Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

(Luận Văn Thạc Sĩ) Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Y Tế Tại Thành Phố Hồ Chí Minh.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.96 KB, 64 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGUYỄN GIA ĐƯƠNG

VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC Y TẾ
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGUYỄN GIA ĐƯƠNG

VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC Y TẾ
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS VŨ VĂN NHIÊM

Hà Nội, năm 2021





MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường
dẫn đến sự phân tầng xã hội đang diễn ra gay gắt, sự phân hóa giàu nghèo,
truyền thống đạo đức có nguy cơ bị xói mịn…những tác động trên dẫn đến
tình trạng vi phạm pháp luật đặc biệt là vi phạm pháp luật y tế có chiều hướng
gia tăng. Trước tình hình đó, địi hỏi phải bảo đảm thực hiện pháp luật nói
chung và pháp luật y tế nói riêng.
Với chủ trương xã hội hóa hiện nay, Nhà nước đã ban hành nhiều chính
sách để tạo điều kiện cho các cơ sở y tế tư nhân được thành lập và phát triển.
Kết quả của chủ trương này là các cơ sở y tế tư nhân ở nước ta phát triển
không ngừng. Việc ra đời của các bệnh viện tư nhân, phòng khám đa khoa,
phòng khám chuyên khoa…cùng với những ứng dụng của khoa học kỹ thuật
hiện đại trong y khoa đã góp phần làm giảm tình trạng q tải cho y tế nhà
nước, tăng thêm nhiều sự lựa chọn của người dân. Tuy nhiên, cùng với sự
phát triển về quy mơ, số lượng đó thì vấn đề quản lý về mạng lưới này cũng
được đặt ra. Việc kiểm soát về chất lượng cũng như vấn đề hoạt động của các
cơ sở y tế tư nhân sẽ gặp nhiều khó khăn, một số nơi cịn có hiện tượng quản
lý lỏng lẽo, chưa chặt chẽ. Các hiện tượng như: không đảm bảo điều kiện về
nhân lực trong quá trình hoạt động, hành nghề vượt quá thẩm quyền cho phép,
hành nghề không có chứng chỉ hành nghề theo quy định, quảng cáo không
đúng hoặc phạm vi chuyên môn được ghi trong giấy phép, cung cấp dịch vụ
khám bệnh, chữa bệnh mà không có giấy phép hoạt động, kinh doanh thuốc
khơng có chứng chỉ hành nghề; khơng có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh
doanh thuốc, Bán lẻ thuốc không đáp ứng các yêu cầu về bảo quản thuốc;
người quản lý chuyên môn vắng mặt nhưng không thực hiện việc ủy quyền


1


theo đúng quy định của pháp luật; buôn bán thuốc đã được bảo hiểm y tế chi
trả, thuốc nhập khẩu phi mậu dịch, thuốc chưa được phép lưu hành, thuốc
không được phép lưu hành, thuốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng, thuốc hết
hạn sử dụng; sản xuất mỹ phẩm không thực hiện đúng nguyên tắc, tiêu chuẩn
cơ bản về “thực hành tốt sản xuất mỹ phẩm” của Hiệp hội các nước Đơng
Nam Á; kinh doanh mỹ phẩm có hồ sơ thông tin sản phẩm (PIF) lưu tại doanh
nghiệp không đáp ứng quy định của pháp luật; quảng cáo mỹ phẩm khi chưa
có phiếu tiếp nhận nội dung quảng cáo của cơ quan có thẩm quyền... Bên cạnh
đó, sống trong nền kinh tế thị trường, tiền chiếm vị trí vơ cùng quan trọng,
thậm chí được xem là “thượng tơn” nên nhiều người hành nghề, các cơ sở y tế
đã làm trái với lương tâm của một người thầy thuốc mà có những biểu hiện
sai phạm trong khi hành nghề.
Vi phạm hành chính tuy khơng nghiêm trọng như tội phạm song là vi
phạm rất phổ biến xảy ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và tính nguy
hiểm đang ngày càng gia tăng.
Đặc biệt trong tình hình dịch bệnh viêm đường hô hấp do chủng mới
của vi rút corona (bệnh COVID - 19) hiện nay, tình trạng vi phạm hành chính
trong lĩnh vực y tế về cơng tác phịng chống dịch có chiều hướng gia tăng, các
hành vi vi phạm liên quan đến phòng, chống dịch COVID-19, nhất là: các
hành vi vi phạm khơng chấp hành biện pháp phịng, chống dịch; chống đối
người thi hành cơng vụ phịng, chống dịch; đưa tin sai không đúng sự thật,
gây hoang mang dư luận, mất ổn định xã hội; tái chế khẩu trang y tế đã qua sử
dụng; sản xuất hàng giả, đầu cơ găm hàng, tăng giá trái pháp luật, gian lận
thương mại, gây bất ổn thị trường...
Hoạt động quản lý hành chính Nhà nước về lĩnh vực y tế nói chung và
cơng tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này nói riêng có ý nghĩa


