Tải bản đầy đủ (.pdf) (400 trang)

Xu hướng phân tầng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay các chuyên đề nghiên cứu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 400 trang )


Học viện chính trị - hành chính quốc gia hồ chí minh






báo cáo tổng kết
các chuyên đề nghiên cứu

đề tài khoa học cấp bộ năm 2007
Mã số: B. 06 - 53
Xu hớng phân tầng x hội trong nền kinh tế
thị trờng định hớng x hội chủ nghĩa
và hội nhập kinh tế quốc tế ở nớc ta hiện nay


Cơ quan chủ trì:
Viện x hội học và tâm lý lnh đạo, quản lý
Chủ nhiệm đề tài:
GS,TS Nguyễn Đình Tấn
Th ký đề tài:
PGS,TS Lê Ngọc Hùng, Ths Lê Văn Toàn








7007-1
21/10/2008



Hà nội - 2008
Mục lục
TT


Trang
1
Sự phát triển t duy lý luận của Đảng và nhà nớc Việt
Nam về phân tầng x hội trong thời kỳ đổi mới

GS,TS Hoàng Chí Bảo
Hội đồng Lý luận Trung ơng
1
2
Các mô hình phân tầng x hội trong lịch sử
GS,TS Trịnh Duy Luân
Viện X hội học - Viện Khoa học X hội Việt Nam
33
3
Cơ cấu x hội và phân tầng x hội - những đóng góp về
mặt lý luận và ứng dụng thực tiễn
GS,TS Nguyễn Đình Tấn
64
4
Phân tầng x hội từ sự phân tích lý luận của Marx và

những phát triển mới
GS,TS Nguyễn Đình Tấn
75
5
sự khác biệt trong quan niệm của C.Mác và các nhà x hội
học phơng tây khác về phân tầng x hội
GS.TS Nguyễn Đình Tấn
84
6
Quan niệm của một số nhà khoa học phơng Tây
về phân tầng x hội
PGS,TS Lê Ngọc Hùng
98
7
Nghiên cứu phân tầng x hội - lý luận và thực tiễn
Ths Lê Thuý Hằng
123
8
những vấn đề cần chú ý về mặt phơng pháp trong nghiên
cứu cơ cấu x hội, Cơ cấu x hội - giai cấp , giai tầng x hội
GS,TS Nguyễn Đình Tấn
234
9
Cơ cấu x hội và phân tầng x hội ở Việt Nam trong quá
trình phát triển của lịch sử
Ths Lê Văn Toàn
150
10
Vai trò của nhóm x hội vợt trội trong quá trình phát
triển kinh tế - x hội thời kỳ đổi mới ở Việt Nam

GS,TS Tô Duy Hợp
Viện X hội học - Viện Khoa học X hội Việt Nam
165
11
Tầng lớp "x hội u trội và việc thực hiện công băng x hội
đối với các tầng lớp x hội khác nhau hiện nay ở nớc ta
GS,TS Nguyễn Đình Tấn
207
12
Tăng trởng kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng x hội và
213
giảm khoảng cách giàu nghèo
PGS,TS Vũ Văn Phúc
Ban Khoa giáo Trung ơng
13
Chính sách giai cấp của Đảng và Nhà nớc Việt Nam và vấn
đề công bằng x hội hiện nay
PGS,TS Nguyễn Chí Dũng
226
14
Phân tầng x hội và phân hoá giàu nghèo trong quá
trình phát triển kinh tế thị trờng và hội nhập kinh tế
quốc tế
GS,TS Nguyễn Đình Tấn
241
15
Phân tầng x hội ở việt nam qua các cuộc điều tra mức
sống hộ gia đình

Ths Lê Văn Toàn

253
16
Phân tầng x hội hợp thức và sự hình thành tầng lớp x
hội u trội trong thời kỳ đổi mới hội nhập kinh tế quốc tế
ở nớc ta
GS.TS Nguyễn Đình Tấn
274
17
Các yếu tố tác động đến Phân tầng x hội ở Việt nam
GS,TS Nguyễn Đình Tấn
283
18
Đầu t phát triển theo ngành vùng, miền và tác động của
nó đến phân tầng x hội ở Việt Nam
GS,TS Hoàng Ngọc Hòa
307
19
ảnh hởng của tâm lý x hội đến phân tầng x hội trong
nền kinh tế thị trờng định hớng x hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế ở nớc ta hiện nay
TS Vũ Anh Tuấn
339
20
Bàn luận về giai tầng x hội, cơ cấu x hội - giai tầng x hội
GS,TS Nguyễn Đình Tấn
354
21
Xu hớng phân tầng x hội trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trờng định hớng x hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế ở nớc ta hiện nay - Nhìn từ góc độ

của sự biến đổi hệ giá trị x hội
TS Lê Kim Việt
364
22
Xu hớng biến đổi của phân tầng x hội ở việt nam hiện nay
GS,TS Nguyễn Đình Tấn
PGS,TS Lê Ngọc Hùng
376


1
Sự phát triển t duy lý luận của Đảng và nhà nớc
Việt Nam về phân tầng xã hội trong thời kỳ đổi mới



GS,TS Hoàng Chí Bảo

Hội đồng Lý luận Trung ơng

I. Dẫn luận
Đổi mới ở Việt Nam đã trải qua hơn 2 thập kỷ, trong đó có gần 15
năm nớc ta chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế, áp dụng cơ chế thị trờng
và giờ đây đang phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN.
Việt Nam đã dứt khoát từ bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và phơng
thức phân phối bình quân để chuyển sang cơ chế thị trờng với vai trò điều tiết
của kế hoạch và quản lý của nhà nớc, đồng thời phát triển mạnh mẽ nền kinh
tế thị trờng nhiều thành phần, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các phơng
thức phân phối, gắn tăng trởng kinh tế với từng bớc thực hiện công bằng xã
hội trong từng bớc đi, trong từng chính sách. Với tiền đề nhận thức là đổi

mới t duy, đặc biệt là t duy kinh tế, đổi mới ở Việt Nam chú trọng trớc hết
là đổi mới kinh tế, trên cơ sở đổi mới kinh tế có hiệu quả, tạo lập ổn định
chính trị -xã hội một cách tích cực, cải thiện và nâng cao dần mức sống của
dân c mà từng bớc đổi mới chính trị, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế
và làm lành mạnh xã hội.
Sau 10 năm (1986-1996) nỗ lực đổi mới và thực hiện cuộc vận động
dân chủ hóa toàn diện các lĩnh vực của đời sống, nớc ta đã ra khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế- xã hội trầm trọng từ giữa thập kỷ 80, đã có điều kiện để
bớc vào thời kỳ phát triển mới, tập trung mọi nguồn lực để đẩy mạnh CNH,
HĐH, trong đó chú trọng đẩy mạnh CNH nông nghiệp và nông thôn, thực
hiện phát triển toàn diện nông thôn - nông nghiệp - nông dân (tam nông).
Với kinh tế thị trờng, mở cửa và hội nhập, nền kinh tế nớc ta đã
biến đổi mạnh mẽ, tốc độ tăng trởng cao và liên tục trong nhiều năm. Những

