Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Xuất khẩu lao động của việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.97 KB, 43 trang )

Phần 1: Giới thiệu chung
1. Khái niệm xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động Việt Nam ra nước ngoài, thường gọi tắt là Xuất khẩu
lao động Việt Nam, là hoạt động kinh tế dưới hình thức cung ứng lao
động Việt Nam ra nước ngoài theo hợp đồng có thời hạn, phục vụ cho nhu cầu
nhân công lao động của doanh nghiệp nước ngoài.
2. Các hình thức xuất khẩu lao động
Có 5 hình thức xuất khẩu lao động sang nước ngoài:
• Hiệp định chính phủ ký kết giữa hai nước
• Hợp tác lao động và chuyên gia
• Thông qua doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu, khoán xây dựng công
trình, liên doanh, liên kết chia sản phẩm ở nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài
• Thông qua các doanh nghiệp Việt Nam làm dịch vụ cung ứng lao động
(chủ yếu)
Người lao động trực tiếp ký hợp đồng lao động với cá nhân, tổ chức nước
ngoài.
3. Nguyên nhân hình thành và phát triển xuất khẩu lao động
Trong tác phẩm "Phép biện chứng tự nhiên", F. Ăng - ghen viết: "Con
người sống lan rộng ra tất cả những nơi nào có thể được và người là loại động
vật duy nhất làm được điều đó một cách độc lập, tự chủ". Ngay từ buổi bình
minh của loài người đã xuất hiện sự di chuyển của nguồn lao động đến những
miền đất tốt đẹp hơn. Như vậy, sự di cư lao động quốc tế thể hiện tính tất yếu
và tác dụng tiến bộ của lịch sử. Chính sự phân bố không đồng đều về dân cư,
về điều kiện tự nhiên (tài nguyên, khí hậu) và sự bùng nổ dân số trên thế giới
đã hình thành luồng di cư lao động ở những nước kinh tế chậm phát triển di cư
đến những nước có đời sống kinh tế khá hơn, lao động ở nước nghèo tài
nguyên di chuyển đến những nước có điều kiện thiên nhiên thuận lợi, dân cư ở
nước có mật độ cao di chuyển đến những nước có mật độ dan cư thấp. Như vậy
việc di chuyển lao động trước hết là một hiện tương khách quan trong quá trình
làm việc của bản thân người lao động.
1


Ngoài ra, xuất khẩu lao động còn bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan
khác như : chính sách của quốc gia, ý chí của nhà nước, của các tổ chức cung
ứng và tiếp nhận lao động
Phân tích cụ thể, ta thấy có những nguyên nhân sau đây :
Thứ nhất, do có sự mất cân đối vê số lượng lao động, khi nguồn lao
động một nước không đáp ứng đủ hoặc vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước.
Thứ hai,do có sự mất cân đối về cơ cấu ngành nghề nhất định mà trong
nước không có hoặc không đủ. Ví dụ : ở một số nước phát triển rất thiếu lao
động trong các ngành nặng nhọc, độc hại còn ở nước nghèo lại thiếu các
chuyên gia, cán bộ kỹ thuật có trình độ cao.
Thứ ba, do có sự chênh lệch giá cả sức lao động trong nước và sức lao
động nước ngoài. Nhiều nước mặc dù không dư thừa lao động cũng tiến hành
xuất khẩu lao động vì có lợi cho cán cân thanh toán do họ có được những hợp
đồng xuất khẩu lao động có giá cao và bù lại họ nhập khẩu lao động tự những
nước có giá cả thấp hơn. Điều này lý giải vì sao có những nước vừa nhập khẩu
lại vừa xuất khẩu lao động như : Cuba, Malaysia, Bungari
Thứ tư, do có sự chênh lệch về mức thu nhập và mức sống giữa người
lao động trong nước và người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Vì lý do này
mà nhiều người dù không thuộc đội quân thất nghiệp nhưng vẫn muốn đi xuất
khẩu lao động để tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống bản thân và gia đình.
Thứ năm, do xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, lực lượng sản xuất
phát triển, nền sản xuất lớn không thể bó hẹp trong phạm vi biên giới quốc gia
mà mở rộng ra nhiều nước, việc sử dụng lao động mang tính quốc tế. Hơn nữa,
việc tăng cường xuất khẩu công nghệ, bao thầu công trình quốc tế sẽ tất yếu
kèm theo việc phát triển xuất khẩu lao động.
Phần 2 : Nhu cầu xuất khẩu lao động của Việt Nam
Trong thời đại toàn cầu hoá, lao động di chuyển từ nước này sang nước
khác đã trở thành hiện tượng khá phổ biến. Tuy không nhộn nhịp như tư bản và
công nghệ, lao động cũng là một yếu tố sản xuất ngày càng vượt biên giới tìm
nơi có mức thù lao cao hơn. Tuy nhiên, khác với sự di chuyển của lao động trí

