Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

Tình hình mắc bệnh giun tròn trichocephalus suis ở đàn lợn nuôi tại một số xã thuộc huyện phú bình tỉnh thái nguyên và biện pháp phòng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.04 MB, 59 trang )

1


TR : Trang
Cs : Cộng sự
% : Tỷ lệ phần trăm
≤ : Nhỏ hơn hoặc bằng
< : Nhỏ hơn
> : Lớn hơn
Kg : Kilogram
µm : Micrômét
mm : Milimét
NXB : Nhà xuất bản
T. suis : Trichocephalus suis
TT : Thể trọng
n : Dung lượng mẫu
THT : Tụ huyết trùng
LMLM : Lở mồm long móng
1
2
2
3

3
4


4
5




 !"#$%&'()*
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1.1. Vị trí địa lý
Phú Bình là một huyện trung du miền núi nằm ở phía Nam của tỉnh
Thái Nguyên. Trung tâm huyện cách Thành phố Thái Nguyên 15 km về phía
Đông Nam. Ranh giới được phân định như sau:
- Phía Bắc giáp huyện Đồng Hỷ
- Phía Nam giáp huyện Hiệp Hoà (Bắc Giang)
- Phía Tây giáp huyện Phổ Yên
- Phía Đông giáp huyện Tân Yên (Bắc Giang)
Do vị trí địa lý, giao thông thuận lợi, huyện Phú Bình có điều kiện
trong việc giao lưu, trao đổi hàng hóa với các huyện, thành phố của tỉnh Thái
Nguyên và các tỉnh lân cận như: Bắc Giang, Bắc Ninh, Thủ đô Hà Nội vá có
khả năng phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
1.1.1.2. Địa hình đất đai
Huyện Phú Bình có tổng diện tích tự nhiên là 24.936,11 ha. Trong đó:
- Đất nông lâm ngư nghiệp có 20.219 ha, (chiếm 81%)
+ Đất sản xuất nông nghiệp: 13.570 ha (chiếm 54,3%)
+ Đất lâm nghiệp: 6.218 ha (chiếm 25%)
+ Đất nuôi trồng thủy sản: 431 ha (chiếm 1,7%)
- Đất phi nông nghiệp có 4.606 ha (chiếm 18,5 %)
- Đất chưa sử dụng có 111 ha (chiếm 0,5%).
1.1.1.3. Điều kiện khí hậu thủy văn
Phú Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Hàng năm có 2
mùa rõ rệt:
- Mùa mưa (kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10) có nhiệt độ trung bình 21
- 28
0
C, ẩm độ trung bình 79 - 86%, lượng mưa trung bình 250 mm/tháng và
tập trung nhiều tháng 6,7,8. Đây là mùa có nguy cơ dịch bệnh xảy ra ở đàn

vật nuôi tương đối cao, gây khó khăn cho việc phát triển chăn nuôi.
5
6
- Mùa khô (kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau),có ngày thời tiết
lạnh và khô, nhiệt độ khá thấp (trung bình từ 15 - 24
0
C), độ ẩm trung bình
76 - 80%. Ngoài ra, mùa đông còn có gió mùa Đông Bắc kéo dài, gây rét
đậm, rét hại và có thể có sương muối là điều kiện bất lợi gây ảnh hưởng xấu
đến khả năng sinh trưởng, phát triển và sức chống đỡ bệnh của cây trồng và
vật nuôi.
Nhìn chung, Phú Bình là một huyện có điều kiện khí hậu và thời tiết
thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp cả về trồng trọt và chăn nuôi so
với các địa phhương khác của tỉnh Thái Nguyên.
1.1.1.4. Giao thông, thủy lợi
Phú Bình có tuyến Quốc lộ 37 chạy dọc theo chiều dài của huyện,
đường liên tỉnh nối với Bắc Giang và hệ thống đường tỉnh lộ, đặc biệt có
đường tỉnh lộ nối Quốc lộ 37 với Quốc lộ 3 thông sang khu công nghiệp
Sông Công nên rất thuận lợi cho giao thông, đi lại, trao đổi hàng hóa và giao
lưu văn hóa.
Ngoài ra, trong huyện còn có hệ thống đường liên xã, liên thôn về cơ
bản đã được bê tông hóa thuận lợi cho việc đi lại và phát triển sản xuất.
Nguồn nước của huyện Phú Bình khá dồi dào với dòng Sông Cầu và
Sông Máng chảy qua cộng với hệ thống kênh mương đã được bê tông hóa
đảm bảo cung cấp nước tưới cho phần lớn diện tích trồng trọt của huyện. Do
vậy, việc tưới tiêu được chủ động, đảm bảo cho ngành trồng trọt phát triển
khá thuận lợi.
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
1.1.2.1. Điều kiện xã hội
Huyện Phú Bình có 21 đơn vị hành chính, bao gồm 20 xã và 1 thị trấn.

- Dân cư: Huyện có số dân đông và trên địa bàn huyện có nhiều dân tộc
anh em cùng chung sống, do vậy cơ cấu và phương thức chăn nuôi, trồng trọt
rất đa dạng tùy thuộc vào tập quán sống của từng địa phương và từng dân tộc.
- Hàng năm, huyện Phú Bình tổ chức các hoạt động văn hoá, thể dục
thể thao vào các ngày lễ lớn của đất nước như: Quốc khánh 2/9, ngày 30/4,…
6
7
và đặc biệt là các lễ hội truyền thống như: Đua thuyền trên sông Cầu , thi thả
diều… được nhân dân trong huyện tham gia nhiệt tình. Huyện đã xây dựng
được hệ thống các nhà văn hoá xã, thôn, xóm làm nơi để sinh hoạt, họp hành,
phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước .
- Thông tin và truyền thông: Mạng lưới thông tin liên lạc được trang bị
đáp ứng nhu cầu sử dụng của người dân trong huyện đối với việc tiếp cận và
trao đổi thông tin.
- Y tế: Huyện có bệnh viện được đầu tư các trang, thiết bị hiện đại phục
vụ công tác khám, chữa bệnh. Trong huyện, 21/21 xã và thị trấn có trạm y tế
và có bác sỹ phụ trách. Các trạm y tế bước đầu được đầu tư nâng cấp, trang bị
dụng cụ y tế và thuốc chữa bệnh đảm bảo chăm sóc sức khỏe ban đầu cho
nhân dân.
- Giáo dục - đào tạo: Giáo dục và đào tạo là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của huyện theo hướng
Công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Do vậy, việc mở rộng và nâng cao chất
lượng giáo dục- đào tạo phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của
huyện thường xuyên được quan tâm nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân
tài và tạo nguồn nhân lực cho tương lai. Đến nay, huyện có 2 trường trung
học phổ thông: Trường THPT Phú Bình và trường THPT Lương Phú. Trong
huyện, 100% số xã, thị trấn có đủ mạng lưới trường lớp và các cấp học: Từ
mầm non, tiểu học đến trung học cơ sở.
Hiện nay, 100% số trường học đã được ngói hóa và kiên cố hóa.
Có19/67 trường đạt chuẩn quốc gia (1 trường mầm non, 10 trường tiểu học và

