1
DANH MỤC BẢNG BIỂU
1
2
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
2
3
DANH MỤC ẢNH
Ảnh 1: Mẫu phân lợn thu thập ở các xã Phủ Lý, huyện Phú Lương, tỉnh
Thái Nguyên
Ảnh 2: Ảnh trứng giun tóc ở lợn mới theo phân ra ngoài
Ảnh 3: Phương pháp Fulleborn tìm trứng giun tóc lợn
Ảnh 4: Lợn nuôi trong tình trạng VSTY kém tại hộ Liêu Ngọc Hiền – xóm
Bản Eng – xã Phủ Lý – huyện phú Lương
Ảnh 5: Lợn bị bệnh giun tóc có biểu hiện triệu chứng lâm sàng tại gia đình
ông Đoàn Văn Thư - xóm Na Dau - xã Phủ Lý - huyện Phú Lương
Ảnh 6: Thí nghiệm theo dõi sự phát triển và khả năng sống của trứng
giun tóc trong phân lợn ở ngoại cảnh
Ảnh 7: Thuốc tẩy giun tóc cho lợn
Ảnh 8: Tiêm thuốc điều trị bệnh giun tóc cho lợn tại nhà ông Hoàng Văn
Long - xóm Na Dau - xã Phủ Lý - huyện Phú Lương
3
4
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
TR : Trang
Cs : Cộng sự
% : Tỷ lệ phần trăm
≤ : Nhỏ hơn hoặc bằng
< : Nhỏ hơn
> : Lớn hơn
Kg : Kilogram
µm : Micrômét
mm : Milimét
NXB : Nhà xuất bản
T. suis : Trichocephalus suis
TT : Thể trọng
n : Dung lượng mẫu
4
5
MỤC LỤC
5
6
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Đất nước ta đang trong thời kì hội nhập đòi hỏi các chủ thể kinh tế, các
ngành, các thành phần kinh tế phải không ngừng phát triển để tạo chỗ đứng
của mình trên thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế. Trong xu
thế chung đó đòi hỏi ngành chăn nuôi không ngừng học hỏi, tích lũy kinh
nghiệm để tạo sản phẩm có chất lượng cao cung cấp cho người dùng trong
nước và quốc tế. Đặc biệt, khi Việt Nam gia nhập WTO đã mở ra cho nền
kinh tế Việt Nam nói chung và ngành chăn nuôi Việt Nam nói riêng những
mặt thuận lợi đồng thời cũng gặp không ít những khó khăn.
Trong ngành chăn nuôi thì chăn nuôi lợn có một vị trí rất quan trọng.
Nghề nuôi lợn luôn được chú ý phát triển, ngày càng chiếm ưu thế và có tầm
quan trọng đặc biệt trong đời sống nhân dân. Con lợn đã cung cấp 70 - 80%
nhu cầu về thịt cho thị trường trong nước và xuất khẩu, đồng thời cung cấp
nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến và phân bón cho ngành trồng
trọt. Để đáp ứng nhu cầu thị trường, trong những năm gần đây chăn nuôi lợn
đã có những bước phát triển vượt bậc, tăng nhanh cả về số lượng và chất
lượng với nhiều phương thức nuôi khác nhau góp phần tăng thu nhập cho
người dân. Tuy nhiên, ngoài những điều kiện thuận lợi, còn có nhiều khó
khăn trong việc phát triển chăn nuôi lợn, nhất là những tổn thất do dịch bệnh
gây ra. Vì vậy, ngành chăn nuôi lợn muốn phát triển bền vững được thì công
tác thú y cần được quan tâm đặc biệt hơn nữa. Ngoài những bệnh truyền
nhiễm thường gặp như: Dịch tả, tụ huyết trùng, phó thương hàn…còn phải kể
đến các bệnh do ký sinh trùng. Trong đó có bệnh giun tóc gây ra ở lợn
(Trichocephalus suis) gây ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng, đặc biệt là
làm tiêu tốn thức ăn, giảm tăng trọng từ 15 – 20% so với lợn không bị bệnh.
Huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên là một huyện miền núi, phần lớn
nhân dân có thu nhập từ nông nghiệp là chủ yếu. Trong đó, chăn nuôi lợn
chiếm một vị trí quan trọng. Tuy nhiên, công tác phòng chống bệnh giun tóc ở
6
7
lợn vẫn chưa được chú ý. Vì vậy, để góp phần hạn chế tác hại của bệnh giun
tóc gây ra cho đàn lợn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Bệnh giun
tóc ở lợn nuôi tại một số xã thuộc huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên và
biện pháp phòng trị”.
1.2. Mục đích của đề tài
- Nghiên cứu tình hình nhiễm giun tóc ở lợn tại một số xã của huyện
Phú Lương.
- Nghiên cứu sự phát tán trứng và ấu trùng giun tóc ở ngoài ngoại cảnh.
- Xác định những biểu hiện lâm sàng của bệnh.
- Xác định một số loại thuốc điều trị bệnh giun tóc ở lợn
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa học tập
- Áp dụng được lý thuyết đã học vào thực tế và học hỏi được thêm
nhiều kiến thức bổ ích từ bên ngoài trường học.
- Củng cố được kiến thức cơ sở cũng như chuyên ngành, sau này có
điều kiện tốt hơn để phục vụ công tác phát triển ngành chăn nuôi nước nhà.
1.3.2. Ý nghĩa trong nghiên cứu khoa học
- Tạo điều kiện cho sinh viên được tiếp xúc, làm quen với thực tế công
tác nghiên cứu khoa học.
- Góp phần hoàn chỉnh dữ liệu về đặc điểm dịch tễ của bệnh giun tóc ở
lợn.
- Là cơ sở khoa học để lựa chọn các biện pháp phòng và trị bệnh giun
tóc có hiệu quả.
1.3.3. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở xác định tình hình nhiễm, đặc điểm dịch tễ bệnh giun tóc
đưa ra lời khuyến cáo thiết thực đối với các hộ chăn nuôi lợn để người dân có
biện pháp phòng trị bệnh có hiệu quả. Từ đó, góp phần đảm bảo sức khỏe đàn
lợn góp phần tăng năng suất chăn nuôi.
7
8
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Những hiểu biết về giun tóc ký sinh ở lợn
2.1.1.1. Vị trí của giun tóc trong hệ thống phân loại động vật
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [19], Phan Thế Việt và cs (1977)
[31], vị trí của tóc trong hệ thống phân loại động vật như sau:
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Enoplia Chitwood, 1933
Bộ Trichocephalida Skrjabin et Schulz. 1928
Phân bộ Trichocephalata Skrjabin et Schulz. 1928
Họ Trichocephalidae Baird, 1953
Phân họ Trichocephaliae Ranson, 1911
Giống Trichocephalus Schrank, 1788
Loài Trichocephalus suis Schrank, 1788
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái, kích thước, cấu tạo của giun tóc ký sinh ở lợn
* Đặc điểm hình thái, kích thước và cấu tạo giun tóc ở lợn
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [19] cho biết: Giun đực: Dài 37,52 – 40,63
mm, rộng nhất 0,634 – 0,713 mm. Phần trước cơ thể dài 23,48 – 25,75 mm;
phần sau dài 14,00 – 15,00 mm; có dạng xoắn lò xo. Gai sinh dục dài 1,70 –
2,55 mm; rộng 0,07 – 0,10 mm; mút cuối gai nhọn. Bao gai phủ đầy gai nhỏ.
