Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Bài thu hoạch qp an, vấn đề thực hiện bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.55 KB, 23 trang )

BÀI THU HOẠCH KẾT THÚC HỌC PHẦN
HỆ ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Mơn học
Tên chủ đề:
Số phách

ĐIỂM
Giảng viên chấm 1 Giảng viên chấm 2
(Ký, ghi rõ họ,
tên)

Ghim 1

Bằng số:

Bằng chữ:



Môn học
Ghim 2

Tên chủ đề:
SỐ PHÁCH

Họ và tên học viên
Mã số học viên
Lớp
Ngày nộp

(Ký, ghi rõ họ, tên)




2

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................3
NỘI DUNG...........................................................................................................4
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG CỦA MỐI ĐE DỌA AN
NINH PHI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM.....................................................4
1.1. Một số vấn đề lý luận về mối đe dọa an ninh phi truyền thống và tác động
của nó đến độc lập dân tộc....................................................................................4
1.2. Thực trạng mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam từ 2001 đến
2015.......................................................................................................................9
II. QUAN ĐIỂM VÀ QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN
TỘC CỦA VIỆT NAM TRƯỚC MỐI ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN
THỐNG...............................................................................................................13
2.1. Quan điểm của Việt Nam về bảo vệ độc lập dân tộc trước mối đe dọa an
ninh phi truyền thống..........................................................................................13
2.2. Quá trình triển khai bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trước mối đe dọa
an ninh phi truyền thống......................................................................................15
III.

ĐÁNH GIÁ VỀ BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA VIỆT NAM

TRƯỚC MỐI ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG VÀ KINH
NGHIỆM ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN..................................19
3.1. Đánh giá về bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trước mối đe dọa an ninh
phi truyền thống từ 2001 - 2015..........................................................................19
3.2. Kinh nghiệm của Việt Nam về bảo vệ độc lập dân tộc trước mối đe dọa an
ninh phi truyền thống đối với các nước đang phát triển......................................21

KẾT LUẬN.........................................................................................................23


3
MỞ ĐẦU
Sau chiến tranh lạnh, nền độc lập dân tộc của các quốc gia đang phải đối
mặt với những thách thức mới từ mối đe dọa “an ninh phi truyền thống”. Mối
đe dọa an ninh phi truyền thống (ANPTT) đã trở thành vấn đề tồn cầu, mang
tính nguy hiểm cao, không chỉ biểu hiện ở mức độ hủy hoại, sự tàn phá của nó
đối với cuộc sống của con người, mà còn đối với sự ổn định xã hội, đối với độc
lập dân tộc (ĐLDT) của các quốc gia, sự an nguy của chế độ chính trị, sự tồn
vong của cộng đồng nhân loại trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Đối với các
nước đang phát triển thì vấn đề bảo vệ ĐLDT trước mối đe doạ ANPTT càng trở
nên khó khăn, phức tạp hơn.
Đối với Việt Nam, mối đe doạ ANPTT ngày càng trở nên nghiêm trọng.
Từ năm 2001 đến năm 2015, Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp ứng phó với mối đe doạ ANPTT
để bảo vệ, củng cố nền ĐLDT, giữ vững chủ quyền quốc gia và xem đây là một
nội dung, yêu cầu quan trọng của việc giải quyết mối quan hệ lớn “giữa độc lập,
tự chủ và hội nhập quốc tế” trong tình hình hiện nay. Quá trình triển khai đã đạt
được những thành công nhất định và thu được những kinh nghiệm có giá trị.
Tiếp tục nhìn nhận, đánh giá các mối đe doạ ANPTT; nghiên cứu, phân tích sự
tác động, ảnh hưởng của nó đối với ĐLDT của Việt Nam; làm rõ những nội
dung, biện pháp mà Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện bảo vệ ĐLDT trước
mối đe doạ ANPTT là đòi hỏi cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn hiện nay.
Từ những lý do nêu trên, học viên lựa chọn đề tài “Bảo vệ độc lập dân
tộc của Việt Nam trước mối đe dọa an ninh phi truyền thống trong giai đoạn
hiện nay” cho bài tiểu luận thu hoạch giáo dục Quốc phòng - An ninh.



4

NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG CỦA MỐI ĐE DỌA
AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề lý luận về mối đe dọa an ninh phi truyền thống và
tác động của nó đến độc lập dân tộc.
1.1.1. Khái niệm về mối đe dọa an ninh phi truyền thống
Về khái niệm, ANPTT xuất hiện từ sau Chiến tranh Lạnh nhưng cho
đến nay vẫn chưa có quan điểm chung về khái niệm của thuật ngữ này. Những
quan điểm khác nhau về thuật ngữ này có thể được chia thành hai trường phái.
Trường phái thứ nhất quan niệm ANPTT là an ninh tổng hợp bao gồm an
ninh quân sự, chính trị, kinh tế và xã hội. Trường phái này cho rằng ANPTT là
một khái niệm mở rộng nội hàm của khái niệm ANTT – quan niệm lấy an ninh
quân sự là trung tâm. Theo Liên Hiệp Quốc, ANPTT bao gồm an ninh con
người (cá nhân) và an ninh cộng đồng. Trong báo cáo “Phát triển con người”
năm 1994 của Liên Hiệp Quốc, ANPTT bao gồm 7 lĩnh vực là: kinh tế, lương
thực, sức khỏe, môi trường, con người, cộng đồng và chính trị. Theo một tài liệu
khác, ANPTT bao gồm 5 lĩnh vực cơ bản là: kinh tế, mơi trường, xã hội, chính
trị và văn hóa.
Trường phái thứ hai quan niệm ANPTT là một khái niệm đối lập với
ANTT. Phạm vi của ANPTT không bao gồm an ninh quân sự. Đó là những nguy
cơ an ninh mới như khủng hoảng kinh tế, ô nhiễm môi trường, tội phạm xuyên
quốc gia, khủng bố, di cư bất hợp pháp,v.v…  Mặc dù trường phái thứ hai rõ
ràng về mặt thuật ngữ hơn so với trường phái thứ nhất nhưng những người theo
trường phái thứ hai cũng thừa nhận rằng những vấn đề ANPTT có thể dẫn đến
những xung đột chiến tranh. Sự thừa nhận này làm cho trường phái thứ hai rất
dễ bị chỉ trích bởi những người theo trường phái thứ nhất. Ở Việt Nam, phần lớn
các học giả nghiên cứu về quan hệ quốc tế theo quan điểm thứ hai về ANPTT.
Các học giả này quan niệm ANPTT là một vấn đề đối lập với ANTT – tức là

