Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Phân tích nguồn gốc từ vựng tiếng Việt Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 (Trên tư liệu một số tác phẩm đã công bố) Luận văn ThS. Ngôn ngữ học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 167 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
o0o



NGUYỄN THỊ MAI


PHÂN TÍCH NGUỒN GỐC TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT NAM BỘ
GIAI ĐOẠN CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1945
(TRÊN TƯ LIỆU MỘT SỐ TÁC PHẨM ĐÃ CÔNG BỐ)




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC






Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN
o0o



NGUYỄN THỊ MAI


PHÂN TÍCH NGUỒN GỐC TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT NAM BỘ
GIAI ĐOẠN CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1945
(TRÊN TƯ LIỆU MỘT SỐ TÁC PHẨM ĐÃ CÔNG BỐ)

Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC
Mã số: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC


Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Trần Trí Dõi


Hà Nội - 2013


1
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
PHẦN MỞ ĐẦU 6
1. Lí do chọn đề tài 6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 7
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 8
4. Mục đích và ý nghĩa của đề tài 9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 10
5.1. Thủ pháp thống kê 10

5.2. Phương pháp miêu tả - phân tích 10
6. Đóng góp của đề tài 10
6.1. Đóng góp về mặt lý thuyết 10
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn 11
7. Bố cục của Luận văn 11
PHẦN NỘI DUNG 13
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG VIỆC NHẬN DIỆN NGUỒN
GỐC CỦA TIẾNG VIỆT NAM BỘ CUỐI THỂ KỈ XIX ĐẾN NĂM 1945 13
1.1. Bối cảnh lịch sử - ngôn ngữ của TVNB từ cuối thế kỉ XIX đến năm 1945 14
1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội 14
1.1.2. Bối cảnh ngôn ngữ 15
1.2. Một số khái niệm cơ bản 17
1.2.1. Về tiếng Việt Nam Bộ 17
1.2.2. Khái niệm về từ thuần Việt 21
1.2.3. Khái niệm về từ vay mượn 23
1.3. Tiểu kết Chƣơng 1 26
Chƣơng 2: BỨC TRANH TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT NAM BỘ TỪ NỬA CUỐI
THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1945 28
2.1. Nguồn tƣ liệu và cách thức xử lý tƣ liệu 28
2.1.1. Về nguồn tư liệu 28


2
2.1.1.1. Tác phẩm “Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi” của Trương Vĩnh Ký 29
2.1.1.2. Tác phẩm “Truyện thầy Lazaro Phiền” của Nguyễn Trọng Quản 29
2.1.1.3. Tác phẩm “Nghĩa hiệp kỳ duyên” của Nguyễn Chánh Sắt 30
2.1.1.4. Tác phẩm “Ai làm được” của Hồ Biểu Chánh 30
2.1.2. Về cách thức xử lý tư liệu 30
2.2. Tổng quan về vấn đề xử lý tƣ liệu 31
2.2.1. Nguyên tắc xử lý tư liệu 31

2.2.2. Kết quả khảo sát từ vựng TVNB trong các tác phẩm 32
2.3. Kết quả nhận diện nguồn gốc các lớp từ vựng TVNB 35
2.3.1. Từ vựng TVNB trong Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi -Trương Vĩnh Ký 35
2.3.1.1. Về lớp từ thuần Việt 36
2.3.1.2. Về lớp từ vay mượn gốc Hán 38
2.3.1.3. Về lớp từ vay mượn gốc Ấn - Âu 41
2.3.1.4. Các từ có nguồn gốc khác 42
2.3.2. Từ vựng TVNB trong Thầy Lazaro Phiền - Nguyễn Trọng Quản 44
2.4.2.1. Lớp từ thuần Việt 44
2.4.2.2. Lớp từ vay mượn gốc Hán 46
2.4.2.3. Lớp từ vay mượn gốc Ấn - Âu 48
2.4.2.4. Nhận xét 49
2.3.3. Từ vựng TVNB trong Nghĩa hiệp kỳ duyên - Nguyễn Chánh Sắt 50
2.5.3.1. Lớp từ thuần Việt 50
2.5.3.2. Lớp từ vay mượn gốc Hán 52
2.5.3.3. Lớp từ vay mượn gốc Ấn - Âu 56
2.4.3.4. Lớp từ gốc khác 57
2.4.3.5. Nhận xét 58
2.3.4. Từ vựng TVNB trong Ai làm được - Hồ Biểu Chánh 58
2.4.4.1. Lớp từ thuần Việt 59
2.4.4.2. Lớp từ vay mượn gốc Hán 60
2.4.4.3. Lớp từ vay mượn gốc Ấn - Âu 64


3
2.4.4.4. Lớp từ gốc khác 65
2.4.4.5. Nhận xét 66
2.4. Tiểu kết Chƣơng 2 66
Chƣơng 3: NHẬN XÉT BƢỚC ĐẦU VỀ ĐẶC ĐIỂM NGUỒN GỐC CÁC
LỚP TỪ VỰNG TVNB TỪ CUỐI THỂ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1945 68

3.1. Đặc điểm của lớp từ thuần Việt TVNB 69
3.1.1. TVNB bảo lưu các từ Việt cổ 69
3.1.2. TVNB bảo lưu hình thức ngữ âm cổ 70
3.1.3. Đặc điểm về bình diện từ vựng - ngữ nghĩa 71
3.1.4. Đặc điểm về bình diện ngữ pháp 72
3.1.3. Đặc điểm về sự biến đổi nghĩa 73
3.2. Đặc điểm của lớp từ vay mƣợn gốc Hán 75
3.2.1. Đặc điểm lớp từ Hán Việt cổ 75
3.2.2. Đặc điểm của lớp từ Hán Việt 76
3.2.2.1. Hình thức vay mượn của từ Hán Việt 77
3.2.2.2. Sự biến đổi nghĩa của từ Hán Việt 78
3.2.2.3. Đặc điểm về hình thái - cấu trúc của từ 80
3.2.2.5. Thành ngữ Hán Việt 82
3.2.3. Đặc điểm của lớp từ Hán Việt Việt hóa 83
3.2.4. Đặc điểm của lớp từ gốc Hán phương ngữ 84
3.3. Đặc điểm của lớp từ vay mƣợn gốc Ấn - Âu 85
3.3.1. Mượn nguyên dạng 85
3.3.2. Mượn theo hình thức phỏng âm hoặc phiên âm 86
3.4. Đặc điểm của những từ vựng TVNB có các nguồn gốc khác 87
3.5. Giá trị lịch sử của các yếu tố vay mƣợn 88
3.6. Tiểu kết Chƣơng 3 91
KẾT LUẬN 92
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 96


4


LỜI CẢM ƠN


Em vô cùng biết ơn GS. TS Trần Trí Dõi đã hết lòng động viên, hướng dẫn
và chỉ bảo tận tình cho em trong suốt thời gian thực hiện Luận văn.
Em cũng xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của các thầy, cô trong khoa
Ngôn ngữ học (Trường ĐHKHXH & NV - ĐHQGHN) - những người đã trang bị
cho em kiến thức quan trọng trong suốt quá trình học tập tại Khoa.
Cuối cùng, em xin cám ơn Công ty Cổ phần Ứng dụng Công nghệ Truyền
thông CTC và gia đình đã tạo mọi điều kiện về công việc và thời gian để em hoàn
thành tốt Luận văn này.
Chắc chắn rằng, Luận văn sẽ không khỏi còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, em rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô.
Hà Nội, ngày 12 tháng 11 năm 2013
Người thực hiện



Nguyễn Thị Mai













5

BẢNG KÍ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT

STT
CHỮ VIẾT TẮT
VIẾT ĐẦY ĐỦ
1.
ĐNQATV
Đại Nam Quốc Âm tự vị
2.
ĐTĐTV
Đại từ điển tiếng Việt
3.
HPN
gốc Hán phương ngữ
4.
HV
Hán Việt
5.
HVTĐ
Hán - Việt từ điển
6.
HVVH
Hán Việt Việt hóa
7.
TĐTNNB
Từ điển từ ngữ Nam Bộ
8.
TĐVBL
Từ điển Việt - Bồ - La
9.

