MỐI QUAN HỆ GIỮA LUẬT HỘ TỊCH VỚI LUẬT HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHẾ
ĐỊNH HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH ĐẾN DỰ ÁN LUẬT HỘ
TỊCH [1]
NGUYỄN HỒNG HẢI – Vụ Pháp luật dân sự – kinh tế, Bộ Tư pháp
1. Về mối quan hệ giữa Luật Hộ tịch với Luật HN-GĐ
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Luật HN-GĐ), phạm vi điều chỉnh
của Luật HN-GĐ là quy định chế độ hôn nhân và gia đình, trách nhiệm của công dân, Nhà
nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam (Điều 1).
Theo dự thảo Luật Hộ tịch, phạm vi điều chỉnh của Luật Hộ tịch là quy định nguyên tắc, thẩm
quyền, thủ tục đăng ký hộ tịch; quyền và nghĩa vụ của cá nhân, cơ sở dữ liệu điện tử; thống kê
hộ tịch và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quan lý nhà nước về hộ tịch (Điều 1).
Như vậy, việc xác định phạm vi của Luật Hộ tịch trong mối quan hệ với Luật HN-GĐ là rất
cần thiết nhằm phân định rõ ràng hơn những nội dung, vấn đề cần được quy định, giải quyết
ngay trong Luật Hộ tịch cũng như trong Luật HN-GĐ cho phù hợp với thực tiễn và trong bối
cảnh giữa hai luật có những điểm chung, giao thoa và gắn kết với nhau.
Về quan hệ giữa hai Luật, có thể tiếp cận theo hai phương diện:
- Thứ nhất, trên phương diện luật nội dung và luật hình thức, Luật HN-GĐ quy định về các
quyền, nghĩa vụ về hôn nhân và gia đình và Luật Hộ tịch quy định thủ tục đăng ký hộ tịch
nhằm tôn trọng và bảo đảm các quyền, nghĩa vụ đó. Ở phương diện này, xét về kỹ thuật lập
pháp, những quy định về thẩm quyền, thủ tục đăng ký hộ tịch liên quan đến các quan hệ hôn
nhân và gia đình cần được quy định trong Luật Hộ tịch không quy định trong Luật HN-GĐ,
đồng thời cũng không đưa vào trong Luật Hộ tịch những quy định về các quyền, nghĩa vụ của
cá nhân trong các quan hệ hôn nhân và gia đình. Ví dụ, Luật HN-GĐ quy định quyền kết hôn
và các điều kiện kết hôn, Luật Hộ tịch quy định về thẩm quyền, thủ tục đăng ký kết hôn.
Quy định như vậy sẽ đảm bảo xác định được rõ ràng, cụ thể phạm vi điều chỉnh của hai luật,
đồng bộ, thống nhất trong quy định về quyền, nghĩa vụ hôn nhân và gia đình, các quy định về
đăng ký hộ tịch và quản lý nhà nước về hộ tịch cũng có sự đồng bộ, thống nhất hơn.
Tuy nhiên, nếu thuần túy trên phương diện luật nội dung và luật hình thức để xác định quy
định nào đưa vào luật nào cũng có điểm cần cân nhắc, bởi vì việc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền công nhận và đăng ký một quyền về hôn nhân và gia đình không đơn giản là một thủ tục
mà nó thuộc nội dung quyền của cá nhân. Mặt khác, nếu Luật Hộ tịch thuần túy chỉ quy định
về thẩm quyền, thủ tục thì cũng chưa đảm bảo hết vị trí của Luật Hộ tịch là đạo luật trực tiếp
liên quan đến phạm trù quyền con người, quyền công dân nói chung, quyền về hôn nhân và gia
đình nói riêng.