Con cái: Cơ thể dài 37,89 – 50,60 mm; rộng 0.734 – 1,012 mm; phần
trước cơ thể dài 23 – 33 mm. Ống sinh dục đơn. Âm đạo có thành cơ dày,
chứa đầy trứng. Kích thước trứng 0,024 – 0.027 x 0,056 – 0,061mm.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17]: Giun có màu trắng đục; thân
chia ra làm hai phần rõ rệt: phần đầu nhỏ, trông giống như sợi tóc; phần sau
ngắn và to, bên trong là ruột và cơ quan sinh sản. Giun đực đuôi hơi tù, cuộn
tròn lại, có một gai giao hợp dài 1,70 – 2 mm, lỗ huyệt thông ra ngoài ở phần
cuối của giun. Giun cái đuôi thẳng, hậu môn ở vào đoạn cuối thân.
Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [15] cho biết: Hình thể giun giống một sợi
tóc màu trắng. Cơ thể chia thành hai phần rõ rệt. Phần trước nhỏ như sợi tóc,
dưới lớp biểu bì là thực quản, thực quản do các tế bào xếp nối tiếp như chuỗi
8
9
hạt, phần này chiếm 2/3 chiều dài cơ thể cơ thể. Phần sau ngắn và to, bên
trong là ruột và cơ quan sinh sản. Giun đực dài 20 – 52 mm đuôi hơi tù, phần
đuôi cuộn tròn lại chỉ có một gai giao hợp rất dài 5 -7 mm, gai giao hợp được
bọc trong một cái màng có nhiều gai nhỏ bao phủ. Giun cái dài 39 – 53 mm,
đuôi thẳng, âm hộ ở vào đoạn cuối cùng của thực quản
Theo Skrjabin K.I. (1979) [34], con đực có chiều dài thân trung bình là
40,35 mm; tối thiểu 33,0 mm; tối đa là 48,0 mm. Chiều dài của phần trước
trung bình là 25,3 mm (20 - 30 mm); phần sau 15,1 mm (12 - 19 mm). Tỷ lệ
chiều dài của phần trước với phần sau là 1,68 : 1. Thân con đực phủ lớp cutin
được vạch bởi nhiều rãnh ngang, làm cho lớp cutin có nhiều mấp mô, hình
răng nhỏ. Thực quản kéo dài dọc theo phần mỏng trước thân và rộng của phần
trước thực quản 0,035 - 0,44 mm; của chỗ chuyển vào ruột 0,074 - 0,092 mm.
Thực quản được bao quanh bởi một hàng tế bào đơn nhân chuyển vào ruột ở
chỗ ranh giới giữa phần mỏng và dày của thân. Chiều theo dạng móc xích.
Ruột kết thúc bởi huyệt trên phần đuôi. Hệ thống sinh dục của con đực gồm
những ống dẫn tinh uốn khúc chiếm hầu hết phần sau thân.
Đuôi con đực vòng xoắn ốc. Gai giao hợp kết thúc bằng một đỉnh nhọn.
Chiều dài gai xê dịch từ 1,74 - 2,48 mm. Chỗ rộng nhất của gai là gốc gai dài
0,084 - 0,110 mm. Có bao gai bọc chung quanh và cùng với gai lồi ra khỏi lỗ
huyệt. Bao gai được phủ bởi rất nhiều gai nhỏ, những gai này xếp theo thứ tự
quân cờ. Số lượng hàng gai nhỏ gần nơi chuyển của bao vào thân là 24 - 42; ở
đầu đối diện với nó số lượng hàng tăng tới 44 - 56. Hình dạng bao gai tròn,
căng, dài 0,044 mm. Chiều rộng của bao gai ở chỗ lồi ra khỏi huyệt tăng lên
về kích thước: Chiều rộng chỗ gần huyệt là 0,057 - 0,092 mm; trong khi đó ở
chỗ cuối gai là 0,079 - 0,159 mm. Tất cả con đực có một đầu bao gai gập hình
cổ tay áo hay là hình bao tay, bao này một phần hay toàn bộ bao phủ phần bao
gai lồi ra khỏi thân. Chiều dài của chỗ gập là 0,242 - 0,330 mm; rộng là 0,290
- 0,352 mm.
Con cái: Chiều dài thân trung bình 45,55 mm; tối thiểu 38 mm và tối đa
53 mm. Chiều dài phần trước mỏng của thân trung bình là 30,55 mm (25 – 35
mm); chiều dài phần sau dày là 15 mm (13 - 18 mm). Như vậy tỷ lệ giữa phần
9
10
trước và phần sau là 2,04:1. Trên ranh giới chỗ chuyển tiếp của phần thân
trước và phần thân sau, hơi dịch về phía sau cách đầu cuối của thực quản có
âm hộ. Âm hộ này nhô ra ngoài, dạng hình trụ hơi cong về phía sau (0,037 -
0,061 mm) và hơi rộng ở chỗ cạnh tự do (0,050 - 0,075 mm). Chỗ này được
phủ rất nhiều gai nhỏ hình lưới (3 - 4 μm). Ngay trước âm hộ, tử cung có hình
ống thẳng hay hơi cong, dài 0,92 - 1,28 mm; trong tử cung có trứng xếp thành
một hàng. Đuôi con cái tù.
Hình 1.1. Ảnh giun tóc Trichocephalus suis
a: Trứng giun; b: Giun cái; c: Giun đực
(Nguồn: Phan Địch Lân và cs 2005 [18])
* Đặc điểm hình thái, cấu tạo trứng giun tóc ở lợn
Theo Phan Địch Lân và cs (2005) [18], trứng giun giống hình hạt
chanh, màu vàng nhạt, kích thước 0,052 – 0,061 x 0,027 – 0,03 mm. Hai cực
có hai nút trong, vỏ dày có 2 lớp.
Trịnh Văn Thịnh (1966) [26]cho biết: Trứng giun tóc có màu vàng
thẫm, vỏ dày, có nút ở mỗi cực, kích thước 50 - 56 x 21 - 25 μm. Tuy nhiên,
những trứng tác giả đo được thấy tương đối to hơn (66 x 30 - 37 μm). Trứng
không phân chia khi đẻ.
10
11
Theo Đỗ Dương Thái và cs (1975) [23], màu sắc trứng giun tóc là một
màu ổn định, thay đổi ít từ màu vàng nhạt đến màu vàng sẫm. Trứng giun tóc
có chu kỳ phát triển chậm, vì vậy hình dạng nhân bên trong ít có những thay đổi.