TĐVP
Từ điển Việt - Pháp
10.
TSXH
Tần số xuất hiện
11.
TVNB
Tiếng Việt Nam Bộ
12.
TVTVĐT
Tự vị tiếng Việt Đàng Trong
13.
TVTVMN
Tự vị tiếng Việt miền Nam
14.
VNTĐ
Việt Nam tự điển




6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Đất nước Việt Nam có nền văn hóa lâu đời, có tiếng Việt giàu và đẹp. Một
trong những biểu hiện của sự giàu và đẹp đó là sự đa dạng của ngôn ngữ. Cùng với
sự phát triển không ngừng của bức tranh toàn cảnh ngôn ngữ cả nước là tiếng Việt ở
các vùng miền khác nhau. Chúng cung cấp tư liệu về tiếng Việt ở từng địa bàn cụ
thể với những đặc trưng riêng về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Một trong những tiếng
địa phương có giá trị của tiếng Việt là tiếng Việt Nam Bộ - ngôn ngữ phong phú,

năng động và rất trẻ.
1.2. Cho đến hiện nay, tiếng Việt Nam Bộ, một bộ phận của tiếng Việt thống
nhất đã có trên dưới vài thế kỷ. Các yếu tố hình thành văn hóa và tiếng Việt Nam
Bộ cũng là những yếu tố hình thành tập hợp cư dân nơi đây gồm: Người Nam Bộ
bản ngữ, người Việt di dân từ khu vực miền Trung, người Chăm, người Khmer,
người Hoa, Người Pháp… Vì thế, tiếng Việt Nam Bộ có những đặc trưng rất khác
so với tiếng Việt ở hai miền Bắc và Trung Bộ.
1.3. Ở mỗi giai đoạn phát triển, tình trạng lịch sử - xã hội và sự tiếp xúc, giao thoa
văn hóa có ảnh hưởng nhất định đến ngôn ngữ của cư dân Nam Bộ, mà giai đoạn từ
cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 cũng nằm trong số đó. Khi chịu tác động từ các yếu tố
lịch sử - xã hội hay địa lý, thì bộ phận từ vựng chịu ảnh hưởng nhiều nhất nhờ tính
nhạy bén của nó. Bởi thế, để làm giàu vốn từ của mình, bên cạnh các yếu tố thuần
Việt, từ vựng tiếng Việt Nam Bộ còn có khá nhiều các yếu tố vay mượn gốc Hán, gốc
Ấn - Âu, Mã Lai, Khmer và một số ngôn ngữ khác, làm nên tính đặc thù.
1.4. Khi nhận xét về tầm quan trọng của giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến năm
1945, Lê Quang Thiêm đã viết: Đây là “khoảng thời gian không thực sự dài, chỉ
gói gọn trong vòng gần một thế kỉ. Thế nhưng nó lại là giai đoạn bản lề, chuyển
tiếp từ tiếng Việt trung đại qua cận đại và từ cận đại qua hiện đại. Đây là giai đoạn
tuy ngắn mà xuyên qua hai thế kỉ, kết thúc thế kỉ XIX và gối lên nửa đầu quan trọng
của thời kì chuyển đổi khốc liệt của dân tộc ta, đất nước ta nửa đầu thế kỉ XX” [39,
tr.16]. Tiếng Việt Nam Bộ, với tư cách là một bộ phận của tiếng Việt đã đóng vai
trò như một “nhân chứng” quan trọng trong sự “chuyển tiếp” ấy. Vì thế, khi nghiên


7
cứu về tiếng Việt Nam Bộ nói riêng và lịch sử tiếng Việt nói chung, chúng ta không
thể bỏ qua giai đoạn đầy biến động này.
Đó chính là những lí do để chúng tôi chọn đề tài Phân tích nguồn gốc từ vựng
tiếng Việt Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 (trên tư liệu một số tác phẩm
đã công bố) cho Luận văn của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tiếng Việt Nam Bộ (từ đây viết tắt là TVNB), như đã nêu ở trên, là một ngôn
ngữ còn trẻ so với tiếng Việt trên các miền khác của đất nước. Do vậy, nghiên cứu
nó ở một giai đoạn cụ thể “từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1945” là một địa hạt
hứa hẹn nhiều điều thú vị, cần phải được tìm hiểu và khám phá.
Đến nay, ở cả trong và ngoài nước cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu
liên quan đến tiếng Nam Bộ. Tình hình cụ thể như sau:
Ở nước ngoài có một số tác giả nghiên cứu từ điển liên quan đến tiếng Việt hay
nghiên cứu về ngữ âm, tự vị tiếng Việt Sài Gòn quý hiếm, có thể kể đến như:
Alexandre De Rhodes (1651) - Từ điển Việt - Bồ - La; Jean-Louis Taberd (1838) -
Nam Việt Dương hiệp Tự vị; Jean Bonet (1899) - Từ điển Việt - Pháp; J.F.M.
Génibrel (1898) - Đại Việt Quốc âm Hán tự Pháp thích tập thành; MM. Ravier et
Dronet (1930) - Tự vị Phalangsa-Annam; L.C. Thompson (1965) - Âm hệ Sài Gòn,
trong: A Vietnamese Grammar, Trong đó, theo một số tác giả, cuốn Nam Việt
Dương hiệp Tự vị của Jean-Louis Taberd được đánh giá là một trong những quyển
tự vị tiếng Việt xa xưa có liên quan tới tiếng Đàng Trong (chủ yếu là tiếng Nam Bộ).
Còn ở Việt Nam, đề tài về TVNB cũng đã được khá nhiều công trình nghiên cứu
ở nhiều góc độ khác nhau như: Ngữ âm, lịch sử tiếng Việt, lịch sử từ vựng (nghiên
cứu chung với lịch sử từ vựng tiếng Việt), từ vựng - ngữ nghĩa, giáo trình, tập bài
giảng của các tác giả như: Nguyễn Văn Ái (1987) - Sổ tay phương ngữ Nam Bộ;
Cao Xuân Hạo (1988) - Hai vấn đề âm vị trong phương ngữ Nam Bộ; Hồ Lê
(1992) - Phương ngữ Nam Bộ, trong Văn hóa dân gian người Việt Nam Bộ; Trần
Thị Ngọc Lang (1995) - Phương ngữ Nam Bộ: Những khác biệt về từ vựng - ngữ
nghĩa so với phương ngữ Bắc Bộ; Huỳnh Công Tín (1999) - Hệ thống ngữ âm của
tiếng Sài Gòn (so với phương ngữ Hà Nội và một số phương ngữ khác ở Việt Nam);
Đỗ Thị Bích Lài (2001) - Tiếng Việt Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945:


8
Những vấn đề từ vựng; Lê Quang Thiêm (2003) - Lịch sử từ vựng tiếng Việt thời kì

1858 - 1945; Hoàng Thị Châu (2004) - Tiếng Việt trên các miền đất nước; Đinh
Văn Đức (2005) - Các bài giảng về lịch sử tiếng Việt thế kỷ XX; Nguyễn Thiện
Giáp (2006) - Lược sử Việt ngữ học - Tập 1; Vũ Đức Nghiệu, Đỗ Thị Anh, Đỗ Bá
Khang, Lê Trung Kiên (1994) - Sự phát triển từ vựng tiếng Việt từ Đại Nam quấc
âm tự vị (1895) đến từ điển tiếng Việt; Trần Trí Dõi (2011) - Giáo trình lịch sử
tiếng Việt; … Trong đó, điển hình hơn cả là cuốn Lịch sử từ vựng tiếng Việt thời kì
1858-1945 của Lê Quang Thiêm. Đây là một công trình nghiên cứu công phu và
đầy đủ về bình diện từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt trong thời kỳ cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX. Để khảo sát từ vựng tiếng Việt ở giai đoạn này, tác giả đã thu thập
dữ liệu dựa trên nguồn tư liệu vô cùng phong phú ở cả miền Nam và miền Bắc
thuộc nhiều thể loại như báo, tạp chí, từ điển, các tác phẩm văn học, các văn bản
nghị luận xã hội - chính trị Từ đó, ông phân tích các đặc điểm của quá trình phát
triển từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt thời kỳ 1858 - 1945.
Nhìn chung, những nghiên cứu liên quan đến lịch sử tiếng Việt hay TVNB nêu
trên đều ra đời những năm gần đây nhưng chủ yếu mang tính khái quát. Do vậy,
việc tìm hiểu nguồn gốc từ vựng TVNB từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 là một
việc còn cần có thêm nhiều đóng góp hơn nữa.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Như phần mở đầu đã xác định, đối tượng nghiên cứu của Luận văn là từ vựng
TVNB từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 và phạm vi nghiên cứu giới hạn trong 1 số
tác phẩm văn xuôi Nam Bộ của 1 số tác giả Nam Bộ tiêu biểu đã được công bố ở
thời kỳ này.
Để làm rõ hơn cho những gì đã nói, chúng tôi xin giải thích 1 vài ngữ đoạn liên
quan đến việc xác định đối tượng và giới hạn khảo sát của Luận văn như sau:
Thứ nhất, về thời gian kết thúc là năm 1945. Năm đánh dấu đất nước Việt Nam
bước sang một trang sử mới với quyền làm chủ thực sự mà đỉnh cao là cuộc Cách
mạng tháng Tám vĩ đại.
Thứ hai: Thời gian bắt đầu nghiên cứu của Luận văn“từ cuối thế kỉ XIX”. Chúng
tôi chọn năm 1865 làm mốc để bắt đầu giai đoạn khảo sát. Vì đây chính là thời điểm
mà chữ Quốc ngữ lần đầu tiên xuất hiện trên mặt báo - tờ Gia Định báo. Chúng tôi



9
làm như thế là vì nhờ có việc văn bản hóa mà các tư liệu mới được lưu giữ cho đến
tận ngày nay. Theo đó, những tư liệu khảo sát sẽ được chúng tôi lựa chọn ngẫu
nhiên theo trường hợp, nằm trong khoảng thời gian từ 1865 - 1945. Cụ thể là một số
tác phẩm văn xuôi (truyện dài, tiểu thuyết, du ký) của một số tác giả Nam Bộ đã
được xuất bản trong thời kỳ này, bao gồm:
1. Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) - Trƣơng Vĩnh Ký, bản in nhà
hàng C.Guilland Et Martinon, Sài Gòn, 1881.
2. Truyện thầy Lararo Phiền (1887) - Nguyễn Trọng Quản, Truyện dài
đầu tiên và tuyển tập các truyện ngắn Nam Bộ cuối thế kỷ XIX - đầu thế
kỷ XX, Cao Xuân Mỹ (sư tầm và tuyển chọn), Nxb Văn nghệ Tp. HCM,
Hội nghiên cứu giảng dạy Văn học Tp. HCM, 1998.
3. Nghĩa hiệp kỳ duyên (1920) - Nguyễn Chánh Sắt, Nxb Văn nghệ Tp.
HCM, 2002.
4. Ai làm được (1922) - Hồ Biểu Chánh, Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỷ
20, tập 1: Nguyễn Trọng Quản - Hồ Biểu Chánh, Lê Hoằng Mưu - Phú
Đức - Nguyển Bửu Mọc - Việt Đông, Cao Xuân Mỹ sưu tầm, Nxb Văn
nghệ Tp. HCM & Trung tâm nghiên cứu Quốc học, 1999.
(Theo đó, để dễ hình dung, ở phần Nội dung, khi lấy ví dụ làm dẫn chứng,
chúng tôi sẽ chú thích nguồn các tác phẩm lần lượt theo thứ tự trên. Ví dụ: [1, tr.
17], nghĩa là trích trong tác phẩm Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi, trang 17).
4. Mục đích và ý nghĩa của đề tài
Sau khi khảo sát từ vựng TVNB trong các tác phẩm, Luận văn sẽ nhận diện xem
chúng thuộc lớp từ nào, từ thuần Việt hay từ ngoại lai (vay mượn), rồi miêu tả và
phân tích đặc điểm, tính chất của chúng để có cái nhìn tổng thể và bước đầu nhận
xét về vai trò của TVNB giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 trong tiến trình
phát triển chung của lịch sử tiếng Việt tại 1 địa bàn cụ thể: tiếng Việt ở vùng phía
Nam của tổ quốc.

Có thể nói, việc tìm hiểu những ảnh hưởng của lịch sử lên tiếng Việt, xác định
nguồn gốc các lớp từ của từ vựng TVNB giai đoạn nửa cuối thế ký XIX đến năm
1945 là việc hết sức cần thiết và có ý nghĩa. Nó giúp cho chúng ta tìm về cội nguồn
của TVNB, hiểu thêm về sự phát triển của tiếng Việt giai đoạn nói trên ở vùng đất


10
này, cũng như sự đóng góp của nó vào việc làm phong phú thêm vốn từ vựng tiếng
Việt.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để phục vụ cho việc nghiên cứu, Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp và
thủ pháp sau đây:
5.1. Thủ pháp thống kê
Thao tác thống kê là thao tác đầu tiên giúp chúng tôi xác định được trực tiếp
tổng số từ vựng TVNB xuất hiện trong các tác phẩm. Từ kết quả đó, chúng tôi mới
nhận diện các nguồn gốc khác nhau của chúng.
5.2. Phương pháp miêu tả - phân tích
Phương pháp này sẽ được dùng trong quá trình tìm hiểu vai trò của các từ vựng
TVNB giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 trong tiến trình phát triển chung
của tiếng Việt. Để làm được như vậy, Luận văn sẽ tiếp cận vấn đề cả trên bình diện
đồng đại và lịch đại, kết hợp sử dụng thủ pháp so sánh và một số các thủ pháp
khác. Ở góc độ đồng đại, trên cơ sở thu thập tư liệu và đối chiếu với những từ điển
cùng thời kỳ, chúng tôi sẽ phân tích, đánh giá và rút ra những đặc điểm, cấu trúc, ý
nghĩa của lớp từ vựng TVNB. Ở góc độ lịch đại, chúng tôi sẽ so sánh các từ vựng
TVNB từ sau năm 1865 với các từ vựng TVNB ở giai đoạn trước nó, dựa vào từ Từ
điển Việt - Bồ - La của Alexandre De Rhodes (1651). Việc làm này sẽ cho biết
được thời điểm xuất hiện, mức độ sử dụng cũng như sự phát triển thêm (hoặc lu
mờ) nghĩa của một số đơn vị từ vựng này.
Theo chúng tôi, đây là những thủ pháp thực sự cần thiết giúp cho Luận văn có
cơ sở khoa học để đưa ra những nhận xét chính xác nhất khi tìm hiểu và phân tích

nguồn gốc các lớp từ vựng TVNB giai đoạn từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1945.
6. Đóng góp của đề tài
6.1. Đóng góp về mặt lý thuyết
- Với nguồn tư liệu thu thập được; Luận văn hy vọng làm rõ và hệ thống hoá sự
đa dạng về nguồn gốc và vốn từ vựng TVNB giai đoạn cuối thế kỉ XIX đến năm
1945, hướng tới khái quát về đặc điểm và vai trò của nó ở giai đoạn này trong lịch
sử tiếng Việt.


