Tải bản đầy đủ (.pdf) (180 trang)

Nghiên cứu các biện pháp tổng hợp phòng trừ cây trinh nữ thân gỗ (mimosa pigral ) ở việt nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 180 trang )




Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
Viện khoa học nông nghiệp việt nam




Báo cáo tổng kết đề tài độc lập cấp nhà nớc

Nghiên cứu các biện pháp tổng hợp
phòng trừ cây trinh nữ thân gỗ
(mimosa pigra l.) ở việt nam


Mã số: ĐTĐL 2005/02

Chủ nhiệm đề tài: TS . nguyễn hồng sơn














6463
15/8/2007

hà nội- 2007

Nghiên cứu các biện pháp tổng hợp phòng trừ cây
Trinh nữ thân gỗ (
Mimosa pigra
L.) ở việt nam


I. Đặt vấn đề

Cây trinh nữ thân gỗ (TNTG)
Mimosa pigra
L.

còn đợc gọi là cây trinh
nữ nhọn, cây mắt mèo, cây xấu hổ hay cây mai dơng, là loài thực vật ngoại lai
có nguồn gốc từ Trung Mỹ và Nam Mỹ (Lewin và Elias, 1981). Do có khả năng
sinh trởng, phát triển và phát tán ra quần thể rất lớn, nó đợc xếp vào loài cỏ dại
nguy hiểm thứ 3 trên thế giới và nằm trong danh sách 100 loài sinh vật gây hại
nguy hiểm nhất đối với hầu hết các Quốc gia đặc biệt là các nớc nhiệt đới và
cận nhiệt đới. Nhiều nớc trên thế giới đặc biệt là các nớc Châu Phi, Châu
ú
c
và khu vực Đông Nam á đã gặp nhiều khó khăn và tốn kém trong việc đối phó
với loài thực vật ngoại lai này. Chỉ riêng ở phía Bắc của Châu
ú

c, chi phí cho
kiểm soát chúng trong năm 1996-1997 là 11,4 triệu đô la, và năm 1997-1998 là
16,6 triệu đô la (Walden et al 2000).
ở nớc ta, cây TNTG đã xâm nhập từ lâu nhng chỉ mới thực sự bắt đầu
phát tán vào thập kỷ 60. Trong những năm gần đây, chúng đã phát triển khá nhanh
và có mặt ở hầu hết các địa phơng trong cả nớc. Đặc biệt tại các vùng bán ngập
thuộc đồng bằng sông Cửu Long, các khu vực lòng hồ thuỷ điện nh Trị An, Thác
Bà, Hoà Bình v.v , chúng mọc dày tạo thành những vành đai rộng lớn và trở thành
đối tợng cỏ dại nguy hiểm khó phòng trừ, gây ảnh hởng lớn cho sản xuất nông
nghiệp, ảnh hởng tới cảnh quan và môi trờng. Mặc dù vấn nạn về cây TNTG đã
đợc nhiều phơng tiện thông tin đại chúng đăng tải nhng cho đến nay vẫn cha
có đợc giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn sự lây lan của chúng.
Trớc nguy cơ gia tăng mức độ xâm lấn và gây hại của cây TNTG ở các
vùng bán ngập đặc biệt là vờn quốc gia nh Tràm Chim, trong năm 2000,
Trờng Đại học Khoa Học Tự Nhiên TP. Hồ Chí Minh và Trờng Đại học Cần
Thơ đã phối hợp với vờn Quốc gia Tràm Chim bắt đầu điều tra mức độ phát
sinh, gây hại và đề xuất một số biện pháp phòng trừ cây TNTG. Trong 2 năm

2
2001-2002, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã giao cho Viện Bảo vệ thực vật thực
hiện đề tài nghiên cứu: Điều tra, đánh giá mức độ tác hại của cây TNTG
(Mimosa pigra) tại các vờn Quốc gia Tràm chim và Nam cát tiên và đề xuất
các giải pháp nghiên cứu phòng trừ
.
Qua các kết quả nghiên cứu bớc đầu có
thể khẳng định nguy cơ xâm lấn của cây TNTG đang ngày càng gia tăng ở vờn
Quốc gia Tràm Chim và Nam Cát Tiên, vùng lòng Hồ Trị An, lu vực sông La
Ngà và có nguy cơ xâm lấn nhiều vùng đất canh tác thuộc đồng bằng sông Cửu
Long cũng nh các khu vực bán ngập khác. Các biện pháp phòng trừ cây TNTG
thủ công, cơ giới đều không mang lại hiệu quả cao, chi phí lớn và khó triển khai

trên diện rộng. Biện pháp hoá học tuy có hiệu quả cao, thực tiễn song cần đợc
quan tâm đầy đủ đến các tác động tiêu cực của chúng đối với môi trờng. Đặc
biệt các kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, không thể áp dụng một biện pháp
phòng trừ đơn lẻ nào cho tất cả các vùng sinh thái mà cần có các giải pháp tổng
hợp, đồng bộ và phù hợp với từng vùng sinh thái riêng biệt.
Để bổ sung và hoàn chỉnh các kết quả nghiên cứu trên, đồng thời đa ra
đợc quy trình phòng trừ tổng hợp cây TNTG cho từng vùng sinh thái cụ thể,
Bộ Khoa học & Công nghệ đã giao cho Viện Bảo vệ thực vật tiến hành nghiên
cứu đề tài: Nghiên cứu các biện pháp tổng hợp phòng trừ cây TNTG
(Mimosa pigra
L
.) ở Việt Nam
.

II. Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu chung
Đề xuất đợc các biện pháp tổng hợp nhằm ngăn chặn sự lây lan và kiểm
soát đợc sự phát triển của cây trinh nữ thân gỗ (Mimosa pigra) ở Việt nam.
Mục tiêu cụ thể

- Có đợc báo cáo khoa học phân tích hiện trạng xâm lấn và thiệt hại đối với
kinh tế, môi trờng do cây TNTG gây ra ở các vùng sinh thái khác nhau; phân tích
đợc các yếu tố cơ bản ảnh hởng đến quá trình phát sinh, phát triển của cây TNTG
để từ đó có cơ sở đa ra các giải pháp phòng trừ phù hợp.
- Đánh giá đợc hiệu quả kỹ thuật, kinh tế và tác động về mặt môi
trờng của từng biện pháp phòng trừ khi triển khai trên diện rộng để từ đó đề

3
xuất đợc các biện pháp ngăn chặn đợc sự lây lan và kiểm soát đợc sự phát
triển của cây TNTG

- Xây dựng đợc các mô hình trình diễn phòng trừ tổng hợp cây TNTG
ở vờn Quốc gia Tràm Chim, vờn Cát Tiên, lu vực sông La Ngà, lòng hồ Hoà
Bình và lòng hồ Thác Bà.
- Xây dựng đợc quy trình kỹ thuật phòng trừ tổng hợp cây TNTG đạt
hiệu quả kinh tế, kỹ thuật và môi trờng cao, đảm bảo ngăn chặn kịp thời và
kiểm soát đợc nguy cơ xâm lấn của cây TNTG ở từng vùng địa lý, vùng sinh
thái và các điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau.
- Nâng cao đợc năng lực của các nhà nghiên cứu, quản lý và ngời dân trong
việc kiểm soát sự xâm nhiễm và lây lan của cây TNTG ở các vùng sinh thái khác nhau.

III. Tình hình nghiên cứu ở trong và ngoài nớc
III.1. Tình hình nghiên cứu ở nớc ngoài
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về sinh học, sinh thái
và biện pháp phòng trừ cây trinh nữ thân gỗ (TNTG), các kết quả nổi bật nhất
có thể tóm tắt nh sau:
(1). Về đặc điểm sinh học: Cây trinh nữ thân gỗ (Mimosa pigra L.)
thuộc họ Mimosaceae, lần đầu tiên đợc Linnaeus phân loại và mô tả vào năm
1759 nh là một loài cây thân gỗ lâu năm, cao tới 5-6 m, có nhiều gai, nhiều
cành, rễ ăn sâu trong đất, rộng và xa tới 3,5 m tính từ gốc (Robert, 1982). Thân:
có màu xanh ở gốc nhng khi già thì hoá gỗ, ban đầu có lớp lông mịn bao phủ
làm cho thân cây ráp, sau đó mọc nhiều gai con dài 5-10 cm. Lá: Có hai lần lá
kép lông chim, khi chạm vào thì lá khép lại. Lá dài 20-25 cm, màu xanh sáng,
mỗi đốt lá có 10-15 cặp lá kép mọc đối xứng dài 5 cm. Sống lá chét dài 3-12 cm,
có gai thẳng đứng, mảnh, ở giữa gốc của các cặp lá chét đôi khi có gai mọc lệch
hoặc mọc chính giữa hai cặp lá. Mỗi lá kép có rất nhiều cặp lá chét con, thuôn,
dài 3-8 mm, rộng 0,5-1,25 mm, mép lá có lông tơ. Hoa: màu hồng, nhỏ, mọc
đều, nhiều hoa đơn hợp thành hoa đầu tự đờng kính 1-2 cm. Mỗi nách lá
thờng có 2 hoa. Đài nhỏ, xẻ không đều. Quả: dài 3-8 cm có nhiều lông, chia
thành 10-20 khoang, mỗi khoang chứa một hạt, khi chín có màu nâu hay xanh


