Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Bệnh giun tóc ở lợn nuôi tại một số xã thuộc huyện phú bình, tỉnh thái nguyên và biện pháp phòng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.29 KB, 62 trang )

1
DANH MỤC CÁC BẢNG
1
2
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT
TR : Trang
Cs : Cộng sự
% : Tỷ lệ phần trăm
≤ : Nhỏ hơn hoặc bằng
< : Nhỏ hơn
> : Lớn hơn
Kg : Kilogram
µm : Micrômét
mm : Milimét
NXB : Nhà xuất bản
T. suis : Trichocephalus suis
TT : Thể trọng
n : Dung lượng mẫu
2
3
MỤC LỤC
3
4
DANH MỤC CÁC HÌNH

4
5
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Trong quá trình phát triển các ngành kinh tế nói chung, ngành chăn


nuôi nói riêng đã và đang phát triển rất mạnh, góp phần thúc đẩy kinh tế xã
hội của đất nước. Trong đó, chăn nuôi lợn có một vị trí quan trọng trong
ngành chăn nuôi gia súc ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Chăn nuôi lợn cung cấp một khối lượng lớn thực phẩm có giá trị cho
con người. Ở nước ta thịt lợn tiêu thụ chiếm từ 75-80% tổng khối lượng thịt
tiêu thụ còn trên thế giới tỷ lệ này khoảng 40% và đang có xu hướng tăng lên
(Vũ Đình Tôn, 2009 [38]). Chăn nuôi lợn phát triển không chỉ cung cấp
nguồn thực phẩm cho xã hội mà còn cung cấp nguyên liệu cho ngành công
nghiệp chế biến và phân bón cho ngành trồng trọt. Hiện nay, phân lợn còn
được dùng làm nguyên liệu đẻ sản xuất khí đốt (bioga) vừa đem lại hiệu quả
kinh tế cao vừa có tác dụng chống ô nhiễm môi trường, đặc biệt là những khu
vực đông dân cư. Để đạt được hiệu quả kinh tế cao trong chăn nuôi lợn, ngoài
các yếu tố như giống, thức ăn, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng… biện pháp
phòng và trị bệnh, đặc biệt là biện pháp phòng và trị bệnh ký sinh trùng cho
lợn cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Thực tế ngành chăn nuôi lợn cho thấy, có nhiều loại dịch bệnh vẫn
thường xuyên xảy ra gây tổn thất kinh tế cho người chăn nuôi lợn. Ngoài
những bệnh truyền nhiễm thường gặp như: dịch tả, tụ huyết trùng, phó thương
hàn… còn phải kể đến các bệnh ký sinh trùng. Vì vậy, ngành chăn nuôi lợn
muốn tiếp tục phát triển thì bên cạnh việc thực hiện tốt công tác giống, thức
ăn… còn phải quan tâm nhiều hơn đến công tác thú y, đặc biệt với xu hướng
chăn nuôi tập trung, quy mô trang trại như hiện nay.
5
6
Việt Nam là một nước nằm trong vùng Đông Nam Á có khí hậu nhiệt
đới nóng ẩm, có rất nhiều loài ký sinh trùng phát triển, ký sinh và gây bệnh
cho vật nuôi, trong đó có loài giun tròn Trichocephalus suis ký sinh và gây
bệnh o lợn. Trichocephalus suis ký sinh đã gây ra các tổn thương và viêm
nhiễm kế phát do vi khuẩn xâm nhập vào các nội quan của lợn, ảnh hưởng tới
quá trình sinh trưởng, đặc biệt là tiêu tốn thức ăn, giảm tăng trọng từ 15-20%

so với lợn không bị bệnh (Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [16]).
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi phía Bắc Việt Nam có nghề
chăn nuôi lợn khá phát triển. Tuy nhiên, công tác phòng chống bệnh giun
Trichocephalus suis chưa được chú ý và nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế sản xuất chăn nuôi lợn ở tỉnh Thái
Nguyên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Bệnh giun tóc nuôi tại một số xã thuộc
huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên và biện pháp phòng trị”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu tình hình nhiễm giun tóc Trichocephalus suis ở lợn tại
một số xã của huyện Phú Bình.
- Nghiên cứu sự phát tán trứng và ấu trùng giun tóc Trichocephalus
suis ở ngoài ngoại cảnh.
- Xác định những biểu hiện lâm sàng của bệnh.
- Xác định một số loại thuốc điều trị bệnh giun tóc Trichocephalus suis
ở lợn
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa học tập
- Áp dụng được lý thuyết đã học vào thực tiễn và học hỏi được thêm
nhiều kiến thức bổ ích từ bên ngoài trường học.
- Củng cố được kiến thức cơ sở cũng như chuyên ngành, sau này có
điều kiện tốt hơn để phục vụ công tác phát triển ngành chăn nuôi nước nhà.
6
7
1.3.2. Ý nghĩa trong nghiên cứu khoa học
- Tạo điều kiện cho sinh viên được tiếp xúc, làm quen với thực tế công
tác nghiên cứu khoa học.
- Góp phần hoàn chỉnh dữ liệu về đặc điểm dịch tễ của bệnh
Trichocephalus suis ở lợn.
- Là cơ sở khoa học để lựa chọn các biện pháp phòng và trị bệnh
Trichocephalus suis có hiệu quả nhất.

1.3.3. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở xác định tình hình nhiễm, đặc điểm dịch tễ bệnh
Trichocephalus suis đưa ra lời khuyến cáo thiết thực đối với các hộ chăn nuôi
lợn để người dân có biện pháp phòng trị bệnh có hiệu quả. Từ đó, góp phần
đảm bảo sức khỏe đàn lợn góp phần tăng năng suất chăn nuôi.