2
biến đổi kinh tế và những đổi mới về chính trị, về hệ thống chính trị đã dẫn
tới những biến đổi về xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp. Phân hóa kinh tế, mà cụ
thể là phân hóa giàu nghèo cũng tác động tới biến đổi trong cơ cấu xã hội,
phân hóa xã hội và phân tầng xã hội. Khi nền kinh tế đang diễn ra những sự
thay đổi và chuyển dịch về cơ cấu, từ cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động, cơ cấu
ngành nghề đến sắp xếp lại các loại hình sản xuất - kinh doanh, các mô hình
xí nghiệp, doanh nghiệp, công ty, tổng công ty, tập đoàn sản xuất - kinh
doanh, ở tất cả các thành phần kinh tế, tổ chức lại các hợp tác xã và phát triển
kinh tế hợp tác thì cơ cấu xã hội, tất yếu cũng biến đổi theo.
Một cơ cấu xã hội tổng thể (trong đó có cơ cấu xã hội - giai cấp, các
giai cấp, các tầng lớp, các giai tầng xã hội, các nhóm xã hội - nghề nghiệp,
cùng với cơ cấu dân c, nhân khẩu, dân số, dân tộc) dần dần định hình, theo
hớng xã hội công nghiệp, hiện đại thay thế cho cơ cấu xã hội nông nghiệp cổ
truyền. Cơ cấu kinh tế chính là tác nhân vật chất, là cái giá đỡ vật chất làm
hình thành cơ cấu xã hội.

Đến lợt nó, cơ cấu xã hội là sự phản ánh về mặt xã hội, là tổng hòa
các quan hệ xã hội, là nội dung xã hội của cơ cấu kinh tế. Xem xét một xã hội
nh một hệ thống chỉnh thể, một cấu trúc, trớc hết phải nhận diện đợc
những tơng tác biện chứng giữa cái kinh tế và cái xã hội. Phát triển kinh tế
phải chú ý tới nội dung xã hội, hệ quả xã hội của nó, bởi tính hớng đích của
kinh tế chính là xã hội, là con ngời, từ cá thể tới cộng đồng làm nên cái xã
hội đó.
Phát triển xã hội phải dựa trên những tiền đề kinh tế, những điều kiện
kinh tế - vật chất có vai trò chi phối và chế ớc nó, đồng thời xã hội lại tạo ra
những đảm bảo cho sự phát triển kinh tế.
Rõ rệt nhất là ở chỗ, xã hội là nơi sinh ra và cung cấp các nguồn lực
cho sự phát triển kinh tế, nhất là nguồn lực con ngời. Đây là nguồn lực quan
trọng và quyết định nhất. Vốn con ngời, tài nguyên con ngời là nguồn vốn

3
xã hội quan trọng nhất trong tổng lợng vốn của phát triển kinh tế - xã hội -
văn hóa, đó là tổng lực các nguồn vốn của phát triển.
Phân tích những biến đổi cơ cấu xã hội, trong đó có biến đổi về phân
tầng xã hội dới tác động và ảnh hởng của những biến đổi cơ cấu kinh tế
không những để nhận rõ những đặc điểm và xu hớng biến đổi của xã hội
trong tiến trình đổi mới với kinh tế thị trờng và dân chủ hóa mà còn nhằm đổi
mới chính sách, thể chế và cơ chế quản lý xã hội nhằm phát huy mặt tích cực,
hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực trong những sự biến đổi ấy, cả kinh tế và xã
hội, hớng vào sự phát triển con ngời, thực hiện sự phát triển hài hòa, đồng
thuận xã hội, giữa cá nhân và cộng đồng. Kết hợp chính sách kinh tế với chính
sách xã hội giữa tăng trởng kinh tế với công bằng xã hội là hớng đi của sự
phát triển ấy. Đây cũng là điều căn bản nhất của sự thống nhất cần đạt tới giữa
lý luận với thực tiễn trong phát triển kinh tế -xã hội ở nớc ta thời kỳ đổi mới.
Nghiên cứu sự phát triển t duy lý luận của Đảng về phân tầng xã hội
trong thời kỳ đổi mới cần phải xuất phát từ thực tiễn nêu trên, hơn nữa từ

những tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận mà Đảng ta đã tiến hành trong
hơn 20 năm qua.
Đây là một trong những phơng diện hợp thành nhận thức lý luận mới
của Đảng ta về CNXH và con đờng đi lên CNXH ở Việt Nam.
Những nhận thức lý luận về phân tầng xã hội và cơ cấu xã hội thể hiện
một trình độ t duy xã hội học của chủ thể lãnh đạo và quản lý xã hội, đó
chính là triết học -xã hội học về xã hội, đặt cơ sở lý luận cho xã hội học với
tính cách là khoa học đang trên con đờng phát triển ở nớc ta.
Cùng với triết học và chính trị học, xã hội học sẽ ngày càng tỏ rõ là
một khoa học không thể thiếu, hơn nữa còn là một khoa học đầy triển vọng,
góp phần xứng đáng vào việc nâng cao trình độ khoa học của lãnh đạo và quản
lý, tăng cờng tiềm lực t t
ởng và năng lực trí tuệ của Đảng và của xã hội
trong tiến trình đổi mới và hiện đại hóa xã hội. Đó là xét về mặt xu hớng và

4
triển vọng. Còn trong thực tiễn, trạng thái và tính chất phát triển của xã hội ta
hiện đang nổi lên những vấn đề đáng lu ý sau đây:
- Nền kinh tế nớc ta hiện nay, dù đã áp dụng cơ chế thị trờng và
đang phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN những đó
vẫn là một nền kinh tế chuyển đổi, nhng biểu hiện của một nền kinh tế sơ
khai, hoang dã vẫn còn tồn tại, diện mạo đầy đủ cho một nền kinh tế thị
trờng đích thực, trởng thành, còn đang trong quá trình hình thành. Đang có
sự đan xen rất phức tạp giữa những yếu tố năng động của kinh tế với những
suy thoái nghiêm trọng của các yếu tố xã hội trong đời sống xã hội hiện thực
cũng nh trong bản thân thực thể kinh tế. Rõ nhất là sự suy thoái của giáo dục,
của đạo đức xã hội, của những khác biệt có thể dẫn tới xung đột giữa các thế
hệ, tầng lớp, giai tầng xã hội về giá trị, định hớng giá trị và lựa chọn giá trị.
Đặc điểm này in dấu khá đậm nét trong những biến đổi phân tầng xã hội ở
nớc ta.

- Xã hội ta dù đã trải qua đổi mới, mở cửa hơn 20 năm qua, lại đang
chủ động hội nhập quốc tế và trên thực tế đã hội nhập ngày càng sâu vào đời
sống kinh tế quốc tế song vẫn còn đang ở trong thời kỳ quá độ, đang là một xã
hội quá độ. Tính quá độ này biểu hiện rất đa dạng, trớc hết, đó là quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Đây là đặc trng tổng quát nhất của tính chất
quá độ ở nớc ta, thuộc về hình thái phát triển rút ngắn, quy định kiểu quá độ
đi lên CNXH ở nớc ta là quá độ gián tiếp, phức tạp, khó khăn và lâu dài,
cha có tiền lệ lịch sử.
Sau nữa, và là những biểu hiện cụ thể của đặc trng quá độ tổng quát
nêu trên đó là nớc ta đang quá độ từ một nớc nông nghiệp sang một nớc
công nghiệp, đang đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nông thôn nớc ta, nơi còn có trên 60 triệu nông dân, chiếm tới trên
2/3 dân số và lực lợng lao động xã hội, nơi mà nền kinh tế thuần nông với kỹ
thuật canh tác cổ truyền còn chiếm một phần lớn, đang từng bớc chuyển sang

