Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phân tích nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.83 KB, 15 trang )

1

Câu 1.(5 điểm): Phân tích nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư. Giả định từ vị
trí của người mua hàng hóa sức lao động, hãy cảm nhận vai trò đồng thời lý giải về vai
trò của người lao động làm thuê đối với hoạt động của doanh nghiệp do mình sở hữu.
Nếu có một chủ thể chun lo khâu tiêu thụ hàng hóa cho đơn vị mình, bạn làm thế
nào để chia sẻ lợi ích với họ?
Câu 2. (5 điểm): Phân tích tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ những dẫn chứng cụ thể (có
nguồn trích dẫn rõ ràng, tin cậy) hãy nêu thực trạng và giải pháp để phát triển kinh tế
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

BÀI LÀM
Câu 1
1.1 Nguồn gốc của giá trị thặng dư
Để tìm hiểu nguồn gốc của giá trị thặng dư, C.Mác dựa đã dựa trên lý
luận lao động tạo ra giá trị. Trên cơ sở đó, ơng đã so sánh quan hệ lưu thơng
hàng hóa trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn và quan hệ lưu thơng hàng hóa
trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa (TBCN), để tìm ra cơng thức
chung của tư bản.
Với tư cách là tiền trong lưu thơng hàng hóa giản đơn, tiền vận động
theo công thức H – T – H. Cịn với tư cách là tiền trong lưu thơng hàng hóa
TBCN thì tiền vận động theo cơng thức T – H – T. Khi xét hai công thức trên, ta
thấy sự giống nhau đó là đều có hai yếu tố vật chất đối diện nhau là tiền và hàng,
hai người có quan hệ kinh tế là người bán và người mua, do hai giai đoạn đối lập
nhau mua và bán hợp thành. Bên cạnh điểm giống, ta thấy có rất nhiều điểm
khác nhau. Trong lưu thơng hàng hóa giản đơn, điểm bắt đầu bằng bán và kết
thúc bằng mua (Hàng – Tiền – Hàng), tiền chỉ đóng vài trị trung gian, mục đích
của sự vận động là giá trị sử dụng nên vận động sẽ kết thúc khi người mua có
được giá trị sử dụng. Ngược lại, trong lưu thông của tư bản, điểm bắt đầu bằng
mua và kết thúc bằng bán (Tiền – Hàng – Tiền), ở đây hàng chỉ đóng vai trị


trung gian, vì mục đích của sự vận động là giá trị nên đây là vận động khơng có
giới hạn.


2

Trên cơ sở làm rõ sự giống và khác nhau về mục đích sử của hai trình độ
quan hệ lưu thơng đó. C.Mác phát hiện ra cơng thức chung của tư bản phải là T
– H – T’, trong đó T’>T, T’=T+m và m được gọi là giá trị thặng dư.
Vậy nguồn gốc của giá trị thặng dư từ đâu mà có?
Trong lưu thơng, ta xét hai trường hợp sau: Một là nếu trao đổi ngang
giá chỉ làm thay đổi hình thái giá trị (T – H hay H – T) nhưng tổng giá trị trước
và sau trao đổi không tăng thêm. Hai là trao đổi không ngang giá như bán cao
hơn giá trị (bán đắt), mua rẻ hơn giá trị (mua rẻ), chuyên mua rẻ bán đắt thì đây
chỉ là sự phân phối lại thu nhập, tổng giá trị trước và sau trao đổi cũng không
tăng thêm. Như vậy, lưu thơng khơng tạo ra giá trị thặng dư.
Ngồi lưu thông, nếu hàng đi vào tiêu dùng cho sản xuất thì giá trị sẽ
được bảo tồn và dịch chuyển vào sản phẩm mới, còn nếu nếu đi vào tiêu dùng
cho cá nhân thì giá trị sẽ dần mất đi. Như vậy, giá trị thặng dư không thể xuất
hiện ở bên ngồi lưu thơng.
C.Mác có kết luận rằng: “Giá trị thặng dư không thể xuất hiện từ lưu
thông và cũng không xuất hiện ở bên ngồi lưu thơng. Nó phải xuất hiện trong
lưu thông và đồng thời không hải trong lưu thơng”. Đó là mâu thuẫn của cơng
thức chung của tư bản.
Để giải quyết mâu thuẫn này, C.Mác đã phát hiện ra nguồn gốc sinh ra
giá trị, đó là hàng hóa sức lao động. C.Mác viết: “Sức lao động hay năng lực lao
động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong
một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra
một giá trị sử dụng nào đó”. Hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa là
người lao động được tự do về thân thể nên họ có quyền đem bán sức lao động