7
8
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Những hiểu biết về giun tròn Trichocephalus suis ký sinh ở lợn
2.1.1.1. Vị trí của giun tròn Trichocephalus suis trong hệ thống phân loại
động vật
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [19], vị trí của Trichocephalus suis
(T. suis) trong hệ thống phân loại động vật như sau:
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Enoplia Chitwood, 1933
Bộ Trichocephalida Skrjabin et Schulz. 1928
Phân bộ Trichocephalata Skrjabin et Schulz. 1928
Họ Trichocephalidae Baird, 1953
Phân họ Trichocephaliae Ranson, 1911
Giống Trichocephalus Schrank, 1788
Loài Trichocephalus suis Schrank, 1788
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [19]; Giun đực: Dài 37.52 – 40,63
mm, rộng nhất 0,634 – 0,713 mm. Phần trước cơ thể dài 23,48 – 25,75 mm;
phần sau dài 14,00 – 15,00 mm; có dạng xoắn lò xo. Gai sinh dục dài 1,70 –
2,55 mm; rộng 0,07 – 0,10 mm; mút cuối gai nhọn. Bao gai phủ đầy gai nhỏ.
Lỗ huyệt nằm ở mút cuối đuôi.

Con cái: Cơ thể dài 37,89 – 50,60 mm; rộng 0.734 – 1,012 mm; phần
trước cơ thể dài 23 – 33 mm. Ống sinh dục đơn. Âm đạo có thành cơ dày,
chứa đầy trứng. Kích thước trứng 0,024 – 0.027 x 0,056 – 0,061mm.
8
9
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17]: Giun có màu trắng đục; thân chia
ra làm hai phần rõ rệt: phần đầu nhỏ, trông giống như sợi tóc; phần sau ngắn
và to, bên trong là ruột và cơ quan sinh sản.
Giun đực dài 37,52 – 40,63 mm, rộng 0,634 – 0,713 mm, đuôi hơi tù,
cuộn tròn lại,có một gai giao hợp dài 1,70 – 2, , lỗ huyệt thông ra ngoài ở
phần cuối của giun .
Giun cái dài 37,89 – 50,6mm, đuôi thẳng, hậu môn ở vào đoạn cuối thân,
âm hộ ở đoạn cuối cùng của thực quản.
Trứng giun hình giống hạt chanh, có hai núm ở hai đầu; kích thước
(0,024 – 0,027) x (0,056 – 0,061) mm, màu vàng nhạt.
Theo Phan Địch Lân và cs (2005) [18]: Hình thể giống roi ngựa hoặc sợi
tóc màu trắng, cơ thể chia thành hai phần rõ rệt, thực quản có các tế bào xếp
thành chuỗi hạt dài 2/3 cơ thể. Phần sau ngắn và to, bên trong là ruột và cơ
quan sinh sản. Giun đực dài 20 – 52 mm đuôi hơi tù, phần đuôi cuộn tròn lại
chỉ có một gai giao hợp rất dài 5 -7 mm, gai giao hợp được bọc trong một cái
màng có nhiều gai nhỏ bao phủ. Lỗ sinh tiết thông với ngoài ở phần cuối của
giun. Giun cái dài 39 – 53 mm, đuôi thẳng, hậu môn ở vào đoạn cùng, âm hộ
ở vào đoạn cuối cùng của thực quản.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1966) [26], trứng màu vàng thẫm, vỏ dày, có
nút ở mỗi cực, kích thước 50 - 56 x 21 - 25 μm. Tuy nhiên, những trứng tác
giả đo được thấy tương đối to hơn (66 x 30 - 37 μm). Trứng không phân chia
khi đẻ.
2.1.1.3. Vòng đời của giun T. suis
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [10], cho biết, vòng đời phát
triển của giun tóc diễn ra như sau:

9
10
Trichocephalus suis phân t
0
, A
0
, pH
(manh tràng) Trứng Ấu trùng
(có sức lây nhiễm)
Gia
súc
nuốt


Thọc sâu vào niêm mạc ruột
Ấu trùng
Thời gian hoàn thành vòng đời là 30 – 52 ngày. Giun cái đẻ trong ruột
già của ký chủ. Trứng theo phân ra ngoài, gặp điều kiện thuận lợi qua 15 – 28
ngày trứng phát triển thành trứng có sức gây bệnh. Trứng này theo thức ăn,
nước uống vào đường tiêu hóa của ký chủ, ấu trùng được nở ra, chui sâu vào
niêm mạc ruột già, tiếp tục phát triển thành giun trưởng thành.
Thời gian hoàn thành vòng đời trong cơ thể tùy loài giun tóc nhưng đối
với T. suis cần 30 ngày.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [16] :
Điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển của trứng giun T. suis thành
trứng có sức cảm nhiễm ở ngoài môi trường là nhiệt độ từ 18 – 30
0
C, ẩm độ
80 - 85%.
Skrjabin K.I. (1979) [35] cho rằng. giun T.suis phát triển vòng đời không