những vấn đề an ninh không liên quan đến quân sự.


5
Về thuật ngữ, ANPTT là một thuật ngữ mới và xuất hiện chính thức trong
“Tuyên bố chung ASEAN – Trung Quốc về hợp tác trên lĩnh vực an ninh phi
truyền thống” thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 6, giữa các nước thuộc
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc tại Phnôm Pênh
(Campuchia) ngày 01-11-2002. Trong bản tuyên bố này các nhà lãnh đạo của
ASEAN và Trung quốc bày tỏ “sự quan ngại về những vấn đề an ninh phi
truyền thống ngày càng gia tăng như buôn lậu, ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ
em, cướp biển, khủng bố, bn lậu vũ khí, rửa tiền, tội phạm kinh tế quốc tế và
tội phạm công nghệ cao”.
Một xu hướng rõ ràng hiện nay đó là việc kéo dài thêm danh sách những
vấn đề ANPTT. Có vẻ như mọi vấn đề đều có liên quan đến ANPTT một khi các
vấn đề đó được coi là đủ nghiêm trọng.
Về cơ bản, sự khác biệt giữa ANPTT và ANTT nằm ở các điểm sau. Thứ
nhất, ANPTT xuất hiện sau ANTT. Thứ hai, ANPTT chịu ảnh hưởng của Chủ
nghĩa Tự do và Chủ nghĩa Kiến tạo (an ninh con người) còn ANTT chịu ảnh
hưởng của Chủ nghĩa Hiện thực. Thứ ba, về các lĩnh vực liên quan, ANPTT liên
quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều vấn đề (môi trường, lương thực, năng lượng,
nhân quyền,…) trong khi đó ANTT liên quan đến chính trị, quyền lực, quân sự,
chiến tranh. Thứ tư, đối tượng tác động của ANPTT (thế giới, quốc gia, con
người) rộng hơn đối tượng tác động của ANTT (quốc gia). Thứ năm, ANPTT ít
liên quan đến chủ quyền quốc gia còn ANTT gắn liền với chủ quyền quốc gia.
Như vậy, để có được một định nghĩa rõ ràng về ANPTT cần phân biệt nó
với ANTT bằng cách xem xét kết quả của sự mất an ninh hơn là nguồn gốc của
nó. Theo đó, có thể nói rằng ANPTT là những mối đe dọa đối với an ninh quốc
gia mà không xảy ra những xung đột quân sự giữa các lực lượng quân đội, mà
nảy sinh từ các yếu tố tự nhiên và xã hội, diễn ra và tác động trên nhiều lĩnh vực

của đời sống xã hội, mang tính tổng hợp, xun quốc gia và có tính nguy hiểm
cao đe dọa tới độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.
Giải quyết, ứng phó với các mối đe dọa ANPTT địi hỏi sự quan tâm, hợp
tác, nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế và trách nhiệm của từng quốc gia, với


6
hệ thống giải pháp phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, pháp luật, khoa học kỹ thuật, ngoại giao và an ninh, quốc phòng…
1.1.2. Tác động của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đến độc lập
dân tộc
Các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống tác động đến các quốc gia, dân
tộc trên các mặt sau đây:
Thứ nhất, tác động đến độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia trong các
quan hệ quốc tế
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, khi “biên giới cứng” giữa các quốc gia bị
phá vỡ, “biên giới mềm” chưa thể tạo thành hàng rào an ninh hiệu quả, an ninh
của các quốc gia dân tộc trở nên phức tạp, khó lường do sự tác động của các yếu
tố từ bên ngồi, nằm ngồi sự cảnh giác, đề phịng của con người. Điều này
cũng có nghĩa là áp lực ngày càng lớn, nguy cơ ngày càng cao đối với an ninh
quốc gia, đối với độc lập dân tộc. Sự uy hiếp, xâm phạm độc lập dân tộc, chủ
quyền và an ninh quốc gia, đặc biệt đối với các nước đang phát triển dưới tác
động của các mối đe dọa an ninh phi truyền thốnglà mạnh mẽ và trực tiếp,
nhưng không phải dễ dàng nhận thức đầy đủ và càng không dễ khắc phục.
Hiện nay, các nước phát triển có ưu thế về vốn, khoa học, công nghệ, thị
trường nên trong quan hệ quốc tế giữa các nước phát triển và các nước đang
phát triển cịn nhiều bất bình đẳng, phần lớn lợi ích của tồn cầu  hóa được dồn
vào các nước phát triển. Các nước này đã lợi dụng quá trình tồn cầu hóa để áp
đặt các “giá trị văn hóa”, các luật chơi đối với tất cả các quốc gia. Những chính
sách hỗ trợ các nước nghèo bị tác động bởi thiên tai, dịch bệnh… của các nước
lớn thường gắn với những điều kiện về chính trị, pháp luật, chủ quyền, về thể

chế kinh tế.
Thứ hai, tác động đến thể chế chính trị đất nước và con đường phát triển
của dân tộc
Do tính chất xuyên quốc gia của mối đe dọa an ninh phi truyền thống, nên
để ứng phó, các quốc gia, dân tộc cần phải chấp nhận “luật chơi” chung, hoặc là
phải có sự “điều chỉnh” về thể chế chính trị, điều chỉnh hệ thống pháp luật theo