3 trường trung học cơ sở). Chất lượng dạy và học được tăng lên, số lượng học
sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp đều
tăng dần qua các năm.
Ngoài ra, huyện có 2 trung tâm (Trung tâm giáo dục thường xuyên,
Trung tâm hướng nghiệp dạy nghề) và 1 trường đào tạo nghề với 187 phòng
học phục vụ cho việc học văn hóa và đào tạo ngành nghề cho các đối tượng
khác nhau.
7
8
1.1.2.2. Điều kiện kinh tế
Trong những năm gần đây, nền kinh tế của huyện Phú Bình có nhiều
khởi sắc và có những thay đổi đáng kể.
Phú Bình với đặc điểm là một huyện thuần nông, nên sản xuất nông
nghiệp vẫn là hướng phát triển chủ yếu với cả 2 lĩnh vực chính là trồng trọt và
chăn nuôi với kinh tế hộ đóng vai trò chủ đạo.
Từ khi chuyển đổi sang cơ chế quản lý mới, các hộ dân đã tận dụng
mọi nguồn lực của bản thân và sự hỗ trợ từ các chính sách của Đảng và Nhà
nước để đẩy mạnh thâm canh, tăng năng suất cây trồng vật nuôi, phát triển
kinh tế. Nhiều giống cây trồng, vật nuôi mới đã được đưa vào thử nghiệm và
sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần nâng cao đời sống cho bà con
nông dân.
1.1.3. Tình hình phát triển sản xuất nông nghiệp
1.1.3.1.Tình hình sản xuất của ngành trồng trọt
Nằm trong vùng có khí hậu có gió mùa nên Phú Bình có điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển của các loại cây lương thực và cây thực phẩm theo
các mùa khác nhau. Với tổng diện tích đất nông nghiệp hiện có, Phú Bình đã
đạt được những thành tựu lớn trong sản xuất nông nghiệp so với các huyện
khác trong tỉnh, là địa phương cung cấp nguồn sản phẩm nông nghiệp lớn
nhất cho thị trường trong tỉnh. Đặc biệt, trong những năm gần đây nhờ áp
dụng các thành tựu khoa học công nghệ - công nghệ và kỹ thuật vào sản xuất

như: đưa các cây giống cây trồng mới vào sản xuất, cải tiến kỹ thuật canh
tác… năng suất các loại cây trồng đã tăng lên đáng kể.
1.1.3.2. Tình hình phát triển lâm nghiệp
Diện tích cây lâm nghiệp của huyện không lớn, chủ yếu nằm ở 5 xã
miền núi của huyện. Nhờ có chủ trương giao đất, giao rừng cho hộ nông dân
nên trong những năm gần đây ngành lâm nghiệp của huyện có nhiều chuyển
biến tích cực, nạn chặt phá rừng hầu như không xảy ra. Tuy nhiên, trong
huyện vẫn còn một số ít đất trống chưa được phủ xanh nên hiện tượng rửa
trôi, xói mòn đã gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đến việc sản xuất nông
lâm nghiệp và môi trường, môi sinh.
8
9
1.1.3.3. Tình hình sản xuất của ngành chăn nuôi
- Chăn nuôi trâu bò:Trâu bò là loại gia súc rất quan trọng, được nuôi để
cung cấp sức kéo, phân bón cho trồng trọt và cung cấp thực phẩm cho con
người. Trong những năm qua, đàn trâu bò không ngừng gia tăng. Theo số liệu
thống kê, năm 2012 toàn huyện có 38.000 con trâu bò được nuôi phân tán
trong các hộ gia đình với quy mô nhỏ từ 2 - 3 con. Bên cạnh đó, cũng có
những hộ nuôi với quy mô hàng chục con.
- Chăn nuôi lợn: Lợn là loài gia súc được nuôi chủ yếu của người dân
trong huyện, phần lớn được nuôi phân tán ở các hộ gia đình theo phương thức
tận dụng thức ăn sẵn có của địa phương. Tuy việc đầu tư về giống bước đầu
cũng đã được quan tâm, song việc đầu tư thức ăn, công tác nuôi dưỡng, chăm
sóc còn hạn chế, thiếu khoa học nên năng suất chăn nuôi chưa cao, đặc biệt là
ở những nơi có trình độ dân trí thấp.
Theo số liệu thống kê, đàn lợn của huyện năm 2012 có tổng số 252.250
con, chủ yếu là lợn Móng Cái và lợn lai.
- Chăn nuôi gia cầm: Hiện nay, chăn nuôi gia cầm ở huyện Phú Bình
khá phát triển với quy mô ngày càng lớn, đa dạng về chủng loại và phương
thức nuôi. Nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn vay vốn đầu tư vào chăn nuôi gia

cầm theo phương thức công nghiệp. Theo thống kê, huyện Phú Bình năm
2012 có gia cầm 1.450.000 con.
1.1.4. Hoạt động của trạm thú y huyện Phú Bình
Trạm Thú y huyện Phú Bình được thành lập từ năm 1981 đến nay đã
phát triển rất mạnh, trạm có hệ thống mạng lưới thú y cơ sở gồm 21 ban chăn
nuôi thú y của các xã, thị trấn.
Trạm có chức năng và nhiệm vụ như sau:
- Tổ chức, hướng dẫn tiêm phòng cho đàn gia súc gia cầm theo định kỳ
hàng năm.
- Phát hiện tình hình dịch bệnh, quản lý các ổ dịch cũ, báo cáo tình hình
dịch bệnh cho UBND huyện và chi cục Thú y tỉnh.
- Chẩn đoán, điều trị bệnh, bao vây dập tắt các ổ dịch theo hướng dẫn
của chi cục Thú y tỉnh.
- Quản lý thuốc thú y, hướng dẫn sử dụng các loại thuốc thú y.
9
10
- Kiểm dịch, kiểm soát giết mổ, kiểm tra vệ sinh thú y về động vật và
sản phẩm động vật, thanh tra theo pháp luật thú y.
- Cấp phát hoặc thu hồi các loại giấy tờ về quản lý nhà nước trong lĩnh
vực thú y.
- Đào tạo và tập huấn đội ngũ cán bộ thú y viên cơ sở, phổ biến tuyên
truyền sâu rộng đến các hộ nông dân về kiến thức thú y trong toàn huyện.
- Nghiên cứu và đưa ra những tiến bộ khoa học kỹ thuật thú y vào thực
tế chăn nuôi cho người dân.
1.1.5. Đánh giá chung
Qua điều tra tình hình thực tế của huyện, chúng tôi có nhận xét như sau:
1.1.5.1. Thuận lợi
- Huyện được thụ hưởng rất nhiều chính sách đầu tư của Đảng và
Nhà nước.
- Huyện có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển mô hình