cần vật chủ trung gian. Trứng được bài tiết cùng với phân lợn ra môi trường
ngoại cảnh. Ở môi trường thuận lợi, thời gian để trứng phát triển thành dạng
cảm nhiễm từ 3 – 4 tuần. Trong thời gian này, có thể thấy ấu trùng đã hình
thành hoàn toàn và chuyển động bên trong trứng.
10
11
Trịnh Văn Thịnh (1985) [32] cho biết, chu kỳ sinh học của giun T. suis
gồm hai giai đoạn: Một giai đoạn ở ngoài ngoại cảnh, phát triển từ trứng đến
ấu trùng cảm nhiễm; giai đoạn thứ hai ở ký chủ, ấu trùng cảm nhiễm phát
triển thành giun trưởng thành. Không có thời kỳ di hành trong cơ thể ký chủ.
Theo Phạm Văn Khuê và cs (1976) [8], Phan Địch Lân và cs (2005) [18],
thời gian hoàn thành vòng đời của giun T. suis là 30 ngày.
Trịnh Văn Thịnh và cs (1985) [29], Đào trọng Đạt và cs (1996) [3] cho
rằng , tuổi thọ của giun T. suis ở lợn từ 4 – 5 tháng . Theo Lương Văn Huấn
và cs (1990) [5], giun T.suis sống được trong cơ thể lợn 114 ngày.
2.1.1.4. Sức đề kháng của trứng giun T.suis
Sức đề kháng là khả năng chống lại những tác nhân ngoại cảnh tác động
đến sự sinh trưởng và phát triển bình thường của trứng giun T. suis, Việc
nghiên cứu sức đề kháng của trứng giun T. suis ở môi trường ngoại cảnh có ý
nghĩa quan trọng trong dịch tễ học bệnh giun T. suis, đồng thời là cơ sở khoa
học để đề ra những biện pháp phòng trị của bệnh giun T. suis có hiệu quả.
Ở môi trường ngoại cảnh , trứng giun T. suis phát triển thuận lợi nhất ở
nhiệt độ từ 18 – 30
0
C, ẩm độ 80 - 85%.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [16], các chất sát trùng như dung dịch
NaOH – 2%, Cresyl 3%, nước vôi 10% diệt được trứng T. suis. Theo
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [19], trứng giun T. suis bị diệt dưới tác dụng của
ủ phân nhiệt sinh học. Sau 3 – 4 tuần, nhiệt độ hố ủ tăng lên tới 45
0

C sẽ làm
hủy trứng giun T. suis. Tuy nhiên, trứng non có khả năng chịu đựng các điều
kiện nhiệt độ cao hơn trứng ở giai đoạn ấu trùng.
Đỗ Dương Thái và cs (1975) [24] cho rằng, trứng giun T. suis và trứng
giun Trichuris trichiura (giun tóc người) bịu hủy hoại nếu ẩm độ dưới 30 %
kéo dài. Mặt khác, trứng giun T. suis có thể bị diệt bởi những tia tử ngoại của
ánh sáng mặt trời (Chicobanlova và Garo – dilova, 1950). Ở Việt Nam, số giờ
11
12
nắng rất nhiều nên trong mùa hè trứng giun T. suis dễ bị hủy hoại ở ngoại
cảnh. Trong cùng một thời gian dưới tác dụng của tia tử ngoại thì trứng đã
phát triển thành ấu trùng bị diệt nhanh hơn trứng non.
2.1.2. Bệnh do giun tròn Trichocephalus suis gây ra ở lợn
2.1.2.1. Những thiệt hại kinh tế do bệnh giun Trichocephalus suis gây ra
Bệnh ký sinh trùng ở gia súc gia cầm nói chung và bệnh ký sinh trùng ở
đường tiêu hóa lợn nói riêng không tạo thành các ổ dịch lớn như những bệnh
truyền nhiễm do vi rút, vi khuẩn gây ra. Nhưng bệnh thường kéo dài âm ỉ, ảnh
hưởng đến thể trạng và sức khỏe vật chủ, làm hạn chế sự sinh trưởng và phát
triển của lợn, tăng tiêu tốn thức ăn và các chi phí khác như thuốc điều trị,
thuốc sát trùng, công chăm sóc, nuôi dưỡng và đặc biệt là yếu tố mở đường
cho các mần bệnh khác xâm nhập.
Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [28], bệnh ký sinh trùng thường là
những bệnh mãn tính, làm giảm mức sinh trưởng và sinh sản của gia súc, ảnh
hưởng đến sản phẩm chăn nuôi. Mức độ sinh trưởng của lợn con bị nhiễm
Ascaris suum, Trichocephalus suis, Strongyloides ransomi có thể giảm 30%
so với bình thường. Lợn nuôi lấy thịt chậm lớn, sụt cân, phẩm chất thịt giảm.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [16], Trichocephalus suis ký sinh là
một trong những nguyên nhân làm giảm năng suất chăn nuôi và tạo điều kiện
cho các bệnh khác xâm nhập. Lợn bị nhiễm giun T. suis giảm tăng trọng từ 15
– 20 %so với lợn khỏe.

2.1.2.2. Dịch tễ học bệnh giun Trichocephalus suis
* Động vật mắc bệnh
Theo Phan Thế Việt và cs (1995) [33], lợn nhà và lợn rừng đều có khả
năng nhiễm bệnh.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17] cho biết, bệnh thường xảy ra đối với
lợn dưới 6 tháng tuổi. Lợn nái và lợn trưởng thành nhiễm giun nhẹ hơn, ít thể
hiện các triệu chứng lâm sàng.
12
13
Bùi Quý Huy (2006) [7] cho biết, giun T.suis ở lợn và giun Trichuris
trichiura ở người có nhiều điểm giống nhau về hình thái, hóa học và kháng
nguyên, do đó bệnh giun T.suis ở lợn dễ lây sang người. Theo Nguyễn Phước
Tương (2002) [32], người nhiễm bệnh khi nuốt phải trứng giun T. suis lẫn
trong nước hay thức ăn thực vật chưa được nấu chín. Sau khi vào ruột người,
ấu trùng phát triển thành giun T.suis trưởng thành, khu trú ở ruột thừa và gây
bệnh cho người. Giun đẻ trứng, trúng này được bài xuất ra ngoài qua phân
người, sau khi phát triển và chứa ấu trùng thì có khả năng gây nhiễm lại lợn
(tuy nhiên tỷ lệ trứng phát triển chỉ có 11%, trong khi trứng giun T.suis ở lợn
có tỷ lệ phát triển là 86%).
* Tuổi mắc bệnh
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [16], bệnh giun T.suis ở lợn phân bố
trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, bệnh cũng đã được phát hiện ở tất cả các tỉnh
miền Bắc, miền trung và miền Nam. Ở Hà Nội, lợn bị nhiễm giun T. suis từ
4,3 – 30% (ở lứa tuổi từ 2 – 6 tháng tuổi) và 0,56 – 7,8 % (ở lứa tuổi trên 6
tháng tuổi).
Lương Văn Huấn và cs (1990) [5], cho biết, tỷ lệ nhiễm giun T. suis theo
tuổi lợn như sau:
Dưới 3 tháng tuổi nhiễm 20,4%
Từ 3 – 4 tháng tuổi nhiễm 21,2%
Từ 5 – 6 tháng tuổi nhiễm 8,5%