- Thứ hai, trên phương diện luật chung và luật riêng, Luật HN-GĐ là luật chung quy định về
chế độ hôn nhân và gia đình, trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây
dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam, còn Luật Hộ tịch là luật riêng quy định
về thẩm quyền, nguyên tắc, thủ tục đăng ký hộ tịch trong các quan hệ hôn nhân và gia đình. Ở
phương diện này, giữa hai Luật có những điểm chung, sự giao thoa và gắn kết với nhau tương
đối rõ nét. Luật HN-GĐ vẫn có các quy định có tính nguyên tắc về trách nhiệm của Nhà nước,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nghi thức trong đăng ký hộ tịch về hôn nhân và gia đình,
Luật Hộ tịch sẽ cụ thể hóa các quy định có tính nguyên tắc trên của Luật HN-GĐ, đồng thời
quy định cụ thể về thủ tục đăng ký hộ tịch về hôn nhân và gia đình thuộc lĩnh vực quản lý nhà
nước về hộ tịch. Trong áp dụng pháp luật về đăng ký hộ tịch, các quy định của Luật Hộ tịch
được ưu tiên áp dụng, quy định có tính nguyên tắc của Luật HN-GĐ được áp dụng khi Luật Hộ
tịch không có quy định.
Quy định như vậy sẽ đảm bảo được sự đồng bộ trong một thể thống nhất về quy định quyền và
cơ chế bảo đảm công nhận, thực thi quyền về hôn nhân và gia đình.
Tuy nhiên, với yêu cầu của việc hoàn thiện thể chế, góp phần khắc phục những hạn chế, bất
cập, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất, có hiệu lực cao cho công tác đăng ký và quản lý hộ
tịch, từ đó tạo chuyển biến cơ bản, từng bước chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa công tác quản lý
và đăng ký hộ tịch, Luật Hộ tịch cũng cần có những nội dung, quy định mang tính đột phá.
Những quy định này phải vượt lên một số quy định hiện thời của Luật HN-GĐ và các luật nội
dung khác có liên quan chưa thực sự theo kịp với yêu cầu cuộc sống, đặc biệt là chưa đáp ứng
được yêu cầu cải cách hành chính, tôn trọng và bảo đảm tốt hơn các quyền nhân thân của cá
nhân, trong đó có các quyền về hôn nhân và gia đình.
Theo cách tiếp cận đó, với tư cách là luật riêng, Luật Hộ tịch hoàn toàn có thể quy định những
nội dung mà Luật HN-GĐ và các luật nội dung khác chưa quy định hoặc đã quy định nhưng
không còn phù hợp với điều kiện thực tiễn hiện nay, nếu chờ để sửa đổi, bổ sung các luật nội
dung thì sẽ chậm và không đồng bộ với dự án Luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân. Ví dụ: (1) Đối với kết hôn giữa công dân Việt Nam tại Việt Nam, dự thảo Luật Hộ
tịch quy định Ủy ban nhân dân cấp xã nơi quản lý Sổ Bộ hộ tịch hoặc nơi cư trú của một trong
hai bên nam, nữ có thẩm quyền giải quyết việc đăng ký kết hôn (Luật HN-GĐ chỉ quy định cơ
quan có thẩm quyền là Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ); (2)
Đối với kết hôn có yếu tố nước ngoài, dự thảo Luật Hộ tịch đã có sự đột phá khi quy định thẩm
quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã và Ủy ban nhân
dân cấp xã có trách nhiệm lấy ý kiến bằng văn bản của Ủy ban nhân dân cấp Huyện về việc
đăng ký kết hôn (Luật HN-GĐ quy định thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài
thuộc về Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương).