7
hướng mang tính “quốc tế” hơn; nó đặt ra u cầu các nước phải xem xét lại mơ
hình, con đường phát triển của dân tộc, thậm chí phải du nhập những khn khổ,
mơ hình của các nước phương Tây.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, trong bối cảnh tồn cầu
hóa, những tác động trên càng trở nên quyết liệt, bởi các thế lực thù địch sử
dụng chiến lược “diễn biến hịa bình” để chống phá. Chúng đưa ra những “yêu
cầu”, “khuyến nghị” cần phải từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền, phải thực
hiện “đa nguyên, đa đảng”; xây dựng nhà nước pháp quyền theo kiểu phương
Tây; thực hiện “xã hội dân sự”... đã cho thấy rõ điều đó. Những lo ngại mất độc
lập, tự chủ về chính trị mà khơng dám tích cực hội nhập quốc tế; hoặc yêu cầu
phải đẩy nhanh hơn nữa quá trình hội nhập quốc tế, mà khơng quan tâm đầy đủ
đến độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia; đòi đẩy mạnh cải cách chính trị, thậm
chí phải thực hiện “đa đảng đối lập”... đang trở thành nguy cơ tiềm ẩn đe dọa thể
chế chính trị và nền độc lập của dân tộc.
Thứ ba, tác động đến nền kinh tế độc lập tự chủ của quốc gia
An ninh quốc gia và thực lực kinh tế là hai vấn đề không thể tách rời
nhau. Tính độc lập tự chủ của nền kinh tế đất nước bị uy hiếp bởi tác động của
các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, trực tiếp trên các vấn đề: lợi ích kinh
tế; chủ quyền kinh tế; định hướng phát triển kinh tế; thể chế kinh tế; sự ổn định
kinh tế, đặc biệt là về tài chính, tiền tệ và quan hệ hợp tác kinh tế thương mại
quốc tế của quốc gia.

Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu năm 2008 bắt
đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra nhiều nước, kéo cả nền kinh tế thế
giới rơi vào tình trạng suy thối, là một thí dụ sự tác động của các vấn đề an
ninh phi truyền thống đến sự độc lập và khả năng ứng phó của các nền kinh tế
mỗi nước.
Thứ tư, vấn đề môi trường sinh thái, tài nguyên
Vấn đề môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên, khan hiếm nguồn nước
sạch, vấn đề biến đổi khí hậu, nước biển dâng… đôi khi lại đe dọa nhiều hơn đối
với cuộc sống của người dân ở những quốc gia không phải là “thủ phạm” gây ra


8
những biến đổi, cạn kiệt đó. Sự khai thác thiếu kiểm sốt, tình trạng ơ nhiễm
mơi trường sinh thái, “hiệu ứng nhà kính”, khí hậu nóng lên, tầng ơzon bị phá
hoại, tính đa dạng sinh học giảm, đất hoang mạc hố, tình trạng nước biển dâng,
bão, lụt, sóng thần... chính là sự trừng phạt của tự nhiên đối với con người, đối
với những hành động ứng xử thiếu văn hóa và thiếu nhân tính của con người đối
với tự nhiên.
Trên thực tế, loài người đang phải đối mặt những nguy cơ từ chính sự
“phát triển” của mình. Ảnh hưởng của các vấn đề môi trường đối với an ninh
quốc gia biểu hiện ở chỗ, nó có thể gặm nhấm “quốc thổ lành mạnh”, làm suy
yếu năng lực phát triển bền vững đất nước; gây ra “xung đột quốc tế”; gây hiệu
ứng xuyên quốc gia của vấn đề môi trường.
Thứ năm, vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một nội dung, một yêu cầu
đặc biệt quan trọng của việc bảo vệ độc lập dân tộc trong thời đại ngày nay.
Tính dân tộc khơng chỉ là đặc trưng cơ bản của một nền văn hóa, mà nó cịn là
nội hàm cốt lõi sức sống của nền văn hóa ấy. Giữ gìn tính dân tộc của văn hóa là
điều kiện cơ bản để phát triển văn hóa dân tộc, đồng thời là động lực nội tại sự
sinh tồn và phát triển dân tộc.

Trong bối cảnh tồn cầu hóa, các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống
làm cho bản sắc văn  hóa của mỗi dân tộc trở nên mong manh hơn bao giờ hết.
Vấn đề giữ gìn những giá trị truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân
tộc, thuần phong mỹ tục, những giá trị đạo đức, lối sống đang là thách thức đối
với mỗi quốc gia dân tộc.
Như vậy có thể thấy, các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống tác động
trực tiếp và mạnh mẽ đến toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặt ra những
thách thức to lớn đối với các quốc gia dân tộc trong việc bảo vệ độc lập dân tộc
của mình. Xu thế tồn cầu  hóa đã và đang đặt độc lập dân tộc của tất cả các
nước trước những thách thức to lớn, nhất là chủ quyền, an ninh quốc gia, lợi ích
dân tộc.