Trên 6 tháng tuổi nhiễm 6,4%
Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996) [3], lợn ở giai đoạn 2 – 6 tháng tuổi
nhạy cảm nhất với giun T. suis. Kết quả tại hợp tác xã Tiền Phong (Hà Nội)
nuôi lợn Ỉ lai Yorkshire, Berkshire tỷ lệ nhiễm giun T. suis ở lợn dưới 2 tháng
tuổi là 16%, trong khi lợn 5 tháng tuổi nhiễm 13,5% và lợn 7 tháng tuổi
nhiễm 6,2 %. Tại hợp tác xã Đông Mỹ (Hà Nội) tỷ lệ lợn dưới 2 tháng tuổi
13
14
nhiễm giun T. suis là 20,8 %. Ngày tuổi bình quân phát hiện trứng giun T. suis
trong phân lợn nội là 74 ngày (từ 58 – 89 ngày), lợn lai Landrace 56 ngày (43
– 64 ngày), lợn lai Berkshire 61 ngày (56 – 75 ngày) và lợn ngoại 62 ngày (38
– 81 ngày).
Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1978) [27], kết quả điều tra ở 37 nông
trường quốc doanh (1965 – 1968) trên 372 lợn mổ khám thấy tỷ lệ nhiễm một
số loài giun sán là: Ascaris suis 55 – 100% (22 – 88 giun/ lợn);
Trichocephalus suis cao nhất 100% (từ 155 đến vô số giun trên một con lợn).
Tại Hải Phòng, Ngô Quang Tuyến, Trần Lâm Quang (1972) mổ khám 40
lợn và xét nghiệm phân của 2000 con lợn, thấy tỷ lệ nhiễm Trichocephalus
suis là 27,5% (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs 1978 [27]).
Phạm Văn Khuê (1982) [9] nghiên cứu biến động nhiễm giun sán theo
tuổi lợn tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long; theo tác giả điều này rất quan
trọng vì qua đó có thể nắm được lứa tuổi nào nhiễm giun sán cao, lứa tuổi nào
nhiễm thấp để có cơ sở khoa học xây dựng các biện pháp phòng trừ. Qua
kiểm tra 289 lợn ở 4 lứa tuổi (dưới 2 tháng, 3 – 4 tháng, 5 – 7 tháng và trên 8
tháng), kết quả cho thấy: Lợn con dưới 2 tháng tuổi đã nhiễm tới 12 loài trong
số 13 loài giun sán, có một số loài có sức gây bệnh mạnh, tỷ lệ nhiễm cao như
A. suum (48,7%); A. dentata (12,8%) và T. suis (30,7%). Trong 13 loài giun
sán có một số loài có chiều hướng tăng dần theo tuổi của vật chủ như: T.
hydatigena, M. elongatus, M. salmi, O. dentatum. Ngược lại A. suum và T.
suis có tỷ lệ cao giới hạn ở lứa tuổi từ 2 – 5 tháng tuổi, sau đó giảm dần.

* Đường lây nhiễm
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17], bệnh lây nhiễm qua đường tiêu
hóa do lợn nuốt phải trứng có sức cảm nhiễm lẫn trong thức ăn nước uống.
+ Lây nhiễm trực tiếp: lợn bệnh bài xuất trứng giun tóc qua phân,
những trứng này phát tán trên nền chuồng, máng ăn, máng uống. Vì vậy lợn
14
15
khoẻ dễ dàng bị nhiễm trứng giun tóc. Lây nhiễm trực tiếp chủ yếu giữa lợn
bệnh và lợn khoẻ trong cùng một ô chuồng. Lợn con nhiễm bệnh chủ yếu khi
bú sữa mẹ, nuốt phải trứng bám ở đầu vú lợn mẹ.
+ Lây nhiễm gián tiếp: dụng cụ chăn nuôi, người chăm sóc cũng là tác
nhân mang mầm bệnh. Đây là những yếu tố trung gian góp phần lây nhiễm
giun tóc từ lợn bệnh sang lợn khoẻ từ ô chuồng này sang ô chuồng khác.
Ngoài ra ruồi, chuột cũng có thể phân tán trứng giun, gió cuốn trứng
giun theo bụi, mang trứng giun tóc từ chuồng này sang chuồng khác gây phát
tán mầm bệnh.
* Mùa vụ
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17], bệnh giun T. suis lây nhiễm
quanh năm nhưng tập trung từ mùa xuân tới mùa thu. Mùa đông, thời tiết
lạnh, ẩm độ thấp, không thích hợp cho trứng phát triển thành dạng trứng cảm
nhiễm nên tỷ lệ nghiễm giun trong đàn lợn giảm đi.
Nguyễn Đăng Khải, Nguyễn Đăng Nhượng (1975) mổ khám 89 con lợn
ở vùng đồng bằng và miền núi thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Bình
Định cho biết: Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun T. suis có sự khác nhau giữa các
vùng, trong đó sự khác nhau này có liên quan đến khí hậu giữa các vùng.
Vùng đồng bằng, do mùa khô hạn kéo dài, nhiều ánh sáng (tổng số giờ nắng
2000 – 2300 giờ/ năm) nhiệt độ những tháng nóng có thể lên tới 38 – 40
0
C
nên tỷ lệ nhiễm các loài giun sán nói chung đều thấp, đặc biệt là các loài giun