của mình như một hàng hóa và người lao động khơng có đủ các tư liệu sản xuất
cần thiết để tự kết hợp với sức lao động của mình tạo ra hàng hóa để bán, cho
nên họ phải bán sức lao động. Hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá
trị và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do số lượng lao
động xã hội cần thiết sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định. Sức lao
động chỉ tồn tại như năng lực con người sống, muốn tái sản xuất sức lao động,


3

người lao động phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Do vậy, giá
trị của hàng hóa sức lao động được đo lường gián tiếp thông qua lượng giá trị
của các tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động. Nếu đúng theo nguyên
tắc ngang giá trong nền kinh tế thị trường thì giá cả của hàng hóa sức lao động
phải phản ánh lượng giá trị gồm: giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết (cả vật chất,
tinh thần) để tái sản xuất ra sức lao động; phí tổn đào tạo người lao động; giá trị
những tư liệu sinh hoạt cần thiết (vật chất và tinh thần) nuôi con của người lao
động. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng là để thỏa mãn nhu cầu
người mua. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động được thể hiện trong q
trình sử dụng sức lao động. Hàng hóa sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt,
tính năng đặc biệt mà khơng có hàng hóa thơng thường nào có được, đó là trong
khi sử dụng, giá trị của nó khơng những được bảo tồn mà còn tạo ra được lượng
giá trị lớn hơn. Đây chính là chìa khóa chỉ rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư do
đâu mà có.[1]
Để làm rõ hơn nguồn gốc của giá trị cần phân tích q trình lớn lên của
giá trị hay q trình sản xuất ra giá trị thặng dư diễn ra như thế nào? Ta xét ví dụ
sau: để sản xuất sợi, nhà tư bản đã ứng ra 10USD để mua 10kg bơng, 2USD hao
mịn máy móc để kéo bơng thành sợi, mua sức lao động sử dụng trong 8h là
4USD. Nhà tư bản ứng ra hết 16USD.
Giả định, trong 4h lao động, cơng nhân đã chuyển tồn bộ 10kg bơng

thành sợi. Giá trị của sợi được tính: giá trị của 10kg bơng chuyển vào là 10USD,
hao mịn máy móc 2USD, giá trị mới bằng giá trị mua sức lao động 4USD. Tổng
chi phí là 16USD. Như vậy nhà tư bản thu được sản phẩm mới 10kg sợi với giá
trị 16USD. Tiền ứng ra và thu về bằng nhau, tức chưa có giá trị thặng dư.
Để có giá trị thặng dư, nhà tư bản mua sức lao động để sử dụng 8h chứ
khơng phải 4h. Do đó cơng nhân đã làm thêm 4h nữa nhưng nhà tư bản chỉ phải
bỏ thêm 10USD để mua 10kg bơng và 2USD hao mịn máy móc. Tổng chi phí là
12USD. Sau 4h này, tư bản cũng thu được sản phẩm mới 10kg sợi với giá trị
16USD.


