Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Phân tích chức năng thế giới quan của triết học Mác-Lênin? Triết học Mác-Lênin có vai trò như thế nào trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.56 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

PHÂN TÍCH CHỨC NĂNG CỦA THẾ GIỚI
QUAN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN. VAI TRÒ CỦA
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN TRONG VIỆC ĐỔI MỚI
CỦA ĐẤT NƯỚC TA HIỆN NAY.
LÊ NGỌC AN
Lớp: GMA63ĐH-CTTTG13

Mã sinh viên: 97411

Khoa: Viện Đào tạo Quốc tế
Khóa năm: 2022 – 2026
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: VŨ PHÚ DƯỠNG

Hải Phòng – 2022

MỤC LỤC
1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Lí luận chung của thế giới quan về Triết học Mác – Lênin
1. Thế giới quan là gì?

( trang 3-4)


2. Phân loại thế giới quan

(trang 4)

3. Nguồn gốc của thế giới quan ( trang 4-6)
4. Chức năng của thế giới quan (trang 6-7 )

II. Triết học Mác-Lênin có vai trị trong sự nghiệp
đổi mới ở Việt nam hiện nay
1. Tìm hiểu về triết học
1.1 Khái niệm triết học

(trang 7-8)

1.2 Nguồn gốc triết học

( trang 8-9)

1.3 Đối tượng của triết học;

(trang 9-10)

1.4 Vấn đề cơ bản của triết học (trang 10)

2. Vai trò của triết học
2.1 Vai trò thế giới quan

(trang 11-12)

2.2Vai trò phương pháp luận


( trang 12-13)

2.3 Vai trò của triết học Mác – Lênin ( trang 13-14)
2.4 Vai trò của triết học trong đời sống (trang14-15)
2.5 Triết học vai trò trong sự nghiệp đổi mới ở Việt nam hiện nay(trang1521)

C. KẾT LUẬN

MẪU ĐĂNG KÝ TIỂU LUẬN

2


GỬI GIÁO VIÊN PHỤ TRÁCH GÓP Ý KIẾN

Họ và tên sinh viên: Lê Ngọc An
Tên tiểu luận: Phân tích chức năng của thế giới quan triết học Mác-Lênin. Vai trò
của triết học Mác-Lênin trong việc đổi mới của đất nước ta hiện nay.
Đề tài tiểu luận được lấy từ nguồn: Theo yêu cầu của thầy Vũ Phú Dưỡng chia theo
từng nhóm làm bài tiểu luận.
Kết cấu phần nội dung:
I. Phân tích chức năng của thế giới quan triết học Mác-Lênin.
II. Vai trò của triết học Mác-Lênin trong việc đổi mới của đất nước ta hiện nay.
Ngày 30 tháng 11 năm 2022
An
Lê Ngọc An

3



A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lời mở đầu
Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, hệ thống các quan điểm
chung nhất của con người về thế giới và sự nhận thức thế giới ấy. Dù ở xã hội
nào, triết học bao gồm: yếu tố nhận thức là sự hiểu biết về thế giới xung quanh
và yếu tố nhận định là sư đánh giá về mặt đạo lý
Để phù hợp với trình độ phát triển ở giai đoạn đầu tiên của lịch sử loài người,
triết học ra đời với tính chất là một khoa học tổng hợp các tri thức của con
người về hiện thực xung quanh. Sau đó, do sự phát triển của xã hội triết học đã
tách ra và trở thành khoa học độc lập. Triết học với tính chất là khoa học, nên nó
có đối tượng và nhiệm vụ, nó là hệ thống những quan niện, quan điểm có tính
chất chính thể về thế giới, về vật chất, tinh thần và mối quan hệ giữa chúng, về
nhận thức và cải biên thế giới.
Nghiên cứu về triết học, vai trò của triết học trong đời sống xã hội để thấy được
triết học không phải là một cái gì q xa xơi, viển vơng, ngược lại, nó gắn bó
hết sức mật thiết với cuộc sống, với thực tiễn. Xuất phát từ một lập trường triết
học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết đúng đắn các
vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất phát từ một lập trường triết học
sai lầm, con người khó có thể tránh khỏi hành động sai lầm. Chính ở đây thể
hiện giá trị đinh hướng - một trong những biểu hiện cụ thể chức năng phương
pháp luận của triết học. Bên cạnh đó thế giới quan được xem là “la bàn” soi
đường, chỉ hướng cho con người thực hiện các hoạt động tích cực để phát triển
xã hội. Thế giới quan là trụ cột trong hệ tưtưởng của nhân cách, hành vi, đạo
đức và chính trị. . “Thế giới quan là hệ thống quan niệm về thế giới, về bản thân
con người và vị trí của con người trong thế giới đó”.Trên cơ sở đó, thế giới quan
định hướng cho hoạt động nhận thức, hoạt động cải tạo thế giới của họ, điều
4