11
- Đặc biệt, khi thực hiện tốt đề tài, Luận văn sẽ góp phần làm rõ thêm những
nhân tố tác động đến sự biến đổi của tiếng Việt ở giai đoạn lịch sử quan trọng của
đất nước. Làm được điều đó nghĩa là chúng tôi đã góp một phần nhỏ vào việc giúp
cho các công trình nghiên cứu sau này có thêm cở sở nhìn nhận toàn diện hơn về
bức tranh từ vựng TVNB trong bức tranh từ vựng tiếng Việt toàn dân.
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
- Tìm hiểu nguồn gốc từ vựng TVNB giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến năm
1945 giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về tình hình lịch sử, văn hóa, chính trị, đời sống…
một thời oanh liệt, vàng son của dân tộc. Nó giúp chúng ta hiểu và thêm trân trọng
cái hay, cái đẹp và sự sáng tạo trong đời sống lao động sản xuất, trong đấu tranh,
lòng yêu nước, yêu tiếng mẹ đẻ của người dân Nam Bộ nói riêng và của dân tộc
Việt Nam nói chung. Sự yêu mến và tự hào ấy sẽ tạo động lực cho việc gìn giữ, bảo
lưu những giá trị truyền thống quý báu của đất nước trên con đường giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt.
- Kết quả khảo sát của Luận văn cũng cung cấp thêm nguồn tư liệu cho việc
giảng dạy, học tập và mở rộng nghiên cứu về các lĩnh vực từ vựng hay TVNB của
các sinh viên chuyên ngành Ngôn ngữ học, ngành Văn hóa, Lịch sử, Dân tộc học,
Hán - Nôm hay những sinh viên các chuyên ngành khác quan tâm đến lịch sử tiếng
Việt. Nó cũng đóng góp vào việc giữ gìn, bảo tồn những từ ngữ cổ đến nay đã bị lu
mờ về nghĩa hoặc không còn sử dụng nữa.

7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục và Phụ lục; Luận văn của chúng tôi gồm
3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản trong việc nhận diện nguồn gốc từ vựng tiếng
Việt Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đến năm 1945. Ở chương này, Luận văn sẽ nêu những
kết quả nghiên cứu đã có liên quan đến các yếu tố xã hội như lịch sử, địa lý, văn
hóa… cũng như quá trình hình thành tiếng Việt có tác động đến việc hình thành
TVNB. Đồng thời, chúng tôi cũng sẽ giới hạn một số khái niệm liên qua đến việc
khảo sát nguồn gốc từ vựng TVNB giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX đến năm 1945.
Chương 2: Đó là chương thể hiện bức tranh từ vựng tiếng Việt Nam Bộ nửa cuối
thế kỷ XIX năm 1945 (trên một số tư liệu đã công bố). Về thực chất, đây là tình hình


12
khảo sát tư liệu phục vụ cho Luận văn. Ở chương này, chúng tôi sẽ trình bày việc
lựa chọn tư liệu và kết quả nhận diện bức tranh từ vựng trong tư liệu khảo sát.
Chương 3: Nhận xét bước đầu về đặc điểm của các lớp từ vựng tiếng Việt Nam
Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945. Để thực hiện nhiệm vụ, trong chương viết,
chúng tôi sẽ miêu tả và phân tích đặc điểm của lớp từ thuần Việt cũng như lớp từ
vay mượn của TVNB ở giai đoạn này. Qua đó, bước đầu nhận xét về vai trò và sự
đóng góp của chúng trong lịch sử phát triển của tiếng Việt.






















13
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG VIỆC NHẬN DIỆN NGUỒN
GỐC CỦA TIẾNG VIỆT NAM BỘ CUỐI THỂ KỈ XIX ĐẾN NĂM 1945

Khi nghiên cứu lịch sử của một ngôn ngữ hay một nhóm ngôn ngữ cụ thể nào
đó, ta thường phải định vị chúng thuộc vào một họ ngôn ngữ nhất định và trong một
vùng địa lí xác định. Điều này có nghĩa, khi tìm hiểu lịch sử phát triển của một ngôn
ngữ (thời gian) thì phải xem xét nó trong bối cảnh địa lí - lịch sử ở một vùng dân cư
cụ thể (không gian). Đây là một cách tiếp cận mang tính đại cương mà trong nghiên
cứu lịch sử ngôn ngữ đã được F. Sausure nêu ra khi bàn về Nguyên nhân của tính
đa dạng địa lí: “Nếu ta tưởng rằng chỉ có không gian tạo nên thì ta mắc lừa một ảo
giác. Nếu bị bỏ mặc một mình nó, không gian không thể có tác dụng gì đối với
ngôn ngữ hết”. “Người ta quên nhân tố thời gian, vì nó không cụ thể bằng nhân tố
không gian”. Và do đó “Tính đa dạng địa lí phải được phiên dịch ra thành tính đa
dạng trong thời gian” [60, tr. 372-373]. Có nghĩa là, trong lịch sử của một ngôn ngữ
cụ thể, không gian - nơi ngôn ngữ tồn tại có tác động đến quá trình hình thành và
phát triển của nó. Điều này cũng đã được Hoàng Thị Châu nhắc tới trong nghiên

cứu phương ngữ: “Nếu như các phương ngữ là biểu hiện trong không gian của lịch
sử tiếng Việt đã diễn ra trong thời gian, thì các phương ngữ, thổ ngữ cũng đồng
thời là sự biểu hiện của quá trình phát triển lịch sử dân tộc theo thời gian đã ảnh xạ
lên bề mặt của đất nước” [8, tr. 220].
Từ những ý trên, chúng tôi suy ra, việc phân tích nguồn gốc từ vựng TVNB từ
nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 chính là việc tìm hiểu sự phát triển của tiếng
Việt ở 1 địa bàn cụ thể - tiếng Việt ở vùng phía Nam của tổ quốc trong 1 khoảng
thời gian nhất định, từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945. Vì thế, để nhận diện đầy đủ
đặc điểm của từ vựng TVNB trong thời kỳ quan trọng này, ngoài việc phải giới hạn
một số khái niệm liên quan, không thể không đề cập đến các yếu tố góp phần hình
thành nên TVNB.