sán nhiễm trực tiếp như T. suis (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs 1978 [27]).
* Phương thức nuôi
Phương thức chăn nuôi là một trong những yếu tố quan trọng có ảnh
hưởng tới khả năng nhiễm giun T. suis của lợn. Phạm Sỹ Lăng và cs (2009)
[17] cho rằng các cơ sở chăn nuôi mà điều kiện vệ sinh kém, lợn bị nhiễm
bệnh với tỷ lệ cao, gây thiệt hại đáng kể cho đàn lợn con.
15
16
Phạm Văn Khuê (1967) đã mổ khám 141 lợn và xét nghiệm 619 mẫu
phân ở tỉnh Hà Bắc, thấy 13 loài giun sán. Trong đó, những loài phổ biến là:
Fasciolopsis buski, Ascaris suum, Trichocephalus suis, Taenia hydatigena.
Những loài giun tròn phát triển như Trichocephalus suis thì tỷ lệ nhiễm đến
100%. Những loài giun sán phải qua ký chủ trung gian như sán lá ruột, giun
đầu gai thì tỷ lệ nhiễm khác nhau tùy theo điều kiện đất đai, thức ăn (trồng ở
nước hay ở cạn), sự tồn tại hay không của các ký chủ trung gian và điều kiện
vệ sinh chăn nuôi (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs 1978 [27]).
Phan Văn Lan (1970) mổ khám 57 lợn và xét nghiệm 1000 mẫu phân tại
xã Yên Nguyên (Tuyên Quang) cho thấy tỷ lệ nhiễm các loài giun tròn ở lợn
nuôi thả rông là 96,5%. Trong đó, tỷ lệ nhiễm giun T. suis ở lợn nuôi nhốt là
30%; lợn nuôi thả rông là 47% (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1978) [27]).
Bornay F.J và cs (2003) [42] cho biết: Kiểm tra 5 trại lợn chăn nuôi theo
phương thức công nghiệp tại tỉnh Alicante (Tây Ban Nha) thấy tỷ lệ nhiễm
giun T. suis là 11%.
* Yếu tố Stress
Các yếu tố stress (chuồng trại chật chội, thức ăn kém dinh dưỡng, nhiệt
độ và ẩm độ môi trường thay đổi ) đóng vai trò thúc đẩy mức đọ và tốc độ
lây lan bệnh giun T. suis ở lợn.
2.1.2.3. Cơ chế sinh bệnh
* Đường bài xuất mầm bệnh
Lợn mắc bệnh sau một thời gian thì bài xuất trứng theo phân ra ngoại

cảnh. Vì vậy, trứng được phát tán rộng rãi ở ngoài tự nhiên và quá trình phát
triển bắt đầu để tạo thành các trứng có sức gây bệnh (trứng có chứa ấu trùng
bên trong).
16
17
* Đường xâm nhập vào cơ thể
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [10] cho biết: Bệnh lây nhiễm trực tiếp
không qua vật chủ trung gian. Trứng có sức gây bệnh xâm nhập vào cơ thể vật
chủ qua đường tiêu hóa do lợn ăn phải thức ăn nước uống có chứa trứng giun.
* Vị trí gây bệnh
Giun T. suis ký sinh và gây bệnh ở ruột già lợn, đặc biệt ở manh tràng và
kết tràng.
* Quá trình sinh bệnh
Ngoài tác động chiếm đoạt dinh dưỡng của lợn, giun T. suis còn gây tác
hại nặng nề cho lợn.
- Tác hại cơ giới: Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [10], Phạm Sỹ
Lăng và cs (2006) [16], phần đầu của giun nhỏ dài cắm sâu vào thành ruột
gây tổn thương, làm niêm mạc ruột già bị viêm và xuất huyết, gây rối loạn
tiêu hóa, làm cho lợn có hội chứng hồng lỵ .
- Tác hại mang trùng: Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996) [3], giun T. suis
ký sinh gây tổn thương, tạo điều kiện cho các nhân tố khác xâm nhập. Nhân
tố gây bệnh kế phát là xoắn khuẩn và phẩy khuẩn.
- Tác hại tiết độc tố: Độc tố là những sản phẩm mà giun bài tiết ra cho ký
chủ trúng độc, gầy còm, thiếu máu gây rối loạn tiêu hóa.
2.1.1.4. Triệu chứng lâm sàng và bệnh tích của lợn bị bệnh Trichocephalus suis
* Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng của bệnh thay đổi tùy thuộc vào tuổi con vật, số
lượng giun ký sinh trong từng cơ thể lợn. Ở những lợn trưởng thành không
thấy biểu hiện triệu chứng lâm sàng nhưng khi kiểm tra phân mới thấy lợn
nhiễm giun T. suis.

17
18
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2001) [14], Pham Địch Lân và cs (2005) [18],
khi lợn nhiễm nhẹ thì triệu chứng không rõ ràng. Khi nặng thì con vật gầy
yếu, thiếu máu, trong phân có lẫn máu và niêm mạc ruột, có khi con vật bị
kiết lỵ. Nếu nhiễm bệnh nhân tạo với lượng trứng lớn (20.000 – 200.000
trứng), thì triệu chứng biểu hiện rất nặng: Ỉa chảy, hô hấp khó, lợn có thể chết.
Lợn bị nhiễm bệnh mãn tính còi cọc, thiếu máu, tăng trọng giảm.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17] cho biết: Lợn ở lứa tuổi 2 – 4 tháng tuổi
nhiễm bệnh xuất hiện các dấu hiệu như ỉa chảy, lúc đầu phân lỏng, sau phân
sệt có nhiều chất nhầy, lẫn máu. Mỗi lần thải phân, lợn bệnh phải cong lưng
rặn nhưng lượng phân thải ra ít. Nếu không được điều trị, lợn bệnh sẽ kiệt sức
và chết sau 6 – 10 ngày.
Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996) [3], lợn bị bệnh giun T. suis có những
biểu hiện lâm sàng giống chứng hồng lỵ. Vì vậy, nhiều trường hợp nghi bệnh
lỵ điều trị bằng kháng sinh không khỏi. Khi xét nghiệm phân mới phát hiện
giun T. suis ký sinh.
Theo Skrjabin K.I (1979) [35], triệu chứng bệnh giun T. suis phụ thuộc
vào cường độ cảm nhiễm. Khi nhiễm nặng, lợn có biểu hiện da khô, xù lông,
ỉa chảy rồi bị táo bón Độc tố do T. suis tiết ra có tác động gây bệnh mạnh,
làm cho vi nhung mao và các tế bào biểu mô mất đi tính chất cấu tạo và bị
phân hủy.
* Bệnh tích:
Phan Địch Lân và cs (2005) [18] cho biết: Xác lợn chết gầy, có nhiều
giun ở ruột già (nhất là ở manh tràng). Một số giun vẫn cắm sâu đầu vào niêm
mạc ruột. Trên niêm mạc ruột có nốt loét to bằng hạt đậu xanh.
Khi bị nhiễm nặng, toàn bộ manh tràng xuất huyết màu hồng sẫm. Niêm
mạc ruột bị bong ra (Trịnh Văn Thịnh và cs 1982 [28]).
18
19