4
ôliu, thuôn dài 4-6 mm, rộng 2,2-2,6 mm. Khi chín, các khoang tự tách ra khỏi
quả và bay đi. Một cây có thể sản sinh 9.000-220.000 hạt (Lonsdate, 1992),
trung bình là 8.000 hạt/ tháng (Wanichanantakul & Chinawang, 1979). Quả khi
chín thờng không tách hạt ngay mà rụng thành từng đốt nằm trong vỏ quả. Vỏ
quả có nhiều lông nên nổi và trôi theo dòng nớc đi rất xa. Khi gặp điều kiện
thuận lợi về nhiệt và ẩm độ, hạt tách ra khỏi vỏ quả và nảy mầm. Hạt rất cứng,
một số có thể nảy mầm ngay khi rụng, một số khác có thể nảy mầm sau 1-2
năm. Nếu hạt bị nằm sâu trong đất có thể rơi vào tình trạng ngủ nghỉ tới hơn 20
năm. Từ khi ra hoa đến khi quả chín khoảng 5 tuần.
Cây TNTG có thể sinh sản bằng hạt nhng cũng có thể mọc tái sinh từ các
gốc sau khi bị chặt. Trong điều kiện nhiệt độ ổn định, hạt trinh nữ có thể nảy mầm 2-
3% ngay trong nớc hay trên các vùng đất ẩm. Nhờ có lớp vỏ cứng không thấm nớc
mà quá trình ngủ nghỉ của hạt có thể kéo rất dài và hạt cũng có khả năng tồn tại rất
lâu trong đất. Phần lớn hạt nảy mầm trong điều kiện ẩm ớt, nhng đôi khi chúng
cũng có thể nảy mầm trong nớc. Tuy nhiên, việc duy trì ngập nớc lâu dài sẽ làm
giảm sức sống của hạt và làm cho chúng bị phân huỷ dần và mất khả năng nảy mầm.
Sau khi mọc, cây sinh trởng rất nhanh, mọc nhiều nhánh và có thể ra hoa sau 4-12
tháng. Sau 1 năm, đờng kính thân có thể đạt tới 2,5 cm và sau hai năm đạt 7 cm.
Khả năng tái sinh của cây TNTG cũng rất cao, một cây mọc từ hạt có thể cao 2,51m
và tán lá đạt 6,3 m
2
sau 12 tháng nhng cây tái sinh từ gốc sau chặt có thể cao 2,6 m
và diện tích tán lá đạt 8 m
2
(Parson và Cuthbertson, 1992)
(2). Đặc điểm sinh thái, phân bố, lây lan và tác hại: Cây TNTG có nguồn gốc
ở Trung và Nam Mỹ (Lewis & Elias, 1981), tại đó chúng phát triển thành vành đai kéo
dài từ Mehico qua Trung Mỹ, Antilles, Columbia, Peru và Brazil tới phía bắc của
Achentina (Lewis & Elias, 1981). Cây trinh nữ lần đầu tiên đợc du nhập vào các khu

vực khác nh một dạng cây cảnh hay cây che phủ đất, dần dần chúng đã phát tán theo
dòng nớc, xâm nhập vào hều hết các nớc trên thế giới và trở thành đối tợng cỏ dại
nguy hiểm ở các nớc nhiệt đới Châu Phi, ấn Độ, Châu úc và khu vực Đông Nam á
nh miền Bắc Thái Lan, Philippine, Malaysia, Indonesia và Việt Nam. Hiện nay, nó
đợc coi là loại cỏ dại nguy hiểm vào hàng thứ ba trên toàn thế giới. Phần lớn cây này
thờng xâm lấn các vùng đất thấp, ngập nớc theo mùa, quanh lòng hồ chứa nớc, khu

5
vực đất ẩm, đất hoang hoá, đất ven sông, các luồng nớc chảy, các dòng sông bị khô
cạn, các thung lũng ở khu rừng nhiệt đới hay các khu rừng Quốc gia.

phía Bắc Châu
ú
c tại vùng đất ngập nớc thuộc lu vực sông Adelaide,
cây TNTG chỉ mọc vài bụi vào năm 1956. Vào khoảng năm 1965, sau nhiều đợt
ma lớn và ngập lụt kéo dài cộng với ảnh hởng to lớn của những đợt lũ tràn từ
các nớc châu á đặc biệt là Indonesia, cây TNTG bắt đầu phát tán và lan tràn trên
một diện tích khá lớn tại vùng hạ nguồn sông Adelai. Ban đầu cây mọc thành dải,
chủ yếu dọc theo các lạch nớc, ven các dòng chảy hay ven bờ sông lớn. Sau khi
có nguồn hạt tích luỹ đủ lớn, cây bắt đầu mọc lan rộng dần. Sau đó, cây phát tán
và xâm nhiễm rất nặng ở vùng ngập nớc thuộc lu vực sông Mary và sông
Alligator, tràn qua phía đông của sông Adelai. Cùng với sự giao thoa trong hệ
thống sông chằng chịt thuộc vùng thấp của bang Northern Territory, cây TNTG
cũng bắt đầu phát tán và xâm nhiếm nặng ở các vùng đất bán ngập dọc theo sông
Finniess và sông Daly, sau đó tràn qua phía tây nam của sông Adelai.
Có thể nói trong thập kỷ 70 và 80, sự gia tăng về diện tích xâm nhiễm
của cây TNTG xảy ra rất mặnh mẽ. Có những vùng đất thuộc hạ lu sông
Adelai, trong năm 1978 chỉ lác đác có vài khóm TNTG mọc, nhng chỉ ba năm
sau (1981), cây đã che phủ kín cả một vùng rộng lớn (xem ảnh minh hoạ phần
phụ lục).

Vào năm 1989, mặc dù đã đợc áp dụng các biện pháp phòng trừ nhng
cây TNTG đã xâm lấn trên diện tích là 80.000ha (tính theo diện tích đã bị che phủ
hoàn toàn). Trên thực tế, diện tích các vùng đất có mặt của cây TN có thể lên tới
hàng trăm nghìn km
2
(xem bản đồ phân bố của cây TNTG ở bang Northern
Territory phần phụ lục). Vào năm 1990, theo ảnh chụp từ trên không thì cây
TNTG đã bao trùm trên diện tích 700km
2
tính từ phía đông nam của Arnhemland
đến sông Phelp và chỉ còn cách vùng giáp gianh với bang Quensland chừng 100km.
Vào năm 1947, Thái Lan đã nhập nội cây TNTG làm phân xanh và
chống xói mòn đất nhng nay đã trở thành cỏ dại nghiêm trọng ở Chiềng Mai,
Pattaya, Hatyai Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp Thái Lan thì 23 trong số
74 tỉnh của Thái Lan đã bị nhiễm cây TNTG.


6
ở Malaysia, cây TNTG bắt đầu xuất hiện ở bờ biển phía Đông của
Kelantan vào năm 1982, chỉ trong vòng 1 năm sau nó đã lan sang các bang
Penang, Johore và Selangor. Hiện nay, cây TNTG đã xâm lấn vờn cọ dầu, các
vùng đất nông nghiệp, đất trồng lúa ở Perlis và Kedah với diện tích khoảng
360.000 ha (Sivapragasam và CTV).
ở Indonesia, tối thiểu có 3.000 ha bị nhiễm cây TNTG. Nó là mối đe doạ
cho vùng phía Nam và phía Tây vùng hồ Rawa Pening Weedwatcher,1988 ).
Theo các nhà nghiên cứu, cây TNTG có nhiều đặc điểm thích nghi và có
lợi giúp chúng có thể nhanh chóng sinh trởng, phát triển, lây lan và xâm nhiễm
trên một vùng rộng lớn:
- Thứ nhất là: chúng có thể chịu đựng đợc môi trờng yếm khí nh
những vùng đất thờng xuyên ngập nớc bằng cách mọc thêm rễ phụ ở phần sát

với mặt nớc (Miller et al, 1981).
- Thứ hai là: sau khi bị chặt, cây có thể nhanh chóng mọc tái sinh từ
phần gốc sát mặt đất (Wani channatakul và Chinawong, 1979). Khi bị đốt, toàn
bộ lá có thể bị chết hay rụng nhng có tới 90% số cây và 50% số hạt có thể tiếp
tục mọc trở lại.

- Cây con nhanh chóng đạt tới thời kỳ sinh trởng sinh thực và có thể
kết hạt ngay năm đầu tiên (Lonsdale et al, 1985). Mặt khác, trên vỏ quả có lớp
lông dày đặc có thể giúp chúng bám vào cơ thể động vật, quần áo, hay trôi dạt
theo dòng nớc để phát tán đi xa.

- Cây trinh nữ có thể ra nhiều hạt. Mỗi cây có thể cho trung bình khoảng
220.000 hạt/ năm. Thời gian tồn tại của hạt trong đất phụ thuộc vào độ sâu tầng
đất và thành phần cơ giới đất nhng nhìn chung trong đất cát pha chúng có thể tồn
tại đợc tới 23 năm (Pickering, 1992).

- Trong điều kiện thuận lợi, cây TNTG có thể sinh trởng rất nhanh (1
cm/ ngày) và tốc độ xâm nhiễm có thể gấp đôi diện tích sau mỗi năm. Cây
cũng có thể chịu đợc điều kiện khô hạn.
- Nhu cầu dinh dỡng của cây TNTG rất thấp, nó có thể mọc ở mọi
vùng đất do đó có độ dẻo sinh thái cao (Miller et al, 1983).