2


rất quan trọng trong đời sống xã hội, là cơ sở để đảm bảo công bằng xã hội và
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Từ đó góp phần nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của người dân và trách nhiệm của những người thực thi pháp
luật.
Vì thế tác giả chọn đề tài nghiên cứu “Vi phạm hành chính trong lĩnh
vực y tế tại thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Một số ít cơng trình nghiên cứu về vấn đề này, như:
Tác giả Trần Ngọc Duy nghiên cứu đề tài “Xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực y tế ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật - Đại
học Quốc gia, 2014. Luận văn nghiên cứu chủ yếu những khái niệm cơ bản về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, chỉ ra một số những ưu nhược
điểm của hoạt động này trong thực tiễn. Từ đó đề ra một số giải pháp kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong cơng tác xử phạt vi phạm hành chính. Tuy
nhiên, luận văn chưa đi sâu nghiên cứu về tình hình vi phạm hành chính trong
lĩnh vực y tế tại một địa phương cụ thể nhằm đề ra những giải pháp hạn chế vi
phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
Tác giả Trần Quang Thắng nghiên cứu đề tài “Quản lý Nhà nước đối
với các cơ sở y tế tư nhân”, Luận văn thạc sỹ, Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh, 2008. Luận văn chủ yếu nghiên cứu về cơng tác quản lý nhà nước đối
với các cơ sở y tế tư nhân, nêu lên những bất cập trong công tác quản lý y tế
tư nhân. Từ đó đề ra một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công
tác quản lý đối với các cơ sở y tế tư nhân. Luận văn chưa nghiên cứu về vi
phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
Tác giả Bùi Minh Trạng nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động của
thanh tra y tế từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sỹ, Học


3


viện Khoa học Xã hội, 2018. Luận văn nghiên cứu các quy định về tổ chức và
hoạt động của thành tra y tế. Từ đó đề ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm
nâng cao năng lực của thanh tra y tế trong thời gian tới. Tuy nhiên luận văn
chưa nghiên cứu về vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế tại thành phố Hồ
Chí Minh.
Tác giả Đào Hồng Ngọc nghiên cứu đề tài “Xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực y tế từ thực tiễn tỉnh Yên Bái”, Luận văn thạc sỹ, Học
viện Khoa học Xã hội, 2018. Luận văn chủ yếu nghiên cứu những vấn đề lý
luận về xử phạt vi phạm hành chính, từ đó đề ra những giải pháp kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả trong cơng tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực y tế tại tỉnh Yên Bái. Tuy nhiên, đây là một tỉnh miền núi tình hình vi
phạm hành chính trong lĩnh vực y tế từ thực tiễn khơng nhiều nên tác giả chưa
nghiên cứu sâu về vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế nhằm hạn chế vi
phạm hành chính trong lĩnh vực này.
Những cơng trình này bước đầu đã tập trung làm rõ những khái niệm cơ
bản về vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, về tổ chức và hoạt động của
thanh tra y tế, về công tác quản lý nhà nước đối với các cơ sở y tế tư nhân và
công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế. Từ đó chỉ ra một số ưu,
nhược điểm của những hoạt động này trong thực tiễn. Tuy nhiên, những cơng
trình trên nhìn chung mang tính lý luận và khái qt, chưa đi sâu phân tích về
vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế nhằm hạn chế vi phạm hành chính
trong lĩnh vực này. Do đó có thể khẳng định vấn đề vi phạm hành chính trong
lĩnh vực y tế chưa được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng nhằm phát hiện những
tồn tại, thiếu sót để khắc phục, điều chỉnh cho phù hợp thực tiễn. Vì vậy, cần
có những nghiên cứu, đánh giá cụ thể về vi phạm hành chính trong lĩnh vực y
tế tại thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, đề xuất những phương hướng, giải pháp