Đào Trọng Đạt và cs (1996) [3] cho biết: Về mặt tổ chức học, giun T.
suis ký sinh gây viêm niêm mạc, thâm nhiễm tế bào, hình thành nhiều vết loét
và tạo ra nhiều niêm dịch.
Theo Rutter. J. M và Beer. R. J. S (1974) [41], khi mổ khám những con
con bị bệnh giun T. suis thấy: Viêm ruột tăng lên trong hầu hết các trường
hợp, thành ruột già dày lên và phù thũng, trong ruột chứa chất nhầy, máu và
các tế bào hoại tử bong ra từ lớp niêm mạc.
2.1.2.5. Chẩn đoán
Việc chẩn đoán bệnh giun T. suis ở lợn có thể dựa vào đặc điểm dịch tễ,
triệu chứng lâm sàng của bệnh, xét nghiệm phân lợn và kiểm tra bệnh tích.
* Với lợn còn sống:
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [11], để chẩn đoán bệnh có thể
áp dụng hai phương pháp là chẩn đoán lâm sàng kết hợp với đặc điểm dịch tễ
và chẩn đoán trong phòng thí nghiệm. Chẩn đoán trong phòng thí nghiệm lại
gồm: Nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng. Nghiên cứu định tính
nhằm xác định có hoặc không có giun T. suis ký sinh. Đây là phương pháp
thông dụng để nghiên cứu tình hình nhiễm giun T. suis ở lợn. Nghiên cứu định
lượng nhằm xác định số lượng trứng trong phân để đánh giá mức độ nhiễm và
hiệu quả của một số thuốc tẩy giun.
Phương pháp chẩn đoán lâm sàng kết hợp với đặc điểm dịch tễ: Những biểu
hiện lâm sàng cần chú ý là lợn ăn kém, gầy yếu, da khô lông xù, ỉa chảy
Về đặc điểm dịch tễ học, cần căn cứ vào lứa tuổi mắc bệnh, mùa vụ, tình
trạng vệ sinh thú y Tuy nhiên, nếu căn cứ vào các đặc điểm nói trên để chẩn
đoán thì sẽ không chính xác. Bởi vì các bệnh ký sinh trùng thường có những
triệu chứng lâm sàng tương tự nhau (rối loạn tiêu hóa, thể trạng gầy, da khô,
lông xù ). Vì vậy, để chẩn đoán chính xác bệnh phải tiến hành xét nghiệm
phân tìm trứng giun T. suis.
19
20
Theo Phan Lục (2006) [22], có 4 phương pháp xét nghiệm phân:

- Phương pháp trực tiếp
Dùng đũa thủy tinh lấy 1 mẫu phân của con vật định xét nghiệm, để mẫu
phân lên phiến kính sạch: Nhỏ 1 – 2 giọt glycerin, gạt cặn bã ra 2 đầu phiến
kính. Dung dịch phân được giàn mỏng trên phiến kính và kiểm tra dưới kính
hiển vi tìm trứng giun T. suis.
- Phương Pháp Fullerborn
Nguyên lý của phương pháp này dựa trên sự chênh lệch về tỷ trọng của
dung dịch muối NaCl bão hòa (D = 1,18 – 1,20) lớn hơn tỷ trọng của trứng
giun T. suis, do trứng sẽ nổi lên trên, ta có thể tìm thấy trứng giun T. suis dưới
kính hiển vi (độ phóng đại x 100 hoặc x 400).
Dung dịch muối bão hòa được pha bằng cách: Lấy 1 lít nước sôi, cho 380
g muối NaCl vào (hoặc đun sôi nước, cho từ từ muối vào), khuấy đều đến khi
muối không tan được nữa, khi để nguội trên mặt có lớp muối kết tinh là được.
Lọc qua vải màn hoặc bông, bỏ cặn.
Cách xét nghiệm như sau: dùng đũa thủy tinh lấy một mẫu phân khoảng
5 – 10 gam của con vật cần xét nghiệm, chẩn đoán. Để phân vào cốc thủy
tinh, cho tiếp nước muối bão hào vào cốc với lượng thể tích gấp 10 lần khối
lượng phân. Dùng đũa thủy tinh khuấy nát phân và lọc qua lưới lọc. Phần cặn
bã bỏ đi, dung dịch lọc được đổ vào ống penicillin sao cho đầy đến miệng,
đậy phiến kính sạch lên cho tiếp xúc với mặt nước, để khoảng 15 phút rồi lấy
phiến kính ra soi trên kính hiển vi tìm trứng giun T. suis.
- Phương pháp Darling
Nguyên lý chung của phương pháp này là dựa trên sự chênh lệch về tỷ trọng
giữa dung dịch NaCl bão hòa và trứng giun T. suis nhẹ hơn ra khỏi phân. Khi đó
dùng vòng sắt vớt lớp váng phía trên, ta sẽ tìm được trứng giun T. suis.
20
21
Cách xét nghiệm: Lấy mẫu phân khoảng 5 – 10 gam của con vật cần
chẩn đoán, cho vào cốc thủy tinh. Cho vào cốc đó lượng nước sạch bằng 10
lần thể tích khối lượng phân, dùng đũa thủy tinh khuấy tan phân và lọc qua