Với phân tích như trên, theo quan điểm của chúng tôi, khi xây dựng Luật Hộ tịch cần xem xét
mối quan hệ giữa Luật này với Luật HN-GĐ và các luật nội dung khác trên cả hai phương
diện: Luật Hộ tịch là luật hình thức, đồng thời cũng là luật riêng của luật nội dung. Tiếp cận
như vậy sẽ đạt được các mục tiêu: (1) đảm bảo xác định được rõ ràng, cụ thể phạm vi điều
chỉnh của hai luật; (2) đảm bảo được sự đồng bộ trong một thể thống nhất về quy định quyền
và cơ chế bảo đảm công nhận, thực thi quyền về hôn nhân và gia đình, khắc phục được những
bất cập, hạn chế trong quy định của Luật HN-GĐ không còn phù hợp với điều kiện thực tiễn
hiện nay; (3) tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất, có hiệu lực cao cho công tác đăng ký và
quản lý hộ tịch, từ đó tạo chuyển biến cơ bản, từng bước chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa công
tác quản lý và đăng ký hộ tịch.
2. Về tác động của các chế định hôn nhân và gia đình đến dự án Luật Hộ tịch
2.1. Chế định kết hôn và đăng ký kết hôn (Điều 8 – Điều 17 Luật HN-GĐ năm 2000)
* Kết hôn và đăng ký kết hôn theo quy định của Luật HN-GĐ
Kết hôn theo quy định của Luật HN-GĐ là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy
định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn (khoản 2 Điều 8). Như vậy, việc kết
hôn chỉ có giá trị về pháp lý khi việc kết hôn được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền (khoản 1 Điều 11) và không vi phạm các điều kiện kết hôn theo luật định (Điều 9 và
Điều 10). Trong đó, đăng ký kết hôn vừa là quyền của cá nhân đối với Nhà nước về hợp thức
hóa việc kết hôn của mình, vừa là thủ tục do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thực
hiện, các bên kết hôn phải tuân thủ để để hợp thức hóa việc kết hôn của họ.
Các nước trên thế giới tùy theo đặc thù của hệ thống pháp luật quốc gia, quy định về đăng ký
kết hôn trong Bộ luật Dân sự, Luật HN-GĐ hoặc trong văn bản luật riêng về hộ tịch, nhưng
nhìn chung có hai nghi thức đăng ký kết hôn được thừa nhận: nghi thức dân sự (do cơ quan nhà
nước thực hiện – được áp dụng ở hầu hết các quốc gia) và nghi thức tôn giáo (do nhà thờ được
nhà nước cấp phép thực hiện – phổ biến ở các nước có quốc giáo là đạo cơ đốc). Ngoài ra, ở
những nước thừa nhận hôn nhân thực tế (chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn
theo nghi thức luật định) thì nghi thức kết hôn theo truyền thống, tập quán cũng có thể là căn
cứ để Tòa án xem xét tính hợp pháp của hôn nhân. Dù có khác biệt về nghi thức đăng ký kết
hôn, nhưng một điểm chung giữa các quốc gia là việc tuân thủ các điều kiện kết hôn là một yêu
cầu nghiêm ngặt đối với các bên kết hôn để đảm bảo việc kết hôn không trái pháp luật.
Luật HN-GĐ Việt Nam quy định nghi thức dân sự (đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền) là nghi thức đăng ký kết hôn duy nhất được thừa nhận, việc kết hôn theo nghi
thức tôn giáo hoặc theo nghi thức truyền thống được tôn trọng về tín ngưỡng, văn hóa và đạo
đức, nhưng không có giá trị về pháp lý (khoản 1 Điều 11). Trong trường hợp việc kết hôn được
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng vi phạm một trong các điều kiện kết hôn
theo luật định thì việc kết hôn đó là trái pháp luật và có thể bị tòa án xử hủy (khoản 3 Điều 8 và
Điều 16).
Về thẩm quyền đăng ký kết hôn, Điều 12 Luật HN-GĐ quy định: “Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn. Cơ quan
đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan đăng ký kết hôn giữa
công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài”. Về thủ tục đăng ký kết hôn, Điều 13 Luật này quy
định: “1. Sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật về hộ tịch, cơ quan đăng
ký kết hôn kiểm tra hồ sơ đăng ký kết hôn; nếu xét thấy hai bên nam nữ có đủ điều kiện kết hôn
thì cơ quan đăng ký kết hôn tổ chức đăng ký kết hôn.