chỉnh hành vi của con người trong cuộc sống hàng ngày. Thế giới quan duy vật
biện chứng là đỉnh cao của thế giới quan triết học vàcũng là đỉnh cao của thế
giới quan đã có trong lịch sử. Chủ nghĩa duy vật biện chứnglà cở sở lí luận của
thế giới quan khoa học; là khoa học về những quy luật chung nhấtcủa sự vận
động và phát triển trong tự nhiên , xã hội và tư duy.Triết học Mác-Lênin là triết
học duy vật bởi triết học đó coi ý thức là tính chất của dạng vật chất có tổ chức
cao ,là bộ não người và nhiệm vụ của bộ não người là phản ánh tự nhiên .Sự
phản ánh có tính biện chứng bởi nhờ nó mà con người nhận thức được mối quan
hệ qua lại chung nhất giữa các sự vật ,hiện tượng của thế giới vật chất, đồng thời
nhận thức được rằng sự vận động và phát triển của thế giới là kết quả của mâu
thuẫn đang tồn tại bên trong thế giới đang vận động đó . Chính vì vâỵ con người
càng ngày càng quan tâm đến những vấn đề đời sống xã hội, về sự nghiệp đổi
mới của đất nước Việt Nam và trong cơng cuộc đó thì triết học, đặc biệt là triết
học Mác-lênin với những vai trị thiết thực của nó đối với cuộc sống xã hội
chính vì vậy Triết học Mác- Lênin ngày càng được phát triển và ứng dụng trong
xã hội Việt Nam.

2. Mục đích
Nhận thức được sự quan trọng của thế giới quan nên em quyết đinh chọn chủ đề
số 1: “Phân tích chức năng thế giới quan của triết học Mác- Lênin? Theo anh
(chị) triết học Mác-Lênin có vai trị như thế nào trong sự nghiệp đổi mới ở Việt
nam hiện nay?”
 Làm rõ vai trò, chức năng của thế giới quan để con người nhận thức một
cách đúng đắn từ đó hoàn thiện nhân cách một cách toàn diện
 Làm rõ vai trò của Triết học Mác- Lênin ảnh hưởng tới sự đổi mới ở Việt
nam hiện nay

3. Phạm vi
5



Bài tiểu luận tập chung vào tìm hiểu về thế giới quan của triết học MácLênin và liên hệ với sự nghiệp đổi mới của nước Việt Nam ta hiện nay.

4. Hướng triển khai
Nêu ra chức năng của thế giới quan của Triết học Mác - Lênin
Nêu lên quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người, xã hội.
Nêu ra một số ý nghĩa của triết học đối với sự phát tiển tư tưởng xã hội và
với thực tiễn xã hội.
Nêu ra vai trò của triết học Mác – Lênin đối với sự nghiệp đổi mới tại Việt
Nam

B. NỘI DUNG
I. Lí luận chung của thế giới quan về Triết học Mác – Lênin
1. Thế giới quan là gì?
Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình
cảm, niềm tin, lý tưởng xác định về thế giới và về vị trí của con người (bao
hàm cả cá nhân, xã hội và nhân loại) trong thế giới đó. Thế giới quan quy
định nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định hướng nhận thức và hoạt động
thực tiễn của con người.
Những thành phần chủ yếu của thế giới quan là tri thức, niềm tin và lý tưởng.
Trong đó:
Tri thức là cơ sở trực tiếp hình thành thế giới quan
Tri thức chỉ gia nhập thế giới quan khi đã được kiểm nghiệm ít nhiều trong
thực tiễn và trở thành niềm tin.
Lý tưởng là trình độ phát triển cao nhất của thế giới quan.
Với tính cách là hệ quan điểm chỉ dẫn tư duy và hành động, thế giới quan là
phương thức để con người chiếm lĩnh hiện thực, thiếu thế giới quan, con
người khơng có phương hướng hành động.
6



Trong lịch sử phát triển của tư duy, thế giới quan thể hiện dưới nhiều hình
thức đa dạng khác nhau, nên cũng được phân loại theo nhiều cách khác nhau.
Chẳng hạn, thế giới quan tôn giáo, thế giới quan khoa học và thể giới quan
triết học. Ngồi ba hình thức chủ yếu này, cịn có thể có thế giới quan huyền
thoại (mà một trong những hình thức thể hiện tiêu biểu của nó là thần thoại
Hy Lạp); theo những căn cứ phân chia khác, thế giới quan còn được phân
loại theo các thời đại, các dân tộc, các tộc người, hoặc thế giới quan kinh
nghiệm, thế giới quan thông thường…