9
1.2. Thực trạng mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam từ
2001 đến 2015.
1.2.1. Mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam trước năm 2001
Chiến tranh lạnh kết thúc các nguồn gốc phát sinh những vấn đề an ninh
phi truyền thống cùng các mối đe dọa của nó từ dạng tiềm tàng đã hiện hữu đe
dọa an ninh của mỗi quốc gia và cuộc sống con người. Tuy nhiên, trong thời
gian này ở Việt Nam chưa có nhận thức đầy đủ, tồn diện về an ninh phi truyền
thống, mà về cơ bản mới chỉ nhận thức về nó qua các mối đe dọa mang tên gọi
là “những vấn đề toàn cầu”.
Các mối đe dọa mang tính tồn cầu trong thập niên 90 được Việt Nam
quan tâm nghiên cứu, hợp tác quốc tế cùng nhau giải quyết chủ yếu tập chung
vào các vấn đề: Biến đổi khí hậu; hiệu ứng nhà kính làm trái đất nóng lên; ơ
nhiễm mơi trường; chênh lệch giàu nghèo; bệnh tật hiểm nghèo; “tự diễn biến”
“tự chuyển hóa”…vv..
1.2.2 Thực trạng mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam từ năm
2001 đến 2015

1.2.2.1. Từ biến đổi khí hậu
Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất của
biển đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu làm gia tăng mức độ cạn kiệt tài nguyên và
suy thối mơi trường; làm tăng khả năng bị tổn thương, là nguy cơ làm chậm
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hoặc làm mất đi nhiều thành quả kinh tế, xã
hội đã đạt được.
Biểu hiện của biến đổi khí hậu ở Việt Nam tương đối rõ nét, đặc biệt
trong 15 năm gần đây. Nhiệt độ trung bình hằng năm tăng 0,5 độ C; mực nước
biển dâng cao hơn 0,2 m; thiên tai, bão, lũ, úng ngập, hạn hán, xâm nhập mặn và
các thiên tai khác gia tăng cường độ và tính cực đoan gây tổn thất to lớn về
người, tài sản, cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội, tác động xấu đến mơi
trường, sinh thái.


10
Khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu, phịng tránh, giảm nhẹ tác hại của
thiên tai đối với sản xuất và đời sống, nhất là sản xuất nông nghiệp của Việt
Nam còn nhiều hạn chế.
1.2.2.2. Từ vấn đề kinh tế, tài chính
Hiện nay, khi Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, vấn
đề an ninh kinh tế, tài chính thực sự được đặt ra một cách cụ thể và cấp bách.
Việt Nam đang nằm trong danh sách cảnh báo về thị trường tài chính gặp nhiều
rủi ro trong giao dịch tài chính quốc tế.
Về sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, theo đánh giá của Diễn đàn
Kinh tế thế giới (WEF), Việt Nam xếp thứ 65/142 (năm 2011). Điểm số về năng
lực cạnh tranh tổng thể của Việt Nam năm 2011 chỉ đạt 4,24 điểm, ở mức thấp
so với các nền kinh tế khu vực.
Mối đe dọa an ninh kinh tế, tài chính ở Việt Nam bao gồm: Từ những yếu
tố bên ngoài tác động, các thế lực thù địch sử dụng âm mưu dùng kinh tế để
chuyển hóa chính trị. Từ các yếu tố đe dọa đổ vỡ của hệ thống tổ chức tín dụng,

ngân hàng trong nước, các hoạt động trong lĩnh vực này trở nên phức tạp và dễ
bị tổn thương; thị trường tiền tệ và ngân hàng hoạt động về cơ bản tính ổn định
chưa cao, an tồn ở mức thấp và phát triển khó khăn. Từ các loại tội phạm liên
quan đến lĩnh vực tài chính tiền tệ, hoạt động cấu kết giữa các tổ chức tội phạm
nước ngoài và tội phạm kinh tế trong nước, tội phạm kinh tế trong hoạt động
quản lý Nhà nước,...
1.2.2.3. Từ vấn đề năng lượng
Năng lượng vốn được coi là “chìa khóa” để mỗi quốc gia và nền kinh tế
của mình được “bảo vệ”, là yếu tố quan trọng trong tổng thể phạm trù an ninh
quốc gia.
Việt Nam thuộc nhóm những nước có hiệu suất sử dụng năng lượng tổn
thất cao, tiêu thụ năng lượng lớn nhưng hiệu quả thấp.
Nguyên nhân là do rào cản kỹ thuật: công nghệ lạc hậu, các thiết bị sản
xuất cũ kỹ và chậm đổi mới; sự thiếu hiểu biết về tiết kiệm năng lượng, thiếu
thông tin về công nghệ tiết kiệm năng lượng,.... Do rào cản kinh tế: là việc phân


11
tích tài chính khơng phù hợp, thiếu vốn đầu tư, thiếu vốn phát triển công nghệ
mới tiết kiệm năng lượng. Do rào cản về thể chế, chính sách: thiếu các chính
sách thúc đẩy sử dụng năng lượng theo hướng tiết kiệm, hiệu quả.
1.2.2.4. Từ vấn đề lương thực
An ninh lương thực đóng vai trị hết sức quan trọng trong chiến lược phát
triển bền vững và đảm bảo an ninh quốc gia. Trong quá trình đổi mới, an ninh
lương thực và mưu sinh bền vững của Việt Nam đang chịu ảnh hưởng tiêu cực
từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan: biến đổi khí hậu, đất đai ơ
nhiễm, xa mạc hóa; tình trạng đơ thị hóa, cơng nghiệp hóa, tình trạng gia tăng
dân số, xu hướng gia tăng tỷ lệ nghịch giữa đất đai sản xuất nông nghiệp với gia
tăng dân số.
Tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam vẫn cịn cao, năm 2012, tỷ lệ hộ nghèo ở