4

Tổng cộng, nhà tư bản ứng ra 16+12=28USD, trong khi số sợi sản xuất
ra có giá trị 16+16=32USD. So với tiền ứng ra, nhà tư bản thu được 4USD từ
giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra. Đây là giá trị thặng dư. Nhà tư bản
mua sức lao động của công nhân 8h nhưng chỉ trả công cho cơng nhân là 4h cịn
4h lao động của cơng nhân bị nhà tư bản chiếm đoạt. Do đó, chúng ta có thể giải
thích rõ hơn mâu thuẫn của cơng thức chung của tư bản: trong quá trình lưu, nhà
tư bản trả đúng giá trị hàng hóa sức lao động. Trong q trình sản xuất, cơng
nhân tạo ra một giá trị mới (v+m) giá trị mới này bằng giá trị sức lao động của
mình cộng thêm giá trị thặng dư.
Nếu phân tích giá trị của sản phẩm được sản xuất ra (20kg sợi) ta thấy
gồm hai phần: Một là, giá trị những tư liệu sản xuất đã hao phí như nguyên liệu,
nhiên liệu, một phần giá trị của nhà xưởng máy móc...là 24$ giá trị đó là giá trị
cũ. Hai là, giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra là 8$ được chia thành
hai phần: một phần để trả lương cho công nhân (tiền công (v) = 4$; một phần
nhà tư bản chiếm lấy đó là giá trị thặng dư (m)= 4$).
Vậy, giá trị thặng dư là phần giá trị mới dơi ra ngồi giá trị sức lao động
do công nhân sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.

1.2. Bản chất của giá trị thặng dư
Để nghiên cứu yếu tố cốt lõi để tạo nên giá trị thặng dư trong quá trình
sản xuất của các nhà tư bản thì C.Mác đã chia tư bản ra hai bộ phận : Tư bản bất
biến và tư bản khả biến.
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo
tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá
trình sản xuất được C.Mác gọi là tư bản bất biến và gọi là kí hiệu là c.
Cịn bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thức giá trị sức lao động trong
quá trình sản xuất đã tăng thêm về lượng gọi là tư bản khả biến và kí hiệu là v.
Như vậy, ta thấy muốn cho tư bản khả biến hoạt động được thì phải có
một tư bản bất biến đã được ứng trước với tỉ lệ tương đương. Và qua sự phân
chia ta rút ra tư bản khả biến tạo ra giá trị thặng dư vì nó dùng để mua sức lao


5

động. Cịn tư bản bất biến có vai trị gián tiếp trong việc trong việc tạo ra giá trị
thặng dư. Từ đây ta có kết luận: "Giá trị của một hàng hoá của một hàng hoá
bằng giá trị tư bản bất biến mà nó chứa đựng, cộng với giá trị của tư bản khả
biến (Tức là giá trị thặng dư đã được sản xuất ra). Nó được biểu diễn bằng công
thức : Giá trị G= c+v+m.
Sự phân chia tư bản thành tư bản khả biến và tư bản bất biến đã vạch rõ
thực chất bóc lột TBCN, chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá
trị thặng dư của nhà tư bản. Tư bản đã bóc lột một phần giá trị mới do công nhân
tạo ra. Nó được biểu diễn một cách ngắn gọn qua quá trình Giá trị = c+y+ m.
Trên đây chúng ta đã nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư, các
phạm trù tỉ xuất giá trị thặng dư. Tiếp theo, nghiên cứu sau đây sẽ biểu hiện về
mặt lượng của sự bóc lột . Tỉ xuất giá trị thặng dư là tỉ lệ phần trăm giữa giá trị
thặng dư và tư bản khả biến. Kí hiệu của tỉ xuất giá trị thặng dư là m ta có: m' =
(m.100%):v. Tỉ suất giá trị thặng dư vạch ra một cách chính xác trình độ bóc lột

của tư bản đối với cơng nhân làm thuê. Thực chất đây là tỉ lệ phân chia ngày lao
động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư. Nhưng
nó khơng biểu hiện lượng tuyệt đối của sự bóc lột tức là khối lượng giá trị thặng
dư.[2]
Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tơng
tư bản khả biến(v). Nó nói lên quy mơ bóc lột của tư bản. Khối lượng giá trị
thặng dư là lượng giá trị thặng dư bằng tiền mà nhà tư bản thu được, kí hiệu M.
Cơng thức: M = m'V = (m.V) :v. Vậy chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì khối
lượng giá trị thặng dư càng tăng, vì trình độ bóc lột sức lao động càng tăng.