2.1.1.3. Vòng đời của giun tóc
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2012) [15] cho biết, vòng đời phát triển
của giun tóc diễn ra như sau:
Trichocephalus suis
(manh tràng) Trứng Ấu trùng
(có sức lây nhiễm)
Gia
súc
nuốt
Ấu trùng
Thời gian hoàn thành vòng đời là 30 – 52 ngày.
Sau khi thụ tinh giun cái đẻ trứng trong ruột già của ký chủ. Trứng theo
phân ra ngoài, gặp điều kiện thuận lợi qua 15 – 28 ngày trứng phát triển thành
trứng có sức gây bệnh. Trứng này theo thức ăn, nước uống vào đường tiêu
hóa của ký chủ, ấu trùng được nở ra, chui sâu vào niêm mạc ruột già, tiếp tục
phát triển thành giun trưởng thành.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [16], điều kiện thuận lợi nhất cho sự
phát triển của trứng giun tóc thành trứng có sức cảm nhiễm ở ngoài môi
trường là nhiệt độ từ 18 – 30
0
C, ẩm độ 80 - 85%.
Trịnh Văn Thịnh (1985) [29] cho biết, chu kỳ sinh học của giun tóc
gồm 2 giai đoạn: Một giai đoạn ở ngoài ngoại cảnh, phát triển từ trứng đến ấu
trùng cảm nhiễm; giai đoạn thứ hai ở ký chủ, ấu trùng cảm nhiễm phát triển
thành giun trưởng thành. Không có thời kỳ di hành trong cơ thể ký chủ.
Theo Phạm Văn Khuê và cs (1976) [10], Phan Địch Lân và cs (2005)
[18], thời gian hoàn thành vòng đời của giun tóc là 30 ngày.
Trịnh Văn Thịnh và cs (1985) [29], Đào Trọng Đạt và cs (1996) [4] cho
rằng, tuổi thọ của giun tóc ở lợn từ 4 – 5 tháng. Theo Lương Văn Huấn và cs
(1990) [6], giun tóc sống được trong cơ thể lợn 114 ngày.
t
0
, A
0
, pH
phân
Thọc sâu vào niêm mạc ruột
11
12
Skrjabin K.I. (1979) [34] cho rằng, giun tóc ở lợn phát triển vòng đời
không cần vật chủ trung gian. Trứng được bài tiết cùng với phân lợn ra môi
trường ngoại cảnh. Ở môi trường thuận lợi, thời gian để trứng phát triển thành
dạng cảm nhiễm từ 3 – 4 tuần. Trong thời gian này, có thể thấy ấu trùng đã
hình thành hoàn toàn và chuyển động bên trong trứng.
Bonner Stewart. T và cs (2000) [32] cho biết: Những ấu trùng giun tóc
nằm sâu trong niêm mạc 2 tuần, nhô ra khỏi niêm mạc ở tuần thứ 3 và phát
triển thành giun trưởng thành trong khi bám vào niêm mạc ruột già.
2.1.1.4. Sức đề kháng của trứng giun tóc ở lợn
Theo nguyễn Thị Kim Lan (2012) [15], trứng giun tóc có vỏ dày nên có
sức đề kháng cao với điều kiện ngoại cảnh. Sự phát triển của trứng phụ thuộc
vào nhiệt độ: Ở 30
0
C cần 17 ngày, ở nhiệt độ thấp hơn thời gian này kéo dài
hơn. Ở 10
0
C trứng ngừng phát triển nhưng vẫn duy trì khả năng sống. Từ
45
0
C trở nên trứng giun tóc bị tiêu diệt.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17], ở môi trường ngoại cảnh, trứng
giun tóc phát triển thuận lợi nhất ở nhiệt độ từ 18 – 30
0
C, ẩm độ 80 - 85% .
Đỗ Dương Thái và cs (1975) [23] cho rằng, trứng giun tóc ở lợn và
trứng giun Trichuris trichiura (giun tóc người) bị hủy hoại nếu ẩm độ dưới
30% kéo dài. Mặt khác, trứng giun tóc ở lợn có thể bị diệt bởi những tia tử
ngoại của ánh sáng mặt trời (Chicobanlova và Garo – dilova, 1950). Ở Việt
Nam, số giờ nắng rất nhiều nên trong mùa hè trứng giun tóc ở lợn dễ bị hủy
hoại ở ngoại cảnh. Trong cùng một thời gian dưới tác dụng của tia tử ngoại thì
trứng đã phát triển thành ấu trùng bị diệt nhanh hơn trứng non.
Sự phát triển của trứng giun Trichuris trichiura (giun tóc người) phụ
thuộc vào nhiệt độ như sau:
Nhiệt độ (
0
C) 15 20 25 30 35
Thời gian phát triển từ trứng
thành ấu trùng (ngày)
120 57 29 17,5 11
Tỷ lệ trứng phát triển thành
ấu trùng (%)
80 84 89 87 59
Đặng Văn Ngữ và cs (1965) [22] cho biết: Nhiệt độ phát triển thuận lợi
nhất của trứng giun Trichuris trichiura ở ngoại cảnh là 25 – 30
0
C. Thời gian
12
13
17 - 30 ngày tỷ lệ trứng có ấu trùng gần 90%. Nhiệt độ lên quá 50
0
C làm hỏng
phần lớn trứng trước khi tới giai đoạn ấu trùng. Như vậy, trứng giun tóc ở lợn
và trứng giun tóc ở người có giới hạn nhiệt độ phát triển thuận lợi ở ngoại
cảnh tương tự nhau.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [16], các chất sát trùng như dung dịch
NaOH – 2%, Cresyl 3%, nước vôi 10% diệt được trứng giun tóc.
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996 ) [19], trứng giun tóc ở lợn bị diệt
dưới tác dụng của ủ phân nhiệt sinh học. Sau 3 – 4 tuần, nhiệt độ hố ủ tăng lên
tới 45
0
C sẽ làm hủy trứng giun tóc. Tuy nhiên, trứng non có khả năng chịu
đựng các điều kiện nhiệt độ cao hơn trứng ở giai đoạn ấu trùng.
2.1.2. Bệnh do giun tóc gây ra ở lợn
2.1.2.1. Những thiệt hại kinh tế do bệnh giun tóc lợn gây ra
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [16], giun tóc ký sinh là một trong
những nguyên nhân làm giảm năng suất chăn nuôi và tạo điều kiện cho các
bệnh khác xâm nhập. Lợn bị nhiễm giun tóc giảm tăng trọng từ 15 – 20% so
với lợn khỏe.
Rutter. J. M và Beer. R. J. S (1974) [38], cho biết: Khi gây nhiễm
100.000 trứng giun tóc cho 9 con lợn khỏe thì sau 14 ngày những con lợn này
sinh trưởng đều giảm và sau 20 ngày gây nhiễm thì những con lợn được gây
nhiễm không tăng trọng nữa và giảm dần trọng lượng cho đến khi chết.