5
kinh tế hàng hóa - thị trờng thì những biểu hiện của tính chất quá độ này rất
đậm nét.
ở nông thôn đang đồng thời diễn ra các quá trình: phát triển kinh tế
hàng hóa đi liền với công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, dân chủ hóa xã
hội nông thôn và nông dân với đổi mới HTCT và thực hiện quy chế dân chủ cơ
sở (nay là pháp lệnh dân chủ cơ sở) và đô thị hóa nông thôn . Chính những tác
nhân kinh tế - chính trị- xã hội này ở nông thôn đã dẫn tới những biến đổi
phân tầng xã hội và cơ cấu xã hội nông thôn rất mới mẻ, nhanh chóng mà
trớc đổi mới cha hề có.
Quá độ ở nớc ta còn là quá độ từ chậm phát triển, kém phát triển
sang phát triển và hớng tới phát triển nhanh, phát triển bền vững.
Để thực hiện bớc chuyển tiếp phát triển đó, sớm đa nớc ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, Đại hội X của Đảng đã nhấn mạnh cần phải có
những đột phá lý luận - thực tiễn ở các lĩnh vực: xây dựng và hoàn thiện thể

chế kinh tế thị trờng định hớng XHCN, phát triển nguồn nhân lực chất
lợng cao và đổi mới có hiệu quả HTCT
1
. Cũng cần lu ý rằng, các tài liệu
văn kiện của Đảng ta trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua (từ Đại hội VI đến
Đại hội X và các nghị quyết Trung ơng, khóa X gần đây, tuy không sử dụng
thuật ngữ phân tầng xã hội mà chỉ nói tới cơ cấu xã hội - giai cấp nhng trong
thực tế, từ tinh thần nghị quyết đến các chính sách và giải pháp thực tiễn,
Đảng ta đã chú ý tới hiện tợng phân tầng xã hội, đã tính đến những điều
chỉnh và điều tiết xã hội cần thiết thông qua thể chế, chính sách, luật pháp và
các công cụ quản lý khác để giải quyết vấn đề phân tầng trên quan điểm đổi
mới và phát triển.
Việc đảng viên đợc làm kinh tế t nhân, miễn là thực hiện đúng luật
pháp và chấp hành điều lệ Đảng, việc khuyến khích tất cả mọi ngời, mọi nhà
làm giàu theo luật pháp, việc áp dụng đánh thuế thu nhập với các đối tợng

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội X, CTQG, H.2006,

6
có thu nhập cao, việc khuyến khích phát triển mạnh mẽ, lâu dài kinh tế t
nhân coi kinh tế t nhân là một nhân tố quan trọng trong phát triển kinh tế -
xã hội, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp của phát triển và thực hiện lợi ích
xã hội là những ví dụ điển hình về quyết sách. Do đó, để thấy rõ những tiến
triển trong nhận thức lý luận và trong đờng lối chính sách của Đảng và Nhà
nớc về phân tầng xã hội cần đặt phân tầng xã hội trong tổng thể những biến
đổi cơ cấu xã hội, trong các quan hệ giai cấp - tầng lớp - giai tầng và phân
tầng, trong chính sách liên minh giai cấp với các tầng lớp xã hội ở nớc ta. Đó
là định hớng phơng pháp luận cần thiết cho việc nghiên cứu và tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu và dự báo về biến đổi xã hội và phân tầng xã hội .

II. Nhận thực về xã hội, cơ cấu và phân tầng xã hội thời kỳ trớc
đổi mới - Những hạn chế và nguyên nhân, những hệ luận cần rút ra
Một cách ớc lệ, từ 1985 trở về trớc, là thời kỳ trớc đổi mới ở Việt
Nam . Đó là một thời kỳ dài, trải qua nhiều biến cố lịch sử với đất nớc bị
chia cắt làm hai miền, mỗi miền có một chế độ chính trị, kinh tế và xã hội
khác nhau; miền Bắc quá độ lên CNXH trong hoàn cảnh tổ quốc cha thống
nhất, làm cách mạng XHCN để hỗ trợ cho cách mạng giải phóng dân tộc ở
miền Nam. Hơn thế nữa, chỉ mới vừa bớc vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
(1961-1965) thì miền Bắc đã phải đơng đầu với chiến tranh phá hoại có tính
chất hủy diệt của đế quốc Mỹ. Mọi thành quả vừa mới xây dựng đợc hầu nh
bị tàn phá nặng nề. Miền Nam trải qua một cuộc chiến tranh xâm lợc và ách
thống trị của chủ nghĩa thực dân kiểu mới kéo dài tới 21 năm (1954-1975),
hậu quả chiến tranh hết sức nặng nề, nhất là những tổn thơng về mặt xã hội.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nớc thống nhất, cả
nớc đi lên CNXH với đờng lối của Đại hội IV (1976) thì những tình huống
phức tạp mới lại liên tiếp xuất hiện.
Thứ nhất, chỉ trong một thời gian ngắn, xảy ra hai cuộc chiến tranh ở
biên giới Tây nam (1978) và biên giới phía Bắc (1979).

7
Thứ hai, đế quốc Mỹ bao vây cấm vận Việt Nam.
Thứ ba, việc cải tạo XHCN ở miền Nam và xây dựng CNXH ở hai
miền Nam - Bắc chịu ảnh hởng sâu sắc của mô hình Xô Viết. Những biểu
hiện của chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí, tả khuynh, muốn đốt cháy giai đoạn,
không tính đến điều kiện thực tế và hoàn cảnh lịch sử của đất nớc đã gây nên
những hậu quả tiêu cực, kéo dài, nền kinh tế lâm vào trì trệ, giảm sút mạnh tốc
độ tăng trởng, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, đất nớc lâm vào khủng
hoảng, lạm phát.
Năm 1985, với tổng điều chỉnh giá - lơng- tiền, nền kinh tế xã hội
nớc ta thực sự lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng với lạm phát phi

mã, 3 con số.
Trớc tình trạng đó, đổi mới là lối thoát duy nhất, là đòi hỏi bức xúc
để ra khỏi khủng hoảng, là câu trả lời cho câu hỏi Tồn tại hay không tồn tại.
Năm 1986 là đờng phân ranh giới trớc đổi mới với đổi mới. Đại hội
VI (1986) là đại hội của đổi mới. Nhờ có đổi mới mà lạm phát khủng hoảng
mới đợc giải quyết. Nhờ có đổi mới mà mới chuyển đợc mô hình phát triển,
chuyển sang sản xuất hàng hóa, cơ chế thị trờng và kinh tế thị trờng.
Cũng nhờ có đổi mới mà hình thành đợc nhận thức mới về CNXH
trong đó có nhận thức mới về cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội.
Bởi vậy, muốn thấy cái mới trong t duy lý luận và hành động thực
tiễn về cơ cấu - phân tầng và chính sách cần phải bắt đầu từ việc trình bày
những nhận thức về những vấn đề ấy ở thời kỳ trớc đổi mới, giới hạn vào 10
năm đầu sau giải phóng miền Nam (1975-1985) gắn với quan niệm, quan
điểm của Đảng ở Đại hội IV(1976) và Đại hội V (1981).
Dới đây là một trình bày khái lợc, cốt để làm cơ sở cho sự so sánh
với những cái mới trong đổi mới. Có thể nói tới những vấn đề sau đây:
Một, trong nhận thức về xã hội và phát triển xã hội, do t duy về
CNXH còn chịu ảnh hởng nặng nề của bệnh giáo điều và giản đơn theo