2. Trong trường hợp một bên hoặc cả hai bên không đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký
kết hôn từ chối đăng ký và giải thích rõ lý do bằng văn bản; nếu người bị từ chối không đồng ý
thì có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật”.
Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký
kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại
diện cơ quan đăng ký kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên (Điều 14).
* Tác động đến dự án Luật Hộ tịch
Qua các quy định của Luật HN-GĐ về kết hôn và đăng ký kết hôn, có thể đưa ra những tác
động:
- Thứ nhất, nguyên tắc tự nguyện trong kết hôn phải được tôn trọng và bảo đảm trong các quy
định của Luật Hộ tịch, không quy định những thủ tục làm cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.
Đánh giá: Dự thảo Luật Hộ tịch đã đáp ứng tốt yêu cầu này khi quy định nguyên tắc đầu tiên
trong đăng ký hộ tịch là tôn trọng và bảo đảm quyền nhân thân của cá nhân; quy định về
quyền, nghĩa vụ; bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ đăng ký hộ tịch của cá nhân; các hành vi
bị nghiêm cấm trong đăng ký hộ tịch và thẩm quyền, thủ tục trong đăng ký kết hôn (Điều 5, 6,
7, 8, 9, Điều 25 và khoản 5 Điều 26).
- Thứ hai, việc đăng ký kết hôn chỉ được thực hiện khi các bên kết hôn đã tuân thủ điều kiện
kết hôn theo luật định.
Luật HN-GĐ quy định các điều kiện kết hôn để các bên kết hôn phải tuân thủ. Trên cơ sở đó,
Luật Hộ tịch cần phải có các quy định về thủ tục, Hộ tịch viên và cơ quan có thẩm quyền về
đăng ký hộ tịch căn cứ vào đó xác định được người có yêu cầu kết hôn đã tuân thủ các điều
kiện kết hôn tại thời điểm đăng ký.
Đánh giá: Dự thảo Luật Hộ tịch về cơ bản đã đưa ra được cơ chế để xác định sự tuân thủ điều
kiện kết hôn của người có yêu cầu kết hôn khi quy định: (1) người đi đăng ký kết hôn phải xuất
trình chứng minh thư hoặc giấy tờ hợp lệ thay thế, Giấy chứng minh nơi cư trú, tờ khai đăng ký
kết hôn và sổ hộ tịch cá nhân của bên nam và bên nữ (khoản 1 Điều 26); (2) việc kết hôn được
tổ chức tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã với sự có mặt của cả hai bên nam, nữ (khoản 4 Điều
26).
Tuy nhiên, Dự thảo Luật cũng chưa quy định cụ thể Tờ khai đăng ký kết hôn cần có nội dung
gì và việc xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có bắt buộc hay không? Theo pháp
luật về đăng ký hộ tịch hiện hành, nội dung chính của Tờ khai đăng ký kết hôn là xác nhận của
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (ủy ban nhân dân cơ sở nơi cư trú, cơ quan đại diện ngoại giao
hoặc thủ trưởng đơn vị trong lực lượng vũ trang) về tình trạng hôn nhân của người có yêu cầu
kết hôn. Nếu tiếp tục kế thừa quy định này, Luật Hộ tịch vẫn chưa giải quyết được vướng mắc
trong thực tiễn hiện nay về việc đăng ký kết hôn cho người có nhiều nơi cư trú, người làm
nghề lưu động không có nơi cư trú ổn định, việc làm tờ khai đăng ký kết hôn có xác nhận của
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là rất phức tạp và khó có thể có được xác nhận vì cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền không có thông tin. Bộ Tư pháp cũng đã có hướng dẫn cho phép người có
yêu cầu về kết hôn không có nơi cư trú ổn định làm cam kết về tình trạng hôn nhân của mình
(Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/8/2008 hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị
định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về Đăng ký hộ tịch), đây là hướng dẫn phù hợp với
thực tiễn, nhưng để áp dụng pháp luật thống nhất, cần pháp điển hóa hướng dẫn này vào Luật
Hộ tịch.