2. Phân loại thế giới quan
– Thế giới quan huyền thoại:
Thế giới quan huyền thoại có nguồn gốc xã hội nguyên thủy trong giai đoạn
sơ khai lịch sử bằng cách xây dựng nên các huyền thoại nhằm phản ánh các
kết quả cảm nhận ban đầu của người nguyên thủy về nhận thức khách quan
tự nhiên, đời sống xã hội. Ví dụ như dân tộc Việt Nam có truyền thuyết Lạc
Long Quân – Âu Cơ để giải thích về nguồn gốc của dân tộc hay truyền
thuyết Sơn Tinh- Thủy Tinh,….
Đặc điểm của thế giới quan huyền thoại đó chính là yếu tố thực và ảo, cái
thần và cái người, lý trí và tín ngưỡng hịa quyện với nhau. Do con người
khơng giải thích được các hiện tượng đặc trưng trong xã hội nên thường đưa
ra các yếu tố tưởng tượng có tính huyền bí để giải thích. Thế giới quan huyền
thoại xuất hiện và nó khơng phản ánh hiện thực một cách khách quan.
– Thế giới quan tôn giáo:
Thế giới quan tôn giáo sẽ phản ánh hiện thực khách quan một cách hư ảo, ra
đời trong bối cảnh trình độ nhận thức của con người cịn hạn chế. Thế giới
quan tơn giáo giải thích dựa trên cơ sở thừa nhận sự sáng tạo của một loại
năng lực thần bí, siêu nhiên.
7



Đặc trưng cơ bản của thế giới quan tôn giáo này đó chính là niềm tin dựa vào
sự tồn tại và sức mạnh của lực lượng siêu nhiên, thần thánh và con người
hoàn toàn bất lực và hoàn toàn phụ thuộc vào thế giới siêu nhiên đó.
Trong thế giới quan tôn giáo, con người thực chất chỉ là kẻ cầu xin và phục
tùng. Ở một khía cạnh nào đó, thế giới quan tơn giáo ra đời là nhằm để có thể
thể hiện khát vọng được giải thoát khỏi đau khổ, hướng đến một cuộc sống
hạnh phúc. Cũng chính vì ngun nhân đó, đã giúp cho thế giới quan tơn
giáo tồn tại trong đời sống tinh thần ngày nay.
– Thế giới quan triết học:
Thế giới quan triết học được ra đời trong điều kiện trình độ tư duy và thực
tiễn của con người và có bước phát triển cao hơn so với thế giới quan khoa
học của tôn giáo và huyền thoại. Điều đó cũng đã làm cho tính tích cực trong
tư du Thế giới quan triết học thực tiễn được xây dựng dựa trên hệ thống lý
luận, phạm trù, quy luật. Thế giới quan triết học không đơn giản chỉ là khái
niệm, phạm trù, quy luật; thế giới quan triết học cịn nỗ lực tìm cách giải
thích, chứng minh cho tính đúng đắn của các quan điểm bằng lý luận, logic.
y của con người có bước thay đổi về chất.

3. Nguồn gốc của thế giới quan
Thế giới quan được bắt nguồn từ cuộc sống con người, bao gồm thực tiễn và
nhận thức. Trong một thế giới quan nhất định, con người sẽ bị chi phối hành
động của mình mà các yếu tố chính cấu thành là tri thức, lý trí, niềm tin và
tình cảm.
Vì lẽ đó, chúng liên kết với nhau thành một thể hoàn chỉnh và bắt đầu chi
phối con người, từ hành động nhận thức đến hành động thực tiễn. Mối quan
hệ giữa khách thể nhận thức và chủ thể nhận thức khi đó ngày càng rõ ràng.