8
khuynh hớng chủ quan duy ý chí nên chúng ta có sự lầm tởng về tính chất
của xã hội. Điểm xuất phát của xã hội ta là xã hội nông nghiệp, trình độ phát
triển còn thấp, tàn d của xã hội cũ cha đợc cải tạo hết (thực dân, phong
kiến, gia trởng, đẳng cấp) nhng chính điểm xuất phát này không đợc
nhận thức đầy đủ. Đó chính là xa rời quan điểm thực tiễn, các điều kiện lịch
sử cụ thể, dẫn tới nhận thức rằng xã hội ta đã là xã hội XHCN, trong khi trên
thực tế vẫn chỉ là một xã hội quá độ. ở thời kỳ này, đó là quá độ từ chiến
tranh sang hòa bình với rất nhiều hậu quả xã hội nặng nề do chiến tranh để
lại, phải có thời gian lâu dài mới khắc phục hết nhng ta đã giản đơn hóa,
tởng rằng có thể dễ dàng khắc phục đợc ngay. CNXH còn đang phát sinh,

chúng ta đã quan niệm đã có CNXH đầy đủ, các chính sách, các kế hoạch phát
triển đã áp vào cuộc sống nh là những chính sách, kế hoạch của CNXH nên
không phù hợp. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN đòi hỏi phải áp dụng
quá độ gián tiếp nhng ta đã chủ trơng quá độ trực tiếp, tởng rằng chỉ vài ba
kế hoạch phát triển là đã tới CNXH. Rõ nhất là quan niệm lý luận về chế độ
mới, kinh tế mới, văn hóa mới, con ngời mới mà Đại hội IV (1976) đa ra
với những chỉ tiêu quá cao, lý tởng hóa hiện thực nên không thực hiện đợc.
Hình thái phát triển rút ngắn đợc hiểu một cách giản đơn là phát triển
ngắn, dẫn đến ảo tởng rằng, quá độ bỏ qua chế độ TBCN là cách đi nhanh
chóng, dễ dàng để tới CNXH. Đã tách rời QHSX với LLSX, chủ trơng xây
dựng QHSX tiên tiến đi trớc, mở đờng cho LLSX phát triển nhng rốt cuộc
là kìm hãm sự phát triển của LLSX. Chúng ta đã không đánh giá hết những
khó khăn, phức tạp và mâu thuẫn trong xã hội quá độ dẫn tới khuynh hớng
nhìn nhận xã hội ta đã là một xã hội thuần nhất, coi ý thức hệ XHCN đã có thể
nhanh chóng đóng vai trò chủ đạo trong ý thức xã hội và ý thức làm chủ tập
thể đã trở thành phổ biến trong ý thức của mỗi ngời.
Hai, trong quan hệ lợi ích giữa cá nhân, tập thể và xã hội thì lợi ích
xã hội bị tuyệt đối hóa, không gắn liền với lợi ích cá nhân của lao động nên
thiếu động lực phát triển, ngời lao động do không đợc đảm bảo những lợi

9
ích chính đáng nên thờ ơ với sản xuất, không quan tâm tới sản cuối cùng. Rõ
nhất là trong các HTX sản xuất nông nghiệp ở nông thôn. Do không dựa trên
cơ sở là lợi ích cá nhân nên lợi ích xã hội dù có tuyệt đối hóa cũng không thể
thực hiện đợc. Lợi ích tập thể cũng ở trong tình trạng tơng tự, bị biến dạng
dới những hình thức cục bộ, địa phơng chủ nghĩa, phờng hội.
Quản lý yếu kém, nhiều sơ hở đã làm tổn hại tới lợi ích chung (tập thể
và xã hội), đồng thời lợi ích thờng nhật của cá nhân cũng không đợc đảm
bảo. Quan liêu, lãng phí, tham ô, chiếm dụng và chiếm đoạt tài sản công, lợi
ích chung đã nảy sinh và kéo dài ở một bộ phận không nhỏ những ngời có

chức, có quyền. Họ đã lợi dụng và lạm dụng quyền hành, chức trách do dân ủy
quyền để mu lợi riêng mà không quan tâm đến lợi ích của ngời dân và của
cộng đồng xã hội.
Phơng thức quản lý theo kiểu hành chính mệnh lệnh, tập trung quan
liêu và áp dụng cơ chế bao cấp, phân phối bình quân càng làm suy giảm nhanh
chóng, thậm chí mai một các động lực phát triển.
Ba, trên lĩnh vực kinh tế, mà trực tiếp nhất là vấn đề sở hữu, chúng ta
quan niệm một chế độ sở hữu thuần nhất XHCN, đó là chế độ công hữu, chỉ
thừa nhận sở hữu xã hội, đó là 2 hình thức sở hữu nhà nớc và tập thể. Tơng
ứng với nó là thành phần kinh tế nhà nớc (quốc doanh) và kinh tế tập thể
(Hợp tác xã). Các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế khác (t bản t
nhân, cá thể, tiểu chủ) đều coi là phi XHCN, không đợc khuyến khích phát
triển, là đối tợng của cải tạo XHCN. Sau giải phóng miền Nam, việc cải tạo
XHCN đối với các thành phần đó đã đợc tiến hành, trù tính trong một thời
gian ngắn sẽ hoàn thành việc cải tạo để đi vào xây dựng nền kinh tế XHCN
mà Đại hội IV xác định là chế độ kinh tế mới, nhanh chóng chuyển nền sản
xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn XHCN, xây dựng cơ cấu kinh tế công - nông
nghiệp hiện đại, coi công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá
độ. Thơng nghiệp dịch vụ cũng chỉ phát triển theo mô hình thơng nghiệp
quốc doanh XHCN. Các hoạt động sản xuất - kinh doanh t nhân và cá thể ở

10
các đô thị không đợc khuyến khích. Các làng nghề truyền thống ở nông thôn
cũng không phát triển, thậm chí bị mai một. Do cơ chế quản lý tập trung, nhất
loạt theo kế hoạch nhà nớc nên thị trờng không phát triển, phân phối lu
thông ách tắc, bởi chính sách (hay chủ trơng) ngăn sông cấm chợ, không
tuân thủ quy luật giá trị, quy luật thị trờng, cạnh tranh, hạch toán của nền
kinh tế hàng hóa nên đã xảy ra tình trạng thừa thiếu giả tạo về sản xuất và tiêu
dùng lãi giả lỗ thật trong sản xuất kinh doanh, ngay trong khu vực kinh tế nhà
nớc (quốc doanh). Hiện trạng kinh tế và cơ cấu kinh tế nh vậy đã dẫn tới

một cơ cấu xã hội - giai cấp rất giản lợc, chỉ có GCCN và GCND tập thể, sau
nữa là tầng lớp lao động trí óc gọi là trí thức XHCN.
Liên minh công nông vốn chỉ là một lực lợng nòng cốt về mặt xã hội
phản ánh cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp đợc giản lợc hóa, coi đó là cơ
cấu xã hội; (sau này, từ Đại hội VII trở đi tầng lớp trí thức mới đợc mở rộng
trong liên minh này, tạo thành liên minh công - nông - trí thức (gọi tắt là 2
giai 1 tầng). Đây chỉ là một lợc đồ về cơ cấu xã hội trong t duy lãnh đạo,
quản lý và ở những ngời làm chính sách. Trên thực tế, diện mạo thực của cơ
cấu xã hội phong phú, đa dạng hơn nhiều, nó tồn tại một cách khách quan,
ngoài ý muốn chủ quan của chủ thể quản lý nhà nớc, của hoạch định và thực
thi chính sách.
Bốn, trên phơng diện chính trị, trớc hết là trong t duy, nhận thức
về chính trị, trớc đổi mới chúng ta thờng n nhấn mạnh một chiều về giai
cấp, về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ, đấu tranh giữa hai con đờng,
giữa hai lực lợng, khuynh hớng XHCN và CNTB, đó là cuộc đấu tranh ai
thắng ai giữa CNXH và TBCN. Vào lúc đó, nhận thức về CNXH là đối lập về
bản chất với CNTB. Quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa thờng chỉ diễn ra trong
nội bộ hệ thống XHCN, không có quan hệ với các nớc TBCN mà chúng ta
gọi là đối lập ý thức hệ. Vấn đề dân chủ và pháp quyền, thị trờng và KTTT
đều xem nh đồng nhất, đồng nghĩa với CNTB. Nói tới cơ cấu xã hội, thực
chất chỉ là cơ cấu giai cấp. Các khái niệm xã hội học thông thờng nh nhóm,