nông lâm kết hợp: Chăn nuôi, trồng trọt và lâm nghiệp.
- Huyện có đường giao thông quốc lộ 37 chạy qua nên rất thuận tiện
cho việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, trao đổi hàng hóa, giao lưu văn hóa
và tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật ứng dụng vào thực tế sản xuất.
- Huyện có mạng lưới thông tin liên lạc thông suốt từ huyện đến tận
thôn, xóm nên việc truyền tải thông tin và phổ biến các tiến bộ khoa học kỹ
thuật đến người dân rất thuận lợi.
- Phòng nông nghiệp, Trạm Thú y huyện có đội ngũ cán bộ kỹ thuật trẻ
nhiệt tình, năng động, có trình độ khoa học kỹ thuật nên đã đưa được những
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất cây trồng, vật
nuôi, góp phần cải thiện đời sống nhân dân trong huyện.
1.1.5.2. Khó khăn
- Phú Bình là một huyện trung du có tới 7 xã miền núi, thuần nông,
trình độ dân trí còn thấp, đời sống của đại bộ phận dân cư nông thôn còn gặp
khó khăn, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao, nền kinh tế chưa có tích lũy, xuất phát
điểm của nền kinh tế huyện còn thấp so với tỉnh và cả nước.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung còn nghèo nàn. Cơ sở hạ tầng chưa
được đầu tư xây dựng đồng bộ và còn yếu. Hệ thống đường giao thông, nhất
10
11
là giao thông liên xã, liên thôn xóm còn thô sơ và xuống cấp, ở các xã miền
núi việc đi lại còn khó khăn.
- Việc phát triển chăn nuôi còn nhỏ lẻ với mô hình chăn nuôi hộ gia
đình, hình thức chăn nuôi tập trung chưa phát triển nên hiệu quả chăn nuôi
chưa cao. Với hình thức chăn thả tự do nên việc kiểm soát dịch bệnh còn hạn
chế. Đây cũng là khó khăn cho việc phòng và trị bệnh. Vào mùa đông, có
nhiều ngày nhiệt độ xuống thấp do gió mùa Đông Bắc gây ra ảnh hưởng lớn
đến gia súc, nhất là trâu bò.
- Do nhận thức của người dân còn hạn chế nên công tác tiêm phòng,
tuyên truyền, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất rất khó khăn.

- Khi xảy ra dịch bệnh, người dân chưa ý thức được sự nguy hiểm
của dịch bệnh nên đã thải gia súc chết ra sông Cầu gây ô nhiễm và lan
truyền dịch bệnh.
+,!-#./01(.0203456$7#*08'389*:#;$
1.2.1. Nội dung phục vụ sản xuất
Trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình, thuận lợi và khó khăn của cơ
sở, chúng tôi đề ra nội dung công tác phục vụ sản xuất trong thời gian thực
tập tốt nghiệp như sau:
- Tiêm phòng cho gia súc, gia cầm.
- Chẩn đoán và điều trị bệnh cho gia súc, gia cầm.
1.2.2. Phương pháp thực hiện
Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, chúng tôi đã đề ra biện pháp sau:
- Xây dựng kế hoạch công tác chi tiết, cụ thể, sắp xếp thời gian cho hợp
lý, có thái độ làm việc đúng đắn.
- Chấp hành nghiêm chỉnh nội quy, quy định của nhà trường và của
cơ sở.
- Thực hiện nghiêm túc quy trình, giờ giấc làm việc.
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công việc và rèn luyện ý thức tổ
chức, kỷ luật.
- Bám sát địa bàn, nắm chắc tình hình của cơ sở.
- Thường xuyên học tập, củng cố kiến thức chuyên môn.
- Khiêm tốn học hỏi, trau dồi kinh nghiệm, tranh thủ sự giúp đỡ của cơ
sở, cán bộ kỹ thuật và người chăn nuôi.
11
12
- Năng động, sáng tạo trong công việc, mạnh dạn áp dụng các kiến thức
đã học vào thực tế.
- Xây dựng mối quan hệ tốt, hòa nhã vui vẻ với mọi người.
1.2.3. Kết quả phục vụ sản xuất
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại Trạm Thú y huyện Phú Bình,

được sự hướng dẫn tận tình cuả giáo viên hướng dẫn, các cán bộ thú y của
trạm, cán bộ thú y cơ sở, cùng với sự nỗ lực của bản thân, chúng tôi đã thu
được một số kết quả trong công tác phục vụ sản xuất. Cụ thể như sau:
1.2.3.1. Tiêm phòng dịch bệnh
Với phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh việc tiêm phòng cho đàn
gia súc là biện pháp quan trọng trong chăn nuôi. Tiêm phòng giúp cho con vật
có khả năng miễn dịch chủ động, chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn, vi rút
gây bệnh. Vì vậy, chúng tôi đã phối hợp cùng với cán bộ thú y cơ sở tiến hành
tiêm vắcxin phòng bệnh THT, LMLM cho trâu bò, vacxin dịch tả, vắcxin tụ
dấu cho lợn và vắcxin cúm gia cầm.
1.2.3.2. Chẩn đoán và điều trị bệnh
Để điều trị cho gia súc đạt hiệu quả cao, việc chẩn đoán kịp thời và
chính xác giúp đưa ra được những phác đồ điều trị đúng, nâng cao hiệu quả
điều trị, giảm tỷ lệ tử vong, giảm thời gian sử dụng thuốc và giảm thiệt hại
kinh tế cũng như số đầu gia súc. Với vốn kiến thức đã được học cùng với sự
giúp đỡ của cán bộ trạm Thú y, cán bộ thú y cơ sở, chúng tôi đã chẩn đoán và
điều trị một số bệnh ở đàn gia súc. Cụ thể như sau:
* Bệnh chướng hơi dạ cỏ ở trâu, bò
- Nguyên nhân: Trâu, bò bị bệnh chướng hơi dạ cỏ chủ yếu là do ăn các
loại thức ăn dễ lên men sinh hơi hoặc do chuyển thời vụ từ Đông sang Xuân,
cỏ non, nhiều nước kết hợp với sương dễ lên men sinh hơi.
- Triệu chứng: Dạ cỏ căng to, con vật khó thở. Khi sờ nắn vào dạ cỏ, có
cảm giác như cầm vào quả bóng bơm căng. Gõ vùng dạ cỏ có âm bùng hơi
mở rộng.
- Điều trị:
+ Dùng rơm khô chà mạnh vào vùng dạ cỏ (nhằm kích thích dạ cỏ
nhu động) hay đưa tay vào nắm lấy lưỡi gia súc kéo ra, kéo vào nhiều lần
12
13
để kích thích phản xạ ợ hơi. Thụt nước ấm vào trực tràng để kích thích