7
Sự giống nhau về khí hậu và thổ nhỡng ở xứ bản địa với các nớc nhập
nội là yếu tố cơ bản giúp cho quá trình phát tán, lây lan và xâm nhiễm của cây
TNTG ở nhiều nớc trên thế giới (Ramakrisnan). Tại những vùng bị xâm lấn, loài
thực vật ngoại lai này không chỉ gây tác hại nghiêm trọng đến kinh tế, xã hội mà
còn gây nên tác động rất lớn về mặt sinh thái và môi trờng.
Trớc hết, cây TNTG đã biến nhiều vùng đất canh tác thành đất hoang
hoá, gây thiệt hại rất lớn đến đời sống kinh tế và xã hội của ngời dân địa

phơng. ở
ú
c, sự xâm lấn của cây TNTG đã cản trở ngời thổ dân gặp rất
nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các vùng đất trống và nguồn nớc; làm
giảm các nguồn thực phẩm truyền thống sẵn có của ngời thổ dân nh cá, rùa,
chim trời. Bên cạnh đó, cây TNTG cũng gây ra hàng loạt ảnh hởng bất lợi
cho ngời dân địa phơng nh ngăn cản quá trình giao thông và hoạt động canh
tác, gây nhiễm độc nguồn nớc sinh hoạt, ảnh hởng đến dòng chảy nên ảnh
hởng đến các công trình thuỷ điện, giảm nguồn lợi từ các động vật thuỷ sinh
nh cá, tôm, cua (Mitchell & Gopal).
Thứ hai, chi phí cho công tác nghiên cứu và phòng trừ cây TNTG
thờng rất tốn kém. Chỉ riêng ở phía Bắc của nớc
ú
c, chi phí cho nghiên cứu
và kiểm soát chúng trong năm 1996-1997 là 11,4 triệu đô la và năm 1997-1998
là 16,6 triệu đô la (Walden et al, 2000).
Thứ ba, tại những vùng bị xâm lấn, cây TNTG hầu nh lấn át hoàn toàn
hay làm giảm nghiêm trọng các quần xã thực vật bản địa, làm suy giảm quần
xã động vật do thay đổi thảm thức ăn hay sự tấn công của bộ gai trên thân cây
TNTG, từ đó đã làm thay đổi cơ bản hệ sinh thái bản địa, làm giảm đa dạng
sinh học. Cây TNTG cũng làm xáo trộn hệ sinh thái, tạo điều kiện cho nhiều
loài thực vật ngoại lai khác xâm lấn, làm thay đổi chu trình sinh hoá, cấu trúc
vật lý hay thành phần hoá học của đất.

bang Northern Territory
ú
c có ít
nhất 80.000ha diện tích đồng cỏ tự nhiên của vùng đất ngập nớc bị lấn át hoàn
toàn bởi cây TNTG. Đồng thời, sự xâm lấn của cây TNTG cũng phá vỡ sự bền
vững về phạm vi và địa bàn c trú của các loài vịt trời, ngỗng trời và nhiều loài

chim nớc khác; đa dạng sinh học của các vùng đất ngập nớc ở úc cũng nh

8
các quốc gia lân cận đang bị đe doạ nghiêm trọng; các loài thực vật quý hiếm
và các loài dễ bị tổn thơng nh cọ Ptychosperma bleeseri, rau mác
Mononchoria hastata và một số loài hoa súng địa phơng đang bị đe doạ và có
nguy cơ tiêu biến.
Bên cạnh những ảnh hởng tiêu cực, nếu đợc sử dụng một cách hợp lý thì
cây TNTG cũng có những tác dụng nhất định nh làm cây cảnh, cây phân xanh,
cây phủ đất chống xói mòn, làm củi, làm thức ăn cho gia súc (trâu, dê v.v ), làm
thuốc v.v. . Tuy nhiên, cho đến nay các nghiên cứu và kết quả ứng dụng cây
TNTG vào mục đích kinh tế còn rất hạn chế (Miller, 2002).
(
3). Các nghiên cứu về phòng trừ cây TNTG: cho đến nay, trên thế giới
đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về các biện pháp phòng trừ cây TNTG.
Chỉ trong vòng từ năm 1992 trở lại đây đã có 3 cuộc hội thảo Quốc tế chuyên
bàn về vấn đề cây TNTG và các biện pháp phòng trừ chúng, song có thể khẳng
định rằng, không một biện pháp đơn lẻ nào có thể mang lại hiệu quả cao và
triệt để trong việc phòng trừ cây TNTG. Từ đó, nhiều biện pháp khác nhau đã
đợc khuyến cáo ứng dụng nh biện pháp thủ công cơ giới nh nhổ, chặt biện
pháp đốt hay sử dụng thuốc trừ cỏ và biện pháp sinh học.
* Biện pháp thủ công nh cắt, nhổ thủ công bằng máy hay bằng tay đợc
áp dụng rất có hiệu quả. Tuy nhiên, biện pháp nhổ bỏ chỉ có thể áp dụng đợc khi
cây còn bé, mật độ cha cao. Ví dụ ở vờn Quốc gia Rakadu - Thái Lan ngời ta đã
áp dụng thành công biện pháp này để ngăn chặn sự xâm lấn của cây trinh nữ khi
chúng còn mọc rải rác (Siriworakul & Schultz,1992). Biện pháp chặt đốn tuy có
hiệu quả cao nhng không triệt để vì cây có thể mọc tái sinh sau một thời gian
ngắn. Thậm chí, sau khi chặt, khả năng sinh trởng và phát triển của cây còn tốt
hơn cả khi mọc từ hạt. Mặt khác, cả hai biện pháp này đều rất tốn kém vì cần nhiều
nhân công lao động, do đó tính khả thi của 2 biện pháp này là rất thấp. Khi cây

trinh nữ lan tràn trên một diện tích rộng lớn
* Biện pháp đốt: thờng chỉ cho hiệu quả cao với các cây còn nhỏ. Đối với
cây trởng thành, biện pháp này chỉ có tác dụng làm rụng bộ lá hay làm chết từng
phần cành non, do vậy chúng thờng chỉ đợc áp dụng sau khi cắt hay đã sử dụng
thuốc trừ cỏ để làm tăng tỷ lệ chết của cây trinh nữ (Miller, 1990). Tuy nhiên, khi áp

9
dụng biện pháp này thờng làm cho đặc tính ngủ nghỉ của hạt bị phá vỡ do đó kích
thích cho hạt nảy mầm nhiều hơn và khả năng xâm nhiễm cũng trở nên cao hơn. Bên
cạnh đó cũng có thể xảy ra rủi ro cháy rừng khi triển khai trên diện rộng.
* Biện pháp hoá học: đã đợc sử dụng trừ trinh nữ thân gỗ ở Mexico,
Costa-Rica, Australia và Thái Lan vào những năm 70 - 80 của thế kỷ 20. Cho
đến nay, nó đợc coi là biện pháp có hiệu quả phòng trừ cao, triệt để và kinh tế
nhất, do đó nó đợc ứng dụng rộng rãi ở nhiều nớc trên thế giới để phòng trừ
cây TNTG. Cùng với sự phát triển của nền công nghiệp hoá chất, ngời ta đã
tìm ra nhiều loại thuốc ít độc, có hiệu quả cao và có thể ứng dụng bằng nhiều
hình thức khác nhau.
- Biện pháp đa thuốc vào đất: Biện pháp này có thể đợc tiến hành
thông qua việc đa thuốc trực tiếp vào đất hay phun lên bề mặt tuỳ thuộc
vào diện tích cần xử lý, tuổi cây hay khu vực bị xâm nhiễm. Ngời ta đã
tạo sẵn các dạng thuốc phù hợp cho việc áp dụng trong đất, tuy nhiên hiệu
quả của nó phụ thuộc rất nhiều vào độ ẩm đất và lợng ma để thuốc có thể
xâm nhập đợc vào kết cấu của đất. u điểm của biện pháp này là có thể
cho hiệu quả cao vì thuốc đợc hấp thụ qua rễ, sau đó lu dẫn vào thân nên
có thể diệt đợc toàn cây. Mặt khác, các thuốc này cũng có thể kéo dài thời
gian phát huy hiệu lực nên có thể diệt đợc các chồi tái sinh hay mầm non
mọc tiếp tục từ hạt. Các loại thuốc đợc sử dụng phổ biến để phun vào đất
bao gồm: Ethidincucron, Hexazinone và Tebuthiuron. Bên cạnh đó, ngời
ta cũng có thể sử dụng một số thuốc để tới vào gốc cắt tơi nh Dicamba,
Glyphosate hay Imazapyr.