Tây Bắc là 28,55%; vùng miền núi Đông Bắc là 17,39%; ở Tây Nguyên là
15,58%; ở các tỉnh Bắc Trung Bộ là 15,01%, trong khi tỷ lệ hộ nghèo chung của
cả nước là 9,64%.; vấn đề dinh dưỡng, đảm bảo an toàn, chất lượng lương thực
chưa được đảm bảo;
1.2.2.5. Từ tội phạm công nghệ cao
Ở Việt Nam, tội phạm công nghệ cao mới xuất hiện, nhưng có sự gia tăng
nhanh cả ở số lượng và tính chất nguy hiểm. Tình hình mất an tồn thơng tin số
diễn biến phức tạp, xuất hiện nhiều nguy cơ đe dọa nghiêm trọng đến việc ứng
dụng công nghệ thông tin phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc
phòng, an ninh.
Các vụ tấn công trên mạng và các vụ xâm nhập hệ thống công nghệ thông
tin là nhằm do thám, trục lợi, phá hoại dữ liệu, ăn cắp tài sản, cạnh tranh không
lành mạnh. Tình trạng tin tặc xâm nhập, cài đặt virút gián điệp vào hệ thống
mạng của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa để đánh cắp thơng tin, bí mật quốc
gia, ,… hiện đang gia tăng ở mức báo động về số lượng, đa dạng về hình thức,
tinh vi hơn về công nghệ.
1.2.2.6. Từ tội phạm xuyên quốc gia


12
Những năm qua, tình hình tội phạm xuyên quốc gia liên quan đến Việt
Nam có xu hướng tăng dần về cả số vụ, việc lẫn tính chất, mức độ nghiêm trọng.
Các đối tượng phạm tội thường tập trung vào các lĩnh vực mà Việt Nam còn
thiếu kinh nghiệm trong quản lý và đấu tranh phịng, chống: bn bán phụ nữ,
trẻ em, đưa người ra nước ngoài trái phép; ma túy; sản xuất, buôn bán tiền giả,
hàng giả, gian lận thương mại, buôn lậu, lừa đảo kinh tế, trốn thuế xuất nhập
khẩu ở khu kinh tế thương mại tự do, thương mại điện tử; ở Việt Nam tuy chưa
xảy ra khủng bố, nhưng mục tiêu và đối tượng khủng bố có thể dạt vào Việt
Nam ẩn náu, chờ cơ hội hoạt động.
An ninh phi truyền thống là một khái niệm mới xuất hiện và được bàn đến

khá nhiều trong thời gian gần đây, có những quan điểm, cách nhìn nhận khác
nhau.
Tác động của các mối đe dọa ANPTT đến ĐLDT là sự tác động tổng hợp,
toàn diện đến toàn bộ nội dung cấu thành độc lập dân tộc. Đối với Việt Nam,
luận án tập trung nghiên cứu tác động trên 6 vấn đề chính: biến đổi khí hậu; an
ninh kinh tế, tài chính; an ninh năng lượng; an ninh lương thực; tội phạm công
nghệ cao; tội phạm xuyên quốc gia.
Thực trạng các mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam từ năm
2001 đến 2015 được trình bày đã thể hiện rõ tính chất, mức độ ảnh hưởng, tác
hại của nó đối với cuộc sống con người và các lĩnh vực của đời sống xã hội, đối
với ĐLDT, chủ quyền và an ninh quốc gia, đặt ra sự cần thiết và yêu cầu bảo vệ
vững chắc ĐLDT trước các mối đe dọa an ninh này.


13
II. QUAN ĐIỂM VÀ QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI BẢO VỆ ĐỘC LẬP
DÂN TỘC CỦA VIỆT NAM TRƯỚC MỐI ĐE DỌA AN NINH PHI
TRUYỀN THỐNG
2.1. Quan điểm của Việt Nam về bảo vệ độc lập dân tộc trước mối đe
dọa an ninh phi truyền thống
2.1.1. Bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trước các mối đe dọa an ninh
phi truyền thống là yêu cầu khách quan
Trước mối đe dọa an ninh phi truyền thống, việc bảo vệ ĐLDT của Việt
Nam càng trở nên tất yếu và cấp thiết, bởi những lý do chính sau:
Một là, từ sự tác động và mối nguy hiểm của các mối đe dọa ANPTT đối
với ĐLDT của Việt Nam; đặc biệt tác động đến sự vững chắc và phát triển bền
vững của nền kinh tế, sự ổn định chính trị xã hội, chủ quyền quốc gia và cuộc
sống các tầng lớp nhân dân.
Hai là, từ sự lợi dụng mối đe dọa ANPTT của các thế lực đế quốc, thù
địch để xâm phạm ĐLDT của Việt Nam. Tận dụng ưu thế về vốn, trình độ khoa

học công nghệ cao, nắm giữ các nguồn lực kinh tế to lớn, các cường quốc
phương Tây luôn chủ động sử dụng các thủ đoạn, tận dụng cơ hội làm sâu sắc
thêm mâu thuẫn, trầm trọng thêm những khó khăn từ các mối đe doạ an ninh phi
truyền thống, nhằm đẩy nhanh việc chuyển hóa, tiến tới lật đổ các quốc gia có
chế độ chính trị khác.
Ba là, từ u cầu tồn tại và phát triển của đất nước hiện nay. Trong xu thế
tồn cầu hóa, để bảo vệ ĐLDT, chủ quyền quốc gia và phát triển, tất cả các nước
đều đã đưa ra và thực thi những đối sách đưa đất nước hội nhập với thế giới, giữ
vững độc lập về đường lối, giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc và chủ quyền quốc
gia.
2.1.2. Quan điểm của Việt Nam về nội dung, hình thức, biện pháp bảo vệ
độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống
- Quan điểm về bảo vệ độc lập dân tộc
Bảo vệ độc lập dân tộc là nột dung cốt lõi của bảo vệ Tổ quốc, là tổng thể
những hoạt động của các chủ thể nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu


14
tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm, các hoạt động phá hoại để gìn giữ
hịa bình, bảo vệ độc lập dân tộc, đặc biệt trong điều kiện tác động mạnh mẽ của
xu thế tồn cầu hóa.
- Quan điểm về bảo vệ ĐLDT trước các mối đe dọa ANPTT
Bảo vệ ĐLDT Việt Nam trước các mối đe dọa ANPTT là một bộ phận
cấu thành của mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; là tổng thể các hoạt động
nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh bên
ngồi để phịng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, khắc phục những tác động tiêu cực
từ các mối đe dọa ANPTT đến toàn bộ các nội dung cấu thành của ĐLDT; đồng
thời, là quá trình đấu tranh làm thất bại mọi hoạt động lợi dụng các mối dọa
ANPTT và lợi dụng việc hợp tác quốc tế trong đối phó với các mối đe dọa này,
để xâm phạm ĐLDT, chủ quyền đất nước.

- Nội dung bảo vệ ĐLDT trước mối đe dọa ANPTT
Bảo vệ độc lập về chính trị, bảo vệ đường lối xây dựng và phát triển đất
nước; bảo vệ độc lập, chủ quyền trong xác định đường lối đối nội, đối ngoại,
định hướng phát triển của quốc gia trong các mối quan hệ quốc tế, không bị lệ
thuộc, phụ thuộc vào bên ngoài trước mối đe dọa ANPTT.
Bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn
hóa, xã hội đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại và quyền con người trong các
quan hệ quốc tế trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
Đấu tranh ngăn chặn, chống lại mọi sự xâm phạm, phá hoại ĐLDT của
các thế lực thù địch, gia tăng sức mạnh và khả năng bảo vệ ĐLDT của đất nước
trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
- Hình thức, biện pháp bảo vệ ĐLDT trước mối đe dọa ANPTT
Hình thức, biện pháp bảo vệ ĐLDT trước các mối đe dọa ANPTT rất
phong phú, đa dạng: Một là, phải huy động sức mạnh tổng hợp, toàn diện của
quốc gia. Hai là, giữ vững định hướng phát triển đất nước, hoàn thiện hệ thống
pháp luật, gia tăng sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Ba là, phối kết hợp các chủ thể,
lực lượng,các nhóm giải pháp, các chủ thể quan hệ quốc tế khác để bảo vệ
ĐLDT trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.


15
- Chủ thể, lực lượng bảo vệ ĐLDT trước mối đe dọa ANPTT
Chủ thể và lực lượng bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an ninh
phi truyền thống là cả dân tộc, hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các tổ
chức và nhân dân; trong đó nhà nước - quốc gia với tư cách là chủ thể trong
quan hệ quốc tế, là lực lượng chủ đạo; lực lượng vũ trang, qn đội và cơng an
có vai trị đặc biệt quan trọng.
2.2. Q trình triển khai bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trước
mối đe dọa an ninh phi truyền thống
2.2.1 Bảo vệ độc lập dân tộc trước tác động của biến đổi khí hậu

Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Việt Nam luôn coi trọng
và quan tâm đến công tác ứng phó với biến đổi khí hậu (bao gồm: thích ứng với
các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính),
bảo vệ tài ngun, mơi trường.
Trong q trình triển khai, các chủ trương, giải pháp của Đảng và Nhà
nước về ứng phó với biến đổi khí hậu thường xun được hồn thiện, bắt nhịp
với những chuyển biến nhận thức, xu thế phát triển của vấn đề biến đổi khí hậu
ở khu vực và trên thế giới. Đã gắn việc ứng phó với biến đổi khí hậu với việc
phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng phát triển bền vững, tạo nền tảng
vững chắc cho việc bảo vệ độc lập dân tộc.
Đã thực hiện Công ước Khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu và
nghị định thư Kyoto; Xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật về biến đổi khí
hậu; Hồn thiện hệ thống tổ chức quản lý về biến đổi khí hậu; Đặc biệt tại COP
21, Việt Nam cam kết góp phần cùng cộng đồng quốc tế ứng phó với biến đổi
khí hậu. Cụ thể: sẽ đóng góp 1 triệu USD vào Quỹ Khí hậu xanh giai đoạn 20162020 và cam kết giảm từ 8% đến 25% lượng phát thải khí nhà kính vào năm
2030.
2.2.2. Bảo vệ ĐLDT trước mối đe dọa an ninh kinh tế, tài chính
An ninh kinh tế, tài chính của quốc gia thực chất là bảo đảm cho sự phát
triển kinh tế của đất nước được thăng bằng; bảo đảm chủ quyền độc lập kinh tế
của đất nước, nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của các ngành sản xuất trụ cột,