phản xạ trung tiện.
+ Ức chế quá trình lên men sinh hơi bằng cách: Dùng 15 - 20 củ tỏi giã
nhỏ hòa với 11 ml nước cho uống.
+ Trợ tim, trợ hô hấp bằng Cafein Natri benzoat, B.Complex.
+ Kết quả điều trị: 2 con, khỏi 2 con, đạt 100%.
* Bệnh lợn con phân trắng
Đây là bệnh do vi khuẩn E.coli gây ra và là một bệnh truyền nhiễm cấp
tính có đặc trưng là tiêu chảy, nhiễm trùng và nhiễm độc huyết. Lợn con từ 1 -
21 ngày tuổi mắc nhiều.
- Nguyên nhân: Do vi khuẩn đường ruột E.coli có hại thuộc họ vi khuẩn
đường ruột Enterobacteriaceae gây nên. Chúng gồm những chủng có độc tính
kháng nguyên khác nhau. Ngoài ra, có thể do các yếu tố bất lợi về thời tiết,
điều kiện nuôi dưỡng, vệ sinh chuồng trại, hay do gia súc mẹ lúc mang thai
không được chăm sóc, nuôi dưỡng tốt nên ít sữa đầu dẫn đến sức đề kháng
của lợn con kém.
- Triệu chứng: Bệnh xảy ra thể cấp tính, á cấp tính và mãn tính. Lợn
con bệnh không bú, nằm một chỗ, da nhăn nheo, lông xù, mắt trũng, đi lại
xiêu vẹo, ỉa chảy nhiều lần trong ngày, phân trắng, mùi hôi tanh khó chịu.
Nếu không điều trị kịp thời sẽ chết sau 3 - 5 ngày
- Điều trị:
+ Thuốc uống: Thuốc bột Clivet, hòa tan trong nước, cho uống ngày 2
lần, liều lượng 5g/con/ngày.
+ Dùng thuốc tiêm: EnroFlox - T, tiêm 2 lần trên ngày, liều lượng
1ml/5 -7 kg TT/lần, kết hợp vitamin B1 2ml/lần/ ngày.
Liệu trình điều trị 3 - 5 ngày.
Chúng tôi tiến hành điều trị 47 con, khỏi 41 con, đạt 87,23%.
* Bệnh viêm tử cung ở lợn nái
- Nguyên nhân: Do nhiều nguyên nhân gây nên, chủ yếu do vi khuẩn
xâm nhập vào dạ con trong thời gian đông dục hoặc thụ tinh nhân tạo sai kỹ
thuật cũng có thể do một số bệnh truyền nhiễm gây ra.

13
14
- Triệu chứng: Lợn nái sốt, bỏ ăn, lượng sữa giảm, âm hộ sưng đỏ,
niêm dịch có lẫn mủ chảy ra từ âm đạo có mùi thối khắm, xung quanh âm hộ
dính nhớt bẩn, lợn mẹ khó chịu, không yên tĩnh, cong lưng rặn nhiều. Thân
nhiệt tăng hơn bình thường.
- Điều trị: Vệ sinh toàn bộ thân sau lợn mẹ bằng nước ấm và xà phòng,
tiếp đó đưa dẫn tinh quản vào sâu trong âm đạo, tử cung bơm dung dịch
KMnO
4
0,1%, để rửa mủ, chất viêm, sau đó bơm dung dich kháng sinh gồm:
Penicilin 2000000 UI, Streptomycin 2g, nước cất 100ml.
- Liệu trình điều trị: 3 - 5 ngày, mỗi ngày một lần.
- Kết quả: Điều trị 4 con, khỏi 4 con, tỷ lệ 100%.
* Bệnh cầu trùng ở gà
Bệnh cầu trùng là một bệnh ký sinh trùng phổ biến ở đàn gà nuôi theo
phương thức tập trung. Bệnh gây thiệt hại lớn về kinh tế cho người chăn nuôi.
Bệnh làm tăng số lượng gà còi cọc, gây chết ở gà con từ 30 - 100%, làm giảm
sản lượng trứng từ 20 - 40% ở đàn gà đẻ. Bệnh lây lan rất nhanh chủ yếu qua
thức ăn, nước uống.
- Triệu chứng: Gà ủ rũ, tập trung lại ở một góc chuồng xã cánh, lông
xù, mắt nhắm nghiền và bỏ ăn nhưng lại uống nước nhiều. Phân sáp, có khi
lẫn máu tươi, chân lạnh.
- Điều trị: Dùng thuốc để trộn vào thức ăn, thuốc Rigecoccin trộn với
thức ăn theo tỷ lệ 5g thuốc với 10g thức ăn hay hòa tan với nước uống theo tỷ
lệ 1g thuốc với 6 lít nước.
- Điều trị liên tục 3 - 5 ngày.
- Kết quả: Điều trị 500 con. khỏi 479 con, tỷ lệ 95,80%.
1.2.3.3. Công tác khác
Ngoài việc phòng và điều trị bệnh cho đàn gia súc, gia cầm ở địa

phương, trong thời gian thực tập tại cơ sở chúng tôi còn tham gia một số công
tác khác như: Tẩy sán lá gan cho trâu, bò, tẩy giun đũa lợn, thiến lợn đưc, thụ
tinh nhân tạo cho bò, tiêm Dextran - Fe cho lợn con…
Kết quả công tác phục vụ sản xuất được trình bày ở bảng 1.1:
14
15
*.<6$7#*'=.$2'08'389*:#;$
,!-#.'=.3!>' ?@1A.B'CD
<6$7#*
?@1A.
B'CD
E@>BFD
!GH0I. An toàn
vaccin LMLM trâu bò 23 23 100
Vaccin THT trâu bò 250 250 100
Vaccin cúm gia cầm 3000 3000 100
Vaccin Tụ dấu lợn 550 550 100
Vaccin Dịch tả lợn 500 500 100
+ !"#$%J Khỏi
Bệnh chướng hơi dạ cỏ ở bò 2 2 100
Bệnh phân trắng lợn con 47 41 87,23
Viêm tử cung ở lợn nái 4 4 100
Bệnh cầu trùng gà 500 479 95,80
K=.$2'52' Đạt kết quả
Tẩy sán lá gan trâu, bò 5 5 100
Tẩy giun cho lợn 100 100 100
Thiến lợn đực 10 10 100
Thụ tinh bò 1 1 100
Tiêm Dextran - Fe cho lợn con 11 11 100
K<6$@#L34M".J