4. Chức năng của thế giới quan
8



Vì được xuất phát từ chính cuộc sống con người nên thế giới quan đóng vai
trị đặc biệt quan trọng, nhất là trong những vấn đề xã hội.
Đầu tiên, thế giới quan định hướng cuộc sống con người, dù là thực tiễn hay
hành động nhận thức về thế giới, về bản thân. Từ đó xác định lý tưởng, lối
sống hoặc nếp sống của từng cá nhân. Bởi lẽ, trong thế giới trước đây hay
hiện nay, con người đều cần trang bị những nhận thức về thế giới và bản
thân. Mối liên kết đó sẽ giúp chúng ta định hướng được lý tưởng sống, xuất
phát từ mục tiêu và phương thức hoạt động cụ thể.Thứ hai, thế giới quan còn
là nhân tố định hướng quá trình con người tiếp tục nhận thức thế giới. Bạn có
thể coi thế giới quan là một thấu kính, con người khi ngắm nhìn từ đó sẽ thấy
được vạn vật xung quanh, đồng thời xem xét chính mình để xác định rõ mục
đích, ý nghĩa và cách thức hoạt động cuộc sống. Thứ ba, với các loại thế giới
quan tôn giáo, thế giới quan kinh nghiệm hay thơng thường…, triết học bao
giờ cũng có ảnh hưởng và chi phối, dù có thể khơng tự giác. Thứ tư, thế giới
quan triết học như thế nào sẽ quy định các thế giới quan và các quan niệm
như thế
Thế giới quan đóng vai trị đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con
người và xã hội loài người. Bởi lẽ, thứ nhất, những vấn đề được triết học đặt
ra và tỉm lời giải đáp trước hết là những vấn đề thuộc thế giới quan. Thứ hai,
thế giới quan đúng đắn là tiền đề quan trọng để xác lập phương thức tư duy
hợp lý và nhân sinh quan tích cực trong khám phá và chinh phục thế giới.
Trình độ phát triến của thế giới quan là tiêu chí quan trọng đánh giá sự
trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.

II. Triết học Mác-Lênin có vai trị trong sự nghiệp
đổi mới ở Việt nam hiện nay
1. Tìm hiểu về triết học
9



1.1 Khái niệm triết học
Triết học xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây vào khoảng thế kỷ thứ
VIII đến thế kỷ thứ III (TrCN)
Trung Quốc: Người Trung quốc cổ đại quan niệm “ triết” chính là “ trí”, là
cách thức và nghệ thuật diễn giải, bắt bẻ có tính lý luận trong học thuật nhằm
đạt tới chân lý tối cao.
Theo người Ấn Độ: triết học được đọc là darshana, có nghĩa là chiêm
ngưỡng nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm
để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp được la tinh hố là
Philơsơphia - nghĩa là u mến, ngưỡng mộ sự thơng thái. Như vậy
Philơsơphia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm
kIếm chân lý của con người
Tóm lại: Dù ở phương Đơng hay phương Tây, triết học được xem là hình
thái cao nhất của tri thức, nhà triết học là nhà thông thái có khả năng tiếp cận
chân lý, nghĩa là có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng bao hàm những nội dung giống
nhau, đó là: triết học nghiên cứu thế giới một cách chỉnh thể, tìm ra những
quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã
hội loài người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể
hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý.
Khái quát lại ta có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất
của con người về thế giới; về vị trí vai trị của con người trong thế giới đó.

1.2 Nguồn gốc triết học
Triết học xuất hiện do hoạt động nhận thức của con người nhằm phục vụ nhu
cầu cuộc sống, song với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết
10



học không thể xuất hiện cùng sự xuất hiện của xã hội lồi người, mà chỉ xuất
hiện khi có những điều kiện nhất định.
Nguồn gốc nhận thức. Đứng trước thế giới rộng lớn, bao la, các sự vật hiện
tượng muôn hình mn vẻ, con người có nhu cầu nhận thức thế giới bằng
một loạt các câu hỏi cần giải đáp: thế giới ấy từ đâu mà ra?, nó tồn tại và
phát triển như thế nào?, các sự vật ra đời, tồn tại và mất đi có tuân theo quy
luật nào khơng? ... trả lời các câu hỏi ấy chính là triết học
Triết học là một hình thái ý thức xã hội có tính khái qt và tính trừu tượng
cao, do đó, triết học chỉ xuất hiện khi con người đã có trình độ tư duy trừu
tượng hố, khái qt hố, hệ thống hoá để xây dựng nên các học thuyết, các
lý luận.
Nguồn gốc xã hội, lao động đã phát triển đến mức có sự phân cơng lao động
thành lao động trí óc và lao động chân tay, xã hội phân chia thành hai giai
cấp cơ bản đối lập nhau là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Giai cấp thống
trị có điều kiện nghiên cứu triết học. Bởi vậy ngay từ khi Triết học xuất hiện
đã tự mang trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp,
những lực lượng xã hội nhất định.
Những nguồn gốc trên có quan hệ mật thiết với nhau, mà sự phân chia chúng
chỉ có tính chất tương đối.