lưới lọc. Phần cặn bã bỏ đi, dung dịch lọc được cho vào các ống ly tâm và ly
tâm với tốc độ 3000 vòng/ phút trong thời gian 3 – 5 phút. Sau đó, đổ bỏ lớp
nước phía trên và giữ lại cặn trong các ống ly tâm. Tiếp theo cho nước muối
bão hòa vào các ống ly tâm, đậy nắp miệng ống và lắc đều cho cặn hòa đều
trong dung dịch, tiến hành ly tâm lần 2 với tốc độ và thời gian như trên. Dùng
vòng sắt vớt lớp váng nổi trên bề mặt, đặt lên phiến kính sạch và soi dưới
kính hiển vi tìm trứng giun T. suis.
- Phương pháp Cherbovich: Phương pháp này hoàn toàn giống phương
pháp Darling, chỉ khác dung dịch bão hòa sử dụng ở đây là MgSO
4
.
Để xác định cường độ nhiễm, có thể dùng phương pháp đếm số trứng giun T.
suis trong buồng đếm Mc. Master nhằm xác định số trứng giun T. suis/g phân.
Phương pháp đếm trứng trên buồng đếm Mc. Master gồm các bước sau:
- Bước 1: Cân 4g phân vào cốc thủy tinh, thêm nước lã sạch ( khoảng
100 – 150 ml), khuấy tan phân, lọc bỏ cặn bã thô. Nước lọc để lắng trong 1 –
2 giờ, gạt bỏ nước, giữ lại cặn.
- Bước 2: Cho 56 ml dung dịch nước muối bão hòa vào, khuấy đều cho
tan cặn. Trong khi đang khuấy, lấy công tơ hút hút 1 ml dung dịch phân nhỏ
đầy hai buồng đếm Mc. Master. Để yên 5 phút rồi kiểm tra dưới kính hiển vi
(độ phóng đại 10 x 10).
Đếm toàn bộ số trứng trong những ô của hai buồng đếm, rồi tính theo
công thức sau:
Số trứng/ 1 gam phân =
Tổng số trứng ở hai buồng đếm x 60
4
21
22
* Với lợn chết:
Đối với nhiều bệnh giun sán, phương pháp chẩn đoán khi con vật chết là

chính xác nhất. Việc chẩn đoán bệnh giun T. suis được tiến hành qua phương
pháp mổ khám, kiểm tra bệnh tích ở ruột già và tìm giun T. suis. Khi phát hiện
nhẹ nhàng lấy giun ra và để chết tự nhiên trong nước sạch, sau đó bảo quản
trong dung dịch Barbagallo (dung dịch barbagallo gồm 30 ml Formol; 7,5 g
NaCl; nước cất 100ml) và có ghi nhãn đầy đủ (Chu Thị Thơm và cs, 2006 )
[30].
2.1.2.6. Phòng trị bệnh giun Trichocephalus suis cho lợn
* Điều trị
Theo Phạm Khắc Hiếu (2009) [4], hiện nay trên thị trường có nhiều thuốc
trị bệnh giun T. suis và được chia thành các nhóm:
a/ Các Benzimidazol
- Đặc điểm chung:
Đây là nhóm thuốc quan trọng vì phổ chống ký sinh trùng rộng, không
chỉ tác dụng lên giun trưởng thành mà cả lên trứng và ấu trùng của giun.
- Tác dụng phụ:
Nói chung thuốc ít độc, tích lũy tốt. Tuy nhiên, một số thuốc như
Albendazol, Cambendazol, Oxfendazol…đều có thể là nguyên nhân sinh ra
quái thai.
* Albendazol (chế phẩm là Vermitan): Là các dẫn xuất Sunfit. Trong cơ
thể chuyển thành dạng Sulfocid, sau đó Oxy hóa thành Sulfol.
+ Tác dụng tốt, chống được nhiều loài giun tròn ở lợn (T. suis, A.
suum…) và các loài giun ở trâu, bò, ngựa.
+ Ứng dụng: Dùng để tẩy giun T. suis ở lợn với liều lượng 10 mg/ kg TT.
* Fenbendol (chế phẩm là Panacur): Thuốc có nhóm Sulfid. Quá trình
chuyển hóa trong cơ thể cũng tương tự như Albendazol.
22
23
+ Tác dụng tốt với giun T. suis (cả giai đoạn ấu trùng).
+ Ứng dụng: Thuốc có thể dung ở dạng bột hoặc nhũ dịch để tẩy giun T.
suis và các loài giun tròn đường tiêu hóa khác ở lợn. Liều lượng 5 – 10 mg/