1.3 *Từ vị trí của người mua hàng hóa sức lao động, vai trị của
mình đối với hoạt động của doanh nghiệp do mình sở hữu:
Phải là người có năng lực, có kiến thức, người lãnh đạo giỏi, tập hợp
được trí tuệ của mọi người lao động trong doanh nghiệp. Là người tổ chức bộ
máy đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, bố trí hợp lý, cân đối lực lượng nhân


6

sự, chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Đồng thời phải biết
lắng nghe, tiếp xúc, quan tâm nhân viên, tạo điều kiện cho họ phát triển, khen
thưởng, tạo cơ hội thăng tiến, tổ chức các hoạt động để nâng cao tinh thần đồng
đội trong đội ngũ nhân viên.
*Từ vị trí của người mua hàng hóa sức lao động, vai trò của
người lao động làm thuê đối với hoạt động của doanh nghiệp do mình sở
hữu:
Chính họ là người đã góp phần thúc đẩy sự phát triển và thành cơng của
doanh nghiệp bởi khơng có gì thay thế trí tuệ con người. Một nhân viên giỏi sẽ
tạo nên thế mạnh cho doanh nghiệp bằng cách tăng hiệu quả kinh doanh, năng
lực cạnh tranh cũng như khả năng phát triển của doanh nghiệp. Hay quản lí giỏi

có khả năng đưa ra những kế hoạch, chiến lược kinh doanh phù hợp theo từng
giai đoạn của doanh nghiệp đồng thời bố trí nhân sự hợp lý sẽ giúp nhân viên
phát huy tối đa khả năng bản thân, mang lại hiệu quả như mong muốn cho
doanh nghiệp. Tóm lại, nhân lực dù ở bất kì nào thì cũng cọ có vai trị rất quan
trọng trong doanh nghiệp,không thể thiếu họ được.
* Nếu có một chủ thể chuyên lo khâu tiêu thụ hàng hóa cho
đơn vị mình, những cách để chia sẻ lợi ích với họ là
Khi bán được nhiều hàng hóa hơn, ta sẽ tăng chiết khấu khi mua số
lượng lớn. Khi đó, người mua hàng sẽ được lợi và ta cũng tăng được doanh thu,
thúc đẩy sản xuất. Tùy theo loại sản phẩm của doanh nghiệp, ta cịn có chiết
khấu theo mùa như giảm giá máy quạt vào mua đông, áo lạnh vào mùa hè. Ta có
thể miễn phí vận chuyển hàng cho họ, điều kiện là khoảng cách hợp lý. Còn nếu
quá xa hoặc xuất khẩu, ta nên dùng chiết khấu theo địa lý thì cả hai sẽ có lợi.
Đồng thời, ta nên hỗ trợ các chi phí phát sinh ảnh hưởng đến cấu trúc chi phí
chung như đổi, trả hàng lỗi mà khơng tốn phí vận chuyển. Khơng thể thiếu chiết
khấu thanh toán, tức là chiết khấu cho những khách hàng thanh tốn trước thời
hạn. Trong tình hình dịch Covid-19 hiện nay, người mua được thanh toán theo
thể thức gối đầu 50% giá trị đơn hàng. Đặc biệt, nếu là đối tác uy tín, tin cậy
được, ta có thể bán chịu hàng hóa khi họ bán hết có thể trả tiền lại cho mình sau.


7

Ta nên có các chương trình khuyến mãi để giảm giá hàng bán. Ta có thể hỗ trợ
họ tỏng việc thực hiện các hoạt động quảng cáo, trưng bày và cung cấp miễn phí
hàng hóa bày mẫu, thử nghiệm.
Câu 2
2.1 Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành

theo các quy luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập
một xã hội mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh; có sự
điều tiết của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.[3]
2.2 Phân tích tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu ở
Việt Nam xuất phát từ những lý do cơ bản sau:
Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù
hợp với xu hướng phát triển khách quan của Việt Nam trong bối cảnh thế giới
hiện nay.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao.
Khi có đủ các điều kiện cho sự tồn tại và phát triển, nền kinh tế hàng hóa tự hình
thành. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa theo các quy luật tất yếu đạt tới
trình độ nền kinh tế thị trường. Ở Việt Nam, các điều kiện cho sự hình thành và
phát triển kinh tế thị trường đang tồn tại khách quan. Do đó, sự hình thành kinh
tế thị trường ở Việt Nam là tất yếu khách quan.
Trong lịch sử đã có kinh tế hàng hóa giản đơn kiểu chiếm hữu nô lệ và
phong kiến hay kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, trong đó kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển cao và phồn thịnh ở các nước tư
bản phát triển, nhưng những mâu thuẫn vốn có của nó khơng thể nào khắc phục
được trong lòng xã hội tư bản, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đang có
xu hướng tự phủ định, tự tiến hóa tạo ra những điều kiện cần và đủ cho một cuộc
cách mạng xã hội - cách mạng xã hội chủ nghĩa.