1.3 Đối tượng của triết học;
Khi mới xuất hiện, Triết học Cổ đại còn được gọi là Triết học tự nhiên - bao
hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực, khơng có đối tượng riêng.
Thời kỳ Trung cổ, ở Tây u khi quyền lực của giáo hội Thiên chúa bao trùm
mọi lĩnh vực đời sống xã hội thì Triết học trở thành một bộ phận của thần
học. Triết học chỉ có nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho sự đúng đắn của
nội dung trong kinh thánh.
11



Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, triết học lúc này có tên gọi là Siêu hình học Khoa học hậu vật lý. Đối tượng của Triết học thời kỳ này là nghiên cứu cái
ẩn dấu, cái bản chất đằng sau các sự vật, hiện tượng “vật thể” có thể thực
nghiệm được.
Triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát
triển nhanh chóng, đạt tới đỉnh cao mới với các đại biểu như Ph. Bây cơn,
T.Hốpxơ (Anh), Diđrô, Hen Vêtiúyt (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)...
Mặt khác, tư duy Triết học cũng được phát triển trong các học thuyết duy
tâm mà đỉnh cao là Triết học Hêghen.
Đầu thế kỷ 19, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, cùng với sự chuyển biến
tính chất từ khoa học thực nghiệm sang khoa học lý thuyết là cơ sở khách
quan cho triết học đoạn tuyệt triệt để với quan niệm “khoa học của mọi khoa
học”. Triết học Mác - Triết học duy vật biện chứng ra đời thể hiện sự đoạn
tuyệt đó. Triết học Mác xít xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp
tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật
biện chứng và nghiên cứu những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và
tư duy.

1.4 Vấn đề cơ bản của triết học.
Triết học cũng như các khoa học khác phải giải quyết rất nhiều những vấn đề
có liên quan với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng, là nền tảng và là
điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản
của triết học.
Ăngghen định nghĩa vấn đề cơ bản của triết học như sau: “Vấn đề cơ bản lớn
của mọi Triết học, đặc biệt là Triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư
duy với tồn tại”.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
12



Mặt thứ nhất: Giữa tư duy và tồn tại thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào?
Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thể giới hay khơng?

2. Vai trị của triết học
2.1 Vai trị thế giới quan
Triết học chính là thế giới quan, là tổng hoà các quan điểm của con người về
thế giới nói chung và về mối quan hệ của nó với thế giới đó nói riêng. Bản
chất của triết học được thể hiện ở những suy tư về các vấn đề phổ biến trong
hệ thống "Thế giới - Con người". Từ đó cho thấy, vai trị của triết học trong
việc xây dựng ý thức toàn cầu hiện nay thể hiện ở hai chức năng cơ bản của
nó, chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận. Chức năng
quan trọng nhất trong các chức năng thế giới quan là chức năng nhân văn.
Triết học không chỉ giúp con người có những phản tư chính xác về chính bản
thân nó, tức ý nghĩa cuộc sống của nó, và mối quan hệ của nó với thế giới
xung quanh, mà còn định hướng hoạt động cho con người, cho xã hội và cho
cả loài người tránh được những sai lầm trong mối quan hệ "xã hội - tự
nhiên".
Chức năng thứ hai trong chức năng thế giới quan là chức năng giá trị học xã hội. Đó là chức năng xây dựng các giá trị, tức là nghiên cứu các quan
niệm về giá trị, như chân, thiện, mỹ, công bằng, từ đó, đưa ra quan niệm về
lý tưởng xã hội. Nguồn gốc của lý tưởng xã hội, theo P.I.Novogorodxev, một
trong những người sáng lập trường phái triết học pháp quyền Mátxcơva đầu
thế kỷ XX, là ở nhân cách sinh động của con người. Trong Về lý tưởng xã
hội, ông viết: "Một nguyên tắc đương nhiên của nhân cách cần phải được
quy về tư tưởng tồn nhân loại, về tình đồn kết tồn thế giới... Lý tưởng xã
hội có thể xem là nguyên tắc phổ quát cửa tự do". Theo chúng tơi, đây có thể
13



được xem là quan điểm đúng đắn về vai trò mấu chốt của triết học trong sự
hình thành ý thức toàn cầu.
Chức năng cơ bản tiếp theo là chức năng văn hoá - giáo dục. Đây là chức
năng quan trọng trong việc hình thành nhân cách có văn hố của con người:
sự định hướng vào cái chân, cái thiện, cái mỹ. Triết học giúp con người tránh
được sự hời hợt, thiển cận của loại tư duy thường nhật, hiểu được đúng hơn
những mâu thuẫn và những diễn biến xảy ra trong thế giới để tìm cách giải
quyết các mâu thuẫn đó một cách có hiệu quả.
Cuối cùng, một trong những chức năng thế giới quan khác cần được đề cập
là chức năng phản ánh - thông tin. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của
triết học là nghiên cứu thế giới quan trong sự phù hợp của nó với trình độ
của khoa học hiện đại, với thực tiễn lịch sử và những địi hỏi về mặt trí tuệ
của con người. Cũng như một khoa học, triết học là một hệ thống thông tin
năng động và phức tạp được thiết lập để tập hợp, phân tích và xử lý thơng tin
với mục đích tìm được thơng tin mới.

