những kinh nghiệm của thực tiễn. Những thành công to
lớn trong công cuộc đổi mới kinh tế đất nước sau gần 40 năm đã chứng minh
định hướng, chủ trương và phương thức đổi mới của Đảng là đúng đắn. Hơn nữa,
những thành cơng đó đã cho thấy khả năng lãnh đạo của đất nước trong việc
thích nghi với bối cảnh chính trị - kinh tế mới của quốc tế, đồng thời vẫn giữ
được những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước đó, kinh tế Việt Nam tập trung chủ yếu vào nông nghiệp và nông
sản, dẫn đến sự phụ thuộc mạnh mẽ vào ngành này. Việc cải cách cơ cấu kinh tế
đã cho phép Việt Nam tăng cường sản xuất hàng hóa cơng nghiệp và dịch vụ, tạo
ra các ngành kinh tế mới, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nông nghiệp. Ngồi ra,
chúng cịn giúp tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn lực và tài sản của đất nước,
đồng thời hạn chế tình trạng thất thốt và lãng phí. Điều này đã giúp đất nước tạo
ra nhiều sản phẩm và dịch vụ chất lượng hơn, đồng thời tăng cường khả năng
cạnh tranh với các nền kinh tế khác trong khu vực và trên thế giới. Trong giai
đoạn này, nền kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng, từ 4,5%
vào năm 1985 lên đến 9,4% vào năm 1989.

Những chính sách đổi mới kinh tế đã cho phép tư nhân và doanh nghiệp
nước ngoài tham gia vào hoạt động kinh tế của Việt Nam, đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế của đất nước. Nhờ đó, Việt Nam đã thu hút được nhiều vốn đầu tư
từ các quốc gia nước ngoài, tăng cường trao đổi thương mại và hợp tác kinh tế
với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Đổi mới kinh tế cũng đã mở ra
cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn
cầu, tăng cường năng lực cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường
quốc tế.
Trong lĩnh vực giáo dục, việc tăng cường đầu tư và phát triển hệ thống
giáo dục từ mầm non đến đại học đã giúp cải thiện năng lực của lao động, tạo
điều kiện cho sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Đặc biệt, việc chính
phủ chủ trương nhanh chóng xóa nạn mù chữ và đẩy mạnh bổ túc văn hóa đã có
tác động vơ cùng tích cực, với hơn 1.323,7 nghìn người thốt nạn mù chữ trong
tổng số 1.405,9 nghìn người. Ngồi ra, cơng tác dạy nghề phát triển cũng mạnh
mẽ. Tính đến thời điểm năm 1986,  số trường trung học chuyên nghiệp là 314

13


trường, với quy mơ 128,5 nghìn sinh viên và 11,4 nghìn giáo viên. Về lĩnh vực y
tế, những chính sách tăng cường đầu tư đã góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ
y tế và cải thiện đời sống của người dân, tạo điều kiện cho mọi người có thể tiếp
cận với dịch vụ y tế tốt hơn. Hệ thống y tế cũng được mở rộng, xây mới và áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Số giường bệnh thuộc các cơ sở y tế đã đạt tới
hơn 114,7 nghìn giường năm 1986, cùng thời điểm đó số nhân viên y tế cũng đã
đạt tới con số ấn tượng 160,2 nghìn người, trong đó số bác sĩ tăng từ 9.104 người
lên 19.029 người chỉ trong vịng 10 năm. 
Ngồi ra, chính phủ cũng đã đầu tư vào lĩnh vực nhà ở và cơ sở hạ tầng để
cải thiện điều kiện sống của người dân. Chính sách nhà ở được triển khai, tạo
điều kiện cho người dân có thể tiếp cận với những căn nhà tốt hơn, giúp nâng

cao chất lượng cuộc sống và tăng cường sự phát triển kinh tế, đồng thời tạo sự
đồng đều hơn trong sự phát triển kinh tế và giảm thiểu khoảng cách giàu nghèo.
Chính sách cải cách tiền lương trong thời kỳ này đã thúc đẩy phát triển sản xuất
làm cho đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người
một tháng của dân cư tăng từ khoảng 1.600 đồng năm 1986 lên đến 295.000
đồng năm 1999. Thu nhập tăng nhanh góp phần làm cho cơng cuộc xóa đói giảm
nghèo của nước ta trong giai đoạn này đạt được những kết quả đáng kể. Nếu như
năm 1993, tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam tính theo phương pháp của Ngân
hàng Thế giới là 58,1%, thì đến năm 1998 tỷ lệ nghèo này giảm xuống cịn
37,4%.
Trong khi đó, những chính sách xây dựng hạ tầng kinh tế đã tạo điều kiện
thuận lợi cho các hoạt động kinh tế như vận chuyển hàng hóa, lưu thơng giao
thơng, đầu tư và kinh doanh, giúp tăng cường sự phát triển kinh tế địa phương và
cải thiện đời sống của người dân thông qua việc xây dựng các cơ sở hạ tầng như
trường học, bệnh viện, các khu đô thị mới.