16
bảo đảm sự cung cấp ổn định và bền vững về thị trường, năng lượng, tài chính,
tiền tệ..., làm chỗ dựa cho sự phát triển kinh tế, đủ sức chống đỡ trước sự chấn
động kinh tế trong nước và quốc tế.
Việt Nam đã nhìn nhận khách quan các yếu tố gây nên các rủi ro kinh tế,
tài chính. Trên cơ sở đó, đề ra và thực hiện các biện pháp phù hợp, cơ bản bảo
đảm ổn định, hạn chế những rủi ro về kinh tế, tài chính và tiến tới đẩy lùi nguy
cơ khủng hoảng kinh tế, tài chính ở các mức độ khác nhau, bảo đảm an ninh

kinh tế, phục vụ có hiệu quả vào sự phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân
dân, bảo vệ độc lập dân tộc.
2.2.3. Bảo vệ ĐLDT trước mối đe dọa an ninh năng lượng
Chính phủ Việt Nam nêu hai quan điểm phát triển năng lượng dài hạn, tạo
cơ sở cho việc giữ vững an ninh, bảo vệ độc lập, lợi ích quốc gia dân tộc trước
mối đe dọa an ninh năng lượng.
Phát triển năng lượng phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước và đảm bảo đi trước một bước với tốc độ cao, bền vững, đồng
bộ là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Phát triển năng lượng quốc gia phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế,
thiết lập an ninh năng lượng quốc gia trong điều kiện mở, thực hiện liên kết hiệu
quả trong khu vực và toàn cầu, gắn với giữ vững an ninh quốc gia và phát triển
nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Một số giải pháp an ninh năng lượng được cho là quan trọng và phù hợp
với Việt Nam được thực hiện là: Tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng
được đánh giá là giải pháp luôn được ưu tiên; Tăng cường cơng tác khảo sát
thăm dị các nguồn tài nguyên năng lượng để nâng cao tiềm năng và trữ năng
năng lượng là giải pháp thường xuyên nhằm tăng cường khả năng khai thác sản
xuất các nguồn năng lượng sơ cấp, giảm bớt sự phụ thuộc bên ngồi; Đa dạng
hố các nguồn năng lượng bao gồm đa dạng hoá khai thác sử dụng các loại
nguồn năng lượng khác nhau, chú trọng phát triển năng lượng tái tạo; Các chính


17
sách, biện pháp hợp tác quốc tế phát triển năng lượng, bảo đảm an ninh năng
lượng cũng đồng thời góp phần bảo vệ ĐLDT trước mối đe doạ này.
2.2.4. Bảo vệ ĐLDT trước mối đe dọa an ninh lương thực
Đảng, Nhà nước Việt Nam, các cấp, các ngành luôn quan tâm đến vấn đề
an ninh lương thực, đã thực hiện nhiều chủ trương, chính sách phát triển nơng

nghiệp, giải quyết vấn đề đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp,vấn đề thủy lợi,
thực hiện nhiều chương trình xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, vấn
đề tài nguyên rừng,...
Những vấn đề này thể hiện nỗ lực của Việt Nam không chỉ trong xây
dựng, phát triển đất nước, bảo đảm an ninh lương thực, mà trên cơ sở đó củng
cố, gia tăng sức mạnh quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng phát
triển đất nước.
2.2.5. Bảo vệ ĐLDT trước mối đe dọa từ tội phạm công nghệ cao
Việc đối phó với các mối đe dọa an ninh từ tội phạm công nghệ cao đã
được Đảng, Nhà nước Việt Nam ngày càng quan tâm, đưa ra và tổ chức thực
hiện những quan điểm, chủ trương, chính sách, luật pháp và tổ chức lực lượng
bảo đảm an ninh mạng, chống mọi hoạt động của tội phạm công nghệ cao bảo
vệ an ninh chính trị, chủ quyền quốc gia.
Chính phủ Việt Nam trong những năm từ 2011 đến 2015 rất quyết liệt chỉ
đạo chiến lược quốc gia về đảm bảo an tồn, an ninh mạng, coi việc gìn giữ, bảo
vệ không gian mạng như là một chủ quyền quốc gia.
2.2.6. Bảo vệ ĐLDT trước mối đe dọa từ tội phạm xuyên quốc gia
Việt Nam đã triển khai nhiều chủ trương, chính sách, thực hiện nhiều biện
pháp hiệu quả, một mặt để ứng phó với mối đe dọa an ninh từ tội phạm xuyên
quốc gia, mặt khác để bảo vệ ĐLDT trước mối đe dọa an ninh này.
Việt Nam tham gia hợp tác quốc tế với tinh thần trách nhiệm và có đóng
góp tích cực vào các cơ chế diễn đàn đa phương của ASEAN với các đối tác bên
ngoài như diễn đàn: ASEAN+1, ASEAN+3, Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á
(EAS) … Đặc biệt, tháng 12/2000 Việt Nam đã ký Cơng ước Liên Hợp quốc về
chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Công ước TOC), năm 2011, Việt


18
Nam đã tiến hành phê chuẩn Công ước TOC gồm 3 nghị định thư bổ sung, bao
gồm: Nghị định thư về chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em; Nghị

định thư về chống đưa người di cư bất hợp pháp và Nghị định thư về chống mua
bán bất họp pháp vũ khí, đạn dược.
Bảo vệ ĐLDT trước các mối đe dọa ANPTT là khách quan và cấp thiết
của các quốc gia dân tộc trên thế giới trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là đối với
các nước đang phát triển. Tính chất nguy hiểm, mức độ lây lan, tính chất xuyên
quốc gia của mối đe dọa ANPTT địi hỏi và quy định u cầu, nội dung, hình
thức, biện pháp bảo vệ ĐLDT trước các mối đe dọa an ninh này.
Từ năm 2001 đến năm 2015, đặc biệt trong những năm gần đây, Việt
Nam đã tích cực, chủ động ứng phó với các mối đe dọa ANPTT và triển khai
thực hiện bảo vệ ĐLDT trước tác động từ các mối đe dọa ANPTT. Luận án trình
bày quá trình Việt Nam triển khai thực hiện bảo vệ ĐLDT trước tác động của
các mối đe dọa ANPTT từ các vấn đề: biến đổi khí hậu, an ninh tài chính, an
ninh năng lượng, an ninh lương thực, tội phạm công nghệ cao và tội phạm xuyên
quốc gia. Các vấn đề đó quan hệ và ảnh hưởng lẫn nhau, nói lên những cố gắng,
nỗ lực to lớn của Việt Nam trong xây dựng, phát triển đất nước, trong ứng phó
với mối đe dọa ANPTT, đặc biệt trong bảo vệ ĐLDT trước mối đe dọa ANPTT.