11
tầng lớp, phân tầng, giai tầng, thậm chí cả khái niệm giới đều coi là xã hội
học t sản, rất ít đợc quan tâm nghiên cứu trong xã hội học gọi là xã hội học
mác xít. Nói tới nhà nớc và các thiết chế chính trị, trớc đổi mới, chúng ta
chỉ quen với tiếp cận nhà nớc chuyên chính vô sản, hệ thống chuyên chính vô
sản với 3 bộ phận (Đảng, Nhà nớc, công đoàn). Phải đến đổi mới, dần dần
mới xuất hiện và định hình về dân chủ và nhà nớc pháp quyền, về hệ thống
chính trị, cũng nh hiện nay mới bắt đầu làm quen với xã hội công dân, xã

hội dân sự, chức năng xã hội của nhà nớc, với chức năng giám sát, t vấn,
phản biện xã hội của Mặt trận và các tổ chức đoàn thể.
Trớc đây, nói tới nhà nớc Chuyên chính vô sản ta mới chỉ thấy nét
đặc trng chung nhất là trấn áp bằng bạo lực chuyên chính và tổ chức xây
dựng xã hội mới. Các vấn đề về công quyền, về hành chính công, dịch vụ
công, về kỷ luật công vụ, đạo đức công chức, khoa học hành chính trong quản
lý nhà nớc rồi cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính công minh
bạch ít đợc chú ý nghiên cứu và ứng dụng. So sánh với các quan niệm mới
hình thành trong đổi mới nh dân chủ, pháp quyền, HTCT, xây dựng nhà nớc
pháp quyền, cải cách hành chính, phân biệt chức năng nhiệm vụ và phân cấp,
phân quyền giữa lập pháp, hành pháp, t pháp, trên cơ sở coi tất cả quyền lực
thuộc về nhân dân, thì t duy chính trị và đời sống chính trị ở nớc ta trong
đổi mới quả thực đã có một bớc tiến lớn. Những biến đổi tích cực này trong
đổi mới chính trị là những xung lực mạnh mẽ tác động tới nhận thức lý luận
về cơ cấu và phân tầng xã hội.
Năm, trên phơng diện chính sách quản lý, trong một thời gian dài
trớc đổi mới, dờng nh chúng ta mới chỉ hình dung có hai loại chính sách,
đó là
chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Điều đáng nói là ở chỗ, các
chính sách này thờng tách rời nhau, nhận thức không đúng về vai trò của
chính sách xã hội. Chính sách kinh tế đợc chú trọng nhng lại không đặt nó
trong tơng tác với chính sách xã hội. Coi đầu t cho kinh tế là quan trọng hơn
cả, thậm chí là tất cả. Đầu t cho xã hội chỉ đợc coi là đầu t bổ sung sau khi

12
đã đầu t cho kinh tế. Coi đầu t cho xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội là
đầu t bảo trợ, phúc lợi, không sinh lợi, đầu t cho không, mang tính chất bao
cấp, không thấy đầu t vào xã hội thực chất là đầu t phát triển kinh tế, mà sâu
xa là đầu t cho phát triển nguồn nhân lực, nhân tố quyết định trong phát triển
kinh tế - xã hội. Nhận thức không đúng đó đã làm thiệt hại ngay tới phát triển

kinh tế và đã đợc khắc phục trong đổi mới. Ngay trong lĩnh vực chính trị
cũng mới chỉ nhấn mạnh đờng lối chính trị mà cha tiếp cận chính trị từ
phơng diện chính sách để hình thành các chính sách chính trị ở tầm quốc
gia, khu vực và địa phơng.
Chính sách dân tộc, chính sách phát triển tộc ngời trong cơ cấu đa
tộc ngời, chính sách tôn giáo, chính sách đối với giai cấp, tầng lớp, các nhóm
xã hội, các thành phần dân c. chính là những chính sách chính trị quan
trọng đối với phát triển. Những nhận thức mới này phải đến đổi mới mới hình
thành và tác động trực tiếp tới t duy lý luận về phân tầng xã hội.
Đó là 5 vấn đề nổi bật nhất về những hạn chế trong t duy xã hội và
quản lý xã hội trớc đổi mới, nó giải thích vì sao, lý luận cơ cấu xã hội và
phân tầng xã hội ở nớc ta ở trong tình trạng lạc hậu, chậm phát triển suốt một
thời gian dài, phải đến đổi mới mới có những tiền đề kinh tế- xã hội -chính trị
để khắc phục.
Đến đây có thể rút ra một số nhận xét.
Thứ nhất, cơ cấu xã hội (bao gồm cơ cấu giai cấp và cơ cấu phân tầng)
là sự phản ánh tính chất, hiện trạng của cơ cấu kinh tế, của trình độ phát triển
kinh tế trong những điều kiện lịch sử - cụ thể của xã hội. Cơ cấu xã hội và
phân tầng tồn tại một cách khách quan cùng với kinh tế và tác động trở lại tới
phát triển kinh tế.
Thứ hai, căn nguyên sâu xa của những biến đổi cơ cấu kinh tế, từ đó
dẫn đến biến đổi cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội là ở sự phát triển lực lợng
sản xuất. Tác nhân trực tiếp của những biến đổi kinh tế - xã hội lại là chính
trị, từ thể chế pháp luật, chính sách của nhà nớc và những thay đổi trong cơ

13
chế quản lý. Đổi mới ở Việt Nam với kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trờng và
dân chủ hóa xã hội đã tạo ra những lực đẩy quan trọng để giải phóng sức sản
xuất, giải phóng mọi tiềm năng xã hội, đó cũng là những động lực quan trọng
hình thành một cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội mới, hiện đại ở Việt Nam.