8

Do vậy, nhân loại muốn tiếp tục phát triển thì không thể dừng lại ở kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó, sự lựa chọn mơ hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là phù hợp với xu thế của thời

đại và đặc điểm phát triển của dân tộc, sự lựa chọn đó khơng hề mâu thuẫn với
tiến trình phát triển của đất nước. Đây thực sự là bước đi, cách làm mới hiện nay
của các dân tộc, quốc gia đang trên con đường hướng tới xã hội xã hội chủ
nghĩa.
Hai là, do tính ưu việt của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa trong thúc đẩy phát triển đối với Việt Nam.
Thực tiễn trên thế giới và Việt Nam cho thấy kinh tế thị trường là
phương thức phân bổ nguồn lực hiệu quả mà loài người đã đạt được so với các
mơ hình kinh tế phi thị trường. Kinh tế thị trường luôn là động lực thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển nhanh và có hiệu quả. Dưới tác động của các quy luật
thị trường nền kinh tế ln phát triển theo hướng năng động, kích thích tiến bộ
kỹ thuật – cơng nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và giá
thành hạ. Xét trên góc độ đó, sự phát triển của kinh tế thị trường không hề mâu
thuẫn với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Do vậy, trong phát triển của Việt Nam cần phải phát triển kinh tế thị
trường để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh và có hiệu quả, thực hiện
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn
minh”. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường cần chú ý tới
những thất bại và khuyết tật của thị trường để có sự can thiệp, điều tiết kịp thời
của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn cách làm, bước đi đúng quy luật kinh tế
khách quan để đi đến mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ba là, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với
nguyện vọng mong muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
của người dân Việt Nam. Trên thế giới có nhiều mơ hình kinh tế thị trường,
nhưng nếu việc phát triển mà dẫn tới tình trạng dân không giàu, nước không
mạnh, thiếu dân chủ, kém văn minh thì khơng quốc gia nào mong muốn. Cho


9


nên, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh là khát vọng của nhân dân Việt Nam. Để hiện thực hóa khát vọng như vậy,
việc thực hiện kinh tế thị trường mà trong đó hướng tới những giá trị mới, do đó,
là tất yếu khách quan.
Mặt khác, kinh tế thị trường sẽ còn tồn tại lâu dài ở nước ta là một tất
yếu khách quan, là sự cần thiết cho công cuộc xây dựng và phát triển, bởi lẽ sự
tồn tại hay không tồn tại của kinh tế thị trường là do những điều kiện kinh tế - xã
hội khách quan sinh ra nó quy định. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam những điều kiện cho sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa như:
phân cơng lao động xã hội, các hình thức khác nhau của quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất khơng hề mất đi thì việc sản xuất và phân phối sản phẩm vẫn phải
được thực hiện thông qua thị trường.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ phá vỡ tính
chất tự cấp, tự túc, lạc hậu của nền kinh tế; đẩy mạng phân công lao động xã hội,
phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động; thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển mạnh mẽ, khuyến khích ứng dụng kỹ thuật công nghệ mới bảo
đảm tăng năng suất lao động, tăng số lượng, chất lượng và chủng loại hàng hóa,
dịch vụ góp phần từng bước cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân; thúc
đẩy tích tụ và tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các vùng miền
trong nước với nước ngồi; khuyến khích tính năng động, sáng tạo trong các
hoạt động kinh tế; tạo cơ chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực xã hội một cách
hợp lý, tiết kiệm... Điều này phù hợp với khát vọng của người dân Việt Nam.[4]
2.3. Thực trạng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
Nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở
Việt Nam là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam”. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến Đại hội Đảng lần thứ XII, thể chế KTTT
định hướng XHCN ngày càng được hồn thiện và được chứng minh tính đúng

đắn.