19
III. ĐÁNH GIÁ VỀ BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA VIỆT NAM
TRƯỚC MỐI ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG VÀ KINH
NGHIỆM ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
3.1. Đánh giá về bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trước mối đe
dọa an ninh phi truyền thống từ 2001 - 2015
3.1.1. Thành tựu
Nhận thức và ý thức trách nhiệm đối với nhiệm vụ bảo vệ ĐLDT, bảo vệ
Tổ quốc trước các mối đe dọa ANPTT ngày càng được nâng cao, đầy đủ và rõ
ràng. Khắc phục được nhận thức ứng phó với mối đe doạ an ninh phi truyền
thống đơn thuần, tách rời việc ứng phó với mối đe doạ an ninh phi truyền thống
với vấn đề bảo vệ ĐLDT; hoặc cho rằng, hoạt động của lực lượng vũ trang chỉ

thuần túy là hoạt động quân sự, lực lượng vũ trang không cần đặt ra và thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ ĐLDT trước các mối đe dọa ANPTT, mà cho rằng đó là nhiệm
vụ của các lực lượng chuyên trách trên từng vấn đề an ninh cụ thể..
Việt Nam đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng, mọi tổ
chức trên mọi lĩnh vực trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ vững được
mơi trường hịa bình, ổn định, làm thất bại nhiều âm mưu, thủ đoạn chống phá
của các thế lưc thù địch, bảo vệ vững chắc ĐLDT trước các mối đe dọa ANPTT.
ĐLDT, chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc trước mối đe doạ ANPTT
được giữ vững và bảo đảm. Chủ động ứng phó với các mối đe dọa ANPTT,
phịng chống tội phạm xun quốc gia; tội phạm cơng nghệ cao; tích cực xóa đói
giảm nghèo; phịng chống thiên tai, dịch bệnh; chủ động ứng phó với tình trạng
biến đổi khí hậu... đã khách quan góp phần bảo vệ ĐLDT, chủ quyền quốc gia.
Sức mạnh tổng hợp và khả năng bảo vệ ĐLDT trước mối đe dọa ANPTT
được tăng cường toàn diện, đáp ứng yêu cầu ngăn chặn và loại trừ nguy cơ chiến
tranh và khả năng đối phó thắng lợi với các tình huống chiến tranh nếu xảy ra,
với mọi quy mơ và trình độ.
3.1.2. Hạn chế
Cịn có nhận thức chưa đầy đủ về bảo vệ ĐLDT trước các mối đe dọa
ANPTT. Trên thực tế, ở một số cơ quan, địa phương nội dung bảo vệ ĐLDT,


20
chủ quyền quốc gia chưa được nhận thức sâu sắc và tính tốn kỹ lưỡng trước sự
tác động, chi phối của nhiều yếu tố trong các quan hệ quốc tế, nhất là trong hợp
tác đối phó với mối đe dọa ANPTT. Việc bảo vệ ĐLDT trước mối đe dọa
ANPTT chưa thật sự rành mạch cả trong nhận thức, cả trong tổ chức hoạt động
thực tiễn. Điều đó phần nào đã làm suy giảm tính hiệu quả trong bảo vệ ĐLDT
trước mối đe dọa ANPTT.
Có lúc, có nơi cịn bị động, bất ngờ trong bảo vệ ĐLDT trước các mối đe
dọa ANPTT. Việc xác định đối tác, đối tượng trong hợp tác đối phó với các mối

đe dọa ANPTT có lúc, có nơi chưa thật rõ ràng; việc nghiên cứu chiến lược quốc
phòng, an ninh, bảo vệ ĐLDT trước các mối đe dọa ANPTT cịn chậm; cơng tác
nghiên cứu dự báo, đánh giá âm mưu, thủ đoạn xâm phạm và đe dọa độc lập,
chủ quyền, ANQG trước các mối đe dọa ANPTTcó lúc cịn có biểu hiện bị
động.
Khả năng trong bảo vệ ĐLDT trước mối đe dọa ANPTT cịn có mặt hạn
chế. Cụ thể: Nghiên cứu về các mối đe dọa ANPTT chưa sâu sắc và toàn diện,
việc phân định nội hàm của từng vấn đề chưa thật tường minh, rành mạch; Chưa
huy động tốt các lực lượng và sức mạnh để bảo vệ ĐLDT trước mối đe dọa
ANPTT. Việc thực hiện các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu cịn thiếu
đồng bộ; Sức chống đỡ, tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế thấp, dễ bị thương
tổn trước tác động của các mối đe dọa ANPTT,….
Hiệu quả bảo vệ ĐLDT trong hợp tác quốc tế đối phó với các mối đe dọa
ANPTT chưa cao, còn hạn chế. Hầu hết các nỗ lực hợp tác đa phương về ứng
phó với các mối đe dọa ANPTT trong khu vực mới chỉ tập trung chủ yếu vào
việc thiết lập cơ chế mềm, ra tuyên bố, tổ chức đối thoại, trao đổi, hội thảo, tọa
đàm..., mà ít đi vào thực chất, tăng cường thi hành luật và hợp tác pháp lý, cơ
chế; tính ràng buộc trong hợp tác chưa cao. Vì thế, việc bảo vệ ĐLDT của Việt
Nam gặp nhiều khó khăn và dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.



×