- Biện pháp phun thuốc lên lá hay tiêm trực tiếp vào cây: Biện pháp này đợc
sử dụng rộng rãi với nhiều loại thuốc tiếp xúc hay lu dẫn nh Dicamba,
Fluroxypyr, Glyphosate, Pycloram+2,4D hay Hexazinone. Đây là biện pháp có
hiệu quả cao, dễ ứng dụng hiện đang đợc ứng dụng rộng rãi ở nhiều nớc trên thế
giới. Tuy nhiên, ngời ta cũng thấy việc sử dụng các loại thuốc này có nhợc điểm
là nó dễ bị mất hiệu lực trong các điều kiện bất thuận nh ma lớn, nhiệt và ẩm độ
cao v.v. Khi phun vào sáng sớm, các thuốc tiếp xúc trừ cỏ lá rộng nh Dicamba,

10
Fluroxypyr có thể cho hiệu quả trừ cây trinh nữ nhng sau đó cây lại mọc lên từ hạt
vì các thuốc này không có tác dụng diệt hạt cũng nh không có tác dụng kéo dài.
Phun các thuốc nội hấp và lu dẫn nh Glyphosate, Hexazione, Triclopyr +
Pycloram + 2,4D hay Metsulfuron Methyl v.v với lợng cao vào mùa khô có thể
cho hiệu quả cao và triệt để hơn. Các thuốc tiếp xúc khác nh Atrazin + 2,4D,
Tebuthiuron phần lớn chỉ trừ đợc cây con. Việc xử lý thuốc vào gốc sau khi đốn
hay phun vào vỏ thân ở sát gốc là một biện pháp có hiệu quả kinh tế cao. Ví dụ có
thể sử dụng Dicamba, Glyphosate, Imazapyr để phun vào các gốc cây sau khi cắt
hay dùng
Dicamba, Hexazinone
để tiêm vào cây, nhng hiệu quả thờng thấp và
không triệt để (Steve Wingrave, 2002).
Nhìn chung, biện pháp phun thuốc lên lá thờng có tính khả thi
cao, song trong các trờng hợp cây trinh nữ xâm lấn dày đặc hoặc các cây
mọc cao lâu năm, ngời ta phải dùng máy bay để phun thuốc nhng cũng
chỉ có tác dụng hạn chế chồi non, hoa và quả trinh nữ để hạn chế quá trình
phát tán tiếp theo. Hiện nay, ở úc việc dùng máy bay phun thuốc trừ cây
trinh nữ trong các vờn Quốc gia và khu vực hoang hoá đã trở nên phổ
biến. Các thuốc thờng đợc sử dụng là Dicamba, Fluroxypyr,
Metsulfuron Methyl (Parson, 1992).

ở phía Bắc nớc úc, việc phun thuốc trừ cây TNTG thờng đợc tiến
hành vào đầu mùa ma (tháng 11 đến tháng 12) khi cây con mới mọc hoặc các
cây trởng thành đang mọc tái sinh mạnh. Nhờ có việc sử dụng liên tục thuốc
hoá học trên diện rộng trong suốt thập kỷ 70 và 80 nên đã hạn chế đáng kể sự
gia tăng về diện tích xâm nhiễm cây TNTG.

Hiện nay có 5 loại thuốc hoá học đang đợc sử dụng để phun trừ cây TNTG
1. Starane: hoạt chất là Fluroxyper: đây là loại thuốc trừ cỏ chọn lọc, trừ đợc
cỏ lá rộng và cây thân bụi. Thuốc có độ độc thấp (nhóm IV), sử dụng với lợng 3lit/
ha có pha thêm chất giữ ẩm. Loại thuốc này hiện cha đăng ký sử dụng ở nớc ta.
2. Banvel: hoạt chất là Dicamba, đây là thuốc trừ cỏ chọn lọc, trừ cỏ lá
rộng trên nhiều loại cây trồng. Thuốc thuộc nhóm độc II, đợc phun với lợng

11
5-6lit/ha. Mặc dù Dicamba đợc khuyến cáo là có thể phun lên các vết cắt
ngang thân nhng hiện nay ở úc vẫn chủ yếu dùng để phun lên lá là chính.
Hoạt chất này cũng không đợc đăng ký sử dụng ở Việt Nam
3. Graslan (200g/ kg): Hoạt chất là Tebuthiuron: Là thuốc trừ cỏ chọn
lọc, trừ cỏ lá rộng trên các cây trồng họ hoà thảo nh mía, lúa mỳ v.v.Thuốc
thuộc nhóm độc II, đợc sử dụng với lợng từ 5-10 kg/ ha.

nớc ta, hoạt chất
Tebuthiuron đợc đăng ký với tên thơng mại là Tebusan để trừ cỏ cho mía
nhng ít đợc sử dụng.
4. Brushoff: Hoạt chất là Metsulfuron Methyl: là thuốc trừ cỏ chọn lọc,
trừ nhiều loài cỏ lá rộng trên các cây trồng họ hoà thảo nh lúa, ngô v.v.Thuốc
thuộc nhóm độc IV, đợc dùng với lợng 60g/ ha.

nớc ta, Metsulfuron
methyl đợc đăng ký sử dụng với tên thơng mại là Ally 20DF để trừ cỏ trên

lúa và một số cây trồng cạn.
5. Tordon: là hỗn hợp giữa Picloram và 2,4D: là thuốc lu dẫn mạnh, có
thể trừ các cỏ lá rộng, cây thân bụi có bộ rễ sâu. Không trừ cỏ hoà thảo. Thuốc
có độ độc cao, thuộc nhóm độc I. Cả hoạt chất Picloram và sản phẩm Tordon
không đợc đăng ký sử dụng ở Việt Nam.
Tuy có những u điểm nhất định về hiệu quả kỹ thuật và kinh tế, song
biện pháp hoá học cũng không tránh khỏi một số nhợc điểm:
- Thứ nhất là: mặc dù các thuốc trừ cỏ đợc sử dụng là những thuốc
chọn lọc cao nhng nếu sử dụng liên tục có thể làm suy giảm số loài thực vật,
do đó suy giảm đa dạng sinh học ở các khu vực bảo tồn.
- Tuy hầu hết các thuốc trừ cỏ đều rất ít độc đối với môi trờng và động
vật thuỷ sinh, song việc sử dụng rộng rãi trên diện tích lớn cũng có thể gây nên
những ảnh hởng tiêu cực tới môi trờng và sức khoẻ con ng
ời.

Tuy nhiên, qua kết quả triển khai phòng trừ bằng thuốc hoá học ở úc
cho thấy, mặc dù việc phòng trừ cây TNTG bằng thuốc hoá học đợc tiến hành
trên một phạm vi khá lớn và tất cả khu vực phòng trừ đều nằm trong phạm vi
vùng ngập nớc, phần đa là vùng bảo tồn thiên nhiên hoang dã trong đó có rất
nhiều loài chim trời và cá sinh sống, cho đến nay cha có báo cáo nào về tác

12
động tiêu cực nghiêm trọng của thuốc hoá học đối với các loài động vật thuỷ
sinh trong các khu bảo tồn ngập nớc này kể cả những vùng đợc xử lý thuốc
bằng máy bay trực thăng trên diện tích khá rộng. Theo các nhà hoa học thì hầu
hết các thuốc trừ cỏ đều rất ít độc với các loài động vật thuỷ sinh. Trong khi đó,
diện tích che phủ bề mặt của cây TNTG rất lớn, khả năng giữ thuốc trên bề mặt
tán cây lớn nên lợng thuốc rơi xuống đất hầu nh rất ít. Mặc dù không có kết
quả phân tích về d lợng thuốc trong đất, nớc và nghiên cứu chi tiết về tác
động của thuốc đối với các loài động vật thuỷ sinh, nhng nhìn chung cho đến

nay không có trờng hợp nào ngộ độc xảy ra.
* Biện pháp sinh học: đã đợc tiến hành ở úc, Thái Lan. Ngời ta đã tiến
hành điều tra nguồn ký sinh thiên địch của cây trinh nữ thân gỗ tại vùng bản xứ của
nó nh Brazil, Mexico, Venezuela, sau đó du nhập và nhân thả ở các vùng bị nhiễm
cây trinh nữ. Hiện nay ở úc đã nghiên cứu và nhân thả đợc 14 tác nhân sinh học
có khả năng ứng dụng để trừ cây TNTG, nhng trong đó chỉ có 2 loài loài có khả
năng năng hạn chế tốt cây TNTG là sâu đục thân Carmenta mimosae đợc nhân thả
ở úc năm 1989, ở Thái Lan 1991; và sâu đục ngọn Neurostrota gunniell đợc thả ở
úc năm 1989 (Julien, 1992; Forno, 1991, ). Trong đó loài sâu đục thân Carmenta
mimosae đã đợc tổ chức CSIRO hỗ trợ để nhân thả ở Việt Nam từ 1995-1997. Hai
loài mọt đục hạt trinh nữ là
Acanthoscelides puniceus

A. quadridentatus
cũng
đã đợc nhân thả thành công ở úc và Thái Lan.
Bên cạnh các loài côn trùng, hớng nghiên cứu sử dụng các loài nấm gây hại
cho trinh nữ dới dạng phòng trừ cổ điển và thuốc trừ cỏ sinh học cũng đang đợc
quan tâm nghiên cứu và ứng dụng ở nhiều nớc đặc biệt là úc và Thái Lan. Cho đến
nay, loài nấm có triển vọng nhất đã đợc xác định và ứng dụng thành công để phòng
trừ cây TNTG là
Phloeospora mimosae pigrae
. Loài nấm này có thể phát triển nhanh
và hạn chế đợc khả năng phát triển của cây. Tuy nhiên, nó chỉ có khả năng hạn chế
phát triển của các cây non cao dới 80 cm và không có khả năng diệt triệt để.
Biện pháp phòng trừ sinh học đợc coi là một hớng đi quan trọng vì nó
khắc phục đợc nhợc điểm của các biện pháp thủ công và hoá học, đảm bảo
đợc tính bền vững và cân bằng sinh thái cao, vì vậy nó đợc coi là chiến lợc