10

Từ nước nghèo, thu nhập thấp, Việt Nam đã gia nhập nhóm nước có thu
nhập trung bình, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, tuy nhiên, trước yêu
cầu đổi mới của nền kinh tế, để đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững, Đảng
và Nhà nước đang nghiên cứu, xem xét những vấn đề đặt ra để hoàn thiện hơn
thể chế KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
Trong đó, vai trị kiến tạo của Nhà nước, vai trò của doanh nghiệp nhà
nước (DNNN), vai trò của kinh tế tư nhân (KTTN) được nhìn nhận là những trụ
cột quan trọng để tạo nên sức mạnh kinh tế cho quốc gia. Nhận diện và chấn
chỉnh các biểu hiện lệch lạc trong quá trình xây dựng KTTT định hướng XHCN
ở Việt Nam là cần thiết và không thể xem nhẹ.
Ở Việt Nam, sau hơn 30 năm đổi mới, nền KTTT định hướng XHCN đã
hình thành, phát triển, đến nay đã có những yếu tố của một nền KTTT hiện đại,
hội nhập quốc tế và bảo đảm định hướng XHCN. Đó là nền kinh tế có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần; có sự phát triển đầy đủ, đồng bộ các loại thị
trường, thị trường trong nước gắn kết với thị trường quốc tế. Thị trường đã phát
huy vai trò trong việc xác định giá cả, phân bổ nguồn lực, điều tiết sản xuất và
lưu thơng hàng hóa; nền kinh tế đã vận hành theo các quy luật của KTTT.
Đồng thời, nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN;
Nhà nước vừa xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo khung khổ pháp luật, môi
trường ổn định, thuận lợi cho kinh tế phát triển, vừa sử dụng các nguồn lực kinh
tế của Nhà nước để điều tiết, thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo định hướng
XHCN, phát triển bền vững cả kinh tế, xã hội, môi trường; gắn phát triển kinh tế
với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Những yếu tố này hoàn toàn tương đồng
với các định hướng xã hội của các nền KTTT hiện đại trên thế giới.

Như vậy, từ thực tiễn và lý luận, có thể khẳng định, KTTT định hướng
XHCN là mơ hình KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế không chỉ phù hợp với thực
tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại, mà còn là mơ hình kinh tế phù hợp với các
nước kinh tế chưa phát triển quá độ lên CNXH.


11

Về kinh tế: Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng
ghi nhận. Công cuộc đổi mới từ năm 1986 đã nhanh chóng đưa Việt Nam từ một
trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung
bình thấp. Giai đoạn 2002-2019, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700
USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh
từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá). Đại bộ
phận người nghèo còn lại ở Việt Nam là dân tộc thiểu số, chiếm 86%.
Năm 2019, kinh tế Việt Nam tiếp tục có khả năng chớng chịu cao, nhờ
nhu cầu trong nước và sản xuất định hướng xuất khẩu được duy trì ở mức cao.
GDP thực tăng ước khoảng 7%, tương tự tỷ lệ tăng trưởng trong năm 2018, điều
này cho thấy Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao
trong khu vực.
Năm 2020, với độ mở về kinh tế và sự hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới, kinh tế Việt Nam bị tác động nặng nề bởi đại dịch Covid-19. Tăng
trưởng GDP đạt 1,8% trong nửa đầu năm, dự kiến cả năm đạt 2,8%. Việt Nam là
một trong số ít quốc gia trên thế giới khơng dự báo suy thối kinh tế, nhưng tốc
độ tăng trưởng dự kiến năm nay thấp hơn nhiều so với dự báo trước khủng
hoảng (6-7%). Tuy nhiên, tác động của dịch Covid-19 rất khó đốn định, tùy
thuộc vào quy mô và thời gian kéo dài của dịch bệnh. Sức ép lên tài chính cơng
sẽ gia tăng do thu ngân sách giảm, trong khi chi ngân sách tăng lên để kích hoạt
các gói hỗ trợ các hộ gia đình và doanh nghiệp giảm thiểu tác động của đại dịch.
Về xã hội: Việt Nam đang chứng kiến sự thay đổi nhanh về cơ cấu dân