14
1.1. Bối cảnh lịch sử - ngôn ngữ của TVNB từ cuối thế kỉ XIX đến năm 1945
1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội
Năm 1858, tiếng súng xâm lược Pháp bắn vào Đà Nẵng và sau hiệp định Patonot
(1884), thực dân Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta khiến tiếng Việt bước vào một
bối cảnh xã hội ngôn ngữ mới. Cuộc xâm lược của thực dân Pháp làm xã hội Việt
Nam bị đảo lộn, rối ren. Phong trào đấu tranh vũ trang chống Pháp được dấy lên
khắp nơi. Trước sức mạnh xâm lược của thực dân Pháp, nhà Nguyễn đã từng bước
nhượng các tỉnh thuộc vùng đất Nam Bộ cho chúng. Bên cạnh các hoạt động quân
sự và ngoại giao để đàn áp phong trào vũ trang chống Pháp, tháng 06/1867, chính
quyền thực dân Nam Kỳ đã ráo riết xúc tiến các hoạt động xây dựng bộ máy hành
chính, đào tạo đội ngũ cán bộ, kiện toàn hệ thống tư pháp, ổn định trật tự xã hội để
tạo cơ sở cho việc bóc lột thuộc địa về lâu dài.
Tháng 04/1865, tờ Gia Định Báo viết bằng chữ Quốc ngữ Latinh ra số đầu tiên,
đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử tiếng Việt. Mười năm sau, ngày 21/01/1875,
Tổng thống Pháp ra Sắc lệnh thành lập ngân hàng Đông Dương và giao độc quyền
phát hành giấy bạc cho ngân hàng này. Theo thời gian, cùng với việc thực dân từng

bước hoàn thiện bộ máy cai trị thống nhất ở toàn Đông Dương, đồng bạc Đông
Dương cũng xóa nhòa nhiều ranh giới kinh tế - xã hội ở ba nước Đông Dương trước
đó. Chính vì vậy, vùng đất được cai trị theo quy chế thuộc địa - Nam Kỳ mà Sài
Gòn là trung tâm cũng trở thành một điểm tiếp nhận đông đảo di dân từ Trung Bắc
cũng như các quốc gia lân cận tới cư trú làm ăn. Tầng lớp tư sản mại bản trong dòng
di dân người Hoa từ Trung Quốc đổ qua đã thực sự trở thành đối thủ kinh tế đáng
gờm đối với cả giới tư sản người Pháp, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu lúa gạo.
Từ 1929 - 1933, cuộc khủng hoảng kinh tế đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền
kinh tế thế giới, trong đó có nền kinh tế Pháp. Nền kinh tế Việt Nam nói chung và
kinh tế Nam Kỳ nói riêng vì bị phụ thuộc nặng nề vào Pháp nên càng chịu hậu quả
nặng nề hơn. Đầu tư của Pháp giảm, chính sách khai thác thuộc địa của Pháp gắt
gao hơn, làm thay đổi sâu sắc xã hội Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói riêng.
Chính lúc này, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập (03/02/930) đã tổ chức được
những cuộc đấu tranh lên đến cao trào mà đỉnh cao là cuộc Cách mạng tháng Tám
năm 1945. Sự kiện quan trong này đã giúp tiếng Việt “trở thành ngôn ngữ chính


15
thức của quốc gia, được sử dụng trong mọi hoạt động của xã hội”, mà chữ Quốc
ngữ trở thành văn tự chính thức của Nhà nước.
Như vậy, TVNB giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 nằm trong bối cảnh
chung của lịch sử tiếng Việt - bối cảnh xã hội thực dân phong kiến. Tính thực dân
làm cho vùng đất này tiếp xúc với nền văn hóa phương Tây hiện đại mà chủ thể là
nền văn hóa Pháp. Tính phong kiến cho phép cộng đồng lưu giữ những gì gọi là
“truyền thống” để tạo ra đặc trưng xã hội và ngôn ngữ của vùng đất Nam Bộ. Chính
điều này khiến cho TVNB ngày nay có những đặc trưng về ngữ âm và từ vựng rất
khác biệt với tiếng Việt ở miền Bắc và miền Trung.
1.1.2. Bối cảnh ngôn ngữ
Nếu trước đây, trong thời kỳ Bắc thuộc, sau đó là thời kỳ phong kiến tự chủ, chỉ
có tiếng Hán, chữ Hán thì đến giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 lại có thêm

chữ Pháp và tiếng Pháp chèn ép chữ Nôm, tiếng Việt. Điều này khiến cho tiếng Việt
rơi vào cảnh huống khó khăn với 03 ngôn ngữ (tiếng Việt, tiếng Hán và tiếng Pháp)
và 04 văn tự cùng tồn tại (chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ và chữ Pháp).
Trong giai đoạn nắm quyền ở Nam Kỳ, thực dân Pháp đặc biệt quan tâm đến việc
truyền bá văn hóa Pháp và hạn chế ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa vào Việt Nam.
Tuy nhiên, với nhiều biện pháp, vừa khích lệ, vừa cưỡng chế, dần dần chữ Quốc ngữ
chứ không phải chữ Pháp đã lấn át chữ Hán và chữ Nôm, thực hiện vai trò lịch sử của
mình, thúc đẩy Việt Nam hội nhập với văn hóa phương Tây. Đây cũng là một thực tế
khách quan làm nên sự thay đổi và phát triển TVNB ở giai đoạn này. Tình hình cụ thể
như sau:
Văn học Nam Kỳ thời kì này có lực lượng sáng tác và công chúng chủ yếu chưa
phải là tầng lớp thị dân tư sản như sau Chiến tranh thế giới Thứ nhất mà vẫn là tầng
lớp thị dân phong kiến. Bởi vì, sau khi hình thành trên bản đồ văn hóa Việt Nam,
vùng đất này đã mau chóng có một nền kinh tế hàng hóa tiền tư bản với một đội ngũ
thị dân phong kiến định hình từ cuối thế kỉ XVIII, trong đó không ít người là các
nhà Nho.
Về cơ bản trong giai đoạn 1862-1889, Văn học Nam kỳ còn chịu ảnh hưởng sâu
sắc của thi pháp văn học viết truyền thống. Ngoài một số ít trí thức tân học như
Trƣơng Vĩnh Ký (1837-1898), Huỳnh Tịnh Của (1834-1907), Nguyễn Trọng


16
Quản (1865-1911)…, lực lượng sáng tác mà cũng là bộ phận công chúng chủ yếu
của văn học Nam Kỳ vẫn là những người từng được giáo dục hay chịu ảnh hưởng
của nền Hán học truyền thống. Không ai khác, chính tầng lớp trí thức tân học còn
gần gũi với nền cổ học truyền thống này đã từng bước chiếm lĩnh vũ đài văn hóa.
Do đó, trên văn đàn Nam Kỳ cuối thế kỉ XIX, thi pháp văn học Hán Nôm với hệ
thống các nguyên lý thẩm mĩ, thủ pháp sáng tạo truyền thống vẫn đóng vai trò chủ
thể. Các nhà Nho yêu nước đã hết lòng bảo vệ văn hóa truyền thống, giúp văn học
Hán Nôm, mà chủ yếu là bộ phận chữ Nôm được duy trì và phát triển trong một