4


nhằm hạn chế vi phạm hành chính trong lĩnh vực này. Đặc biệt là trong tình
hình dịch bệnh COVID-19 hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật về vi phạm hành
chính trong lĩnh vực y tế và đối sánh với thực tiễn áp dụng những quy định
này tại qua các vấn đề thực tiễn đang diễn ra, từ đó có cái nhìn tổng quan, sâu
sắc hơn về vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế tại thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay. Qua đó, chỉ ra những mặt đạt được, hạn chế, nguyên nhân và đề
xuất phương hướng, giải pháp nhằm hạn chế vi phạm hành chính trong lĩnh
vực y tế tại thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý về vi phạm hành chính trong
lĩnh vực y tế.
Phân tích, đánh giá thực trạng vi phạm hành chính về lĩnh vực y tế tại
thành phố Hồ Chí Minh.
Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm hạn chế vi phạm hành chính
trong lĩnh vực y tế tại thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các quy định của pháp luật về vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế
và thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế tại thành phố Hồ Chí
Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

5



Luận văn giới hạn về vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế do ngành
y tế phụ trách tại thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ năm 2015 đến
năm 2019. Cụ thể tại Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Qua nghiên cứu làm rõ thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực y
tế tại thành phố Hồ Chí Minh và đưa ra các phương hướng, giải pháp nhằm
hạn chế vi phạm trong lĩnh vực này. Luận văn đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: đây là phương pháp quan trọng giúp
tác giả tìm hiểu và bước đầu định hình nên nội dung nghiên cứu, hình thành
quan điểm và xác định hướng đi của đề tài. Cụ thể, là các văn bản quy phạm
pháp luật và văn bản dưới luật liên quan đến vi phạm hành chính trong lĩnh
vực y tế.
- Phương pháp thu thập dữ liệu: là dữ liệu thứ cấp từ Báo cáo công tác
thanh tra y tế của Thanh tra Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến
năm 2019.
- Phương pháp đánh giá, đối chiếu, so sánh, diễn giải: từ các số liệu thu
thập được tác giả tiến hành đối chiếu, so sánh mức độ, tính chất vi phạm. Từ
đó đánh giá, diễn giải các nguyên nhân dẫn đến các vi phạm trong lĩnh vực y
tế tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Phương pháp tham khảo, kế thừa các tài liệu liên quan đến đề tài: sử
dụng tài liệu nghiên cứu các đề tài có nội dung liên quan làm cơ sở tham
khảo, kế thừa và phát huy những điểm nổi bật trong nội dung nghiên cứu đề
tài.
- Phương pháp tổng hợp, quy nạp: phương pháp này được sử dụng để
tìm ra nguyên nhân, lý do dẫn đến các vi phạm từ đó đưa ra các phương

6



hướng, giải pháp nhằm hạn chế vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế tại
thành phố Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn
Những đề xuất, kiến nghị trong luận văn có giá trị tham khảo để hoàn
thiện các quy định pháp luật liên quan đến đề tài nghiên cứu và có thể là
những giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về vi phạm
hành chính và hạn chế vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
7. Kết cấu của Luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
trong tâm luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý về vi phạm hành chính
trong lĩnh vực y tế.
Chương 2. Thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế tại thành
phố Hồ Chí Minh.
Chương 3. Phương hướng, giải pháp hạn chế vi phạm hành chính trong
lĩnh vực y tế tại thành phố Hồ Chí Minh.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ
VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC Y TẾ
1.1. Khái niệm và đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế
1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế
Vi phạm hành chính (VPHC) là vi phạm pháp luật xảy ra phổ biến
trong đời sống xã hội. Những vi phạm này xâm phạm trực tiếp đến lợi ích của
các tổ chức, cá nhân, lợi ích của cộng đồng, xã hội và Nhà nước; xâm phạm
trực tiếp đến trật tự quản lý hành chính Nhà nước. Mặc dù mức độ gây nguy