số và xã hội. Dân số Việt Nam đã đạt 96,5 triệu dân vào năm 2019 và dự kiến sẽ
tăng lên 120 triệu dân tới năm 2050. Hiện nay, 70% dân số có độ tuổi dưới 35,
với tuổi thọ trung bình gần 76 tuổi, cao hơn những nước có thu nhập tương
đương trong khu vực. Tầng lớp trung lưu đang hình thành, hiện chiếm khoảng
13% dân số và dự kiến sẽ tăng lên đến 26% vào năm 2026.
Trong giai đoạn 2010-2020, Chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam tăng từ
0,66 lên 0,69. Một em bé Việt Nam được sinh ra ở thời điểm hiện nay khi lớn
lên sẽ đạt mức năng suất bằng 69% so với cũng đứa trẻ đó được học tập và chăm


12

sóc sức khỏe đầy đủ. Như vậy, Việt Nam là quốc gia có Chỉ số Vốn con người
cao nhất trong số các quốc gia có thu nhập trung bình, tuy nhiên vẫn còn tồn tại
khoảng cách giữa các địa phương, nhất là ở nhóm dân tộc thiểu số.
Y tế của nước ta cũng đạt nhiều tiến bộ khi mức sống ngày càng cải
thiện. Trong giai đoạn 1993-2017, tỷ suất tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ 32,6
xuống còn 16,7 (trên 1.000 trẻ sinh). Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5 lên 76,3
tuổi trong giai đoạn 1990-2016. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân là
73, cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới, với 87% dân số có bảo
hiểm y tế. Tuy nhiên, tỷ lệ chênh lệch giới tính khi sinh cịn ở mức cao và ngày
mợt tăng, điều này cho thấy tình trạng phân biệt giới tính vẫn cịn tồn tại. Bên
cạnh đó, Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh
nhất, dự báo đến năm 2050 nhóm tuổi trên 65 sẽ tăng gấp 2,5 lần.
Trong 30 năm qua, việc cung cấp các dịch vụ cơ bản đã có sự thay đổi
tích cực. Khả năng người dân tiếp cận hạ tầng cơ sở được cải thiện. Tính đến
năm 2016, 99% dân số sử dụng điện chiếu sáng, cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ
14% năm 1993. Tỷ lệ tiếp cận nước sạch nông thôn cũng được cải thiện, từ 17%
năm 1993 lên 70% năm 2016, trong khi tỷ lệ ở thành thị là trên 95%.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đầu tư cơ sở vật chất tính theo

phần trăm GDP của Việt Nam nằm trong nhóm thấp nhất trong khu vực
ASEAN. Điều này tạo ra thách thức không nhỏ đối với sự phát triển liên tục của
các dịch vụ cơ sở hạ tầng hiện đại cần thiết cho giai đoạn tăng trưởng tiếp theo
(Việt Nam xếp thứ 89 trong số 137 quốc gia về chất lượng cơ sở hạ tầng).[5]
2.4 Giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Thứ nhất, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn
định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và động lực cho phát triển kinh tế- xã hội:
Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân
thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng; Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh
doanh của người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; kiểm soát độc


13

quyền; Đẩy mạnh cải cách hành chính. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả giải quyết
tranh chấp kinh tế, thương mại. Khơng sinh sự hóa các mối quan hệ kinh tế; Đa
dạng hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động của các loại thị trường. Phát triển
mạnh thị trường trong nước, mở rộng và đa dạng hóa thị trường ngồi nước;
Phối hợp hiệu quả giữa chính sách tiền tệ, tài khóa và chính sách khác để bảo
đảm kinh tế vĩ mơ và các cân đối lớn của nền kinh tế; quản lý chặt chẽ thu, chi
ngân sách nhà nước; Thực hiện cơ chế thị trường, đẩy mạnh xã hội hóa đối với
việc cấp dịch vụ công.
Thứ hai, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng
trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh: Đổi mới mơ hình tăng
trưởng theo hướng phát triển nhanh, bền vững trong điều kiện kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế sâu rộng; Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông
thôn mới; cơ cấu lại cơng nghiệp, tạo nền tảng cho cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa; phát triển các ngành dịch vụ; phát triển kinh tế biển; cơ cấu lại doanh