hình thức mới. Điều này đã tạo ra một dòng chảy riêng biệt bao gồm cả hoạt động
sáng tác, dịch thuật và lý luận trong văn học viết bằng chữ Quốc ngữ Latinh ở Nam
Bộ đương thời. Như vậy, rõ ràng dòng văn học Quốc ngữ Latinh phục vụ ý đồ của
thực dân ngay từ những ngày đầu hình thành đã chịu sự chế định nhiều mặt của văn
hóa và văn chương truyền thống, tình hình này sẽ góp phần quy định một số đặc
điểm của nó trong giai đoạn sau [24].
Trên phương diện chữ viết, sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ Latinh đã đưa tới cho
văn học tiếng Việt ở Nam Kỳ một phương diện mới. Thêm vào đó là sự hỗ trợ của
các công cụ kỹ thuật như máy in, báo chí ra đời khiến chữ Quốc ngữ có đủ khả năng
để từng bước tiến lên chiếm địa vị chủ đạo trên văn đàn Việt Nam cuối thế kỉ XIX ở
Nam Kỳ. Chính vì vậy, mặc dù từ 1865, chính quyền thuộc địa đã có tờ Gia Định
báo phát không cho các làng xã, thời kỳ manh nha của văn học Nam Kỳ vẫn kéo dài
gần 20 năm. Năm 1879, Thống đốc Dupre quy định dùng chữ Quốc ngữ Latinh làm
chữ viết chính thức ở Nam Kỳ thuộc địa. Từ 1895-1896, Đại Nam Quốc âm tự vị
của Huỳnh Tịnh Của, một công trình Quốc ngữ quan trọng đầu tiên do một thường
dân người Việt biên soạn phát hành liên tiếp hai năm 1895 và 1896 tại Sài Gòn.
Điều này đánh dấu việc tiếng Việt được dùng rộng rãi trong nhà trường, đưa chữ
Quốc ngữ Latinh tiến thêm một bước trên con đường chuẩn hóa, văn học Nam Kỳ
mới bắt đầu cuộc đời hoàn chỉnh thực sự của nó. Cho nên, dù đã có những Chuyến
đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) - Trƣơng Vĩnh Ký, Kiếp phong trần (1882) - Trƣơng
Vĩnh Ký; Truyện Thầy Lazaro Phiền (1887) - Nguyễn Trọng Quản); Chuyện giải
buồn (1880, 1885) - Huỳnh Tịnh Của, Chuyện đời xưa (1866) - Huỳnh Tịnh Của; cả
nhiều tác phẩm dịch thuật, tùy bút trên Gia Định báo, Thông thoại khoá trình


17
(1888-1889) do Trƣơng Vĩnh Ký làm chủ bút thì vẫn có thể coi năm 1897 là thời
điểm đánh dấu một chặng đường phát triển mới, toàn diện và hiện đại hơn của văn
học Nam Kỳ.
Có thể nói, sự xuất hiện các ấn phẩm theo công nghệ in hiện đại của phương Tây

đương thời mà nổi bật là báo chí đã phá tung những giới hạn của hệ thống giao tiếp
xã hội truyền thống. Không gian xã hội của con người Nam Kỳ được tái cấu trúc lại
trên cơ sở thiết chế và quan hệ thông tin mới. Ví dụ, tin tức quốc nội quốc ngoại có
thể đưa tới tận làng xã trong vài ngày. Chữ Quốc ngữ Latinh được coi là chữ viết
chính thức từ 1878 cũng dẫn tới những thay đổi cơ bản trong các hoạt động khoa
học, giáo dục và thông tin. Ngoài việc tạo ra tiền đề vật chất - kỹ thuật cho các tổ
chức, thiết chế và quan hệ mới của hệ thống giao tiếp xã hội, máy in và báo còn dẫn
tới sự manh nha tầng lớp nhà báo, nhà văn chuyên nghiệp của xã hội hiện đại…đầu
thế kỉ sau. Do đó, trong bối cảnh xã hội cụ thể ở địa phương từ 1897 trở đi, văn học
Nam Kỳ cũng thể hiện phương thức sản xuất tinh thần mới đã định hình trong giai
đoạn 1862-1896 trên ba phương diện: Sự thay đổi về lực lượng hoạt động, phương
tiện hoạt động và phương thức phát triển văn chương.
Ngày 16/05/1906 có Nghị định thiết lập ở mỗi xứ Đông Dương một Hội đồng
giáo dục bản xứ. Hệ thống trường Pháp - Việt bắt đầu được xây dựng ở các tỉnh và
được kiện toàn ở Nam Bộ. Ở giai đoạn đầu thế kỷ XIX này, hoạt động báo chí phát
triển mạnh mẽ với các tờ Gia Định báo, Nông cổ mín đàm, Đăng cổ tùng báo, Phụ
nữ tân văn Ngôn ngữ báo chí tiến dần sang thể loại dịch thuật rồi ngôn ngữ văn
học, bức tranh của tiếng Việt về mặt phong cách bước đầu trở nên đa dạng hơn, vốn
từ của tiếng Việt từng bước được bổ sung phong phú hơn. Đây chính là nguồn dữ
liệu quý giá để người nghiên cứu có điều kiện khảo sát về nguồn gốc và vốn từ
tiếng Việt đã phản chiếu những đặc điểm văn hóa - lịch sử - xã hội của vùng đất
mới trong một giai đoạn lịch sử xác định.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Về tiếng Việt Nam Bộ
Như chúng ta đã biết, tiếng Việt là ngôn ngữ thuộc nhóm Việt -
Mường, nằm trong khối Việt Katu, thuộc khu vực phía Đông của nhánh Môn -
Khmer, họ Nam Á. Nó có lịch sử phát triển lâu dài mà theo cách xác định phục


18

nguyên tiền ngôn ngữ của Trần Trí Dõi thì khoảng trên 20 thế kỉ. Theo đó, nếu
chúng tôi chiếu giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 vào trong tiến trình phát
triển lịch sử tiếng Việt theo cách phân định 06 thời kỳ của Trần Trí Dõi [15, tr.
206-207] thì nó thuộc giai đoạn tiếng Việt hiện đại (Việt moderne), với thời gian
tương đối khoảng từ giữa thế kỷ XIX đến nay. Như vậy, để phân tích được nguồn
gốc từ vựng TVNB ở giai đoạn này, ngoài việc phải nắm bắt những đặc điểm về bối
cảnh lịch sử và các yếu tố phát triển nội tại của nó thì cũng phải xét đến sự đa dạng
về nguồn gốc. Điều này bắt nguồn từ các yếu tố “địa lí” trong quá trình hình thành
tiếng nói của vùng đất Nam Bộ.

Vùng Nam Kỳ lục tỉnh theo “An Nam Đại quốc hoạ đồ”
của Jean Louis Taberd năm 1838
(Nguồn Sở Ngoại vụ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: )
Theo phân cấp hành chính, vùng Nam Kỳ Lục tỉnh khi xưa gồm có 6 tỉnh: Biên
Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Ngày nay, nó gồm
có 17 tỉnh từ Bình Phước trở xuống phía Nam với 3 khu vực: Đông Nam Bộ, Sài
Gòn (Tp. HCM) và Tây Nam Bộ. Căn cứ vào lịch sử phát triển của dân tộc Việt thì
TVNB, một bộ phận của tiếng Việt thống nhất được hình thành trong thời kỳ dân
tộc Việt phát triển về phía Nam của đất nước [29]. Nếu kể từ năm 1695 là năm
Chúa Nguyễn lập Phiên Trấn dinh thì TVNB cũng hình thành, phát triển trên dưới
vài thế kỉ. Các yếu tố hình thành TVNB cũng là những yếu tố hình thành tập hợp cư
dân ở nơi đây bao gồm: di dân người Việt từ vùng Ngũ Quảng (Quảng Bình -