2.1.2.2. Dịch tễ học bệnh giun tóc ở lợn
* Phân bố bệnh giun tóc lợn ở lợn
Theo Phan Địch Lân và cs (2005) [18], Phạm Sỹ Lăng và cs (2006)
[16], bệnh giun tóc ở lợn phân bố trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, bệnh cũng
đã được phát hiện ở tất cả các tỉnh miền Bắc, miền Trung và miền Nam.
Lương Văn Huấn và cs (1990) [6] cho biết: Lợn ở Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên Huế nhiễm giun tóc 14%, Quảng Nam – Đà Nẵng 8,75%,
Quảng Ngãi – Bình Định 27,5%, Phú Yên – Khánh Hòa 8,3%, Lâm Đồng
10%, TP.Hồ Chí Minh 39%.
* Động vật mắc bệnh
Theo Phan Thế Việt và cs (1977) [31], lợn nhà và lợn rừng đều có khả
năng nhiễm bệnh.
13
14
Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17] cho biết, bệnh thường xảy ra đối với
lợn dưới 6 tháng tuổi. Lợn nái và lợn trưởng thành nhiễm giun nhẹ hơn, ít thể
hiện các triệu chứng lâm sàng.
Phan Địch Lân và cs (1974) đã điều tra trên các giống lợn Yorkshire,
Berkshire, Landrace nhập nội, lợn lai F
1
(ngoại x nội ) và giống lợn nội ở
vùng đồng bằng (Hà Nội, Hà Tây) cho biết thành phần các loại giun sán chính
ở lợn ngoại, lợn lai và lợn nội không khác nhau nhiều; các loài giun sán phổ
biến ở lợn ngoại và lợn lai là: T.suis, A.suum, O. ransomi (dẫn theo Trịnh
Văn Thịnh và cs 1978 [27].)
Bùi Quý Huy (2006) [8] cho biết, giun tóc ở lợn và giun tóc ở người có
nhiều điểm giống nhau về hình thái, hóa học và kháng nguyên, do đó bệnh
giun tóc ở lợn dễ lây sang người. Theo Nguyễn Phước Tương (2002) [30],
người nhiễm bệnh khi nuốt phải trứng giun tóc lợn lẫn trong nước hay thức ăn
thực vật chưa được nấu chín. Sau khi vào ruột người, ấu trùng phát triển thành
giun tóc trưởng thành, khu trú ở ruột thừa và gây bệnh cho người. Giun đẻ
trứng, trứng này được bài xuất ra ngoài qua phân người, sau khi phát triển và
chứa ấu trùng thì có khả năng gây nhiễm lại lợn (tuy nhiên tỷ lệ trứng phát
triển chỉ có 11%, trong khi trứng giun tóc ở lợn có tỷ lệ phát triển là 86%).
* Tuổi mắc bệnh
Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1978) [27], năm 1959 – 1960 khi xét
nghiệm phân trên 2200 lợn cho thấy: lợn từ 2 đến 6 tháng tuổi nhiễm giun tóc
với tỷ lệ 4,3 – 30%, trên 6 tháng tuổi 0,57 – 7,8%, dưới 2 tháng tuổi lợn
không bị nhiễm.
Bùi Lập (1967) mổ khám 140 lợn và xét nghiệm phân của 1032 lợn ở
các vùng khác nhau, nhận xét: Số lợn con chưa cai sữa (dưới 2 tháng tuổi ) đã
nhiễm nhiều loài giun sán như Fasciolopsis buski, Ascaris suum,
Trichocephalus suis, Oesophagostomum dentatum, Stephanurus dentatum.
Trong đó tỷ lệ nhiễm giun Trichocephalus suis là 53,3%. Lợn nhiễm giun tóc
cao nhất ở giai đoạn 2 - 6 tháng tuổi 51,7 – 75 % (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh
và cs 1978 [27]).
Phạm Văn Khuê (1982) [10] nghiên cứu biến động nhiễm giun sán theo
tuổi lợn tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, qua kiểm tra 289 lợn ở 4 lứa
14
15
tuổi (dưới 2 tháng, 3 – 4 tháng, 5 – 7 tháng và trên 8 tháng), kết quả cho thấy:
Lợn con dưới 2 tháng tuổi đã nhiễm tới 12 loài trong số 13 loài giun sán,
trong đó tỷ lệ nhiễm giun tóc là 30,7% và nhiễm với tỷ lệ cao ở lứa tuổi từ 2 –
5 tháng tuổi sau đó giảm dần.
Lương Văn Huấn và cs (1990) [6], cho biết, tỷ lệ nhiễm giun tóc theo
tuổi lợn như sau:
Dưới 3 tháng tuổi nhiễm 20,4%
Từ 3 – 4 tháng tuổi nhiễm 21,2%
Từ 5 – 6 tháng tuổi nhiễm 8,5%
Trên 6 tháng tuổi nhiễm 6,4%
Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996 ) [4], lợn ở giai đoạn 2 – 6 tháng tuổi
nhạy cảm nhất với giun tóc. Kết quả tại hợp tác xã Tiền Phong (Hà Nội) nuôi
lợn Ỉ lai Yorkshire, Berkshire tỷ lệ nhiễm giun tóc ở lợn dưới 2 tháng tuổi là
16%, trong khi lợn 5 tháng tuổi nhiễm 13,5% và lợn 7 tháng tuổi nhiễm 6,2
%. Tại hợp tác xã Đông Mỹ (Hà Nội ) tỷ lệ lợn dưới 2 tháng tuổi nhiễm giun
tóc là 20,8 %. Ngày tuổi bình quân phát hiện trứng giun tóc trong phân lợn
nội là 74 ngày (từ 58 – 89 ngày), lợn lai Landrace 56 ngày (43 – 64 ngày), lợn
lai Berkshire 61 ngày (56 – 75 ngày) và lợn ngoại 62 ngày (38 – 81 ngày).
Nguyễn Đăng Khải (1996) [9] cho biết, tỷ lệ nhiễm giun tóc ở lợn cao nhất
ở giai đoạn 2 – 6 tháng tuổi, sau đó giảm, ít gây tác hại đối với lợn lớn.
* Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tóc lợn
Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1978) [27], kết quả điều tra ở 37 nông
trường quốc doanh (1965 – 1968) trên 372 lợn mổ khám thấy tỷ lệ nhiễm giun
tóc cao nhất 100% (từ 155 đến vô số giun trên một con lợn).
Bộ môn ký sinh trùng thuộc Viện Khoa học nông nghiệp (1966) mổ
khám 48 lợn ở Hà Nội và vùng phụ cận, thấy tỷ lệ nhiễm giun tóc là 31,2%
(dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs 1978 [27]).
Tại Hải Phòng, Ngô Quang Tuyến, Trần Lâm Quang (1972) mổ khám
40 lợn và xét nghiệm phân của 2000 con lợn, thấy tỷ lệ nhiễm giun tóc ở lợn
là 27,5% (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs 1978 [27] ).