hiểm đối với xã hội không cao bằng tội phạm nhưng có thể nói VPHC là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nảy sinh tội phạm nếu không được
xem xét và giải quyết kịp thời.
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 đưa ra khái niệm “vi phạm
hành chính” như sau: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ
chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà
không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi
phạm hành chính”. [16, khoản 1, Điều 2]
Như vậy, khi tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, về
nguyên tắc Nhà nước sẽ buộc họ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất
lợi, nhằm đảm bảo và khơi phục những trật tự quản lý hành chính đã bị xâm
phạm bởi những hành vi VPHC. Có nghĩa là, hành vi VPHC là hậu quả dẫn
tới trách nhiệm hành chính mà các tổ chức, cá nhân phải gánh chịu khi bị
buộc phải thực hiện những biện pháp chế tài nhất định, tương xứng với những
hành vi VPHC.
Theo quy định tại Nghị định số 117/2020/NĐ-CP ngày 28 tháng 9 năm
2020 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế

8


thì Vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế quy định là những hành vi có lỗi
do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà
nước trong lĩnh vực y tế mà không phải là tội phạm và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. [9, khoản 2, Điều 1]
Các hành vi VPHC trong lĩnh vực y tế bao gồm: vi phạm các quy định
về y tế dự phòng và phòng, chống HIV/AIDS; vi phạm các quy định về khám
bệnh, chữa bệnh; vi phạm các quy định về dược, mỹ phẩm; vi phạm các quy
định về trang thiết bị y tế; vi phạm các quy định về bảo hiểm y tế và vi phạm
các quy định về dân số.

1.1.2. Đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế
VPHC trong lĩnh vực y tế mang đầy đủ các đặc điểm của một VPHC
nói chung. Đồng thời, vì chúng là những vi phạm xảy ra trong một lĩnh vực
cụ thể của đời sống xã hội nên đương nhiên bị chi phối bởi những đặc trưng
của lĩnh vực đó. Nói cách khác, VPHC trong lĩnh vực y tế nổi bật với những
đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, đó là các hành vi trái với các quy định của pháp luật về quản
lý nhà nước trong lĩnh vực y tế. Các hành vi này khá đa dạng, phong phú, có
thể phân thành nhiều nhóm khác nhau. Trong từng nhóm hành vi lại có rất
nhiều hành vi vi phạm cụ thể, với các mức độ nghiêm trọng khác nhau.
Thứ hai, VPHC trong lĩnh vực y tế là những hành vi có tính chất nguy
hiểm cho xã hội nhưng mức độ nguy hiểm chưa đáng kể, chưa đến mức bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hành vi vi phạm các quy định về y tế rõ ràng nguy hiểm cho xã hội, bởi
nó gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại nhất định đến sức khỏe, tính
mạng con người cũng như xâm hại đến trật tự quản lý nhà nước về y tế. Căn
cứ dấu hiệu này, có thể phân biệt một cách khá dễ dàng đâu là VPHC và đâu

9


là tội phạm trong lĩnh vực y tế. Cụ thể, theo Điều 315 Bộ luật hình sự năm
2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), hành vi vi phạm quy định về khám,
chữa bệnh dẫn đến hậu quả chết người hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thiệt hại về tài
sản từ 100.000.000 đồng trở lên bị coi là tội phạm. Như vậy, những hành vi
trái với quy định của pháp luật về y tế nhưng chưa gây ra những hậu quả kể
trên thì chỉ là VPHC và chủ thể thực hiện chúng chỉ phải gánh chịu trách
nhiệm hành chính mà khơng phải là trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, chủ thể VPHC trong lĩnh vực y tế là tổ chức hoặc cá nhân thực