19
Quảng Trị - Quảng Đức - Quảng Nam - Quảng Ngãi) và Nam Trung Bộ, người
Chăm, người Khmer, người Hoa, người Pháp [50]. Vì thế, so với các vùng khác
của tiếng Việt như Bắc Bộ, Trung Bộ hay Bắc Trung Bộ thì TVNB có một lịch sử
hình thành khá đặc biệt, muộn hơn nhưng lại mang tính đặc thù. Mà tình hình lịch
sử - xã hội của chính thời gian cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 ít nhiều cũng đã có

những ảnh hưởng nhất định đến ngôn ngữ của cư dân nơi đây trong lịch sử phát
triển của nó. Tình hình cụ thể như sau:
Thứ nhất, về mặt lịch sử, ngay từ “thời cổ đại cho đến khi tiếng Việt hoàn thành
việc mượn lớp từ Hán Việt (thế kỷ XIII - XIV) nơi đây đã là một không gian địa lí -
lịch sử phi Việt” mà cư dân sinh sống nói những phương ngữ thuộc nhóm Môn -
Khmer họ Nam Á hoặc những phương ngữ thuộc họ Nam Đảo (theo Trần Trí Dõi).
Có lẽ vì thế, khi những người nói tiếng Việt bước vào khai thác vùng đất cực nam
này, thì tiếng Việt đã tiếp nhận những yếu tố phi Việt theo cách xử lí “cơ tầng”
(substrate) để làm thành vùng phương ngữ Nam Bộ.
Thứ hai, nơi đây là sự cộng cư của những người nói tiếng Hán phương Nam với
cư dân bản địa. Bởi theo lịch sử ghi chép, vào khoảng thế kỷ XVII, khi Chúa
Nguyễn được vua Chân Lạp đồng ý cho lập trạm thu thuế phát triển buôn bán, thì
nó đã trở thành mảnh đất hứa đầy màu mỡ. Nó không chỉ tiếp nhận những đợt di cư
ồ ạt của người Việt chủ yếu ở vùng Ngũ Quảng mà còn tiếp nhận một bộ phận
không nhỏ người Trung Quốc “tị nạn” nhà Thanh di cư sang, dẫn đầu là nhóm Mạc
Cửu. Đây chính là yếu tố quan trọng tạo nên một sự tiếp xúc Việt - Hán mới mà
theo cách nhìn nhận của chúng tôi thì nó có tác động không nhỏ đến “sự vay mượn”
tiếng Hán của TVNB.
Thứ ba, từ giữa thế kỷ XIX (năm 1858), khi tiếng súng xâm lược Pháp bắn vào
Đà Nẵng, đặt ách đô hộ lên đất nước ta, rồi nhà Nguyễn nhượng các tỉnh thuộc vùng
đất Nam Bộ cho chúng khiến tiếng Việt bước vào một bối cảnh xã hội ngôn ngữ
mới. Vùng đất Nam Bộ ở trong tình trạng là một “xứ thuộc Pháp”. Với việc tiếng
Pháp buộc phải được sử dụng trong các văn bản hành chính, giáo dục, nhà
trường…thì tiếng Việt đã có cơ hội rất lớn để “tiếp xúc sâu đậm với ngôn ngữ, văn
học và văn hoá Pháp” hơn là tiếng Việt ở các vùng khác. Kể cả sau này người Pháp


20
rút lui khi chiến tranh kết thúc thì những ảnh hưởng về ngôn ngữ và văn hóa của họ
lên TVNB cũng vẫn để lại những dấu ấn khó phai mờ.

Như vậy, nhờ các yếu tố địa lí - lịch sử tạo ra các cuộc giao lưu, tiếp xúc mà
vùng đất Nam Bộ giàu có và đa dạng cả về ngôn ngữ lẫn văn hóa. Các nhóm cư dân
tới mảnh đất này đã cung cấp cho nhau vốn liếng ngôn ngữ sẵn có của mình, đồng
thời cùng nhau sáng tạo, phát triển vốn liếng ngôn ngữ sẵn có ở Nam Bộ và chi phối
đặc điểm ngữ nghĩa tiếng nói ở đây để nó có thể phản ánh không gian văn hóa, xã
hội mới, trở thành một ngôn ngữ trẻ và năng động.
Về việc Luận văn chọn đối tượng nghiên cứu là“tiếng Việt Nam Bộ” chứ không
phải là “phương ngữ Nam Bộ” một phần xuất phát từ đặc điểm về địa lí - lịch sử
như đã nêu ở trên. Bởi về nguyên tắc, TVNB là một bộ phận của tiếng Việt thống
nhất, là tiếng nói của dân tộc Việt Nam được người dân nói, sử dụng ở vùng Nam
Bộ (theo cách phân chia địa lí). Nó mang những đặc điểm chung của hệ thống tiếng
Việt nhưng cũng có những nét riêng để tạo sự khác biệt với các vùng, miền khác
trong cả nước. Còn “phương ngữ Nam Bộ” theo định nghĩa của Hoàng Thị Châu
“là biến thể địa phương của ngôn ngữ toàn dân được hình thành trong quá trình lịch
sử” [8, tr. 57] hay theo Trần Thị Ngọc Lang, phương ngữ Nam Bộ là “đơn vị từ
vựng đặc trưng có gốc gác Nam Bộ” [31] Quan niệm này rõ ràng là chỉ nhấn
mạnh tới tính đặc thù của tiếng Nam Bộ mà chưa thấy hết được mối liên hệ bản chất
của nó với ngôn ngữ toàn dân.
Mặt khác, TVNB phản ánh đặc điểm của tiếng Việt được sử dụng ở vùng đất
Nam Bộ luôn trường tồn chứ không bao giờ mất đi như phương ngữ mà GS Hoàng
Thị Châu đã nói: “các phương ngữ sẽ lùi dần chứ không phát triển thêm nữa” [8, tr.
55]. Bởi vì, tiếng Việt chỉ thay đổi theo từng giai đoạn phát triển khác nhau do sự tác
động của những yếu tố bên trong (yếu tố ngôn ngữ) hay bên ngoài (địa lí - lịch sử -
văn hóa ). Và như thế, TVNB từ cuối thế kỉ XIX đến năm 1945 chỉ là một lát cắt
nhỏ trong tiến trình phát triển của tiếng Việt hiện đại. Do đó, khi dùng cụm từ “tiếng
Việt Nam Bộ” chúng tôi cho phép mình có thể đối chiếu các từ vựng TVNB với các
từ điển trước, trong và sau thời kỳ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945.
Sự khác biệt nữa giữa cách dùng khái niệm “tiếng Việt Nam Bộ” và “phương
ngữ Nam Bộ” là: TVNB được chấp nhận một cách chính thức là phương tiện diễn



21
đạt của dân tộc Việt Nam, còn phương ngữ Nam Bộ thì chỉ được nói hạn chế trong
cộng đồng người Việt ở Nam Bộ.
Như vậy, chúng tôi khẳng định lại một lần nữa, đối tượng mà Luận văn tìm hiểu
chính là “tiếng Việt Nam Bộ” chứ không phải là “phương ngữ Nam Bộ”.
1.2.2. Khái niệm về từ thuần Việt
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Ngôn ngữ học [46, tr. 394]: Từ thuần Việt là
“các từ vốn có từ lâu đời làm thành vốn từ vựng cơ bản của tiếng Việt”. Ví dụ như:
cha, mẹ, mưa, nắng, bếp, vườn, mặt trời, đẹp, xấu
Theo Nguyễn Văn Tu, “Những từ thuần Việt là những từ được dân tộc ta dùng
từ thượng cổ đến nay. Những từ thuần Việt có quan hệ đến vốn từ vựng cơ bản của
nhiều ngôn ngữ Đông Nam Á như: tiếng Thái, tiếng Môn - Khơ - Me ” [43, tr. 187].
Theo Phan Ngọc, “Khi nói đến thuật ngữ thuần Việt một người không quen với
ngôn ngữ học hiện đại có thể tưởng đâu rằng đó là những từ do chính bản thân
người Việt tạo ra, không vay mượn ở đâu hết. Sự thực thì khái niệm từ Việt, từ Nga,
từ Anh đều không phải là những khái niệm lịch sử mà chỉ dựa trên hình thức Câu
trả lời đối với tiếng Việt là hết sức đơn giản: bất kì từ nào đơn tiết cũng là từ thuần
Việt”. Và “Bất kỳ từ láy âm nào cũng được xem là thuần Việt không kể nguồn gốc:
Những từ như lắc lê, lập là, long tong mặc dầu là gốc Pháp cũng được người Việt
xem là những từ thuần Việt” [32, tr 114, 146].
Còn Nguyễn Thiện Giáp khi định nghĩa về từ thuần Việt lại dựa vào việc xác
định các từ “tiếp nhận” từ bên ngoài như: “Ngoài những từ có thể xác định chắc chắn
là tiếng Việt tiếp nhận của tiếng Hán và các ngôn ngữ Ấn - Âu, tất cả các từ còn lại
được gọi là các từ thuần Việt. Những từ được gọi là thuần Việt thường trùng với bộ
phận từ vựng gốc của tiếng Việt, chúng biểu thị những sự vật, hiện tượng cơ bản
nhất, chắc chắn phải tồn tại từ rất lâu” [25, tr. 236].
Theo Trần Trí Dõi, căn cứ vào từ nguyên của từ, ở thời điểm hiện nay khi tiếng
Việt được xác nhận là một ngôn ngữ thuộc nhóm Việt - Mường, nhánh Môn - Khmer,
họ Nam Á, về nguyên tắc, “chỉ những từ thuần Nam Á mới được coi là những từ