2.2Vai trị phương pháp luận
Chức năng phương pháp luận cũng có những phương diện cơ bản liên quan
đến khoa học. Đó là chức năng gợi mở, chức năng phối hợp, chức năng liên
kết và chức năng logic - nhận thức luận.
Bất kỳ phương pháp nào của khoa học cũng có những khả năng lý luận nhận
thức và logic của nó. Ngồi các giới hạn của những khả năng đó thì hiệu quả
của nó bị suy giảm hoặc hoàn toàn bị mất. Phương pháp luận triết học theo
quan hệ với các phương pháp của khoa học cụ thể, có nhiệm vụ thiết lập mối
liên hệ logic giữa các nhóm phương pháp. Các khoa học cụ thể cần đến
logic, nhận thức luận và các phương pháp luận chung của nhận thức. Chức
năng đó do phép biện chứng với tư cách logic học đảm nhiệm. Nó tìm ra các
14



phương tiện cho sự phản ánh một cách đầy đủ, chính xác nhất về bản chất
của khách thể đang phát triển và khơng ngừng biến đổi.

2.3 Vai trị của triết học Mác - Lênin
Triết học Mác - Lênnin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng
nhất của tư duy triết học nhân loại. Nó được C.Mác và Ph. Ăngghen sáng tạo
ra và V.I.Lênin phát triển một cách xuất sắc. Đó là chủ nghĩa duy vật biên
chứng trong việc xem xét giới tự nhiên cũng như xem xét đời sống xã hội và
tư duy con người.
Với tư cách là một hệ thống nhận thức khoa học có sự thống nhất hữu cơ
giữa lý luận và phương pháp: triết học Mác-Lênin như Lê nin nhận xét: “Là
một chủ nghĩa duy vật triết học hồn bị” và “là một cơng cụ nhận thức vĩ
đại”, triết học Mác-Lênin là cơ sở triết học của một thế giới quan khoa học,
là nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, là
nguyên tắc xuất phát của phương pháp luận.
Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với
nhau. Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng
là phép biện chứng duy vật. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để, và phép biện chứng
trở thành lý luận khoa học; nhờ đó triết học mácxít có khả năng nhận thức
đúng đắn cả giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.
Nắm vững triết học triết học Mác-Lênin không chỉ là tiếp nhận một thế giới
quan đúng đắn mà còn là xác định một phương pháp luận khoa học. Nguyên
tắc khách quan trong sự xem xét đòi hỏi phải biết phân tích cụ thể theo tinh
thần biện chứng, đồng thời nó ngăn ngừa thái độ chủ quan tuỳ tiện trong việc
vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn.
Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, mối quan hệ giữa triết học MácLênin và các khoa học cụ thể là mối quan hệ biện chứng, cụ thể là: các khoa
15



học cụ thể là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học. Đến lượt
mình, triết học Mác- Lênin cung cấp những công cụ phương pháp luận phổ
biến, định hướng sự phát triển của các khoa học cụ thể. Mối quan hệ này
càng đặc biệt quan trọng trong kỷ nguyên cách mạng khoa học kỹ thuật và
công nghệ.