13

quan trọng trong thế kỷ 21. ở úc sau nhiều năm thả liên tục, các tác nhân sinh
học đã có thể làm giảm tới 90% lợng hạt trong đất tại vùng ứng dụng. Tại
những vùng có mật độ cây bị sâu đục cao, khả năng cạnh tranh của cây TNTG
với hệ thực vật tại vùng bị xâm lấn bị giảm đáng kể. Đồng thời, các tác nhân
sinh học cũng làm suy giảm khả năng phát triển của cây con.
Tuy nhiên, việc ứng dụng biện pháp này cũng còn nhiều hạn chế:
- Phần đa các tác nhân sinh học thờng có hiệu quả không cao và chỉ có
tác dụng hạn chế phần non của cây và các cây con, không có khả năng tiêu diệt
triệt để. Đối với các loài sâu đục ngọn đôi khi còn kích thích cho cây mọc nhánh
mới và phát triển mạnh hơn. Phạm vi phát tán của các tác nhân cũng không rộng,
trong khi đó các vùng lận cận thờng xuyên có nguồn hạt từ các vùng ngập nớc
khác trôi dạt đến, do đó diện tích lây lan tuy có chậm hơn nhng vẫn mở rộng.
- Các tác nhân sinh học có thể bị tiêu diệt hoặc suy giảm quần thể trong
những điều kiện bất thuận nh lũ lụt, vì vậy việc bảo vệ và nhân quần thể của
chúng cũng gặp khó khăn.
- Chi phí cho biện pháp sinh học rất cao, do vậy khó triển khai trên diện
rộng. Để hình thành và duy trì đợc khu vực phòng trừ với diện tích trên 100ha, ở
úc đã phải có một phòng thí nghiệm duy trì các hoạt động thờng xuyên để kiểm
tra, nhân nuôi bổ sung kể từ năm 1984.
Nh vậy, các kết quả nghiên cứu ở nớc ngoài đều cho thấy không
một biện pháp nào có thể mang lại hiệu quả cao và triệt để đối với cây
TNTG khi đã xâm nhiễm ở mức độ cao. Vì vậy, hớng nghiên cứu và ứng
dụng các biện pháp ngăn chặn sự xâm nhiễm ban đầu và phòng trừ sớm
cây TNTG đang đợc quốc gia đặc biệt quan tâm và coi đây là một biện
pháp rẻ tiền và hiệu quả nhất. Các biện pháp đợc áp dụng để ngăn chặn
sự lây lan của cây TNTG bao gồm:

Để có thể can thiệp sớm cần tiến hành các hoạt động chủ yếu sau
:
(1). Làm tốt công tác kiểm dịch nội địa và quốc tế : Kiểm dịch thực vật

đợc coi là một trong những biện pháp quan trọng để ngăn chặn và kiểm soát
sự lây lan của cây trinh nữ thân gỗ. Việc tiến hành biện pháp kiểm dịch có thể

14
áp dụng đối với các quốc gia khác nhau nhng cũng có thể áp dụng để ngăn
chặn sự lây lan từ vùng dịch tới các vùng cha bị cây trinh nữ xâm nhiễm. Đặc
biệt cần kiểm soát chặt chẽ sự giao lu của con ngời tại vùng bị nhiễm cây
trinh nữ ở các vờn Quốc gia để có biện pháp ngăn chặn kịp thời khi chúng có
nguy cơ bùng phát số lợng (Schultz, 2002).
(2). Dự báo sớm sự phát tán và lây lan của cây TNTG: trên cơ sở duy trì
hoạt động điều tra thờng xuyên cũng nh có đợc hiểu biết đầy đủ về điều kiện,
quy luật phát tán, lây lan của cây trinh nữ. Việc dự báo sớm không chỉ dựa vào điều
tra, phát hiện thờng xuyên mà còn phải xác định và phân tích đợc diễn biến và
mức độ phát sinh trong mối liên quan giữa cây trinh nữ với các yếu tố sinh thái nh:
nhiệt độ, ẩm độ, mực nớc, hệ thực vật và các sinh vật có liên quan. Trên cơ sở đó,
phải đa đợc dữ liệu vào máy tính để phân tích mối tơng quan, từ đó cảnh báo
đợc các vùng có nguy cơ xâm nhiễm cao để có kế hoạch giám sát kịp thời.
(3). Tăng cờng giáo dục và nâng cao nhận thức cho ngời dân: Đây là nội
dung quan trọng giúp cho việc ngăn chặn sớm sự lây lan ở cấp Quốc gia vì hiệu quả
ngăn ngừa cây trinh nữ phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức và sự tham gia chủ động
của công chúng. Mỗi ngời dân và cộng đồng cần đợc hiểu biết đầy đủ về tác hại
và khả năng lây lan của cây TNTG cũng nh các biện pháp phòng trừ sớm khi
chúng đang còn mọc rải rác (Miller, 2002). Cần tăng cờng tuyên truyền, nâng cao
nhận thức của ngời dân về khả năng phát tán, các con đờng lây lan, tác động của
cây trinh nữ đến đời sống, kinh tế, xã hội và môi tr
ờng và những việc ngời dân có
thể làm hoặc tham gia đợc vào chiến lợc ngăn chặn sự lây lan của cây trinh nữ .
(4). Quản lý các vùng mẫn cảm: Một số vùng sinh thái phù hợp nhất
nh vùng trũng, thảm thực vật che phủ tha thờng dễ mẫn cảm hơn với cây
TNTG, vì vậy chúng cần đợc quản lý tốt bằng cách điều khiển thảm thực vật

để đảm bảo khả năng cạnh tranh với cây TNTG cũng nh phòng trừ sớm khi
chúng còn cha kịp xâm nhiễm ở mức cao.
(5). Hạn chế sự di chuyển của nguồn hạt từ những vùng đã bị xâm
nhiễm nặng ra bên ngoài: chủ động phòng trừ từ thợng nguồn các con sông
lớn ở các vùng đã bị nhiễm. Kiểm soát chặt chẽ và chủ động ngăn chặn các con
đờng lây lan và phát tán của cây trinh nữ thông qua những hoạt động của con

15
ngời nh phát tán nguồn hạt qua các phơng tiện giao thông, phân gia súc v.v.
từ vùng bị nhiễm sang vùng không bị nhiễm.
(6). Tận dụng mọi khả năng có thể để phủ kín mặt đất bằng các loài thực
vật thích hợp đặc biệt là các loài có khả năng che phủ mặt đất nhanh, cạnh tranh
tốt với hạt cỏ trong thời kỳ nảy mầm và cây con nh cỏ hoà thảo v.v.
(7). Tăng cờng huấn luyện
cho các nhà quản lý, chuyên môn, khuyến nông
và nông dân về sinh học sinh thái; phơng pháp điều tra xác định nguồn, khả năng
lây lan và các vùng mẫn cảm; biện pháp phòng trừ và chiến lợc giám sát lâu dài.
(8). Can thiệp sớm bằng các biện pháp phù hợp nh đào rễ và chôn lấp;
thu dọn và đốt quả, hạt; sử dụng hoá chất phun lên lá, gốc và phun lên đoạn
thân sau chặt; nhân thả các tác nhân sinh học v.v.
Việc tiến hành các biện pháp phù hợp để can thiệp sớm cây TNTG luôn
mang lại hiệu quả cao và triệt để nhất. Hầu hết các biện pháp phòng trừ đều có thể
đợc ứng dụng để ngăn chặn sự lan tràn của cây TNTG, song việc lựa chọn biện
pháp và qui mô ứng dụng phụ thuộc vào tình trạng xâm lấn, đặc thù của vùng bị
xâm lấn cũng nh hiệu quả của biện pháp. Các biện pháp thủ công, cơ giới, sinh
học, sinh thái nh thay đổi điều kiện sống có lợi cho cây sinh trởng và phát tán
hay trồng cây che phủ (Lonsdale et al, 1989, 1993) thờng đợc u tiên áp dụng
trớc khi mật độ thấp và cây còn bé. Khi đã có nguy cơ phát tán rộng lớn và gia
tăng mật độ, cần can thiệp sớm bằng việc sử dụng các thuốc hoá học có tính chọn
lọc cao và ở lợng thấp (Miller et al, 1992).