kg TT.
* Mebendazol (chế phẩm là Telmin, Mebenvet): Trong phân tử có nhóm
Ceto. Ít phân hủy trong cơ thể, sản phẩm phân hủy không còn hoạt tính sinh học.
+ Tác dụng tốt với giun tròn và sán dây. Thuốc không gây quái thai cho
súc vật.
+ Ứng dụng: Dùng để tẩy giun T. suis ở lợn với liều lượng: 20 mg/ kg TT
hoặc 30 mg/ kg thức ăn x 5 – 10 ngày.
*Oxfendazol (chế phẩm là Synanthic): Là sản phẩm chuyển hóa
Sulfocid của Fenbendazol.
+ Phổ tác dụng: Hoạt lực chống giun T. suis cơ bản giống Fenbendazol
nhưng có tác dụng phụ gây quái thai ở liều cao.
+ Liều lượng: Lợn và loài nhai lại 5mg/ kg TT.
* Pro – Benzimidazol: Đây là các chất không có tác dụng chống ký sinh
trùng nói chung và giun T. suis nói riêng ở các thí nghiệm invitro. Nhưng khi
ở trong cơ thể (invivo) các Benzimidazol tương ứng sẽ được hình thành và có
hoạt tính. Do đó về cơ chế tác dụng, phổ tác dụng, tác dụng phụ giống như
những Benzimidazol đã đề cập ở trên.
Một số thuốc dung trong thú y: Febantel (Rital), Netobinmin (Hapadex).
b/ Các Imidazothiazol
Các thuốc nhóm này tan trong nước, phổ chống giun tròn rộng .
Tác dụng chống ký sinh trùng nhanh hơn so với các Benzimidazol.
Cơ chế tác dụng giống như Nicotin, nghĩa là thuốc có tác dụng đối kháng
với hệ Cholinergic.
23
24
* Tetramisol, Levamisol (Chế phẩm là Biverm, Ripercol)
Tetramisol có hai đồng phân:
S (-) tetramisol (tức là L – tetramisol = Levamisol)
S (+) tetramisol (tức là D – tetramisol = Dexamisol).
Theo Phạm Khắc Hiếu (2009) [4], chế phẩm chống ký sinh trùng có thể

là hỗn hợp hai đồng phân trên. Tuy nhiên hoạt tính cho ký sinh trùng chỉ ở
dạng quay trái S (-) tức là Levamisol.
- Liều lượng: Tetramisol 12 mg/ kg TT
Levamisol 5 mg/ kg TT
c/ Các Tetrahydropirimidin
Có 3 thuốc trong nhóm này được dùng để điều trị bệnh giun tròn là Pirantel,
Morantel và Oxantel. Trong đó, Oxantel chỉ có tác dụng với giun T. suis.
d/ Các Piperazin
Piperazin base tan tốt trong nước nhưng tác dụng chống giun T. suis
kém ổn định. Phạm Khắc Hiếu (2009) [4] cho rằng các muối của Piperazin ổn
định hơn. Do đó sử dụng các muối Citrat, Phosphat và Adipat. Trong 3 muối
này, muối Citrat tan tốt trong nước nhưng vị đắng. Muối Phosphat và Adipat
tan ít hơn và ít vị đắng hơn.
Liều lượng Piperazin Adipat: 200 - 400 mg/kg TT lợn.
e/ Các Macrolid
Là những thuốc có vòng Lacton lớn. Đáng chú ý là các Avermectin và
các Milbemycin. Thuốc có tác dụng tẩy giun T. suis và các giun tròn đường
tiêu hóa khác ở lợn. Theo Phạm Khắc Hiếu (2009) [4], thuốc không chỉ có tác
dụng với nội ký sinh trùng mà còn tác dụng với nhiều ngoại ký sinh trùng.
Phạm Khắc Hiếu (2009) [4] cho biết: Trong thú y sử dụng các dẫn xuất
bán tổng hợp của Avermectin B1, đó là Ivermectin (hỗn hợp của 22,23 -
Dihydro - Avermectin B1a và B1b).
24
25
Dùng Ivermectin để tẩy giun T. suis cho lợn đạt hiệu quả cao và an toàn.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17], có thể dùng một trong các hóa
dược sau để tẩy giun T. suis cho lợn:
Mebenvet: Dùng liều 50 mg/kg TT, trộn thức ăn cho lợn ăn một lần.
Fenbendazol: Liều 30 mg/kg TT, trộn thức ăn cho lợn ăn từ 6 - 15 ngày.
Levamisol: Liều 7,5 mg/kg TT, trộn thức ăn hoặc tiêm cho lợn.

Febentel: Liều 20 mg/kg TT thuốc dùng dạng uống.
Ivermectin: Liều 0,2 - 0,3 mg/kg TT, thuốc dùng tiêm cho lợn 2 lần,
cách nhau 1 - 2 ngày.
Phan Lục và Nguyễn Đức Tâm (2000) [21] cho biết: Levamisol tên
thương phẩm là Tramisol hay Ripercol, thuốc có thể trộn vào thức ăn hay pha
nước uống có phổ tác dụng rộng với giun T. suis. Ngoài ra, Fenbendazol tên
thương phẩm là Safe Guard, thuốc có thể trộn vào thức ăn dùng liên tục trong
3 ngày, không tồn dư trong cơ thể, có hiệu quả mạnh đối với giun T. suis.
Thuốc Ivocip - sản phẩm của công ty CIPLA LTD sử dụng tẩy giun T.
suis cho lợn đạt hiệu quả cao chỉ với một liều duy nhất. Ivocip có thành phần
chính là Ivermectin base (trong 1 ml Ivocip có chứa 10 mg Ivermectin base và
tá dược vừa đủ), sử dụng Ivocip tẩy giun T. suis ở lợn với liều 1 ml/33 kg TT.
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [19] đã khuyến cáo, để tẩy giun T. suis có
hiệu quả cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau:
+ Trước tiên phải chẩn đoán bệnh chính xác. Sau đó tẩy cho những lợn bị
nhiễm nặng và có biểu hiện lâm sàng. Với mục đích phòng bệnh thì nên tẩy cho
cả đàn vì có những con đang mang mầm bệnh nhưng chưa phát hiện được.
+ Xác định thời điểm tẩy thích hợp. Tốt nhất là tẩy vào mùa xuân
(tháng 3 - 4) và mùa thu (tháng 8 - 9). Lượng phân lợn thải ra phải đem ủ
nhiệt sinh học để diệt mầm bệnh, sau 15 - 20 ngày kiểm tra để đánh giá hiệu
quả của thuốc.
25

×