2
thức đã có từ trước, xuất và nhập khẩu lao động giản đơn (unskilled labor, less-
skilled labor) hay lao động chân tay (blue-collar workers) là hiện tượng tương
đối mới
Những nước cần nhập khẩu lao động có hai loại : một là những nước dân
số ít mà giàu tài nguyên như ở Trung Đông, ở đây thiếu lao động trong các
ngành xây dựng, dịch vụ, nhất là dịch vụ tại tư gia; hai là những nước đã phát
triển, kể cả những nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore,
Malaysia. Trong nhóm thứ hai, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh sang những
ngành dùng nhiều tư bản, công nghệ và lao động trí thức, và chuyển sang nước
ngoài (đầu tư trực tiếp, FDI) những ngành có hàm lượng lao động giản đơn
cao. Tuy nhiên, tại những nước công nghiệp mới, những ngành dùng nhiều lao
động giản đơn có quy mô khá lớn nên không thể chuyển hết ra nước ngoài.
Thêm vào đó, trong những ngành đang phát triển mạnh tại những nước nầy,
nhiều công đoạn còn dùng lao động giản đơn nên nhu cầu nhập khẩu lao động
tăng. Tại những nước phát triển (Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật), nhu cầu lao động
tăng trong ngành xây dựng, ngành dịch vụ ẩm thực, dịch vụ săn sóc người cao
tuổi, một số nước cần lao động trong nông nghiệp.
Do sự phát triển kinh tế XKLĐ đã và đang trở thành một chính sách quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nhiều nước châu Á. Sự ra
đi làm việc có thời hạn của lao động tại nước ngoài không chỉ giải quyết sức ép
việc làm tại nước đó mà nguồn ngoại tệ do lao động gửi về đã góp phần quan
trọng lập lại sự cân bằng trong cán cân thương mại, mang lại sự thịnh vượng
không chỉ cho những vùng quê nghèo có người lao động di cư mà cả vì sự
thịnh vượng chung cho đất nước. Hàng năm tại châu Á có trên 2 triệu lượt
người rời khỏi nước mình đi lao động tại nhiều châu lục khác nhau. Nhiều
nước đã xây dựng thành chương trình quốc gia về XKLĐ và chương trình này
đã mang lại những kết quả đáng kể, góp phần vào sự thịnh vượng chung cho
đất nước. Một số nước châu Á trong những năm trước có quá trình XKLĐ
mạnh, nay với sự tăng trưởng kinh tế cao, lại có xu hướng giảm quy mô

XKLĐ, thậm chí lại trở thành nước nhập khẩu lao động như Hàn Quốc, Thái
Lan cũng đang có những dấu hiệu của sự khan hiếm nhân lực. Đây là một quy
luật tất yếu.
3
Xét trên góc độ vĩ mô
Về kinh tế: Xuất khẩu lao động có vai trò đặc biệt trong hoạt động kinh tế.
Trước hết, nó góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao
động. Có thể nói, xuất khẩu lao động giữ một vị trí rất quan trọng trong
chương trình việc làm quốc gia, nếu không nói là chủ yếu trong chiến lược giải
quyết việc làm, đây là một công cụ hữu hiệu để thực hiện mục tiêu của Đảng
và Nhà nước ta đặt ra sẽ xoá hết đói nghèo. Kinh nghiệm từ một số nước cho
thấy, xuất khẩu lao động là một giải pháp khắc phục tình trạng thất nghiệp có
hiệu quả cao. Theo ILO, tính đến năm 1999 có 920 triệu người trên thế giới
thất nghiệp và thiếu việc làm. Trong đó, các nước thuộc khối G7 có khoảng 45
triệu lao động thất nghiệp. Điều đó đã gây nên tình trạng giảm sút tăng trưởng
kinh tế cao. Để khắc phục tình trạng này, các nước đã thành công bằng sử dụng
giải pháp xuất khẩu lao động.
Bên cạnh những đóng góp trên, xuất khẩu lao động còn đem lại nguồn thu
ngoại tệ đáng kể cho đất nước, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế
do vậy rút ngắn khoảng cách giàu- nghèo giữa nước phát triển và nước đang
phát triển.
Xuất khẩu lao động cũng là một kênh đem lại một nguồn thu nhập quan
trọng cho đất nước. Theo ước tính, số lao động xuất khẩu năm 2004 đã gửi về
cho gia đình khoảng 1,5 tỷ USD, bình quân mỗi lao động khoảng 3.750 USD
hay 302,5 USD một tháng, cao gấp nhiều lần phần dôi ra sau khi trừ đi chi tiêu
cho ăn uống của lao động trong nước. Một tỷ rưỡi USD tuy chưa thấm tháp gì
so với Philippines (số tiền gửi qua kênh chuyển tiền chính thức là trên 7 tỷ
USD, còn theo ước tính của ADB tính thêm cả kênh chuyển tiền không chính
thức thì tổng số lên đến 14 – 21 tỷ USD, chiếm 32%GDP của nước này),
nhưng đã chiếm khoảng 3,3% GDP của cả nước và tương đương với nguồn