Tóm lại:
Do có khả năng sinh trởng và thích nghi cao, cây TNTG
đang đợc coi là một đối tợng cỏ dại nguy hiểm của nhiều Quốc gia đặc biệt
là các vùng nhiệt đới, vì vậy trên thế giới đã có những công trình nghiên cứu
khá toàn diện về tác hại, sinh học, vật hậu v.v. để tìm ra những biện pháp phòng
trừ chúng một cách có hiệu quả. Vấn đề đặt ra là cho đến nay vẫn không có
một biện pháp đơn lẻ nào mang lại hiệu quả triệt để về mặt kỹ thuật, kinh tế và
môi trờng. Các biện pháp phòng trừ thủ công, cơ giới hay sinh học đều rất tốn
kém và hiệu quả phòng trừ không cao. Biện pháp hoá học có thể mang lại hiệu
quả cao, chi phí thấp do đó đã đợc nhiều nớc trên thế giới ứng dụng. Tuy
nhiên, nếu không có sự quan tâm đầy đủ về giai đoạn sinh trởng, nồng độ, liều

16
lợng, hình thức và công cụ phun rải đối với từng vùng sinh thái cụ thể thì
không những không mang lại hiệu quả cao mà còn gây ra những tác động tiêu
cực đối với môi trờng và sức khoẻ con ngời. Vì vậy, việc nghiên cứu biện
pháp phòng trừ tổng hợp chúng đang đợc các các nớc quan tâm và ứng dụng
cho phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể của chính họ.
III.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nớc

nớc ta, cây TNTG còn đợc gọi là cây TNTG nhọn, cây mắt mèo, cây
xấu hổ, cây mai dơng. Tuy không có tài liệu nào công bố chính xác nhng theo
các nhà khoa học thì cây TNTG bắt đầu xâm nhập vào Việt Nam vào khoảng thập
kỷ 60. Do mức độ xâm nhiễm và gây hại đối với sản xuất nông, lâm nghiệp cha
lớn nên cho đến trớc năm 2000, các công trình nghiên cứu về cây TNTG ở Việt
Nam còn rất ít. Hầu nh cha có công trình nào quan tâm nghiên cứu sinh học,
sinh thái cũng nh đánh giá tầm quan trọng kinh tế và biện pháp phòng trừ cây
TNTG ở Việt Nam.
Trong các năm 1995-1997, với sự tài trợ của Trung Tâm nghiên cứu Nông nghiệp
quốc tế

ú
c (ACIAR), Viện Bảo vệ thực vật đã hợp tác với tổ chức nghiên cứu khoa học
công nghệ úc (CSIRO) tiến hành một số điều tra và nghiên cứu về cây TNTG.
Theo kết quả nghiên cứu của Viện Bảo vệ thực vật cho thấy cây TNTG có
mặt ở hầu hết các tỉnh từ miền Núi đến Đồng Bằng.

miền Bắc, mức độ phổ biến
ít và phân tán ở các tỉnh Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Yên Bái, Hoà Bình, Hà
Tây, Hải Dơng, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Giang. ở miền Trung,
cây cũng phân bố rải rác. Riêng 8 tỉnh Nam Trung Bộ có khoảng 680 ha bị nhiễm
cây TNTG.

miền Nam, diện tích trinh nữ bị nhiễm nặng tập trung ở vùng lòng
hồ Trị An (khoảng 7.000 ha), lu vực sông La Ngà (hàng trăm ha) và các tỉnh
Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang. Hàng năm, vào mùa lũ hạt trinh nữ
trôi từ Campuchia, Lào sang vùng đồng bằng sông Cửu Long, khi nớc rút, hạt
nảy mầm và mọc khắp nơi.
Cũng trong khuôn khổ của dự án này, Viện Bảo vệ thực vật đã tiến hành
nghiên cứu biện pháp sinh học trừ cây TNTG. Đã nhập nội 4 tác nhân sinh học
gồm một loài đục thân (Carmenta mimosae), hai loài mọt đục hạt

17
(Acanthoscelides quadridentatus, A. puniceus) và một loài nấm gây đốm lá
(Phlocospora mimosae-pigrae). Đã tiến hành nhân nuôi cách ly trong phòng kín
và đánh giá tính chuyên hoá ký chủ của tác nhân sinh học nội nhập. Kết quả cho
thấy, các tác nhân sinh học nhập nội đều có tính chuyên hoá ký chủ cao. Đợc
phép của các cơ quan chức năng, loài đục thân trinh nữ (Carmenta mimosae) đã
đợc thả thử tại nhiều điểm có trinh nữ thân gỗ nh Sóc Sơn (Hà Nội), Đồng Mô
(Hà Tây), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Quế Võ (Bắc Ninh), La Ngà (Đồng Nai). ở một
số nơi thả đã thấy hình thành quần thể sâu đục thân trinh nữ, có nơi tỷ lệ đục thân

tới 50-80%. (Nguyen Van Cam, Pham Van Lam et al, 1997).
Trong những năm gần đây, cây trinh nữ phát triển khá nhanh ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long. Chúng mọc dày tạo thành những vành đai rộng lớn và trở
thành đối tợng cỏ dại nguy hiểm khó phòng trừ, gây ảnh hởng lớn cho sản xuất
nông nghiệp, ảnh hởng tới cảnh quan và môi trờng.
Theo báo cáo của Chi cục BVTV Đồng Tháp thì trớc 1980, cây TNTG chỉ
xuất hiện ở hai huyện Tân Hồng và Hồng Ngự. Từ 1981 1985, cây xuất hiện rải rác
ở Tam Nông và Thanh Bình nhng mới từ 1991 đến nay, cây mọc nhiều và xâm lấn
nhiều vùng đất trống thuộc huyện Tam Nông.
Tại vờn Quốc gia Tràm Chim (Đồng Tháp), là rừng tràm ngập nớc,
cây trinh nữ thân gỗ đã xâm nhiễm ở mức độ nghiêm trọng, tốc độ lây lan rất
nhanh. Trong năm 1999 chỉ có khoảng 150 ha bị nhiễm, đến tháng 5/ 2000 đã
lên tới 490 ha, cuối 2001 tới gần 1.000 ha.
Trớc nguy cơ gia tăng mức độ xâm lấn và gây hại của cây TNTG, trong
năm 2000, Trờng Đại học Khoa Học Tự Nhiên TP. Hồ Chí Minh và Trờng Đại
học Cần Thơ đã phối hợp với vờn Quốc gia Tràm Chim bắt đầu điều tra mức độ
phát sinh, gây hại và đề xuất một số biện pháp phòng trừ cây TNTG. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, cây TNTG phân bố rải rác ở hầu hết cả 5 khu A1, A2, A3, A4
và A5 của vờn Tràm Chim. Trong vờn Tràm Chim, khu A2, A4 và A5 bị xâm lấn
khá nặng, đặc biệt ở khu A5, cây TNTG mọc tập trung thành bãi, xen lẫn giữa các
cây to cao (2-3 năm tuổi) với các cây mới mọc. Diện tích bị xâm nhiễm lớn hơn
diện tích các dải đất trống. Độ che phủ khoảng hơn 60%. Các cây mới phát tán

18
thờng mọc ở những nơi nớc cạn hơn, không bị che bóng, mọc ở các vùng đất
trống, vì vậy diện tích bị xâm lấn tăng rất nhanh.
Về tác hại của cây TNTG ở Tràm Chim: Phần lớn vờn Quốc gia Tràm
Chim là diện tích tràm ngập nớc, diện tích khoảng trống còn lại là nơi sinh sống của
nhiều loài cỏ dại có khả năng tồn tại trong điều kiện ngập nớc thuộc các họ hoà thảo
(

Poaceae)
và cói lác (
Cyperaceae)
nh sậy, cỏ lông, cỏ lác
Cyperus
sp
.
cũng nh
một số cỏ lá rộng nh bèo cái, bèo tây, dừa nớc v.v Đồng cỏ năng là bãi ăn nghỉ
của nhiều loài sinh vật quý hiếm trong đó có loài sếu đầu đỏ Grus antigone sharpii là
loài chim quý của Việt Nam và thế giới. Từ khi có sự xâm lấn của cây TNTG, thảm
thực vật bản địa có sự thay đổi, đặc biệt là cỏ họ Cyperaceae. Những nơi bị cây
TNTG xâm lấn hoàn toàn (100% diện tích che phủ) thì không có loài thực vật nào
khác mọc đợc dới gốc của nó ngoại trừ hai loài cây dây leo là cây hắc sửu
(Merreemia hederacea) và rau kìm (Aniseia martinicensis). Do thảm thực vật bị thay
đổi, số lợng chim quây tụ ở đây giảm hẳn (Nguyễn Văn Đúng và CTV, 2001). Kết
quả thử nghiệm bớc đầu về một số biện pháp cơ giới phòng trừ cây TNTG cũng cho
thấy: các biện pháp nh chặt, đốt, chặt kết hợp với đốt đều cho hiệu quả nh nhau và
chỉ làm giảm mật độ, sinh khối và diện tích che phủ ngay sau mỗi lần xử lý, không
có tác dụng diệt triệt để, sau đó cây lại mọc tái sinh mạnh hơn. Nếu sau khi chặt có
điều kiện ngâm ngập lũ thì hiệu quả có thể kéo dài hơn, sau 4-5 tháng cây mới mọc
tái sinh trở lại (nghĩa là sau 1 mùa nớc ngập). Tuy các biện pháp không cần những
công cụ hiện đại cũng nh không đòi hỏi kỹ năng cao nhng đều rất tốn kém do phải
chi một lợng công lao động khá lớn. Chi phí cho biện pháp chặt là thấp nhất, sau đó
đến biện pháp đốt và cao nhất là biện pháp chặt kết hợp với đốt.
Trớc thực trạng lây lan và xâm lấn mạnh mẽ của cây TNTG, trong 2
năm 2001-2002, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã giao cho Viện Bảo vệ thực vật
thực hiện đề tài nghiên cứu: Điều tra, đánh giá mức độ tác hại của cây TNTG
(Mimosa pigra) tại các vờn Quốc gia Tràm chim và Nam cát tiên và đề xuất
các giải pháp nghiên cứu phòng trừ

.