hiện các hành vi vi phạm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng con người.
Thứ tư, VPHC trong lĩnh vực y tế là những hành vi theo quy định phải
bị xử phạt VPHC. Đây là dấu hiệu không thể thiếu, là câu trả lời rõ ràng cho
câu hỏi một hành vi cụ thể xảy ra trong đời sống có phải là VPHC hay không
và cá nhân, tổ chức thực hiện chúng sẽ phải đối mặt với các chế tài hành
chính nào. Hiện nay, Nghị định số Nghị định số 117/2020/NĐ-CP ngày 28
tháng 9 năm 2020 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực y tế là cơ sở pháp lý quan trọng trực tiếp điều chỉnh hành vi VPHC
trong lĩnh vực y tế ở nước ta. Theo đó, cho dù trên thực tế có thể phát sinh
những hành vi trái pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế, do cá
nhân, tổ chức thực hiện một cách có lỗi nhưng nếu chúng chưa được Chính
phủ quy định là VPHC thì cũng khơng thể xử lý. Quy định này là hoàn toàn
hợp lý nhằm đảm bảo quyền lợi của công dân, tránh trường hợp cơ quan có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lý một cách tùy tiện, bừa bãi mà không
căn cứ theo các quy định của pháp luật và cũng hoàn toàn phù hợp với đặc
điểm của hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa của nước ta, chỉ căn cứ và tuân
thủ theo các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan có thẩm quyền ban hành

10


chứ khơng có khả năng tự sáng tạo ra pháp luật trong quá trình áp dụng luật
như một số nước theo truyền thống pháp luật thông luật khác trên thế giới.
1.2. Các yếu tố cấu thành và các loại vi phạm hành chính trong lĩnh
vực y tế
1.2.1. Các yếu tố cấu thành của vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế
Cấu thành VPHC là tổng thể các dấu hiệu đặc trưng mang tính khách
quan làm nên VPHC đó. Cấu thành VPHC nói chung và cấu thành VPHC
trong lĩnh vực y tế nói riêng bao gồm bốn yếu tố: chủ thể, khách thể, mặt
khách quan và mặt chủ quan.

1.2.1.1. Chủ thể
Chủ thể của VPHC trong lĩnh vực y tế là tổ chức hoặc cá nhân thực
hiện các hành vi vi phạm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng con
người.
Để được công nhận là chủ thể VPHC, các cá nhân này phải thỏa mãn
các điều kiện chung về năng lực chủ thể. Đó là phải đạt đến độ tuổi luật định
và phải có năng lực trách nhiệm hành chính.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là chủ thể của vi phạm hành chính
trong trường hợp thực hiện với lỗi cố ý [16, điểm a, khoản 1, Điều 5]. Như
vậy khi xác định người ở độ tuổi này có vi phạm hành chính hay khơng, cần
xác định yếu tố lỗi trong mặt chủ quan của họ. Luật xử lý vi phạm hành chính
hiện hành khơng định nghĩa thế nào là lỗi cố ý hoặc vô ý trong vi phạm hành
chính. Tuy nhiên trong thực tiễn thường quan niệm người thực hiện hành vi
với lỗi cố ý là người nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội, bị pháp luật cấm đoán nhưng vẫn cố tình thực hiện. Người từ đủ 16 tuổi
trở lên có thể là chủ thể của vi phạm hành chính trong mọi trường hợp.

11


Tổ chức là chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế bao gồm: các
cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế được thành lập theo quy định của Luật
Doanh nghiệp; hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập theo quy định
của Luật Hợp tác xã; tổ chức được thành lập theo quy định của Luật Đầu tư,
Luật Thương mại; hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập theo quy
định của Luật Hợp tác xã; tổ chức được thành lập theo quy định của Luật Đầu
tư, Luật Thương mại; Tổ chức xã hội, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính
trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp; Đơn vị sự nghiệp công
lập, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam;
Cơ quan nhà nước có hành vi vi phạm mà hành vi đó khơng thuộc nhiệm vụ