Theo Nguyễn Đăng Khải (1996) [9], tỷ lệ nhiễm giun tóc lợn ở 7 vùng
kinh tế như sau:
15
16
1. Trung du và miền núi bắc Bộ
+ Trung du : 29,8%
+ Miền núi : 27,8%
2. Đồng Bằng sông Hồng : 24,8%
3. Bắc Trung Bộ : 13,9%
4. Nam Trung Bộ
+ Đồng bằng : 17,5%
+ Miền núi : 34,7%
5. Tây Nguyên : 20,8%
6. Tây Nam Bộ : 9,40%
7. Đông Nam Bộ : 13,1%
* Đường lây nhiễm
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17], bệnh lây nhiễm qua đường tiêu
hóa do lợn nuốt phải trứng có sức cảm nhiễm lẫn trong thức ăn nước uống.
+ Lây nhiễm trực tiếp: Lợn bệnh bài xuất trứng giun tóc qua phân,
những trứng này phát tán trên nền chuồng, máng ăn, máng uống. Vì vậy lợn
khoẻ dễ dàng bị nhiễm trứng giun tóc. Lây nhiễm trực tiếp chủ yếu là giữa lợn
bệnh và lợn khoẻ trong cùng một ô chuồng. Lợn con nhiễm bệnh chủ yếu khi
bú sữa mẹ, nuốt phải trứng bám ở đầu vú lợn mẹ.
+ Lây nhiễm gián tiếp: Dụng cụ chăn nuôi, người chăm sóc cũng là tác
nhân mang mầm bệnh. Đây là những yếu tố trung gian góp phần lây nhiễm giun
tóc từ lợn bệnh sang lợn khỏe, từ ô chuồng này sang ô chuồng khác.
Ngoài ra ruồi, chuột cũng có thể phân tán trứng giun tóc, gió cuốn
trứng giun theo bụi, mang trứng giun từ chuồng này sang chuồng khác gây
phát tán mầm bệnh.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm giun tóc ở lợn
+ Mùa vụ
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17], bệnh giun tóc lây nhiễm quanh
năm nhưng tập trung từ mùa xuân tới mùa thu. Mùa đông, thời tiết lạnh, ẩm
độ thấp, không thích hợp cho trứng phát triển thành dạng trứng cảm nhiễm
nên tỷ lệ nghiễm giun trong đàn lợn giảm đi.
16
17
Nguyễn Đăng Khải, Nguyễn Đăng Nhượng (1975) mổ khám 89 con lợn
ở vùng đồng bằng và miền núi thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Bình
Định cho biết: Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tóc lợn có sự khác nhau giữa các
vùng, trong đó sự khác nhau này có liên quan đến khí hậu giữa các vùng.
Vùng đồng bằng, do mùa khô hạn kéo dài, nhiều ánh sáng (tổng số giờ nắng
2000 – 2300 giờ/ năm) nhiệt độ những tháng nóng có thể lên tới 38 – 40
0
C
nên tỷ lệ nhiễm các loài giun sán nói chung đều thấp, đặc biệt là các loài giun
sán nhiễm trực tiếp như T. suis (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs 1978 [27]).
+ Phương thức chăn nuôi
Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17] cho rằng các cơ sở chăn nuôi mà điều
kiện vệ sinh kém, lợn bị nhiễm bệnh với tỷ lệ cao, gây thiệt hại đáng kể cho
đàn lợn con.
Phạm Văn Khuê (1967) đã mổ khám 141 lợn và xét nghiệm 619 mẫu
phân ở tỉnh Hà Bắc, thấy 13 loài giun sán. Trong đó, những loài phổ biến là:
Fasciolopsis buski, Ascaris suum, Trichocephalus suis, Taenia hydatigena.
Những loài giun tròn phát triển trực tiếp như Trichocephalus suis thì tỷ lệ
nhiễm đến 100% ( dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs 1978 [27]).
Phan Văn Lan (1970) mổ khám 57 lợn và xét nghiệm 1000 mẫu phân
tại xã Yên Nguyên (Tuyên Quang) cho thấy tỷ lệ nhiễm giun tóc ở lợn nuôi nhốt
là 30%; lợn nuôi thả rông là 47% (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs 1978 [27]).
Bornay F.J và cs (2003) [40] cho biết: Kiểm tra 5 trại lợn chăn nuôi
theo phương thức công nghiệp tại tỉnh Alicante (Tây Ban Nha) thấy tỷ lệ
nhiễm giun tóc là 11%.
Andrzej Polozowski và cs (2005) [39] đã nghiên cứu ảnh hưởng của
phương thức chăn nuôi đến tỷ lệ và cường độ nhiễm ký sinh trùng lợn. Kiểm
tra 100 lợn từ 11 trang trại nhỏ ở vùng Wielkopolskie, tùy điều kiện chăn nuôi
số trang trại trên được chia thành 2 nhóm: Nhóm A (4), nhóm B (7). Ở nhóm
A: Phân và chất thải được xử lý hằng ngày, máng ăn được cọ rửa sạch sẽ,
lượng ánh sáng và chế độ thông gió được đảm bảo. Ngoài ra, chuồng trại
được vệ sinh, khử trùng tiêu độc thường xuyên. Nhóm B: Phân lợn và các
chất thải được xử lý sau 3 ngày hoặc lâu hơn. Máng ăn ít được cọ rửa, chuồng
trại ẩm thấp và tối, vấn đề khử trùng chuồng nuôi không được chú ý.
17
18
Kết quả cho thấy, lợn nhóm A chỉ nhiễm Oesophagostomum spp và
Ascaris suum, trong khi đó lợn nhóm B ngoài 2 loài trên còn xuất hiện
Trichocephalus suis, Strongyloides ransomi và coccidia. Với tỷ lệ nhiễm giun
Trichocephalus suis là 5,2%. Tác giả nhận xét: Phương thức chăn nuôi ảnh
hưởng đến sự xuất hiện loài cũng như tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng lợn.
+ Yếu tố Stress
Các yếu tố stress (chuồng trại chật chội, thức ăn kém dinh dưỡng, nhiệt
độ và ẩm độ môi trường thay đổi đột ngột ) đóng vai trò thúc đẩy mức độ và
tốc độ lây lan bệnh giun tóc ở lợn.
2.1.2.3. Cơ chế sinh bệnh
* Đường bài xuất mầm bệnh
Lợn mắc bệnh sau một thời gian thì bài xuất trứng theo phân ra ngoại
cảnh. Vì vậy, trứng được phát tán rộng rãi ở ngoài tự nhiên và quá trình phát
triển bắt đầu để tạo thành các trứng có sức gây bệnh (trứng có chứa ấu trùng
bên trong).