Mục tiêu chủ yếu của đề tài là xác định đợc tình hình xâm nhiễm, khả
năng gây hại, một số đặc điểm sinh học sinh thái chủ yếu của cây TNTG ở điều

19
kiện Việt Nam và thăm dò khả năng phòng trừ chúng bằng các biện pháp khác
nhau. Trên cơ sở đó đề xuất chiến lợc nghiên cứu phòng trừ cây TNTG có tính
khả thi cao trong điều kiện của các vờn Quốc gia.
Các nội dung nghiên cứu cơ bản bao gồm:
+
Điều tra tình hình phân bố, hiện trạng xâm lấn và mức độ gây hại
của cây TNTG tại vờn quốc gia Tràm Chim và Nam Cát Tiên.
+ Tìm hiểu một số đặc điểm sinh vật học và sinh thái học cơ bản của
cây TNTG ở điều kiện Việt Nam.
+ Bớc đầu tìm hiểu khả năng phòng trừ cây TNTG bằng các biện pháp thủ
công, cơ giới, hoá học và sinh học phù hợp với điều kiện của các vờn Quốc Gia.

Các kết quả nghiên cứu đã khẳng định
- Nguy cơ xâm lấn của cây TNTG đang ngày càng gia tăng ở vờn Quốc
gia Tràm Chim và Nam Cát Tiên, vùng lòng Hồ Trị An, lu vực sông La Ngà và
nhiều nơi khác ở đồng bằng sông Cửu Long. Riêng ở Tràm Chim, diện tích bị
nhiễm cây TNTG cho đến nay đã xấp xỉ gần 2000 ha. Tại những vùng bị nhiễm
cao, mật độ có thể lên tới 7- 8 cây/ m
2
và diện tích che phủ lên tới 100%.
Tại vờn Quốc gia Nam Cát tiên, cây TNTG đã lây lan nhanh và hiện
nay đã xâm lấn toàn bộ khoảng 50 ha diện tích mặt nớc của Bầu chim là nơi
sinh sống của các loài thực vật họ cói lác Cyperaceae và hoà thảo Poaeae.
Ngoài ra cây còn mọc rải rác khắp vùng đệm thuộc huyện Cát Lộc với diện tích

hàng nghìn ha và vùng lòng hồ trị an khoảng gần 10.000ha. Tại những vùng bị cây
TNTG xâm lấn, hệ động thực vật bản địa bị suy giảm nghiêm trọng, ảnh hởng tới
đa dạng sinh học của các vờn Quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên. Sự gia tăng
mật độ của cây TNTG cũng đang biến nhiều vùng đất canh tác thành đất hoang
hoá (Phạm Văn Lầm, Nguyễn Hồng Sơn và CTV, 2002).
- Các biện pháp phòng trừ đơn lẻ đều không mang lại hiệu quả cao. Các biện
pháp thủ công nh chặt, đốt, chặt kết hợp với đốt đều không cho hiệu quả triệt để.
Sau khi chặt hay chặt rồi đốt từ 2 tuần đến 1 tháng, các gốc cây đều có chồi mọc lại,
cây mọc nhiều chồi, chồi to và phát triển mạnh hơn. Sau khi mọc 1 tháng có chồi đã
cao tới 1m. Do đó mật độ cây mọc lại đạt xấp xỉ 50% mật độ cây trớc xử lý. Kết quả

20
cũng cho thấy, biện pháp đốt mà không chặt cho hiệu quả thấp nhất. Đặc biệt quá
trình đốt không chỉ không có khả năng hạn chế tái sinh và sinh trởng của mầm mà
còn kích thích cho hạt nảy mầm mạnh hơn, cha kể đến nguy cơ gây cháy rừng.

Về chi phí
: c
hi phí về công lao động cho biện pháp chặt + đốt là cao nhất
(130 công/ ha). Biện pháp đốt tuy không phải mất công chặt nhng phải chi phí
công dọn đờng băng và canh phòng chống lửa lan khi đốt nên chi phí cũng khá
cao (95 công/ ha). Biện pháp chặt tốn ít công nhất (60 công/ ha). Với giá trị công
lao động là 30.000đ/ công, chi phí cho biện pháp chặt là 2.020.000 đ, biện pháp
đốt là 5.020.000 đ và biện pháp chặt kết hợp với đốt là 6.100.000đ, cha tính công
cụ và bảo hộ lao động (Phạm Văn Lầm, Nguyễn Hồng Sơn và CTV).
Qua quá trình thực hiện đề tài, các tác giả cũng đã xác định đợc hai hoạt
chất trừ cỏ có hiệu lực cao đối với cây TNTG là Glyphosate và Metsulfuron
Methyl.
Trong đó Glyphosate là thuốc huỷ diệt, khi sử dụng ở lợng tơng đơng
với lợng dùng trong sản xuất nông nghiệp thuốc có thể diệt triệt để trên 90% cây

1 năm tuổi, còn với cây 2 và 3 năm, phải tăng lợng dùng lên gấp 1,5 lần. Sau khi
dùng thuốc 18 tháng vẫn không có cây con mọc trở lên. Tuy nhiên đây là loại
thuốc huỷ diệt toàn bộ nên đã tiêu huỷ toàn bộ thảm thực vật, sau 6 -10 tháng mới
khôi phục trở lại. Viện cũng đã chọn đợc 1 loại thuốc chọn lọc chỉ trừ các loài cỏ
lá rộng, không trừ cỏ hoà thảo và cói lác đó là Ally 20DF có khả năng trừ cây
trinh nữ. Khi phun vào giai đoạn cây đã già hiệu lực của thuốc rất thấp, nhng khi
phun ở nồng độ từ 0,022 đến 0,03% vào 20 ngày sau chặt cho hiệu quả rất cao đối
với các mầm mới mọc tái sinh.
Nh vậy có thể sử dụng thuốc này kết hợp với biện pháp thủ công để
tăng hiệu quả phòng trừ hay sử dụng để trừ cây con khi mới mọc
. Chi phí cho
việc dùng thuốc hoá học giảm rõ rệt so với khi áp dụng các biện pháp thủ công.
Nh vậy sau ba năm thực hiện, đề tài đã bớc đầu xác định đ
ợc:
+ Nguy cơ lan rộng và mức độ xâm lấn của cây TNTG tại vờn
quốc gia Tràm Chim và Cát Tiên
+ Một số đặc điểm sinh học, sinh thái cơ bản của cây TNTG
+ Xác định đợc hiệu quả của một số biện pháp phòng trừ nh thủ
công, cơ giới, sinh học và hoá học.

21
Tuy nhiên, để có thể đề ra đợc các giải pháp ngăn chặn và phòng
trừ hiệu quả cây TNTG phù hợp với điều kiện cụ thể ở các vờn quốc gia
và các khu vực mẫn cảm khác trong cả nớc cần có những nghiên cứu bổ
sung sau.
(1). Tiếp tục điều tra về đặc điểm xâm lấn, nguồn xâm nhiễm và lây
lan ban đầu (thông qua xác định nguồn hạt), các khu vực mẫn cảm đối với cây
TNTG tại các vờn Quốc gia để có thể đề xuất đợc giải pháp ngăn chặn sự
lây lan tiếp tục cũng nh các biện pháp xử lý phù hợp với từng vùng.
(2). Tiếp tục mở rộng điều tra về thực trạng, đặc điểm xâm lấn và nguồn

lây lan của cây TNTG ở các khu vực mẫn cảm khác trong cả nớc nh: lu vực
sông La Ngà, sông Mêkông, sông Đà, sông Chảy, Hoà Bình và Thác Bà để xác
định mối liên quan giữa các lu vực sông lớn với các vờn Quốc gia hay vùng
lòng hồ đồng thời đề xuất đợc các giải pháp ngăn chặn kịp thời trớc khi chúng
lan tràn sang các vùng khác hay lan tràn sang đất canh tác.
(3). Nghiên cứu bổ sung một số đặc điểm sinh học, sinh thái quan trọng
của cây TNTG nh: ảnh hởng của các yếu tố nhiệt, ẩm độ, đất đai đến khả năng
nảy mầm, sinh trởng và phát triển của cây; khả năng phát tán, sinh trởng, phát
triển của cây TNTG ở các điều kiện sinh thái khác nhau đặc biệt là so sánh giữa
những vùng ngập nớc với vùng khô cạn, vùng đất canh tác thờng xuyên với vùng
hoang hoá, các vùng đất khác nhau về thành phần cơ giới và dinh dỡng v.v. Từ
đó đánh giá những yếu tố thuận lợi hay bất lợi cho sự lây lan, phát triển của cây
trinh nữ thân gỗ để có hớng kiểm soát chúng.
(4). Do hạn chế về thời gian và kinh phí, các kết quả nghiên cứu
phòng trừ đều mới chỉ dừng lại ở quy mô ô nhỏ, cha có đủ quá trình lặp
lại về không gian và thời gian do đó cha thể đánh giá đợc đầy đủ tác
động tiêu cực và tính khả thi của từng biện pháp đặc biệt là biện pháp sử
dụng thuốc trừ cỏ khi triển khai trên diện rộng. Vì vậy, cần tiến hành các
thí nghiệm bổ sung, các trình diễn trên diện rộng để đánh giá đầy đủ về
hiệu quả kỹ thuật, kinh tế, xã hội và sinh thái của từng biện pháp khi triển
khai trên diện rộng. Mặt khác, cũng cần xác định khả năng ứng dụng kết