Thứ ba, đổi mới nhận thức về chính sách, gắn liền chính sách kinh tế
với chính sách xã hội là cần thiết và tất yếu để phù hợp với một hiện thực kinh
tế -xã hội mới trong phát triển.
Thứ t, phân tầng xã hội là một trong những dấu hiệu của sự phát triển
xã hội, là hệ quả hợp lô gích của phát triển kinh tế thị trờng và dân chủ hóa.
Vai trò của chính sách đối với phát triển xã hội là ở chỗ chính sách và
hệ chính sách phải tính đủ các đối tợng thụ hởng lợi ích một cách công
bằng từ các chính sách đó, đồng thời phải đảm bảo quyền làm chủ xã hội của
mọi đối tợng, giai cấp, tầng lớp, nhóm, cộng đồng và cá nhân. Ngời dân
trong t cách công dân, họ là ngời lao động, ngời sản xuất kinh doanh, nhà
quản lý, nhà hoạt động xã hội, công chức, viên chức, lao động trí óc hay lao
động chân tay đều bình đẳng trên phơng diện là ngời chủ, ngời làm chủ
xã hội của mình. Những biến đổi trong phân tầng xã hội đòi hỏi phải đợc
điều tiết bằng chính sách để tạo nên sự phân tầng hợp lý, lành mạnh, thúc đẩy
tiến bộ xã hội.
Thứ năm, một khi cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội đã biến đổi mà
chính sách và cơ chế của nhà nớc không có sự biến đổi tơng ứng thì sự phát
triển xã hội sẽ vấp phải những lực cản từ sự lạc hậu của chính sách, của thể
chế nói chung.
Do đó, nghiên cứu và phát hiện những biến đổi của cơ cấu và phân tầng
phải đóng vai trò là cung cấp những luận cứ khoa học góp phần vào việc đổi
mới nhận thức, hoạch định và thực thi chính sách trong quản lý.
Muốn thúc đẩy việc thực hiện yêu cầu ấy, phải bắt đầu từ đổi mới nhận
thức về xã hội và cơ cấu xã hội, cơ cấu phân tầng, hình thành những nhận thức

14
mới, t duy lý luận mới của Đảng và Nhà nớc về những lĩnh vực quan trọng
nêu trên.
III. Những nhận thức lý luận mới của Đảng và Nhà nớc có tác
động trực tiếp tới cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội trong thực tiễn đổi

mới.
1. Đại hội VI, Đại hội mở đầu của thời kỳ đổi mới với những luận
điểm có tính cách mạng trong t duy về x hội và xây dựng cơ cấu x hội.
Tiêu biểu nhất cho t duy đổi mới của Đảng tại Đại hội VI, mở đờng
cho sức giải phóng mọi năng lực của toàn xã hội là thái độ đầy trách nhiệm
của Đảng ta. Đó là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự
thật
1
. Thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài, về chủ trơng, chính
sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lợc và tổ chức thực hiện
2
, đảng ta đã rút ra
nhiều bài học quan trọng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh rằng phải quán triệt t
tởng lấy dân làm gốc, luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành độ theo quy luật là điều kiện
bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
1
.
Đây là những luận điểm then chốt, nền tảng của đổi mới và phát triển.
Từ nhận thức đó, Đại hội VI chủ trơng giải phóng mọi năng lực sản
xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nớc cũng nh sử
dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ LLSX đi đôi với
xây dựng và củng cố QHSX XHCN.
Từ khâu đột phá là khoán sản phẩm tiến tới khoán tới hộ gia đình nông
dân trong nông nghiệp ở nông thôn, chủ trơng đi vào phát triển sản xuất hàng
hóa, kinh tế hàng hóa, Đại hội VI đã đề ra 3 chơng trình mục tiêu: lơng
thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu ở nông thôn, coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, nhờ đó mới có thể phát triển rộng rãi các loại

1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội VI, , H.1987, tr.12.
2
Sđd, tr.26
1
Sđd, tr.29-32.

15
hoạt động dịch vụ, phục vụ sản xuất, phục vụ đời sống nhân dân
2
. Đây là một
tiền đề quan trọng để phát triển các loại hình dịch vụ kinh tế - kỹ thuật và xã
hội đáp ứng yêu cầu phát triển của đời sống dân c trong bối cảnh đổi mới,
mở cửa, hội nhập sau này. Từ đó hình thành cả một lực lợng lao động dịch
vụ, làm phong phú và đa dạng cơ cấu xã hội với những nhóm xã hội mới, tầng
lớp và giai tầng mới.
Đại hội VI còn xác định rõ ràng thái độ của Đảng và Nhà nớc đối với
các thành phần kinh tế, chủ trơng thi hành nhất quán các chính sách phát
triển kinh tế, có nhận thức mới về vai trò của chính sách xã hội, trong đó có
chính sách khuyến khích sản xuất, khuyến khích mọi lao động có ích cho xã
hội, u đãi đối với thành phần kinh tế XHCN song vẫn phải thực hiện sự bình
đẳng trớc pháp luật đối với mọi thành phần kinh tế, không đợc có phân biệt
đối xử.
Việc cải tạo XHCN theo xác định của Đại hội VI là không thể nóng
vội, giản đơn chủ quan, duy ý chí mà phải làm lâu dài, từng bớc vì mục đích
phát triển LLSX, từng bớc xây dựng QHSX mới phù hợp với LLSX chứ
không phải tách rời LLSX. Do đó phải đổi mới căn bản cách nhìn nhận, đánh
giá và đối xử với các thành phần kinh tế, với các chủ thể sản xuất -kinh doanh.
Đây là điểm xuất phát để giải quyết trong thực tế vấn đề cơ cấu xã hội
và phân tầng xã hội.
Đối với kinh tế quốc doanh, phải đảm bảo quyền tự chủ và thật sự

chuyển sang hạch toán kinh doanh XHCN, xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung
hành chính, mệnh lệnh theo kiểu cấp - phát, giao nộp - phân phối, không tính
đến nhu cầu xã hội và thị trờng nh trớc đây. Từ đó, tách quyền quản lý nhà
nớc theo luật pháp và chính sách với quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự
quyết định sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp.

2

1
Sđd, tr.52.

16
Kinh tế quốc doanh phải chủ động mở rộng liên kết với các thành phần
kinh tế khác, hớng các thành phần đó vào quỹ đạo của CNXH. Kinh tế tập
thể đợc tổ chức lại theo hớng tăng cờng hiệu quả của quản lý, chú trọng
đầu t cơ sở vật chất, liên kết với kinh tế quốc doanh, kinh tế gia đình, trớc
hết là cung ứng vật t, nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm
1
.
Đại hội VI còn đặc biệt chú trọng tới kinh tế gia đình, đánh giá cao vị
trí, vai trò của nó, nhất là kinh tế hộ nông dân, khuyến khích sản xuất kinh
doanh các ngành nghề theo pháp luật và chính sách.
Nhà nớc cũng đồng thời thừa nhận kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa,
không có thành kiến với tiểu thơng, khuyến khích tầng lớp này sang lĩnh vực
dịch vụ, cho phép các nhà t sản nhỏ bỏ vốn đầu t vào sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ trong cả nớc. Kinh tế t bản t nhân hoạt động theo luật pháp, liên
kết kinh tế t bản t nhân với t bản nhà nớc và kinh tế quốc doanh. Trên cơ
sở đó, sửa đổi bổ sung chính sách cho phù hợp
2
.

Đại hội VI khẳng định rằng, những ngời làm ra của cải và những việc
có ích cho xã hội, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật và chính sách đều đợc tôn trọng, đợc quyền hởng thụ thu nhập tơng
ứng với kết quả lao động, kinh doanh hợp pháp của họ
1
.
Có thể nói, những luận điểm nêu trên thể hiện rất rõ sự đổi mới t duy
kinh tế của Đảng, là cơ sở để hình thành những nhận thức mới về xã hội, chính
sách xã hội thích ứng với sự hình thành cơ cấu xã hội mới.
Văn kiện Đại hội VI đã nêu lên những luận điểm mới về vấn đề này.
Lần đầu tiên Đảng ta đặt vấn đề cần có kế hoạch chủ động xây dựng cơ cấu
xã hội
2
vì mục đích phát triển yếu tố con ngời, lấy việc phục vụ con ngời là
mục đích cao nhất của mọi hoạt động.