* Đường xâm nhập vào cơ thể
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [13] cho biết: Bệnh lây nhiễm trực
tiếp không qua vật chủ trung gian. Trứng có sức gây bệnh xâm nhập vào cơ
thể vật chủ qua đường tiêu hóa do lợn ăn phải thức ăn, nước uống có chứa
trứng giun.
* Vị trí gây bệnh
Giun tóc ký sinh và gây bệnh ở ruột già lợn, đặc biệt ở manh tràng và
kết tràng.
* Quá trình sinh bệnh
Ngoài tác động chiếm đoạt dinh dưỡng của lợn, giun tóc còn gây tác
hại nặng nề cho lợn.
- Tác hại cơ giới: Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [13], Phạm
Sỹ Lăng và cs (2006) [16], phần đầu của giun nhỏ dài cắm sâu vào thành ruột
gây tổn thương, làm niêm mạc ruột già bị viêm và xuất huyết, gây rối loạn
tiêu hóa, làm cho lợn có hội chứng hồng lỵ .
- Tác hại mang trùng: Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996) [4], Nguyễn
Thị Kim Lan (2012) [15], giun tóc ký sinh gây tổn thương, tạo điều kiện cho các
nhân tố khác xâm nhập. Nhân tố gây bệnh kế phát là xoắn khuẩn và phẩy khuẩn.
18
19
- Tác hại tiết độc tố: Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [15], trong quá
trình sống, giun tóc tiết độc tố và thải cặn bã làm con vật trúng độc.
2.1.1.4. Triệu chứng lâm sàng và bệnh tích của lợn bị bệnh giun tóc
* Triệu chứng lâm sàng
Theo Phan Địch Lân và cs (2005) [18], Nguyễn Thị Kim Lan (2012)
[15], khi lợn nhiễm nhẹ thì triệu chứng không rõ ràng. Khi nặng thì con vật
gầy yếu, thiếu máu, trong phân có lẫn máu và niêm mạc ruột, có khi con vật
bị kiết lỵ. Nếu nhiễm bệnh nhân tạo với lượng trứng lớn (20.000 – 200.000
trứng), thì triệu chứng biểu hiện rất nặng: Ỉa chảy, hô hấp khó, lợn có thể chết.
Lợn bị nhiễm bệnh mãn tính còi cọc, thiếu máu, tăng trọng giảm.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17] cho biết: Lợn ở lứa tuổi 2 – 4 tháng
tuổi nhiễm bệnh xuất hiện các dấu hiệu như ỉa chảy, lúc đầu phân lỏng, sau
phân sệt có nhiều chất nhày, lẫn máu. Mỗi lần thải phân, lợn bệnh phải cong
lưng rặn nhưng lượng phân thải ra ít. Nếu không được điều trị, lợn bệnh sẽ
kiệt sức và chết sau 6 – 10 ngày. Mặt khác, phần đầu của giun cắm sâu vào
thành ruột để hút chất dinh dưỡng, gây tổn thương, tạo điều kiện cho viêm
ruột già nhiễm khuẩn. Các tổn thương cũng có thể gây xuất huyết ruột già,
làm cho lợn có hội chứng hồng lỵ. Lợn bị bệnh mãn tính còi cọc, thiếu máu,
tăng trọng giảm.
Theo Trần Thị Dân (2008) [3], ruột già khác ruột non ở chỗ: Không có
nhung mao nhưng có vi nhung mao. Về tổng quát, ruột non là nơi tiết nước
còn ruột già là nơi hấp thu nước. Ruột già nguyên vẹn có thể hấp thu bù trừ nước
khi ruột non tiết nhiều. Tuy nhiên, những tổn thương ở ruột già do tác động của
giun tóc ký sinh sẽ làm giảm khả năng tái hấp thu nước, dẫn đến tiêu chảy.
Theo Skrjabin K.I (1979) [34], triệu chứng bệnh giun tóc ở lợn phụ
thuộc vào cường độ cảm nhiễm. Khi nhiễm nặng, lợn có biểu hiện da khô, xù
lông, ỉa chảy rồi bị táo bón Độc tố do giun tóc ở lợn tiết ra có tác động gây
bệnh mạnh, làm cho vi nhung mao và các tế bào biểu mô mất đi tính chất cấu
tạo và bị phân hủy.
Theo Rutter. J. M và Beer. R. J. S (1974) [38], khi gây nhiễm trứng
giun tóc cho lợn khỏe thì sau 10 ngày lợn bắt đầu ỉa phân lỏng. Sau 26 ngày
thì những con lợn này bị tiêu chảy nặng và trong phân có lẫn máu tươi và
nhiều chất nhầy.
19
20
* Bệnh tích:
Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [15] cho biết: Xác lợn chết gầy, có nhiều
giun ở ruột già (nhất là ở manh tràng). Một số giun vẫn cắm sâu vào niêm
mạc ruột, phải kéo mạnh mới lấy ra được. Trên niêm mạc ruột có nốt loét to
bằng hạt đậu xanh. Khi bị nhiễm nặng, toàn bộ ruột già có giun tóc ký sinh
dày đặc, niêm mạc ruột sần sùi, xuất huyết, lớp chất nhầy trên niêm mạc có
màu hồng sẫm. Niêm mạc ruột có thể bị bong tróc từng mảng.
Đào Trọng Đạt và cs (1996) [4] cho biết: Về mặt tổ chức học, giun tóc
ở lợn ký sinh gây viêm niêm mạc, thâm nhiễm tế bào, hình thành nhiều vết
loét và tạo ra nhiều niêm dịch.
Theo Rutter. J. M và Beer. R. J. S (1974) [38], khi mổ khám những con
con lợn bị bệnh giun tóc thấy: Viêm ruột tăng lên trong hầu hết các trường
hợp, thành ruột già dày lên và phù thũng, trong ruột chứa chất nhày, máu và
các tế bào hoại tử bong ra từ lớp niêm mạc.
2.1.2.5. Chẩn đoán
Việc chẩn đoán bệnh giun tóc ở lợn có thể dựa vào đặc điểm dịch tễ,
triệu chứng lâm sàng của bệnh, xét nghiệm phân lợn và kiểm tra bệnh tích.
* Với lợn còn sống:
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [12], để chẩn đoán bệnh có thể
áp dụng hai phương pháp là chẩn đoán lâm sàng kết hợp với đặc điểm dịch tễ
và chẩn đoán trong phòng thí nghiệm.
Phương pháp chẩn đoán lâm sàng kết hợp với đặc điểm dịch tễ: Những
biểu hiện lâm sàng cần chú ý là lợn ăn kém, gầy yếu, da khô, lông xù, ỉa
chảy Về đặc điểm dịch tễ học, cần căn cứ vào lứa tuổi mắc bệnh, mùa vụ,
tình trạng vệ sinh thú y Tuy nhiên, nếu căn cứ vào các đặc điểm nói trên để
chẩn đoán thì sẽ không chính xác. Bởi vì các bệnh ký sinh trùng thường có
những triệu chứng lâm sàng tương tự nhau (rối loạn tiêu hóa, thể trạng gầy, da
khô, lông xù ). Vì vậy, để chẩn đoán chính xác bệnh phải tiến hành xét
nghiệm phân tìm trứng giun tóc.