Mặt khác, Dự thảo Luật cũng chưa đưa ra được nguyên tắc thống nhất trong xác định việc các
bên kết hôn tuân thủ điều kiện kết hôn khác, ví dụ: trong trường hợp một trong hai bên kết hôn
có dấu hiệu không nhận thức được năng lực hành vi của mình tại thời điểm đăng ký kết hôn,
thì thủ tục và thẩm quyền của hộ tịch viên trong trường hợp này là như thế nào? điểm d khoản
1 Điều 47 của dự thảo Luật quy định các bên kết hôn phải có xác nhận của cơ quan y tế cấp
huyện trở lên của Việt Nam hoặc tổ chức y tế có thẩm quyền của nước ngoài cấp chưa quá 6
tháng tính đến ngày nhận hồ sơ, xác nhận hiện tại các bên kết hôn không mắc bệnh tâm thần
hoặc mắc bệnh khác mà không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, nhưng quy định này
chỉ áp dụng cho thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài.
- Thứ ba, về thẩm quyền và thủ tục đăng ký kết hôn
Luật HN-GĐ năm 2000 quy định tương đối chi tiết về thẩm quyền và thủ tục đăng ký kết hôn,
trong bối cảnh Luật Hộ tịch được ban hành thì các quy định này của Luật HN-GĐ cần được rà
soát lại, những quy định thuần túy về thẩm quyền và thủ tục cần được quy định trong Luật Hộ
tịch. Tuy nhiên, nguyên tắc về thẩm quyền và nghi thức đăng ký kết hôn cần phải được ghi
nhận trong Luật HN-GĐ vì nó liên quan đến trực tiếp đến quy định quyền kết hôn và cơ chế
bảo đảm công nhận, thực thi quyền kết hôn của cá nhân.
Đánh giá: Dự thảo Luật Hộ tịch đã có những quy định tốt trong định hướng cải cách về thẩm
quyền và thủ tục trong đăng ký kết hôn, giải quyết được những bất cập, hạn chế trong quy định
của Luật HN-GĐ. Quy định về thẩm quyền đăng ký kết hôn trong Dự thảo Luật Hộ tịch (Điều
25) phù hợp với thực tiễn hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân hơn so với quy định hiện
hành của Luật HN-GĐ (Điều 12). Theo đó, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi quản lý Sổ Bộ hộ tịch
hoặc nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ có thẩm quyền giải quyết việc đăng ký kết hôn
(Luật HN-GĐ chỉ quy định cơ quan có thẩm quyền là Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của
một trong hai bên nam, nữ). Dự thảo Luật cũng quy định về thủ tục đăng ký kết hôn tại nơi cư
trú, không phải nơi quản lý Sổ bộ hộ tịch của bên nam, nữ, thì sau khi đăng ký kết hôn, Hộ tịch
viên phải thông báo ngay bằng văn bản trong đó ghi đầy đủ những nội dung đã được đăng ký
cho Hộ tịch viên nơi quản lý Sổ bộ hộ tịch và cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử
(khoản 5 Điều 26).
2.2. Về kết hôn có yếu tố nước ngoài (Điều 100 – Điều 103 Luật HN-GĐ năm 2000)
* Kết hôn có yếu tố nước ngoài theo quy định của Luật HN-GĐ
Theo quy định tại khoản 14 Điều 8 và khoản 4 Điều 100 của Luật HN-GĐ, được xác định là
kết hôn có yếu tố nước ngoài khi thuộc một trong các trường hợp sau: (1) Giữa công dân Việt
Nam và người nước ngoài; (2) Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam; (3)
Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo
pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài; (4) kết hôn giữa
công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài.