thuần Việt, cụ thể là những từ thuần Việt gốc Nam Á. Còn những từ tương ứng với
những ngôn ngữ Thái - Kađai, nếu chưa có biện luận cụ thể, không nên thuần túy
xem nó là từ thuần Việt”. Và chỉ những từ vay mượn trước giai đoạn Việt - Mường


22
chung “được hành chức như từ thuần Việt gốc Nam Á thì chúng có thể là từ thuần
Việt gốc Việt - Mường”. Tuy nhiên, để xác định rõ nguồn gốc đâu là từ gốc Nam Á,
đâu là từ gốc Thái - Ka đai lại không phải là việc dễ dàng [16, tr.8-10].
Ví dụ: Xét về từ nguyên, từ trăng có nguồn gốc Nam Đảo, nhưng thời điểm nó
gia nhập tiếng Việt thì nó lại “được vay mượn trước hay vào thời kì Việt - Mường
chung trở về sau” nên nó có giá trị là một từ thuần Việt.
Khi nói về sự lưỡng phân giữa từ thuần Việt với từ vay mượn, Nguyễn Văn
Khang cho rằng “cách dùng “thuần Việt, hay một cách khiêm tốn: “Việt” (bớt đi
chữ “thuần”) cũng chỉ mang tính tương đối”. Sở dĩ như vậy là vì “ở góc nhìn này,
vào thời điểm này thì có thể cho các từ này là “thuần, bản ngữ”, nhưng nếu đứng ở
góc nhìn khác hoặc lùi về quá khứ một chút thì lại chưa chắc”. Để cụ thể hơn, ông
dẫn lời của Nguyễn Ngọc San: “Các nhà ngôn ngữ học ngày càng ngả về xu thế cho
rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ đa nguồn. Vốn từ vựng của nó được hình thành từ
một cơ tầng bản địa ban đầu, về sau do tiếp xúc với các ngôn ngữ láng giềng mà ngày
càng được bổ sung và phong phú dần lên. Đến nay trong vốn từ vựng tiếng Việt hiện
đại đã bao gồm nhiều từ thuộc các nguồn khác nhau” [28, tr.54]. Như vậy, theo
Nguyễn Văn Khang thì khó có thể tách bạch rạch ròi các từ gọi là thuần Việt nếu
xét theo nguồn gốc hình thành và quá trình tiếp xúc ngôn ngữ. Cách gọi các từ
thuần Việt phải có giới hạn về lịch sử và chỉ mang tính chất tương đối.
Tóm lại, theo chúng tôi, cho dù các tác giả có nhiều cách định nghĩa khác nhau
về từ thuần Việt, nhưng họ vẫn có điểm chung thống nhất rằng: Từ thuần Việt là lớp
từ đã có từ rất lâu, trước cả những từ vay mượn và quan trọng, nó thuộc lớp từ vựng
cơ bản trong tiếng Việt.
Để nhận diện được đâu là từ thuần Việt, đâu là từ vay mượn thì chúng ta lại phải

dùng cách so sánh từ vựng. Nếu kết quả cho “sự tương ứng từ vựng cơ bản” thì được
coi là sự phản ánh mối quan hệ nguồn gốc cho dù sự tương ứng ấy thuộc những mức
độ khác nhau. Nếu kết quả cho “sự tương ứng từ vựng văn hóa” thì được coi là có
giá trị phản ánh mối quan hệ vay mượn lẫn nhau do tiếp xúc giữa hai hay nhiều ngôn
ngữ đem lại, mà các từ gốc Hán là một ví dụ điển hình [17, tr. 65 - 68].


23
Ví dụ: Các động từ chỉ hành động như ăn, ngủ, ngáy, nói, cười, khóc thuộc
lớp từ cơ bản thì các từ như may, học, trồng, cày, gặt, hái phải là những từ thuộc
lớp từ văn hóa.
Thực tế lịch sử cho thấy, mảnh đất Nam Bộ ra đời sau khi nước Việt Nam phát
triển về khu vực phía Nam của tổ quốc. TVNB là sự “cộng hưởng” của tiếng Việt
đã có sẵn (tiếng Việt của người Việt Bắc Bộ, Trung Bộ ) từ những cư dân Việt
trong quá trình Nam tiến, tiếng bản địa của cư dân sở tại (Khmer, Chăm, Mã Lai )
và tiếng nói của dân tứ xứ (các dân tộc người Hoa thời nhà Thanh ) đến đây “tị
nạn”. Do đó, khái niệm từ thuần Việt trong TVNB được chúng tôi xác định bao gồm
các đối tượng sau:
+ Là những từ cơ bản, có nguồn gốc Nam Á, chỉ các sự vật hay hiện tượng,
những hành động hay khái niệm liên quan đến “sự nhận biết đầu tiên” về con người,
hiện tượng tự nhiên Nam Bộ, khi họ mới đặt chân tới mảnh đất này để bắt đầu hình
thành nên TVNB. Mà “tổ tiên của người Việt Nam Bộ không ai khác chính là dân
Trung Bộ”, chẳng hạn: bắp (ngô), cậy (nhờ), mè (vừng), ngộ (đẹp về hình thức)
+ Là những từ cổ vốn có trong tiếng Việt Bắc Bộ đến nay không hoặc ít được
người Bắc Bộ dùng hoặc còn được dùng song đã biến đổi nghĩa, nhưng vẫn được
dùng trong TVNB. Chẳng hạn như: dớn dác (nhớn nhác), gầy dựng (gây dựng)
+ Là một số các từ Môn - Khmer Việt hóa mà cho đến nay được dùng thông
dụng trong toàn dân khiến nhiều người khó phân biệt đâu là từ thuần Việt, đâu là từ
gốc Khmer như: á phiện, chơn hay chưn, khèn, khố
+ Là những từ phản ánh đặc trưng riêng về tiếng nói, văn hóa, bản chất, tính

cách sông nước con người Nam Bộ, chỉ người Nam Bộ mới có như: không dè, biểu,
giả đò, làm bộ
1.2.3. Khái niệm về từ vay mượn
Từ vay mượn, về nguyên tắc không phải là từ thuần Việt. Nó là kết quả của các
quá trình tiếp xúc ngôn ngữ. Vay mượn từ vựng là một phương thức quan trọng
nhằm bổ sung cho vốn từ vựng của một ngôn ngữ. Do đó, việc cần phải làm là tìm
hiểu xem những từ vay mượn ấy có gốc ngôn ngữ nào và chúng được vay mượn
vào thời điểm nào, bằng con đường gì trong lịch sử tiếng Việt.

×