Phương Pháp chẩn đoán trong phòng thí nghiệm: Theo Phan Lục
(2006) [21], có 4 phương pháp xét nghiệm phân:
20
21
- Phương pháp trực tiếp
Dùng đũa thủy tinh lấy 1 mẫu phân của con vật định xét nghiệm, để
mẫu phân lên phiến kính sạch: Nhỏ 1 – 2 giọt glycerin, gạt cặn bã ra 2 đầu
phiến kính. Dung dịch phân được giàn mỏng trên phiến kính và kiểm tra dưới
kính hiển vi tìm trứng giun tóc.
- Phương Pháp Fullerborn
Nguyên lý của phương pháp này dựa trên sự chênh lệch về tỷ trọng của
dung dịch muối NaCl bão hòa (D = 1,18 – 1,20) lớn hơn tỷ trọng của trứng
giun tóc, do trứng sẽ nổi lên trên, ta có thể tìm thấy trứng giun tóc dưới kính
hiển vi (độ phóng đại x 100 hoặc x 400).
Dung dịch muối bão hòa được pha bằng cách: Lấy 1 lít nước sôi, cho
380 g muối NaCl vào (hoặc đun sôi nước, cho từ từ muối vào), khuấy đều đến
khi muối không tan được nữa, khi để nguội trên mặt có lớp muối kết tinh là
được. Lọc qua vải màn hoặc bông, bỏ cặn.
Cách xét nghiệm như sau: dùng đũa thủy tinh lấy một mẫu phân khoảng
5 – 10 gam của con vật cần xét nghiệm, chẩn đoán. Để phân vào cốc thủy
tinh, cho tiếp nước muối bão hào vào cốc với lượng thể tích gấp 10 lần khối
lượng phân. Dùng đũa thủy tinh khuấy nát phân và lọc qua lưới lọc. Phần cặn
bã bỏ đi, dung dịch lọc được đổ vào ống penicillin sao cho đầy đến miệng,
đậy phiến kính sạch lên cho tiếp xúc với mặt nước, để khoảng 15 phút rồi lấy
phiến kính ra soi trên kính hiển vi tìm trứng giun tóc.
- Phương pháp Darling
Nguyên lý chung của phương pháp này là dựa trên sự chênh lệch về tỷ
trọng giữa dung dịch NaCl bão hòa và trứng giun tóc nhẹ hơn ra khỏi phân.
Khi đó dùng vòng sắt vớt lớp váng phía trên, ta sẽ tìm được trứng giun tóc.
Cách xét nghiệm: Lấy mẫu phân khoảng 5 – 10 gam của con vật cần
chẩn đoán, cho vào cốc thủy tinh. Cho vào cốc đó lượng nước sạch bằng 10
lần thể tích khối lượng phân, dùng đũa thủy tinh khuấy tan phân và lọc qua
lưới lọc. Phần cặn bã bỏ đi, dung dịch lọc được cho vào các ống ly tâm và ly
tâm với tốc độ 3000 vòng/ phút trong thời gian 3 – 5 phút. Sau đó, đổ bỏ lớp
nước phía trên và giữ lại cặn trong các ống ly tâm. Tiếp theo cho nước muối
bão hòa vào các ống ly tâm, đậy nắp miệng ống và lắc đều cho cặn hòa đều
21
22
trong dung dịch, tiến hành ly tâm lần 2 với tốc độ và thời gian như trên. Dùng
vòng sắt vớt lớp váng nổi trên bề mặt, đặt lên phiến kính sạch và soi dưới
kính hiển vi tìm trứng giun tóc.
- Phương pháp Cherbovich: Phương pháp này hoàn toàn giống
phương pháp Darling, chỉ khác dung dịch bão hòa sử dụng ở đây là MgSO
4
.
Để xác định cường độ nhiễm, có thể dùng phương pháp đếm số trứng
giun tóc trong buồng đếm Mc. Master nhằm xác định số trứng / g phân.
Phương pháp đếm trứng trên buồng đếm Mc. Master gồm các bước sau:
- Bước 1: Cân 4 g phân vào cốc thủy tinh, thêm nước lã sạch (khoảng
100 – 150 ml), khuấy tan phân, lọc bỏ cặn bã thô. Nước lọc để lắng trong 1 –
2 giờ, gạt bỏ nước, giữ lại cặn.
- Bước 2: Cho 56 ml dung dịch nước muối bão hòa vào, khuấy đều cho
tan cặn. Trong khhi đang khuấy, lấy công tơ hút hút 1 ml dung dịch phân nhỏ
đầy hai buồng đếm Mc. Master. Để yên 5 phút rồi kiểm tra dưới kính hiển vi
(độ phóng đại 10 x 10).
Đếm toàn bộ số trứng trong những ô của hai buồng đếm, rồi tính theo
công thức sau:
Số trứng/ 1 gam phân =
Tổng số trứng ở hai buồng đếm x 60
4
(Tổng số trứng ở hai buồng đếm là số trứng có trong 1ml dung dịch phân)
* Với lợn chết:
Việc chẩn đoán bệnh giun tóc được tiến hành qua phương pháp mổ
khám, kiểm tra bệnh tích ở ruột già và tìm giun tóc. Khi phát hiện nhẹ nhàng
lấy giun ra và để chết tự nhiên trong nước sạch, sau đó bảo quản trong dung
dịch Barbagallo (dung dịch barbagallo gồm 30 ml Formol; 7,5 g NaCl; nước
cất 100ml) và có ghi nhãn đầy đủ
2.1.2.6. Điều trị và phòng bệnh giun tóc ở lợn
* Điều trị
Theo Phạm Khắc Hiếu (2009) [5], hiện nay trên thị trường có nhiều
thuốc trị bệnh giun tóc và được chia thành các nhóm:
22
23
a/ Các Benzimidazol
- Đặc điểm chung:
Đây là nhóm thuốc quan trọng vì phổ chống ký sinh trùng rộng, không
chỉ tác dụng lên giun trưởng thành mà cả lên trứng và ấu trùng của giun.
- Tác dụng phụ:
Thuốc ít độc, tích lũy tốt. Tuy nhiên, một số thuốc như Albendazol,
Cambendazol, Oxfendazol…đều có thể là nguyên nhân sinh ra quái thai.
* Albendazol (chế phẩm là Vermitan): Là các dẫn xuất Sunfit. Trong
cơ thể chuyển thành dạng Sulfocid, sau đó Oxy hóa thành Sulfol.
+ Tác dụng tốt, chống được nhiều loài giun tròn ở lợn (T. suis, A.
suum…) và các loài giun ở trâu, bò, ngựa.
+ Ứng dụng: Dùng để tẩy giun tóc ở lợn với liều lượng 10 mg/ kg TT.