1.3.1. Kết luận
Qua thời gian thực tập tại Trạm Thú y Phú Bình, được sự giúp đỡ của
các cán bộ trạm, cán bộ thú y cơ sở, đặc biệt là nhờ sự chỉ bảo tận tình của
thầy giáo hướng dẫn và nỗ lực của bản thân chúng tôi đã hoàn thành tốt
nhiệm vụ đề ra. Chúng tôi đã có điều kiện tiếp xúc với thực tế sản xuất, nâng
cao kiến thức, hiểu biết thêm về nghề nghiệp của mình. Điều quan trọng nhất
là chúng tôi đã rút ra được những bài học kinh nghiệm bổ ích về chuyên môn
từ thực tiễn sản xuất: Biết chẩn đoán một số bệnh thông thường của gia súc,
đưa ra được các biện pháp điều trị có hiệu quả…. Điều đó giúp tôi tự tin và
15
16
yêu ngành, yêu nghề hơn. Tôi thấy rằng, việc đi cơ sở thực tập này là rất cần
thiết đối với bản thân tôi cũng như mỗi sinh viên trước khi tốt nghiệp ra
trường.
Tôi nhận thấy mình còn phải cố gắng nhiều hơn nữa, không ngừng học
hỏi, trau dồi kiến thức, chủ động nghiên cứu, tìm hiểu tiến bộ khoa học kỹ
thuật mới để bổ sung cho bản thân.
1.3.2. Tồn tại
Qua thời gian thực tập tốt nghiệp, bám sát thực tế sản xuất, chúng tôi
thấy trong việc phát triển chăn nuôi của huyện còn một số tồn tại sau:
- Trình độ dân trí của người dân còn hạn chế nên công tác vệ sinh thú y
và công tác phòng trị bệnh cho gia súc, gia cầm còn chưa được chú trọng
đúng mức.
- Quy mô chăn nuôi còn nhỏ lẻ, vốn đầu tư hạn chế, mô hình trang trại
còn ít nên hiệu quả chăn nuôi chưa cao.
1.3.3. Đề nghị
- Tổ chức thường xuyên các lớp tập huấn cho các cán bộ thú y cơ sở và
người chăn nuôi để cung cấp những kiến thức cần thiết về chăn nuôi thú y.
- Cần có chính sách khuyến khích các hộ chăn nuôi theo mô hình trang
trại quy mô lớn.

- Trạm thú y huyện cần kết hợp chặt chẽ hơn nữa với chính quyền các
cấp từ huyện về xã để làm tốt công tác vệ sinh thú y, phòng trừ dịch bệnh cho
gia súc, gia cầm.
- Cần đẩy mạnh tuyên truyền nhân dân thấy rõ tính chất cần thiết và
tầm quan trọng của việc phòng bệnh hơn chữa bệnh và tổ chức công tác tiêm
phòng triệt để hơn nữa.
16
17
+
NO POQ<RS
Tên đề tài:
“Tình hình mắc bệnh giun tròn Trichocephalus suis ở đàn lợn nuôi
tại một số xã thuộc huyện Phú Bình - tỉnh Thái Nguyên và biện pháp
phòng trị”
+ T$3;M"
2.1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trên đường công nghiệp hóa hiện đại hóa. Cùng với
sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, ngành chăn nuôi cũng từng bước phát
triển cả về số lượng và chất lượng nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất.
Chăn nuôi lợn có một vị trí quan trọng trong ngành chăn nuôi gia súc ở
các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Chăn nuôi lợn cung cấp một khối lượng lớn thực phẩm có giá trị cho
con người. Ở nước ta, thịt lợn tiêu thụ chiếm từ 75 - 80% tổng khối lượng thịt
tiêu thụ còn trên thế giới tỷ lệ này khoảng 40% và đang có xu hướng tăng lên
(Vũ Đình Tôn, 2009 [26]). Chăn nuôi lợn phát triển không chỉ cung cấp
nguồn thực phẩm cho xã hội mà còn cung cấp nguyên liệu cho ngành công
nghiệp chế biến và phân bón cho ngành trồng trọt. Hiện nay, phân lợn còn
được dùng làm nguyên liệu để sản xuất khí đốt (bioga) vừa đem lại hiệu quả
kinh tế cao vừa có tác dụng chống ô nhiễm môi trường, đặc biệt là những khu

vực đông dân cư. Để đạt được hiệu quả kinh tế cao trong chăn nuôi lợn, ngoài
các yếu tố như giống, thức ăn, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng… biện pháp
phòng và trị bệnh, đặc biệt là biện pháp phòng và trị bệnh ký sinh trùng cho
lợn cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Thực tế ngành chăn nuôi lợn cho thấy, có nhiều loại dịch bệnh vẫn
thường xuyên xảy ra gây tổn thất kinh tế cho người chăn nuôi lợn. Ngoài
những bệnh truyền nhiễm thường gặp như: Dịch tả, tụ huyết trùng, phó
thương hàn… còn phải kể đến các bệnh ký sinh trùng. Vì vậy, ngành chăn
nuôi lợn muốn tiếp tục phát triển thì bên cạnh việc thực hiện tốt công tác
giống, thức ăn… còn phải quan tâm nhiều hơn đến công tác thú y, đặc biệt
trong điều kiện chăn nuôi tập trung, quy mô trang trại như hiện nay.
17
18
Việt Nam là một nước có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thuận lợi cho
nhiều loài ký sinh trùng phát triển, ký sinh và gây bệnh cho vật nuôi, trong đó
có loài giun tròn Trichocephalus suis ký sinh và gây bệnh ở lợn.
Trichocephalus suis ký sinh đã gây ra các tổn thương và viêm nhiễm kế phát
do vi khuẩn xâm nhập vào các nội quan của lợn, ảnh hưởng tới quá trình sinh
trưởng, đặc biệt là tiêu tốn thức ăn, giảm tăng trọng từ 15 - 20% so với lợn
không bị bệnh (Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [13]).
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi phía Bắc Việt Nam có
nghề chăn nuôi lợn khá phát triển. Tuy nhiên, công tác phòng chống bệnh
giun Trichocephalus suis chưa được chú ý và nghiên cứu một cách đầy đủ,
toàn diện.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế sản xuất chăn nuôi lợn ở tỉnh Thái
Nguyên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Tình hình mắc bệnh giun tròn
Trichocephalus suis ở đàn lợn nuôi tại một số xã thuộc huyện Phú Bình -
tỉnh Thái Nguyên và biện pháp phòng trị”.
2.1.2. Mục đích nghiên cứu
UNghiên cứu tình hình nhiễm giun tròn Trichocephalus suis ở lợn tại