1
Sđd tr.59
2
Sđd, tr.60
1
Sđd, tr.61
2
Sđd, tr.86.

17
Cần nhận thức đúng tính toàn diện của chính sách xã hội. Nó bao trùm
mọi mặt của cuộc sống con ngời từ điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục
và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp và quan hệ dân tộc. Đảm bảo sự
thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xuất phát từ nhận

thức rằng coi nhẹ chính sách xã hội là coi nhẹ nhân tố con ngời
3
.
Mối liên hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội là
ở chỗ, trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách
xã hội. Những mục tiêu xã hội lại là mục đích của hoạt kinh tế. Ngay trong
khuôn khổ của hoạt động kinh tế, chính sách xã hội có ảnh hởng trực tiếp tới
năng suất lao động, chất lợng sản phẩm, là nhân tố quan trọng để phát triển
sản xuất.
Chính vì vậy cần có chính sách xã hội cơ bản và lâu dài, xác định đợc
những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đờng
đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Nhất quán với quan điểm phát huy yếu tố con ngời, lấy việc phục vụ
con ngời làm mục đích, các chính sách kinh tế -xã hội phải đảm bảo nguyên
tắc công bằng xã hội, xây dựng lối sống lành mạnh, mọi lao động có ích cho
mình và cho xã hội theo luật pháp đều đợc tôn trọng về mặt xã hội và đạo
đức. Điều đó sẽ khuyến khích mọi ngời tự tìm việc làm, nêu cao ý thức nghĩa
vụ xã hội của công dân, tạo ra cơ cấu xã hội phù hợp với sự phát triển năng
động của kinh tế.
Cách đặt vấn đề của Đảng tại Đại hội VI có một điều nổi bật, đó là
quan tâm tới các chính sách giai cấp, dân tộc, tôn giáo. Đây là một lĩnh vực
quan trọng của chính sách, bởi quan hệ giai cấp, dân tộc, tôn giáo là những
quan hệ nòng cốt trong cơ cấu xã hội trong thời kỳ quá độ. Đó là chính sách
đối với mỗi giai cấp, chính sách xử lý mối quan hệ giữa các lợi ích của các
giai cấp, theo đó phải xây dựng toàn diện GCCN, GCND tập thể, tầng lớp trí

3
Sđd, tr.96.

18

thức XHCN
1
. NQĐH VI còn nhấn mạnh phải điều tra cơ bản, nắm chắc cơ
cấu giai cấp và xã hội của cả nớc, của từng địa phơng, phát hiện những vấn
đề cần đợc giải quyết về mặt chính sách giai cấp
2
. Đó là một bớc tiến rất
căn bản so với thời kỳ trớc đổi mới về nhận thức cơ cấu xã hội, chính sách xã
hội của Đảng.
Ngoài những vấn đề nêu trên, Văn kiện Đại hội VI còn đề cập tới nhiều
vấn đề quan trọng khác có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới sự hình thành
và phát triển cơ cấu xã hội ở nớc ta trong thời kỳ chuyển đổi mô hình phát
triển, cơ chế và chính sách quản lý.
Đáng lu ý là : nhấn mạnh sự cần thiết phải khắc phục quan niệm đẳng
cấp, tôn ti trật tự theo kiểu phong kiến, chỉ có nh thế mới sử dụng, cất nhắc
đợc cán bộ trẻ
3
, trong chính sách cán bộ phải chú trọng năng lực, trình độ
thực tế, không máy móc về tuổi tác cán bộ
4
. Quan tâm tới quyền tự do sáng
tạo của đội ngũ trí thức, thực hiện dân chủ hóa công tác cán bộ
5
.
Về bức tranh cơ cấu xã hội, Văn kiện Đại hội VI đã đề cập tới một hệ
thống cơ cấu bao gồm: GCCN, GCND, tầng lớp trí thức XHCN, thanh niên,
thiếu niên nhi đồng, phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, đồng bào
theo tôn giáo. Đó là những điểm nổi bật trong nhận thức lý luận mới của Đảng
tại Đại hội VI có tác động trực tiếp tới cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội trong
thực tiễn đổi mới.

2. Đại hội VII và Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ
lên CNXH với những vấn đề xây dựng cơ cấu x hội và thực hiện chính
sách x hội trong bớc chuyển sang kinh tế thị trờng
Sau 5 năm thực hiện đờng lối và các chính sách đổi mới, áp dụng cơ
chế thị trờng và tiến dần tới kinh tế thị trờng, nền kinh tế nớc ta đã bớc
đầu có tăng trởng, đời sống các tầng lớp nhân dân đợc cải thiện. Thực tiễn

1
Sđd, tr.97.
2
Sđd, tr.97.
3
Sđd, tr.133.
4
Sđd, tr.17-18
5
Sđd, tr.

19
đã xác nhận tính đúng đắn của đờng lối đổi mới. Đó là một chủ trơng chiến
lợc đáp ứng yêu cầu thực tiễn và hợp với ý nguyện của toàn dân.
T tởng giải phóng sức sản xuất và giải phóng ý thức tinh thần xã hội
đã tạo ra động lực to lớn để phát huy mọi tiềm năng của xã hội và khả năng
sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân.
Xã hội đã nhanh chóng ra khỏi sức ì và sự trì trệ, rõ nhất là sự phát triển
năng động của nền kinh tế.
Khi mọi rào cản đợc tháo gỡ, không còn tình trạng ngăn sông cấm
chợ, hàng hóa đợc tự do lu thông trên thị trờng thì một biến đổi rõ nhất đã
xuất hiện. Chỉ cần thay đổi cơ chế và chính sách đối với nông nghiệp và nông
dân mà tình trạng thiếu lơng thực một cách giả tạo đã đợc xóa bỏ, nớc ta

đã có xuất khẩu gạo và nhanh chóng trở thành một trong những nớc xuất
khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Đó là kết quả của đột phá về khoán trong nông nghiệp, nhất là khoán tới
hộ gia đình nông dân, thực hiện quyền sử dụng ruộng đất lâu dài của các chủ
hộ trong chính sách giao đất, giao rừng.
Kinh tế hộ đợc coi là đơn vị kinh tế cơ bản ở nông thôn, lợi ích cá
nhân của ngời lao động đợc coi là cơ sở và động lực trực tiếp của lợi ích xã
hội.
Các HTX kiểu cũ đợc tổ chức loại theo mô hình HTX kiểu mới, theo
đúng yêu cầu của kinh tế hợp tác, dựa trên sự trao đổi lao động, sự liên kết tự
nguyện của các hộ gia đình nông dân cá thể.
Mỗi đơn vị kinh tế hộ là hình thức của kinh tế t nhân với quyền chủ
động sản xuất kinh doanh của các chủ hộ. Trong nền kinh tế thị trờng, đa
dạng hóa các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu, ngay trong GCND
tập thể trớc đây cũng diễn ra sự phân hóa và phân tầng.
ở nông thôn, đã xuất hiện các loại hình kinh tế -sản xuất và cơ cấu xã
hội sau đây: thuần nông; làm nông nghiệp kết hợp với nghề thủ công và có sự