quản lý nhà nước được giao; Tổ hợp tác; các tổ chức khác theo quy định của
pháp luật.
Cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng là chủ thể vi phạm hành chính theo
quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt
Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Năng lực trách nhiệm hành chính là khả năng gánh chịu những hậu quả
bất lợi do Nhà nước (thông qua các cơ quan nhà nước, các cán bộ, công chức
nhà nước, các cá nhân được trao quyền) áp dụng vì đã thực hiện hành vi
VPHC. Năng lực này chỉ xuất hiện khi cá nhân đạt đến độ tuổi luật định và tại
độ tuổi đó họ có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
1.2.1.2. Khách thể
Khách thể của vi phạm pháp luật nói chung là cái được pháp luật bảo
vệ đang bị xâm hại hay nói cách khác là các quan hệ xã hội. Khách thể của
VPHC là quan hệ xã hội được Luật Hành chính bảo vệ rất đa dạng: trật tự
quản lý nhà nước, quyền sở hữu, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân...
Trong lĩnh vực y tế, chủ thể VPHC đã xâm hại trực tiếp đến trật tự quản lý

12


nhà nước - cụ thể là quản lý hành chính nhà nước về y tế đã được pháp luật
thừa nhận và bảo vệ nghiêm cẩn; đồng thời, phá vỡ trật tự hành chính đang
được duy trì và bảo vệ.
Khách thể của VPHC trong lĩnh vực y tế là những quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực y tế được pháp luật bảo vệ và bị hành vi vi phạm xâm hại
tới.
1.2.1.3. Mặt khách quan
Mặt khách quan của VPHC là những biểu hiện ra bên ngoài của VPHC mà
bằng trực quan sinh động con người có thể nhận thức được, bao gồm: hành vi trái
pháp luật, hậu quả của hành vi, mối liên hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và

hậu quả thiệt hại do hành vi đó gây ra cho xã hội và những yếu tố khác như thời
gian, địa điểm, công cụ, phương tiện vi phạm. [19, tr.563]
Mặt khách quan của VPHC trong lĩnh vực y tế có những điểm đáng chú
ý sau:
Về hành vi trái pháp luật, VPHC trong lĩnh vực y tế là những hành vi
trái với các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế.
Hành vi trái pháp luật là dấu hiệu đầu tiên và quan trọng nhất trong mặt khách
quan của các VPHC nói chung và VPHC về y tế nói riêng. Điều này lại càng
có ý nghĩa khi đa số các VPHC phát sinh trong lĩnh vực y tế đều có cấu thành
hình thức. Nghĩa là, để kết luận một hành vi cụ thể có phải là VPHC trong
lĩnh vực y tế hay khơng, thường chỉ cần xác định tính trái pháp luật của hành
vi đó, mà khơng nhất thiết phải quan tâm đến yếu tố hậu quả.
Về hậu quả của hành vi, tức những thiệt hại thực tế mà hành vi đó gây
ra cho xã hội - chỉ là yếu tố bắt buộc trong cấu thành pháp lý của một số các
VPHC phát sinh trong lĩnh vực y tế.
1.2.1.4. Mặt chủ quan

13


Mặt chủ quan của VPHC là những dấu hiệu tâm lý bên trong của chủ
thể, thể hiện thái độ, trạng thái tâm lý của người vi phạm đối với hành vi trái
pháp luật cũng như đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Mặt chủ quan của
VPHC bao gồm các yếu tố: lỗi, động cơ và mục đích [19, tr.564]. Theo đó, lỗi
là trạng thái tâm lý phản ánh thái độ tiêu cực của chủ thể đối với tính chất và
hậu quả của hành vi ngay tại thời điểm thực hiện hành vi; động cơ là yếu tố
bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi; mục đích là kết quả mà chủ thể
dự định đạt được khi thực hiện hành vi.
Đối với các hành vi VPHC trong lĩnh vực y tế, mặt chủ quan được thể
hiện như sau:

Lỗi: đây là yếu tố bắt buộc phải có trong mặt chủ quan của tất cả các
VPHC thuộc lĩnh vực y tế. Nói cách khác, khơng thể kết luận một hành vi trái
với các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế là
VPHC nếu không xác định được chủ thể thực hiện nó có lỗi.
Các VPHC trong lĩnh vực y tế có thể được thực hiện với lỗi cố ý hoặc
vô ý.
Với lỗi cố ý, chủ thể nhận thức được tính chất trái pháp luật của hành vi
và hậu quả có thể xảy ra nếu thực hiện hành vi đó nhưng cuối cùng vẫn lựa
chọn xử sự tiêu cực. Chẳng hạn, đó là các hành vi như: cản trở người bệnh
thuộc diện chữa bệnh bắt buộc vào cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; lợi dụng
nghề nghiệp để quấy rối tình dục người bệnh; đưa, nhận, môi giới hối lộ trong
khám bệnh, chữa bệnh nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
hành nghề khơng có chứng chỉ hành nghề; hành nghề đang trong thời gian bị
thu hồi chứng chỉ hành nghề, đình chỉ hành nghề; thuê, mượn chứng chỉ hành
nghề để hành nghề,…

14


Với lỗi vô ý, chủ thể hoặc là tuy nhận thức được tính chất trái pháp luật
và hậu quả thiệt hại cho xã hội của hành vi nhưng tin tưởng rằng hậu quả sẽ
không xảy ra hay nếu xảy ra có thể ngăn chặn được hoặc là khơng lường
trước được hậu quả của hành vi do khinh suất, cẩu thả. Đây là những hình
thức lỗi vẫn thường xuất hiện trong lĩnh vực y tế. Ví dụ, các hành vi khơng
đeo biển tên; khơng sử dụng trang bị phịng hộ theo quy định của pháp luật;
không lập hoặc lập hồ sơ, bệnh án nhưng không ghi chép đầy đủ theo quy
định của pháp luật; không lập hoặc lập sổ khám bệnh, chữa bệnh nhưng
không ghi chép đầy đủ theo quy định của pháp luật; không ghi sổ y bạ theo
dõi điều trị đối với người bệnh điều trị ngoại trú; kê đơn thuốc nhưng khơng
ghi đầy đủ, rõ ràng, khơng chính xác trong đơn các thông tin về tên thuốc, số

lượng, hàm lượng, liều dùng, đường dùng và thời gian dùng thuốc …có thể
được thực hiện với hình thức lỗi vơ ý vì cẩu thả. Ngược lại, các hành vi:
khơng thực hiện hội chẩn khi bệnh vượt quá khả năng chuyên môn của người
hành nghề hoặc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; không thực hiện hội chẩn khi đã
điều trị nhưng bệnh khơng có tiến triển tốt hoặc có diễn biến xấu đi; khơng tổ
chức thực hiện biện pháp kiểm sốt nhiễm khuẩn trong cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh theo quy định của pháp luật…có thể được thực hiện với hình thức
lỗi vơ ý vì q tự tin. Tuy nhiên, cũng như đối với VPHC nói chung, cấu
thành VPHC trong lĩnh vực y tế khơng q địi hỏi việc xác định hình thức lỗi
của chủ thể. Hình thức lỗi chủ yếu chỉ có ý nghĩa trong việc định lượng mức
độ truy cứu trách nhiệm hành chính mà thơi.
Động cơ và mục đích chỉ là những dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành
pháp lý của một số VPHC thuộc lĩnh vực y tế đối với lỗi cố ý. Chẳng hạn, với
hành vi “chỉ định sử dụng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh hoặc gợi ý chuyển
người bệnh tới cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác vì mục đích vụ lợi” hay