một số xã của huyện Phú Bình.
- Xác định những biểu hiện lâm sàng của bệnh.
- Xác định một số loại thuốc điều trị bệnh giun T. suis ở lợn.
2.1.3. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về
đặc điểm dịch tễ bệnh giun tròn do T. suis gây ra ở lợn tại một số xã ở huyện
Phú Bình - tỉnh Thái Nguyên; về một số đặc điểm bệnh lý, lâm sàng và biện
pháp phòng trị.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đề ra những biện pháp phòng và trị bệnh có hiệu
quả, từ đó hạn chế được những thiệt hại do bệnh gây ra.
++V.7#&$4!@!>#
2.2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.2.1.1. Những hiểu biết về giun tròn Trichocephalus suis ký sinh ở lợn
- Vị trí của giun tròn T. suis trong hệ thống phân loại động vật
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [16], vị trí của Trichocephalus suis
(T. suis) trong hệ thống phân loại động vật như sau:
18
19
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Enoplia Chitwood, 1933
Bộ Trichocephalida Skrjabin et Schulz. 1928
Phân bộ Trichocephalata Skrjabin et Schulz. 1928
Họ Trichocephalidae Baird, 1953
Phân họ Trichocephaliae Ranson, 1911
Giống Trichocephalus Schrank, 1788
Loài Trichocephalus suis Schrank, 1788
- Đặc điểm hình thái, cấu tạo
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [14]: Giun có màu trắng đục; thân
chia ra làm hai phần rõ rệt: phần đầu nhỏ, trông giống như sợi tóc, phần sau
ngắn và to, bên trong là ruột và cơ quan sinh sản.

Giun đực dài 37,52 - 40,63 mm, rộng 0,634 - 0,713 mm, đuôi hơi tù,
cuộn tròn lại,có một gai giao hợp dài 1,70 - 2,55 mm, lỗ huyệt thông ra ngoài
ở phần cuối của giun .
Giun cái dài 37,89 - 50,6mm, đuôi thẳng, hậu môn ở vào đoạn cuối
thân, âm hộ ở đoạn cuối cùng của thực quản.
Trứng giun hình giống hạt chanh, có hai núm ở hai đầu; kích thước
(0,024 - 0,027) x (0,056 - 0,061) mm, màu vàng nhạt.
Theo Phan Địch Lân và cs (2005) [15]: Hình thể giống roi ngựa hoặc
sợi tóc màu trắng, cơ thể chia thành hai phần rõ rệt, thực quản có các tế bào
xếp thành chuỗi hạt dài 2/3 cơ thể. Phần sau ngắn và to, bên trong là ruột và
cơ quan sinh sản. Giun đực dài 20 - 52 mm đuôi hơi tù, phần đuôi cuộn tròn
lại chỉ có một gai giao hợp rất dài 5 -7 mm, gai giao hợp được bọc trong một
cái màng có nhiều gai nhỏ bao phủ. Lỗ sinh tiết thông với ngoài ở phần cuối
của giun. Giun cái dài 39 - 53 mm, đuôi thẳng, hậu môn ở vào đoạn cùng, âm
hộ ở vào đoạn cuối cùng của thực quản.
- Vòng đời của giun T. suis
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [7], cho biết, vòng đời phát
triển của giun tóc diễn ra như sau:
19
20
Trichocephalus suis phân t
0
, A
0
, pH
(manh tràng) Trứng Ấu trùng
(có sức lây nhiễm)
Gia
súc
nuốt



Thọc sâu vào niêm mạc ruột
Ấu trùng
Thời gian hoàn thành vòng đời là 30 - 52 ngày. Giun cái đẻ trong ruột
già của ký chủ. Trứng theo phân ra ngoài, gặp điều kiện thuận lợi qua 15 - 28
ngày trứng phát triển thành trứng có sức gây bệnh. Trứng này theo thức ăn,
nước uống vào đường tiêu hóa của ký chủ, ấu trùng được nở ra, chui sâu vào
niêm mạc ruột già, tiếp tục phát triển thành giun trưởng thành.
Thời gian hoàn thành vòng đời trong cơ thể tùy loài giun tròn nhưng
đối với T. suis cần 30 ngày.
Skrjabin K.I. (1979) [29] cho rằng. giun T.suis phát triển vòng đời
không cần vật chủ trung gian. Trứng được bài tiết cùng với phân lợn ra môi
trường ngoại cảnh. Ở môi trường thuận lợi, thời gian để trứng phát triển thành
dạng cảm nhiễm từ 3 - 4 tuần. Trong thời gian này, có thể thấy ấu trùng đã
hình thành hoàn toàn và chuyển động bên trong trứng.
Trịnh Văn Thịnh (1985) [24] cho biết, chu kỳ sinh học của giun T. suis
gồm hai giai đoạn: Một giai đoạn ở ngoài ngoại cảnh, phát triển từ trứng đến
ấu trùng cảm nhiễm; giai đoạn thứ hai ở ký chủ, ấu trùng cảm nhiễm phát
triển thành giun trưởng thành. Không có thời kỳ di hành trong cơ thể ký chủ.
Trịnh Văn Thịnh và cs (1978) [22], Đào trọng Đạt và cs (1996) [2] cho
rằng , tuổi thọ của giun T. suis ở lợn từ 4 - 5 tháng . Theo Lương Văn Huấn và
cs (1990) [4], giun T.suis sống được trong cơ thể lợn 114 ngày.
20
21
* Sức đề kháng của trứng giun T.suis
Ở môi trường ngoại cảnh , trứng giun T. suis phát triển thuận lợi nhất ở
nhiệt độ từ 18 - 30
0
C, ẩm độ 80 - 85%.

Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [13], các chất sát trùng như dung dịch
NaOH 2%, Cresyl 3%, nước vôi 10% diệt được trứng T. suis. Theo Nguyễn
Thị Lê và cs (1996) [16], trứng giun T. suis bị diệt dưới tác dụng của ủ phân
nhiệt sinh học. Sau 3 - 4 tuần, nhiệt độ hố ủ tăng lên tới 45
0
C sẽ làm hủy
trứng giun T. suis. Tuy nhiên, trứng non có khả năng chịu đựng các điều kiện
nhiệt độ cao hơn trứng ở giai đoạn ấu trùng.
Đỗ Dương Thái và cs (1975) [20] cho rằng, trứng giun T. suis và trứng
giun Trichuris trichiura (giun tóc người) bị hủy hoại nếu ẩm độ dưới 30 %
kéo dài. Mặt khác, trứng giun T. suis có thể bị diệt bởi những tia tử ngoại của
ánh sáng mặt trời (Chicobanlova và Garo - dilova, 1950). Ở Việt Nam, số giờ
nắng rất nhiều nên trong mùa hè trứng giun T. suis dễ bị hủy hoại ở ngoại
cảnh. Trong cùng một thời gian dưới tác dụng của tia tử ngoại thì trứng đã
phát triển thành ấu trùng bị diệt nhanh hơn trứng non.
2.2.1.2. Bệnh do giun tròn T. suis gây ra ở lợn
- Những thiệt hại kinh tế do bệnh giun T. suis gây ra
Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [23], bệnh ký sinh trùng thường là
những bệnh mãn tính, làm giảm mức sinh trưởng và sinh sản của gia súc, ảnh
hưởng đến sản phẩm chăn nuôi. Mức độ sinh trưởng của lợn con bị nhiễm
Ascaris suum, Trichocephalus suis, Strongyloides ransomi có thể giảm 30%
so với bình thường. Lợn nuôi lấy thịt chậm lớn, sụt cân, phẩm chất thịt giảm.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [13], Trichocephalus suis ký sinh là
một trong những nguyên nhân làm giảm năng suất chăn nuôi và tạo điều kiện
cho các bệnh khác xâm nhập. Lợn bị nhiễm giun T. suis giảm tăng trọng từ 15
- 20% so với lợn khỏe.
- Dịch tễ học bệnh giun T. suis
+ Động vật mắc bệnh
Theo Phan Thế Việt và cs (1977) [27], lợn nhà và lợn rừng đều có khả
năng nhiễm bệnh.

21
22
Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [14] cho biết, bệnh thường xảy ra đối với
lợn dưới 6 tháng tuổi. Lợn nái và lợn trưởng thành nhiễm giun nhẹ hơn, ít thể
hiện các triệu chứng lâm sàng.
Bùi Quý Huy (2006) [5] cho biết, giun T.suis ở lợn và giun Trichuris
trichiura ở người có nhiều điểm giống nhau về hình thái, hóa học và kháng
nguyên, do đó bệnh giun T.suis ở lợn dễ lây sang người.
+ Tuổi mắc bệnh
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [13], bệnh giun T.suis ở lợn phân bố
trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, bệnh cũng đã được phát hiện ở tất cả các
tỉnh miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Ở Hà Nội, lợn bị nhiễm giun T.
suis từ 4,3 - 30% (ở lứa tuổi từ 2 - 6 tháng tuổi) và 0,56 - 7,8 % (ở lứa tuổi
trên 6 tháng tuổi).
Lương Văn Huấn và cs (1990) [4], cho biết, tỷ lệ nhiễm giun T. suis
theo tuổi lợn như sau:
Dưới 3 tháng tuổi nhiễm 20,4%
Từ 3 - 4 tháng tuổi nhiễm 21,2%
Từ 5 - 6 tháng tuổi nhiễm 8,5%
Trên 6 tháng tuổi nhiễm 6,4%
Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1978) [22], kết quả điều tra ở 37 nông
trường quốc doanh (1965 - 1968) trên 372 lợn mổ khám thấy tỷ lệ nhiễm một
số loài giun sán là: Ascaris suis 55 - 100% (22 - 88 giun/ lợn);
Trichocephalus suis cao nhất 100% (từ 155 đến vô số giun trên một con lợn).
Phạm Văn Khuê (1982) [6] nghiên cứu biến động nhiễm giun sán theo
tuổi lợn tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, theo tác giả điều này rất quan
trọng vì qua đó có thể nắm được lứa tuổi nào nhiễm giun sán cao, lứa tuổi nào
nhiễm thấp để có cơ sở khoa học xây dựng các biện pháp phòng trừ. Qua
kiểm tra 289 lợn ở 4 lứa tuổi (dưới 2 tháng, 3 - 4 tháng, 5 - 7 tháng và trên 8
tháng), kết quả cho thấy: Lợn con dưới 2 tháng tuổi đã nhiễm tới 12 loài trong

số 13 loài giun sán, có một số loài có sức gây bệnh mạnh, tỷ lệ nhiễm cao như
A. suum (48,7%); A. dentata (12,8%) và T. suis (30,7%). Trong 13 loài giun
sán có một số loài có chiều hướng tăng dần theo tuổi của vật chủ như: T.
hydatigena, M. elongatus, M. salmi, O. dentatum. Ngược lại A. suum và T.
suis có tỷ lệ cao giới hạn ở lứa tuổi từ 2 - 5 tháng tuổi, sau đó giảm dần.
22
23
+ Đường lây nhiễm
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [14], bệnh lây nhiễm qua đường tiêu
hóa do lợn nuốt phải trứng có sức cảm nhiễm lẫn trong thức ăn nước uống.
* Lây nhiễm trực tiếp: lợn bệnh bài xuất trứng giun T. suis qua phân,
những trứng này phát tán trên nền chuồng, máng ăn, máng uống. Vì vậy lợn
khoẻ dễ dàng bị nhiễm trứng giun tròn. Lây nhiễm trực tiếp chủ yếu giữa lợn
bệnh và lợn khoẻ trong cùng một ô chuồng. Lợn con nhiễm bệnh chủ yếu khi
bú sữa mẹ, nuốt phải trứng bám ở đầu vú lợn mẹ.
* Lây nhiễm gián tiếp: dụng cụ chăn nuôi, người chăm sóc cũng là tác
nhân mang mầm bệnh. Đây là những yếu tố trung gian góp phần lây nhiễm
giun tròn từ lợn bệnh sang lợn khoẻ từ ô chuồng này sang ô chuồng khác.
Ngoài ra, ruồi, chuột cũng có thể phân tán trứng giun, gió cuốn trứng
giun theo bụi, mang trứng giun T. suis từ chuồng này sang chuồng khác gây
phát tán mầm bệnh.
+ Mùa vụ
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [14], bệnh giun T. suis lây nhiễm
quanh năm, nhưng tập trung từ mùa xuân tới mùa thu. Mùa đông, thời tiết
lạnh, ẩm độ thấp, không thích hợp cho trứng phát triển thành dạng trứng cảm
nhiễm nên tỷ lệ nghiễm giun trong đàn lợn giảm đi.
Nguyễn Đăng Khải, Nguyễn Đăng Nhượng (1975) mổ khám 89 con lợn
ở vùng đồng bằng và miền núi thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Bình
Định cho biết: Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun T. suis có sự khác nhau giữa các
vùng, trong đó sự khác nhau này có liên quan đến khí hậu giữa các vùng. Vùng