14


III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
1985-1986 VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘC XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC
HIỆN NAY
Đại hội VI của Đảng - đại hội khởi xướng công cuộc đổi mới đã rút ra 4
bài học kinh nghiệm. Từ thực tiễn sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đại
hội VII của Đảng đã nêu lên 5 bài học kinh nghiệm bước đầu về tiến hành công
cuộc đổi mới. Đại hội VIII của Đảng tổng kết 10 năm đổi mới (1986-1996) đã
rút ra 6 bài học chủ yếu. Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: 15 năm đổi mới
đầu tiên đã cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu. Những bài học đổi mới do
các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến nay vẫn cịn có giá trị lớn, nhất là
các bài học chủ yếu. Đại hội X của Đảng tiến hành tổng kết một số vấn đề lý

luận-thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), đã khẳng định: Từ thực tiễn 20
năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta cũng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm lãnh
đạo và quản lý, đại hội đã rút ra 5 bài học lớn. Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đại hội XI của Đảng rút ra 5 kinh nghiệm. Từ
thực tiễn 30 năm đổi mới (1986-2016), Đại hội XII đã rút ra 5 bài học.
Bài học thứ nhất về xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và cán
bộ: Cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn
diện, đồng bộ, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán
bộ; kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của
Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính
trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng, thường
xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh, tồn diện; hồn thiện cơ chế kiểm sốt chặt chẽ
quyền lực; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phịng, chống suy thối, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phịng, chống tham nhũng,
lãng phí. Cơng tác cán bộ phải thực sự là “then chốt của then chốt”, tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy
tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên
theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là Ủy viên Bộ
Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.
15


Bài học thứ hai về dân: Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải
luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin
tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện
nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện

vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết
với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của
nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân
đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bài học thứ ba về lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện: Trong
lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao,
nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực, có bước đi phù
hợp, phát huy mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội; kịp thời
tháo gỡ các điểm nghẽn; đề cao trách nhiệm người đứng đầu gắn liền với phát
huy sức mạnh đồng bộ của hệ thống chính trị, giữ vững kỷ cương; coi trọng tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; thực hiện tốt sự phối, kết hợp trong lãnh đạo,
quản lý, điều hành; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát
triển.
Bài học thứ tư về thể chế và giải quyết các mối quan hệ: Tập trung ưu
tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hòa giữa kế thừa và đổi
mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hóa, xã
hội; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, con người, giải quyết các
vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường; giữa phát triển kinh tế-xã hội với
bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với tăng cường đối ngoại, hội
nhập quốc tế; thực sự coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò của giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ trong phát triển đất nước.
Bài học thứ năm về quốc phòng, an ninh, đối ngoại: Chủ động nghiên
cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, khơng để bị động, bất ngờ; kiên quyết, kiên
trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi
với giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước; chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế tồn diện và sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ,
tự lực, tự cường; xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và các
nước láng giềng, đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời cơ; phát huy hiệu quả
16



sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh của thời đại; khai thác, sử
dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng,
phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Trong những bài học trên, một trong những bài học quan trọng nhất được
rút ra từ công cuộc đổi mới năm 1986 là đổi mới phải bắt đầu từ tư duy, mà
trước hết là “"tư duy kinh tế". Kinh tế được điều tiết theo chuyển động thị
trường - vấn đề tưởng như là nguyên lý nhưng đặt vào bối cảnh khởi động Đổi
mới năm 1986 khi đất nước đang lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, mới thấy
hết giá trị mang tính mở đường, tính mới mẻ và hiện đại của những chủ trương
chưa từng có trong tư duy của những người Cộng sản.
Những bài học kinh nghiệm này khơng chỉ có giá trị trước mắt mà có giá
trị lâu dài trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Phát huy tốt các kinh nghiệm
trên đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,
cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo
hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, kỷ niệm
100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có cơng nghiệp hiện đại, thu
nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước
phát triển, thu nhập cao.

17



×