* Mebendazol (chế phẩm là Telmin, Mebenvet)
+ Tác dụng tốt với giun tròn và sán dây. Thốc không gây quái thai cho
súc vật.
+ Ứng dụng: Dùng để tẩy giun tóc ở lợn với liều lượng: 20 mg/ kg TT
hoặc 30 mg/ kg thức ăn x 5 – 10 ngày.
Một số thuốc dùng trong thú y: Febantel(Rital), Netobinmin (Hapadex).
b/ Các Imidazothiazol
Các thuốc nhóm này tan trong nước, phổ chống giun tròn rộng .
* Tetramisol, Levamisol (Chế phẩm là Biverm, Ripercol)
Tetramisol có hai đồng phân:
S ( - ) tetramisol ( tức là L – tetramisol = Levamisol)
S ( + ) tetramisol ( tức là D – tetramisol = Dexamisol).
Theo Phạm Khắc Hiếu (2009) [5], chế phẩm chống ký sinh trùng có thể
là hỗn hợp hai đồng phân trên. Tuy nhiên hoạt tính chống ký sinh trùng chỉ ở
dạng S ( - ) tức là Levamisol.
- Liều lượng: Tetramisol 12 mg/ kg TT
Levamisol 5 mg/ kg TT
c/ Các Macrolid
Là những thuốc có vòng Lacton lớn. Đáng chú ý là các Avermectin và
các Milbemycin. Thuốc có tác dụng tẩy giun tóc và các giun tròn đường
tiêu hóa khác ở lợn.
23
24
Trong nhóm Milbemycin có Moxydectin được dùng nhiều trong thú y.
Các thuốc của 2 nhóm trên đều tan tốt trong Lipoid.
Dùng Ivermectin để tẩy giun tóc cho lợn đạt hiệu quả cao và an toàn.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17], có thể dùng một trong các hóa
dược sau để tẩy giun tóc cho lợn:
Mebenvet : Dùng liều 50 mg/kg TT, trộn thức ăn cho lợn ăn một lần.
Fenbendazol : Liều 30 mg/kg TT, trộn thức ăn cho lợn ăn từ 6 - 15 ngày.
Levamisol : Liều 7,5 mg/kg TT, trộn thức ăn hoặc tiêm cho lợn.
Febentel : Liều 20 mg/kg TT thuốc dùng dạng uống.
Ivermectin : Liều 0,2 - 0,3 mg/kg TT, thuốc dùng tiêm cho lợn 2 lần,
cách nhau 1 - 2 ngày.
Theo Nguyễn Xuân Bình và cs (1996) [1], hiện nay trên thị trường có
nhiều thuốc điều trị bệnh giun tóc ở lợn. Tuy nhiên, tác giả khuyên nên dùng
một trong các hóa dược sau để tẩy giun tóc cho lợn:
- Levamisol : Liều 7,5 mg/kg TT
- Mebendazol: Liều 5 mg/kg TT
- Ivermectin : Liều 0,3 mg/kg TT
Trong thời gian điều trị cần chăm sóc, nuôi dưỡng tốt.
Nguyễn Văn Thanh và cs (2004) [24] cho biết: Có thể dùng Tayzu để
tẩy giun tóc cho lợn với liều 4g/30 - 40 kg TT, trộn vào thức ăn hoặc dùng
Levamisol 7,5% tiêm dưới da với liều 1 ml/10 kg TT.
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [19] đã khuyến cáo, để tẩy giun tóc có
hiệu quả cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau:
+ Trước tiên phải chẩn đoán bệnh chính xác. Sau đó tẩy cho những lợn
bị nhiễm nặng và có biểu hiện lâm sàng. Với mục đích phòng bệnh thì nên tẩy cho
cả đàn vì có những con đang mang mầm bệnh nhưng chưa phát hiện được.
+ Xác định thời điểm tẩy thích hợp. Tốt nhất là tẩy vào mùa xuân
(tháng 3 - 4) và mùa thu (tháng 8 - 9). Lượng phân lợn thải ra phải đem ủ
nhiệt sinh học để diệt mầm bệnh, sau 15 - 20 ngày kiểm tra để đánh giá hiệu
quả của thuốc.
24
25
* Phòng bệnh:
Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [15] cho biết: Các phương pháp tấn công
ký sinh trùng ở từng giai đoạn như sau:
+ Chống giai đoạn thứ nhất: Ký sinh trùng trưởng thành đẻ trứng ở ký
chủ cuối cùng. Có thể diệt ký sinh trùng bằng 2 phương pháp:
- Dùng thuốc đặc hiệu diệt ký sinh trùng: Việc tẩy ký sinh trùng này có
tính chất dự phòng, tức là thực hiện trước khi súc vật có triệu chứng bệnh và
trước khi súc vật gieo rắc mần bệnh ra bên ngoài môi trường.
+ Chống giai đoạn thứ hai (giai đọan ký sinh trùng là trứng): Có thể
dùng hai phương pháp. Tiêu diệt hầu hết trứng bằng cách thu nhặt hết phân
của súc vật ốm trong chuồng và đem chôn (phải làm nhiều lần để trứng không
có thời gian phát triển thành phôi thai) hoặc ủ phân theo phương pháp nhiệt
sinh học.
+ Chống giai đoạn thứ ba (ký sinh trùng là trứng và ấu trùng gây bệnh
ở ngoại cảnh), có hai cách:
- Diệt toàn bộ trứng và ấu trùng gây bệnh ngoài ngoại cảnh
Ủ phân để diệt trứng giun: Ủ phân theo phương pháp nhiệt sinh học là
cách tốt nhất để tiêu diệt trứng giun tóc. Nhiệt độ môi trường xung quanh có
ảnh hưởng trực tiếp đến nhiệt độ trong hố ủ. Trong cùng một hố ủ, về mùa hè
có thể duy trì ở nhiệt độ 50
0
C. Nhưng vào mùa đông, nhiệt độ chỉ là 37
0
C.
Tuy nhiên, nếu ủ phân kín với lá xanh, rắc vôi, lân thì nhiệt độ trong hố ủ có
thể lên tới 50
0
C, khi đó trứng giun tóc sẽ bị diệt bởi nhiệt độ cao.
- Không cho trứng hay ấu trùng có sức gây bệnh xâm nhập vào cơ thể
ký chủ (cách ly súc vật ốm, tiêu độc dụng cụ và chuồng nuôi, vệ sinh thức ăn
nước uống…).
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [16], ở các cơ sở bị ô nhiễm, có thể
sử dụng một trong những hóa độc dược đặc hiệu tẩy dự phòng cho lợn nái
trước khi sinh và cho lợn từ 2 – 4 tháng tuổỉ. Thực hiện vệ sinh chuồng trại và
khu vực xung quanh chuồng nuôi để hạn chế sự phát tán trứng giun; đồng thời
sử dụng hoá chất phun vào chuồng trại theo định kỳ như: Dung dịch NaOH -
2%, Cresyl 3%, nước vôi 10% để diệt trứng giun.
25