2.4 Vai trò của triết học trong đời sống
Triết học, ngay từ khi mới nảy sinh và cho đến mãi tận nay, dù tồn tại ở
phương Đông hay phương Tây, dù dưới dạng các hệ thống, trào lưu, trường
phái rất khác nhau nhưng đều là những cách lý giải nhất định về thế giới mà
trong đó con người đang sống theo quan điểm của các hệ thống, trào lưu,
trường phái triết học đó.
Song, bất cứ hệ thống lý luận nào cũng không bao giờ chỉ làm một nhiệm vụ
là lý giải về thế giới. Triết học cũng vậy. Trên cơ sở của sự lý giải ấy, triết
học trở thành cái đinh hướng cho con người trong hành động. Khi trở thành
cái định hướng cho con người trong hành động, triết học thực hiện một chức
năng khác - chức năng phương pháp luận.
Về nguyên tắc, giá trị định hướng này của triết học không khác với giá trị
định hướng của các nguyên lý, quy luật, hệ thống lý luận của các bộ môn
khoa học chuyên ngành nào đấy về một lĩnh vực nhất định nào đó của hiện
thực, chẳng hạn, khơng khác với giá trị định hướng của định luật bảo toàn và
chuyền hoá năng lượng, của quy luật giá trị... Cái khác chỉ là ở chỗ, vì các
nguyên lý, các khẳng định của triết học là kết quả nhận thức những mặt,
những thuộc tính, những mối liên hệ chung nhất của cả tự nhiên, xã hội lẫn
tư duy, cho nên chúng có tác dụng định hướng khơng phải chỉ trong một
phạm vi nhất định nào đấy như trong trường hợp các nguyên lý, quy luật do
các khoa học chuyên ngành nêu lên, mà ở tất cả mọi lĩnh vực các nguyên lý,
các khẳng định triết học ấy giúp cho con người khi bắt tay vào nghiên cứu và
16



hoạt động cải biến sự vật bao giờ cũng có được một lập trường xuất phát
nhất định. Lập trường xuất phát ấy giúp cho chủ thể hành động thấy trước
được phương hướng vận động chung của đối tượng, xác định được sơ bộ các
mốc cơ bản mà việc nghiên cứu hay hoạt động cải biến sự vật phải trải qua,
nghĩa là nó giúp cho con người xác định được về đại thể con đường cần đi,
có được phương hướng đặt vấn đề cũng như giải quyết vấn đề, tránh được
những mò mẫm giữa một khối những mối liên hệ chằng chịt hết sức phức tạp
mà khơng có tư tưởng dẫn đường. Xuất phát từ một lập trường triết học nhất
định, con người sẽ đi đến chỗ lựa chọn một phương hướng giải quyết vấn đề
theo một cách thức nhất định, và xuất phát từ những lập trường triết học khác
nhau, con người sẽ đi đến chỗ lựa chọn những phương hướng và cách thức
giải quyết vấn đề một cách khác nhau. Điều đó có nghĩa là, việc chấp nhận
hay khơng chấp nhận một lập trường triết học nào đấy sẽ không chi đơn
thuần là sự chấp nhận hay không chấp nhận một thế giới quan nhất định, một
cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận hay không chấp
nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hành động.
Khẳng định trên đây cho thấy triết học khơng phải là một cái gì q xa xơi,
viển vơng, ngược lại, nó gắn bó hết sức mật thiết với cuộc sống, với thực
tiễn. Xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có
được những cách giải quyết đúng đắn các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn
ngược lại, xuất phát từ một lập trường triết học sai lầm, con người khó có thể
tránh khỏi hành động sai lầm. Chính ở đây thể hiện giá trị đinh hướng - một
trong những biểu hiện cụ thể chức năng phương pháp luận của triết học. Tiếc
rằng, giá trị định hướng này hiện nay chưa được khai thác triệt để. Có lẽ
chính vì vậy mà cịn có những sự đánh giá chưa thoả đáng về vai trò của triết
học trong việc giải quyết các vấn đề của cuộc sống.
17



2.5 Triết học vai trò trong sự nghiệp đổi mới ở Việt nam hiện
nay
- Triết học Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách
mạng cho con người trong nhận thức và thực tiễn
+ Vì các nguyên lý và quy luật của phép biện chứng duy vật là sự phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ phổ biến nhất của cả tự
nhiên, xã hội và tư duy cho nên chúng có tác dụng định hướng không phải
chỉ trong một phạm vi nhất định nào đấy như đối với các nguyên lý và quy
luật do các khoa học chuyên ngành nêu lên, mà trong tất cả mọi trường hợp.
Chúng giúp cho con người khi bắt tay vào nghiên cứu và hoạt động cải biến
sự vật không phải xuất phát từ một mảnh đất trống không mà bao giờ cũng
xuất phát từ một lập trường nhất định, thấy trước được phương hướng vận
động chung của đối tượng, xác định được sơ bộ các mốc cơ bản mà việc
nghiên cứu hay hoạt động cải biến sự vật phải trải qua, nghĩa là chúng giúp
cho con người xác định được về đại thể con đường cần đi, có được phương
hướng đặt vấn đề cũng như giải quyết vấn đề, tránh được những lầm lạc hay
mò mẫm giữa một khối những mối liên hệ chằng chịt phức tạp mà khơng có
tư tưởng dẫn đường.
+ Triết học với vai trò là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất,
nhưng khơng phải là một cái gì q xa xơi, viển vơng, ngược lại, nó gắn bó
hết sức mật thiết với cuộc sống, với thực tiễn, là cái định hướng, cái chỉ đạo
cho chúng ta trong hành động. Xuất phát từ một lập trường triết học đúng
đắn, cụ thể là xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chúng ta có thể có được những cách giải quyết đúng đắn các vấn đề
do cuộc sống đặt ra. Và ngược lại, xuất phát từ một lập trường triết học sai
lầm, chúng ta không thể tránh khỏi hành động sai lầm. Chính ở đây thể hiện
18