đồng bằng, do mùa khô hạn kéo dài, nhiều ánh sáng (tổng số giờ nắng 2000 -
2300 giờ/ năm) nhiệt độ những tháng nóng có thể lên tới 38 - 40
0
C nên tỷ lệ
nhiễm các loài giun sán nói chung đều thấp, đặc biệt là các loài giun sán nhiễm
trực tiếp như T. suis (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs 1978 [22]).
+ Phương thức nuôi
Phương thức chăn nuôi là một trong những yếu tố quan trọng có ảnh
hưởng tới khả năng nhiễm giun T. suis của lợn. Phạm Sỹ Lăng và cs (2009)
[14] cho rằng các cơ sở chăn nuôi mà điều kiện vệ sinh kém, lợn bị nhiễm
bệnh với tỷ lệ cao, gây thiệt hại đáng kể cho đàn lợn con.
23
24
Phạm Văn Khuê (1967) đã mổ khám 141 lợn và xét nghiệm 619 mẫu
phân ở tỉnh Hà Bắc, thấy 13 loài giun sán. Trong đó, những loài phổ biến là:
Fasciolopsis buski, Ascaris suum, Trichocephalus suis, Taenia hydatigena.
Những loài giun tròn phát triển như Trichocephalus suis thì tỷ lệ nhiễm đến
100%. Những loài giun sán phải qua ký chủ trung gian như sán lá ruột, giun
đầu gai thì tỷ lệ nhiễm khác nhau tùy theo điều kiện đất đai, thức ăn (trồng ở
nước hay ở cạn), sự tồn tại hay không của các ký chủ trung gian và điều kiện
vệ sinh chăn nuôi (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs 1978 [22]).
Phan Văn Lan (1970) mổ khám 57 lợn và xét nghiệm 1000 mẫu phân tại
xã Yên Nguyên (Tuyên Quang) cho thấy tỷ lệ nhiễm các loài giun tròn ở lợn
nuôi thả rông là 96,5%. Trong đó, tỷ lệ nhiễm giun T. suis ở lợn nuôi nhốt là
30%; lợn nuôi thả rông là 47% (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1978) [22]
+ Yếu tố Stress
Các yếu tố stress (chuồng trại chật chội, thức ăn kém dinh dưỡng, nhiệt
độ và ẩm độ môi trường thay đổi ) đóng vai trò thúc đẩy mức độ và tốc độ
lây lan bệnh giun T. suis ở lợn.
- Cơ chế sinh bệnh

+ Đường bài xuất mầm bệnh
Lợn mắc bệnh sau một thời gian thì bài xuất trứng theo phân ra ngoại
cảnh. Vì vậy, trứng được phát tán rộng rãi ở ngoài tự nhiên và quá trình phát
triển bắt đầu để tạo thành các trứng có sức gây bệnh (trứng có chứa ấu trùng
bên trong).
+ Đường xâm nhập vào cơ thể
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [7] cho biết: Bệnh lây nhiễm trực
tiếp không qua vật chủ trung gian. Trứng có sức gây bệnh xâm nhập vào cơ
thể vật chủ qua đường tiêu hóa do lợn ăn phải thức ăn, nước uống có chứa
trứng giun.
+ Vị trí gây bệnh
Giun T. suis ký sinh và gây bệnh ở ruột già lợn, đặc biệt ở manh tràng
và kết tràng.
+ Quá trình sinh bệnh
Ngoài tác động chiếm đoạt dinh dưỡng của lợn, giun T. suis còn gây tác
hại nặng nề cho lợn.
24
25
* Tác hại cơ giới: Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [7], Phạm
Sỹ Lăng và cs (2006) [13], phần đầu của giun nhỏ dài cắm sâu vào thành ruột
gây tổn thương, làm niêm mạc ruột già bị viêm và xuất huyết, gây rối loạn
tiêu hóa, làm cho lợn có hội chứng hồng lỵ .
* Tác hại mang trùng: Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996) [2], giun T.
suis ký sinh gây tổn thương, tạo điều kiện cho các nhân tố khác xâm nhập.
Nhân tố gây bệnh kế phát là xoắn khuẩn và phẩy khuẩn.
* Tác hại tiết độc tố: Độc tố là những sản phẩm mà giun bài tiết ra cho
ký chủ trúng độc, gầy còm, thiếu máu gây rối loạn tiêu hóa.
- Triệu chứng lâm sàng và bệnh tích của lợn bị bệnh Trichocephalus suis
+ Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng của bệnh thay đổi tùy thuộc vào tuổi con vật, số

lượng giun ký sinh trong từng cơ thể lợn. Ở những lợn trưởng thành không
thấy biểu hiện triệu chứng lâm sàng nhưng khi kiểm tra phân mới thấy lợn
nhiễm giun T. suis.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2001) [11], Phan Địch Lân và cs (2005)
[15], khi lợn nhiễm nhẹ thì triệu chứng không rõ ràng. Khi nặng thì con vật
gầy yếu, thiếu máu, trong phân có lẫn máu và niêm mạc ruột, có khi con vật
bị kiết lỵ. Nếu nhiễm bệnh nhân tạo với lượng trứng lớn (20.000 - 200.000
trứng), thì triệu chứng biểu hiện rất nặng: Ỉa chảy, hô hấp khó, lợn có thể chết.
Lợn bị nhiễm bệnh mãn tính còi cọc, thiếu máu, tăng trọng giảm.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [14] cho biết: Lợn ở lứa tuổi 2 - 4 tháng
tuổi nhiễm bệnh xuất hiện các dấu hiệu như ỉa chảy, lúc đầu phân lỏng, sau
phân sệt có nhiều chất nhầy, lẫn máu. Mỗi lần thải phân, lợn bệnh phải cong
lưng rặn nhưng lượng phân thải ra ít. Nếu không được điều trị, lợn bệnh sẽ
kiệt sức và chết sau 6 - 10 ngày.
Theo Skrjabin K.I (1979) [29], triệu chứng bệnh giun T. suis phụ thuộc
vào cường độ cảm nhiễm. Khi nhiễm nặng, lợn có biểu hiện da khô, xù lông,
ỉa chảy rồi bị táo bón Độc tố do T. suis tiết ra có tác động gây bệnh mạnh,
làm cho vi nhung mao và các tế bào biểu mô mất đi tính chất cấu tạo và bị
phân hủy.
25

×