20
phục hồi nhanh chóng các làng nghề truyền thống; làm dịch vụ nông nghiệp
và chuyển sang thơng mại -dịch vụ ở nông thôn. Trong cộng đồng xã hội
nông thôn không chỉ có nông dân mà còn có thơng nhân, ngời sản xuất
công nghiệp, ngời làm dịch vụ. Ngay trong cơ cấu nông dân cũng có nông
dân làm nghề nông và không làm nghề nông. Dới tác dụng của thị trờng,
cạnh tranh, lợi nhuận, t duy của ngời nông dân truyền thống cũng thay đổi,
họ chuyển từ t duy theo hiện vật (một héc ta gieo trồng là bao nhiêu Kg thóc)
sang t duy theo giá trị (một héc ta canh tác đem lại bao nhiêu triệu đồng).
Phân tích trờng hợp nêu trên nh một ví dụ để thấy rõ thực tiễn biến
đổi kinh tế - xã hội và cơ cấu xã hội ở nớc ta.
Văn kiện Đại hội VII và Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ

quá độ lên CNXH (1991) đã đề cập tới vấn đề cơ cấu xã hội và những biến đổi
trong phân tầng xã hội với những phát triển mới so với Văn kiện Đại hội VI.
Việc bổ sung giá trị công bằng xã hội vào hệ mục tiêu của đổi mới ở
Đại hội VII có tầm quan trọng đặc biệt về lý luận và thực tiễn.
Về lý luận, công bằng xã hội là mục tiêu bản chất và động lực của
CNXH. Hơn nữa trong đổi mới, công bằng xã hội đã đợc nhận thức lại, phải
từ bỏ nhận thức cũ, không đúng trớc đây do hiểu công bằng là bình quân,
chia đều, làm mất động lực phát triển. Công bằng xã hội không dừng lại là
công bằng chỉ trong lĩnh vực phân phối theo lao động. Trong một nền kinh tế
nhiều thành phần, đa dạng hóa các hình thức sở hữu thì tất yếu sẽ đa dạng hóa
các hình thức phân phối. Bản chất sâu xa của công bằng là công bằng về cơ
hội phát triển, mọi thành viên trong xã hội đều có cơ hội nh nhau để phát
triển , không có bất cứ một sự phân biệt đối xử nào.
Hiểu một cách thực tiễn, công bằng là không chia đều, do đó sẽ có sự
phân hóa, nhất là với kinh tế thị trờng theo quy luật cạnh tranh thì phân hóa
giàu- nghèo là một tất yếu, nó nh một động lực kích thích phát triển. Vấn đề
chỉ là ở chỗ, bản chất công bằng, nhân đạo của CNXH đòi hỏi không đợc để

21
phân hóa giàu- nghèo dẫn tới phân hóa giai cấp làm gay gắt các xung đột xã
hội và chệch hớng mục tiêu XHCN, nhất là làm bần cùng hóa lao động và
các tầng lớp cơ bản của xã hội.
Khi áp dụng cơ chế thị trờng và phát triển KTTT thì phân hóa giàu -
nghèo sẽ gia tăng, nhất là ở nông thôn, do đó xóa đói giảm phải đặt thành
chơng trình mục tiêu phát triển xã hội và thành chính sách quốc gia.
Phân hóa giàu-nghèo vừa là một hiện tợng xã hội, hệ quả của KTTT
lại vừa là mặt biểu hiện kinh tế của phân tầng xã hội. Xóa đói giảm nghèo, kết
hợp tăng trởng kinh tế với thực hiện từng bớc công bằng xã hội là giải pháp
điều tiết xã hội , hớng phân tầng xã hội vào mục tiêu phát triển lành mạnh.
Lôgíc của vấn đề là: Phân tầng xã hội là dấu hiệu và là kết quả của phát

triển xã hội nhng phát triển xã hội theo mục tiêu XHCN đòi hỏi không để
phân tầng xã hội dẫn tới phân hóa giai cấp. Đó là tất cả chỗ khó khăn của
chính sách và sự phức tạp trong quản lý xã hội.
Nhận thức lý luận của Đảng ta qua Cơng lĩnh 1991 và Văn kiện Đại
hội VII đã thể hiện bớc đầu những quan điểm ấy.
Cơng lĩnh đã nêu rõ, chính sách xã hội tác động trực tiếp đến việc hình
thành một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân
c đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ, góp phần xây
dựng nớc Việt Nam giàu mạnh
1
.
Trong thực tế, hiện tợng phân tầng xã hội diễn ra theo nhiều hớng, có
3 hớng chủ yếu sau đây:
-Phân tầng trong nội bộ một giai cấp, ví dụ trong nội bộ GCCN, GCND
hay trong tầng lớp trí thức dới tác động của phân công lao động, chuyên mộ
hóa lao động, và sản xuất, gắn với cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, xuất
hiện những nghề mới với những thao tác kỹ thuật- công nghệ mới. Cùng với

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Các NQTW 2001-2004, CTQG, H.2004, tr.591.

22
nó là sự khác biệt, phân hóa về thu nhập (qua tiền lơng) và mức sống. Đây
chính là sự xuất hiện các giai tầng -xã hội.
- Phân tầng diễn ra trong cộng động dân c và lao động, do tác động
của KTTT, cùng có cơ hội phát triển nh nhau nhng khả năng phát triển trên
thực tế lại khác nhau ở các đối tợng xã hội - nghề nghiệp khác nhau, các hoạt
động lao động khác nhau. Phân tầng xã hội này chủ yếu đo bằng thu nhập,
không giới hạn trong một giai cấp, một tầng lớp nào mà trong toàn bộ cơ cấu
xã hội. Thờng thấy các nhóm thu nhập cao, giàu có, nhóm trung bình, khá

giả, nhóm thu nhập thập hoặc rất thấp (do thất nghiệp, do yếu thế trong phát
triển). Tơng ứng với nó là nhóm (tầng lớp) giàu có, trung lu, nghèo và rất
nghèo, thậm chí đói nghèo.
Đây là một thực tế, khi xã hội xuất hiện các tỷ phú, triệu phú nhng
cũng đồng thời có cả một bộ phận dân c nghèo khổ.
- Phân tầng diễn ra trong sự phát triển các thành phần kinh tế, đặc biệt
là phát triển mạnh mẽ kinh tế t nhân, phát triển các lĩnh vực dịch vụ xã hội
do nhu cầu xã hội ngày một nhiều cả số lợng và chất lợng, xuất hiện các
nhóm ngời, tầng lớp làm dịch vụ, phục vụ gắn với sự di chuyển dân c và lao
động từ nông thôn ra đô thị (bán sức lao động), làm ngời giúp việc trong các
gia đình -ô sin, gia s, bảo mẫu). Theo hớng này, một tầng lớp (đội ngũ) nổi
trội đáng lu ý về vị thế xã hội của họ là các doanh nhân, các nhà quản lý,
quản trị kinh doanh (giám đốc điều hành), các nhà t vấn (luật s, văn phòng,
tiếp thị) các nhà thiết kế thời trang, ngời mẫu, các nhà đầu t (kể cả trong
lĩnh vực y tế, giáo dục).
Các hiện t
ợng và xu hớng phân tầng xã hội này sẽ ngày càng tăng
trong đà phát triển mạnh mẽ của KTTT trong một thập kỷ gần đây và sẽ còn
tăng lên trong những thập kỷ tới. Điều đó chứng tỏ rằng, xem xét cơ cấu xã
hội nếu chỉ thấy tiêu chí giai cấp sẽ là không đủ. Ngoài giai cấp là một cộng
đồng tơng đối ổn định thì trong các tiêu chí xây dựng cơ cấu xã hội phải đặc

×