giá trị định hướng - một trong những biểu hiện cụ thể chức năng phương

pháp luận của triết học.
+ Thực tế cho thấy hiệu quả của nghiên cứu triết học chính là ở giá trị định
hướng cho hoạt động thực tiễn vô cùng phong phú và đa dạng của những kết
luận chung, có tính khái qt cao mà nó đạt tới chứ không phải và không thể
là những lời giải đáp cụ thể cho từng trường hợp cụ thể.
+ Để có thể giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cụ thể hết sức
phức tạp và vô cùng đa dạng của cuộc sống, chúng ta cần tránh cả hai thái
cực sai lầm: Hoặc là xem thường triết học và do đó sẽ sa vào tình trạng mị
mẫm, tùy tiện, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ
mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu chủ động và sáng tạo
trong công tác; hoặc là tuyệt đối hóa vai trị của triết học và do đó sẽ sa vào
chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách máy móc những nguyên lý, những
quy luật chung của triết học mà khơng tính đến tình hình cụ thể do khơng
nắm được tình hình cụ thể đó trong từng trường hợp cụ thể. Kết hợp chặt chẽ
cả hai loại tri thức trên đây - tri thức chung (trong đó có tri thức triết học và
tri thức khoa học chuyên ngành) và tri thức thực tiễn (trong đó có sự hiểu
biết tình hình thực tiễn và trình độ tay nghề được biểu hiện qua sự nhạy cảm
thực tiễn) - đó là tiền đề cần thiết đảm bảo thành cơng của chúng ta trong
hoạt động cụ thể của mình.
- Triết học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học
và cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ.
+ Do kết quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại mà loài
người bước vào thế kỷ XXI với những vấn đề nhận thức mới rất cơ bản và
sâu sắc. Trước tình hình đó, triết học Mác - Lênin đóng vai trị rất quan
trọng, là cơ sở lý luận - phương pháp luận cho các phát minh khoa học, cho
19


sự tích hợp và truyền bá tri thức khoa học hiện đại. Dù tự giác hay tự phát,

khoa học hiện đại phát triển phải dựa trên cơ sở thế giới quan và phương
pháp luận duy vật biện chứng. Đồng thời, những vấn đề mới của hệ thống tri
thức khoa học hiện đại cũng đang đặt ra đòi hỏi triết học Mác - Lênin phải có
bước phát triển mới.
+ Tồn cầu hố là một q trình xã hội phức tạp, đầy mâu thuẫn, chứa đựng
cả tích cực và tiêu cực, cả thời cơ và thách thức đối với các quốc gia, dân tộc,
đặc biệt là các nước kém phát triển. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực tư bản
chủ nghĩa đang lợi dụng tồn cầu hố để âm mưu thực hiện tồn cầu hố tư
bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, tồn cầu hố là một cuộc đấu tranh quyết liệt
giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc với các nước đang phát triển, các
dân tộc chậm phát triển. Trong bối cảnh đó, triết học Mác - Lênin là cơ sở
thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng để phân tích xu
hướng vận động, phát triển của xã hội hiện đại.
+ Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng là lý
luận khoa học và cách mạng soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân
lao động trong cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đang diễn ra
trong điều kiện mới, dưới hình thức mới.
+ Hiện nay, chủ nghĩa xã hội đang lâm vào khủng hoảng và thoái trào, tương
quan so sánh lực lượng bất lợi cho các lực lượng cách mạng, tiến bộ. Chủ
nghĩa đế quốc đang tạm thời thắng thế. Mặc dù vậy, phong trào công nhân,
phong trào xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc vẫn tồn tại, phục
hồi dần, đang tập hợp, phát triển lực lượng, tìm tịi các phương thức và
phương pháp đấu tranh mới.
+ Những mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại nhưng đã mang những
đặc điểm mới, hình thức mới. Đồng thời, một loạt các mâu thuẫn khác mang
tính tồn cầu cũng đang nổi lên gay gắt. Thế giới trong thế kỷ XXI vẫn tồn
20




×