Các quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài được tôn trọng và được bảo vệ phù hợp với các quy
định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc tham
gia. Người nước ngoài tại Việt Nam được hưởng các quyền và có nghĩa vụ như công dân Việt
Nam về kết hôn, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác. Nhà nước CHXHCN
Việt Nam bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ
kết hôn phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc
tế (Điều 100 Luật HN-GĐ).
Về điều kiện kết hôn, trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi
bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến
hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân
theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn. Việc kết hôn giữa những người nước
ngoài với nhau tại Việt Nam trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy
định của Luật này về điều kiện kết hôn (Điều 103).
Về thẩm quyền kết hôn, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện việc
đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài theo quy định của Luật HN-GĐ và các quy định khác
của pháp luật Việt Nam. Việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên
giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam thuộc
thẩm quyền của Ủy ban nhân cấp xã nơi công dân Việt Nam cư trú.
* Tác động đến dự án Luật Hộ tịch
- Thứ nhất, về cơ bản Luật HN-GĐ Việt Nam không có sự phân biệt đối xử trong quy định về
kết hôn và đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, ngoại trừ có quy định khác về thẩm quyền
đăng ký kết hôn giữa kết hôn trong nước và kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Đánh giá: Dự thảo Luật Hộ tịch đã có những quy định tốt trong bảo đảm nguyên tắc không
phân biệt đối xử đã được quy định trong Luật HN-GĐ và trong định hướng cải cách về thẩm
quyền, thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, giải quyết được những bất cập, hạn chế
trong quy định của Luật HN-GĐ. Trên cơ sở hướng tới sự bình đẳng trong kết hôn và đăng ký
kết hôn, Dự thảo Luật đã có quy định đột phá so với quy định của Luật HN-GĐ khi giao thẩm
quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đăng ký thường
trú hoặc nơi đăng ký tạm trú (nếu không có đăng ký thường trú) của công dân Việt Nam hoặc
người nước ngoài. Đồng thời, để tránh xáo trộn lớn trong công tác đăng ký hộ tịch, khắc phục
những vướng mắc về chất lượng cán bộ hộ tịch cấp xã, dự thảo Luật cũng quy định về việc Ủy
ban nhân dân cấp xã phải chuyển hồ sơ lên xin ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp huyện, sau khi
có ý kiến bằng văn bản của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã mới tiến hành
việc đăng ký kết hôn.
- Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn kết hôn có yếu tố nước ngoài hiện nay còn nhiều diễn biến
phức tạp, nhiều trường hợp kết hôn không đạt được mục đích hôn nhân, có ý kiến cho rằng
Luật Hộ tịch cần quy định trong đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, các bên kết hôn phải có
chứng nhận đã qua tập huấn tại các trung tâm hỗ trợ kết hôn có yếu tố nước ngoài hoặc phải có
chứng nhận về sức khỏe tốt, chứng nhận về khả năng ngôn ngữ…
Đánh giá: dự thảo Luật Hộ tịch không quy định các thủ tục này mà thay vào đó quy định về các
trường hợp từ chối đăng ký kết hôn là phù hợp (Điều 48 dự thảo Luật), vì việc bổ sung các
điều kiện trong kết hôn dù trong kết hôn trong nước hay kết hôn có yếu tố nước ngoài thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật HN-GĐ và Luật HN-GĐ hiện hành không ràng buộc các điều
kiện trên trong kết hôn. Trong trường hợp xuất phát từ thực tế cần thiết phải đưa thành điều
kiện trong Luật, thì cần có sự sửa đổi, bổ sung các quy định về điều kiện kết hôn trong Luật
HN-GĐ.
2.3. Về nhận cha, mẹ, con (Điều 63 – Điều 65 Luật HN-GĐ năm 2000)
* Nhận cha, mẹ, con theo quy định của Luật HN-GĐ