15


hành vi “kê đơn thuốc biệt dược đắt tiền không cần thiết nhằm mục đích vụ
lợi”, mục đích vụ lợi là dấu hiệu không thể thiếu.
1.2.2. Các loại hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế
Một là, hành vi vi phạm hành chính về y tế dự phòng và phòng, chống
HIV/AIDS gồm: Vi phạm quy định về thơng tin, giáo dục truyền thơng trong
phịng, chống bệnh truyền nhiễm; vi phạm các quy định về vệ sinh phòng
bệnh truyền nhiễm; vi phạm quy định về giám sát bệnh truyền nhiễm; vi phạm
quy định về bảo đảm an toàn sinh học tại phòng xét nghiệm; vi phạm quy
định về sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế; vi phạm quy định về phòng lây
nhiễm bệnh truyền nhiễm tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; vi phạm quy định
về cách ly y tế, cưỡng chế cách ly y tế; vi phạm quy định về áp dụng biện

pháp chống dịch; vi phạm quy định về kiểm dịch y tế biên giới; vi phạm quy
định khác về y tế dự phòng; vi phạm quy định về chất lượng nước sạch sử
dụng cho mục đích sinh hoạt; vi phạm quy định về mai táng, hỏa táng; vi
phạm quy định về vệ sinh lao động, bệnh nghề nghiệp và tai nạn lao động, vi
phạm quy định khác về môi trường y tế; vi phạm quy định về thơng tin, giáo
dục, truyền thơng trong phịng, chống HIV/AIDS; vi phạm quy định về tư vấn
và xét nghiệm HIV; vi phạm quy định về điều trị, chăm sóc người nhiễm
HIV, điều trị dự phịng, điều trị phơi nhiễm HIV; vi phạm quy định về can
thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV; vi phạm quy định về chống
kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người nhiễm HIV; vi phạm quy định khác về
phòng, chống HIV/AIDS; vi phạm quy định về địa điểm cấm hút thuốc lá; vi
phạm quy định về bán, cung cấp thuốc lá; vi phạm quy định về ghi nhãn, in
cảnh báo sức khỏe trên bao bì thuốc lá; vi phạm quy định về cai nghiện thuốc
lá; vi phạm quy định khác về phòng, chống tác hại của thuốc lá; vi phạm các
quy định về uống rượu, bia và địa điểm không uống rượu, bia; vi phạm các

16


quy định về bán, cung cấp rượu, bia; vi phạm các quy định về khuyến mại
rượu, bia; vi phạm các quy định về quảng cáo rượu, bia; vi phạm các quy định
về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong phòng, chống tác
hại của rượu, bia; vi phạm các quy định về trách nhiệm của cơ sở kinh doanh
rượu, bia, Vi phạm các quy định về thông tin, giáo dục, truyền thơng về
phịng, chống tác hại của rượu, bia; vi phạm các quy định về tài trợ rượu, bia.
Hai là, hành vi vi phạm hành chính về khám bệnh, chữa bệnh gồm: Vi
phạm quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành
nghề khám bệnh, chữa bệnh; vi phạm quy định về điều kiện hoạt động và sử
dụng giấy phép hoạt động khám bệnh, chữa bệnh; vi phạm quy định về
chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh; vi phạm quy định về sử

dụng thuốc trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có điều trị nội trú và trong thời
gian lưu người bệnh ngoại trú để theo dõi; vi phạm quy định về sinh con bằng
kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm; vi phạm các quy định về điều kiện mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo; vi phạm quy định về hiến, lấy, ghép mô, bộ
phận cơ thể người và hiến, lấy xác; vi phạm quy định về xác định lại giới tính;
vi phạm quy định về khám sức khỏe; vi phạm các quy định về kiểm soát
nhiễm khuẩn trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; vi phạm quy định về nguyên
tắc trong hành nghề khám bệnh, chữa bệnh; vi phạm quy định về thông tin,
giáo dục, truyền thông về nuôi dưỡng trẻ nhỏ, sử dụng các sản phẩm dinh
dưỡng dùng cho trẻ nhỏ và lợi ích của việc ni con bằng sữa mẹ; Vi phạm
các quy định về quảng cáo sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ; vi phạm
quy định về kinh doanh và sử dụng sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ.
Ba là, hành vi vi phạm hành chính về dược và mỹ phẩm, gồm: vi phạm
các quy định về hành nghề dược; vi phạm quy định về cơ sở kinh doanh dược
và điều kiện kinh doanh dược; vi phạm quy định về giấy chứng nhận đủ điều

17



×