nghiệp nhà nước và phát triển mạnh doanh nghiệp tư nhân.
Thứ ba, xây dựng thống nhất kết cấu hạ tầng và đô thị: Đẩy mạnh thực
hiện đột phá chiến lược xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số
cơng trình hiện đại; Nâng cao chất lượng và quản lý tốt quy hoạch đô thị; xây
dựng hệ thống hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện môi trường.
Thứ tư, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học,
cơng nghệ: Thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn
nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo theo hướng mở, hội nhập; Tăng cường tiềm lực khoa học,
công nghệ và xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, phát huy sáng tạo
của mọi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức.
Thứ năm, phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân: Phát
triển bền vững văn hóa, xã hội trên cơ sở gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát
triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng
cao đời sống nhân dân. Tiếp tục hồn thiện chính sách, nâng cao mức sống
người có cơng. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an sinh xã hội; Cải cách


14

tiền lương, tiền công theo nguyên tắc thị trường, phù hợp với năng suất lao
động.
Thứ sáu, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phịng, chống thiên tai,
tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường: Tăng cường quản lý nhà
nước; nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tại, giám sát biến đổi khí hậu.
Thứ bảy, phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí:
Tiếp tục hồn thiện thể chế, luật pháp, cơ chế, chính sách, bảo đảm chặt chẽ,
cơng khai, minh bạch và thực hiện đồng bộ các giải pháp về phòng, chống tham
nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Thứ tám, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và bảo đảm

quyền tự do, dân chủ của người dân trong phát triển kinh tế-xã hội đi đôi với
tuân thủ pháp luật: Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và định hướng phát triển kinh tế-xã hội;
Xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, hiệu quả, hiệu
lực, lấy kết quả phục vụ người dân và doanh nghiệp là tiêu chí đánh giá. Hồn
thiện phân cấp; hồn thiện tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương.
Thứ chín, tăng cường quốc phịng, an ninh, giữ vững chủ quyền quốc
gia, toàn vẹn lãnh thổ và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội : Xây
dựng lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại; tăng cường hoạt động của các lực lượng thực thi pháp
luật trên biển.
Thứ mười, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập
quốc tế, tạo mơi trường hịa bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực
hội nhập, hợp tác quốc tế; chủ động hội nhập quốc tế; Đưa quan hệ với các đối
tác đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả.[6]

.


15

Tài liệu tham khảo:
[1] PGS.TS Ngô Tuấn Nghĩa (2020). Chương 3. Trong Giáo trình Kinh tế chính
trị Mác – Lênin, Nhà xuất bản đại học Tài chính – Marketing, Trường Đại học
Tài chính – Marketing, tr. 53-79.
[2] Tiểu luận nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư (06/02/2015). Được
phục hồi từ />[3] PGS.TS Ngô Tuấn Nghĩa (2020). Chương 5. Trong Giáo trình Kinh tế chính
trị Mác – Lênin, Nhà xuất bản đại học Tài chính – Marketing, Trường Đại học

Tài chính – Marketing, tr. 107-140.
[4] PGS.TS Ngơ Tuấn Nghĩa (2020). Chương 5. Trong Giáo trình Kinh tế chính
trị Mác – Lênin, Nhà xuất bản đại học Tài chính – Marketing, Trường Đại học
Tài chính – Marketing, tr. 107-140.
[5] N.T. Hương, L.T. Phương (23/01/2021), “Thực tiễn phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. Được phục hồi từ
/>
[6] Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch lên chuyên viên chính khối Đảng, MTTQ,
Đoàn thể năm 2017. Chuyên đề 6, Phần 1 Nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Được phục hồi từ
/>


×