22
hợp giữa các biện pháp với nhau để vừa đạt mục tiêu hạn chế sự gia tăng
quần thể vừa ngăn chặn sự xâm nhiễm và lây lan tiếp tục của cây TNTG ở
các vờn Quốc gia, các khu bảo tồn bị xâm nhiễm nặng.
Tóm lại:
Mặc dù mới xuất hiện ở Việt Nam trong vòng gần 40 năm,
song mức độ gia tăng quần thể, xâm lấn và gây hại của cây TNTG ở nớc ta là
không nhỏ. Theo kinh nghiệm của các nớc trên thế giới, nếu không đợc ngăn

chặn kịp thời, mức độ xâm lấn sẽ trở nên trầm trọng hơn và khi đó khó tìm ra
giải pháp phòng trừ hiệu quả. Trong khi đó, các công trình nghiên cứu về cây
TNTG ở nớc ta còn quá khiêm tốn so với các nớc trên thế giới. Một số đề tài
nghiên cứu do Bộ Nông nghiệp và PTNT thực hiện tuy bớc đầu đã đạt đợc
những kết quả khả quan, tạo tiền đề quan trọng cho việc định hớng các nghiên
cứu và ứng dụng tiếp theo để ngăn chặn sự xâm lấn của cây TNTG ở nớc ta.
Tuy nhiên, để có thể ứng dụng thành công các kết quả đó khi triển khai
trên diện rộng cần có những nghiên cứu bổ sung để đánh giá toàn diện về
hiệu quả kỹ thuật, kinh tế, xã hội cũng nh những tác động về mặt môi
trờng có liên quan, đặc biệt là đánh giá tác động của thuốc trừ cỏ đến
nguồn nớc, đất đai, hệ vi sinh vật đất và các sinh vật có ích trong hệ sinh
thái. Bên cạnh đó cũng cần đề ra biện pháp phòng trừ tổng hợp để ngăn
chặn một cách có hiệu quả và quản lý bền vững cây TNTG đối với từng
vùng sinh thái cụ thể ở nớc ta.
Trong khi cây TNTG vẫn tiếp tục phát triển
và có nguy cơ lan rộng không chỉ trong phạm vi các vờn Quốc gia, các khu vực
hoang hoá mà còn lan sang cả các vùng đất sản xuất nông lâm nghiệp ở các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long, khu vực đông Nam bộ và các khu vực khác ở miền
Trung và Bắc bộ, việc đặt vấn đề nghiên cứu các biện pháp phòng trừ cũng nh
kiểm soát sự phát triển và thiệt hại do cây TNTG gây ra là rất cần thiết.

IV. Địa điểm, nội dung và phơng pháp nghiên cứu

IV.1. Địa điểm:
Các thí nghiệm đợc tiến hành tại hồ Hoà Bình, lòng hồ Thác
Bà, lu vực sông La Ngà, Vờn quốc gia Tràm Chim, Cát Tiên và một số vùng
đệm gần với các Vờn quốc gia trên.

23
IV.2. Nội dung nghiên cứu



1. Điều tra bổ sung về hiện trạng xâm lấn, đặc điểm phân bố và tác
hại của cây TNTG ở vờn Quốc gia Tràm Chim, Nam Cát Tiên và mở rộng
phạm vi điều tra tại vờn Quốc gia U Minh thợng, U Minh hạ và một số vùng
sinh thái mẫn cảm (bao gồm lu vực các sông lớn nh: sông Mê Kông, sông La
Ngà, sông Đà, sông Chảy; các vùng lòng hồ nh hồ Trị An, Hoà Bình, Thác Bà
và các vùng đất hoang hoá nằm trong vùng đệm của các vờn quốc gia hay
tuyến bảo vệ của các con sông nói trên).
2. Xác định nguồn và cơ chế phát tán của cây TNTG cũng nh tìm
hiểu các yếu tố sinh thái có ảnh hởng đến sự lây lan và phát triển của chúng ở
từng vùng sinh thái nêu trên
3. Nghiên cứu bổ sung một số đặc điểm sinh học, sinh thái quan trọng
của cây trinh nữ thân gỗ ở điều kiện Việt Nam nh đặc tính ngủ nghỉ, nảy mầm và
mức độ ảnh hởng của một yếu tố sinh thái chính nh nhiệt độ, ẩm độ đất, mực
nớc, loại đất, thành phần cơ giới đất, khả năng cạnh tranh của các loài cỏ dại đến
khả năng nảy mầm, sinh trởng và phát triển của cây TNTG.
4. Đánh giá hiệu quả kỹ thuật, kinh tế và tác động môi trờng của
các biện pháp phòng trừ cây trinh nữ thân gỗ nh: thủ công cơ giới (chặt, nhổ,
đốt, chặt + đốt, chặt ngâm ngập lụt) sinh học (gieo các loài cỏ dại cạnh tranh có
trong hệ sinh thái của các vờn Quốc gia hay trồng cây tràm úc để che bóng ở
một số vùng lòng hồ), hoá học (sử dụng các thuốc trừ cỏ huỷ diệt và chọn lọc)
và thủ công kết hợp với hoá học tại vờn Quốc gia Tràm Chim, Cát Tiên, lu
vực sông La Ngà, lòng hồ Hoà Bình và Thác Bà.
5. Xây dựng 5 mô hình trình diễn các biện pháp phòng trừ cây
TNTG bao gồm: (1) các biện pháp đơn lẻ: chặt; nhổ; đốt; phun thuốc Roundup
48EC để huỷ diệt cây trởng thành; phun Ally 20DF để diệt cây con mới mọc
và (2) các biện pháp phối hợp: chặt + đốt; chặt + phun thuốc trừ cỏ chọn lọc;
chặt + phun thuốc trừ cỏ huỷ diệt; chặt sau đó ngâm ngập lũ; trồng cây cạnh
tranh + phun thuốc trừ cỏ chọn lọc và trồng cây che bóng + phun thuốc trừ cỏ

chọn lọc tại 2 vờn Quốc gia và 3 vùng lòng hồ hay lu vực các sông lớn.

24
IV.3. Phơng pháp nghiên cứu

* Phơng pháp nghiên cứu và các kỹ thuật sử dụng:
(1). Phơng pháp điều tra và đánh giá thực trạng xâm lấn của cây TNTG:
Tiến hành điều tra trực tiếp trên thực địa kết hợp với phỏng vấn nông dân (PRA) ở
các vờn Quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên và những vùng sinh thái trọng
điểm để nắm đợc diễn biến và diện tích xâm nhiễm hiện tại, đặc điểm phân bố và
tác hại của cây TNTG cũng nh những biện pháp mà nông dân đã sử dụng để
kiểm soát chúng. Việc điều tra cần đợc tiến hành vào trớc và sau mỗi mùa ma
tại các vùng đại diện cho các vờn Quốc gia, các khu bảo tồn, lòng hồ và lu vực
các con sông lớn. Ngoài ra có thể áp dụng phơng pháp thu thập số liệu thứ cấp
qua báo cáo của các địa phơng và các vờn Quốc gia.
(2). Nghiên cứu sinh học của cây TNTG: đợc tiến hành theo phơng
pháp nghiên cứu sinh học của thực vật nói chung và của cỏ dại nói riêng thông
qua kỹ thuật quan sát và đo đếm các chỉ tiêu sinh vật học cơ bản nh tốc độ
tăng trởng chiều cao, tốc độ ra lá, phân nhánh, diện tích che phủ, đờng kính
thân, khả năng sinh sản, đặc điểm ngủ nghỉ và sức sống của hạt trong đất
v.vĐặc biệt chú trọng đến phơng pháp lấy phẫu diện để điều tra nguồn hạt
trong đất, từ đó xác định đặc điểm và nguồn lây lan của cây TNTG.
(3). Các nghiên cứu về sinh thái học đợc tiến hành thông qua đánh giá khả năng
phát tán, sinh trởng, phát triển của cây TNTG ở các vị trí có những đặc điểm sinh thái
khác nhau đặc biệt là so sánh giữa những vùng ngập nớc với vùng khô cạn, vùng đất
canh tác thờng xuyên với vùng hoang hoá, các vùng đất khác nhau về thành phần cơ
giới và dinh dỡng v.v. Từ đó đánh giá những yếu tố thuận lợi hay bất lợi cho sự lây
lan, phát triển của cây trinh nữ thân gỗ để có hớng kiểm soát chúng.
(4). Nghiên cứu về các biện pháp phòng trừ cây TNTG đ
ợc tiến hành thông

qua các thí nghiệm diện rộng không nhắc lại với diện tích từ 2000 3.000m
2
(tuỳ
vào nội dung của từng thí nghiệm) để đủ cho việc đánh giá hiệu quả kỹ thuật, kinh
tế đặc biệt là tác động về mặt môi trờng.
* Các nghiên cứu cũng đợc tiến hành tại những vùng đại diện (vờn
Quốc gia, đất hoang hoá, đất canh tác ven sông, đất canh tác trên cạn v.v ) các
tuổi cây (cây con, cây 1, 2, 3 và 4 năm tuổi trở lên) và mức độ xâm nhiễm khác

×