vốn ODA giải ngân trong năm.
Về xã hội: Đối với một nước hơn 87 triệu dân, với trên một nửa là số người
trong độ tuổi lao động, nhưng số người thất nghiệp ở thành thị lên đến 5,6% và
số thời gian chưa được sử dụng ở nông thôn lên đến trên 20%, thì xuất khẩu
lao động là một kênh giải quyết việc làm cho người lao động rất có ý nghĩa.
Báo cáo kết quả điều tra Lao động việc làm năm 2012 được Tổng cục Thống
4
kê và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) công bố chiều 18/12 cho thấy tỷ lệ thất
nghiệp 9 tháng năm 2012 là 2,17%, tỷ lệ thiếu việc làm là 2,98%. Về con số cụ
thể, thống kê cho thấy cả nước hiện có 984.000 người thất nghiệp và 1,36 triệu
người thiếu việc làm. Trong đó, người thiếu việc làm ở nông thôn là 1,1 triệu
người, cao hơn rất nhiều so với thành thị (246.000 người). Số người thất
nghiệp ở khu vực thành thị là 494.000, khu vực nông thôn là 459.000 người.
Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 3,53% cao hơn ở khu vực nông thôn
với 1,55%. Trong mấy năm gần đây, số lao động đi xuất khẩu của nước ta mỗi
năm đã lên đến trên dưới 70 nghìn người và đến nay đã có khoảng 400 nghìn
người Việt Nam đang làm việc ở khoảng trên 40 nước và vùng lãnh thổ.
Thực hiện tốt công tác xuất khẩu lao động sẽ giảm được tệ nạn xã hội do
thất nghiệp gây ra, tạo một hướng lao động tích cực cho người lao động, học
tập được phong cách lao động mới do tổ chức lao động ở nước ngoài trang bị
- Về quan hệ đối ngoại: Mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác trong lĩnh vực
xuất khẩu lao động là vô cùng quan trọng, từ đó quan hệ giữa nước cung ứng
lao động và nước tiếp nhận lao động trở nên gắn bó hơn, hiểu nhau hơn, tao ra
mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước. Cung cấp cho nhau những thông tin quan
trọng về những vấn đề hai nước cùng quan tâm và thống nhất quan điểm hai
bên cùng có lợi. Sự đa dạng hoá các quan hệ hợp tác quốc tế được mở rộng
thông qua hợp tác về lao động sẽ tạo điêù kiện mở rộng hơn nữa các quan hệ
hợp tác khác.
Xét trên góc độ vi mô:
• Với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu lao động:

- Xuất khẩu lao động là một bộ phận của xuất khẩu do vậy các doanh
nghiệp tham gia trong lĩnh vực này phải tìm hiểu kỹ về nền văn hoá, phong tục
tập quán của nước nhập khẩu, đây là tiền đề tốt trong quá trình hội nhập quốc
tế.
- Doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động là đã tham gia hiệu quả vào
chương trình quốc gia giải quyết việc làm đồng thời thực hiện một phần thoả
thuận hợp tác giữa hai chính phủ.
- Doanh nghiệp xuất khẩu lao động làm ăn có hiệu quả sẽ thực hiện nghĩa
vụ với ngân sách Nhà nước.
5
Tuy nhiên một vấn đề bức xúc đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay đó là
tình trạng ngày càng có nhiều lao động không thực hiện hợp đồng đã ký.Việc
này có thể gây ảnh hưởng lớn đối với uy tín của doanh nghiệp cũng như sự ổn
định trên thị trường hiện tại và tiềm năng.
• Với bản thân người lao động:
- Người đi xuất khẩu lao động có điều kiện giúp gia đình thoát khỏi đói
nghèo cải thiện mức sống của bản thân và gia đình.
- Người lao động có thể tiếp thu kỹ năng làm việc, quản lý, tích luỹ trình
độ tay nghề và kinh nghiệm thực tiễn để tự tạo việc làm sau khi về nước.
Con số người Việt Nam sinh sống, học tập và làm việc tại nước ngoài
trong những năm gần đây không ngừng gia tăng. Lao động phổ thông Việt
Nam với tay nghề cao, chịu khó và có tinh thần không ngừng cầu tiến - đó
chính là những ưu điểm của thị trường xuất khẩu lao động VN
Nếu như trước đây, chúng ta phải cạnh tranh khốc liệt với các nước có thế
mạnh về XKLĐ như Trung Quốc, Philippines, Bangladesh… thì bây giờ các
quốc gia này phải cạnh tranh với chúng ta. Những thị trường có thu nhập cao,
ổn định như Hàn Quốc, Nhật Bản đã coi lao động Việt Nam là ưu tiên số 1
trong tổng số 15 thị trường cung cấp lao động cho họ. Chúng ta cố gắng duy trì
vị thế này, bởi gần đây chủ DN Hàn Quốc, Nhật Bản có xu hướng ưu tiên sử
dụng lao động Việt Nam hơn các nước khác vì tính cần cù, chịu khó, ham học

hỏi và sáng tạo trong công việc”, Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Ngân cho biết.
Phần 3: Tình hình xuất khẩu lao động ở VN
• Giai đoạn từ 1980 đến 1990
Cuối những năm thập niên 70 và đầu 80, kinh tế Việt Nam trong tình cảm
gặp nhiều khó khăn, sản xuất công nghiệp trì trệ, mô hình hợp tác xã không tạo
ra cạnh tranh nên không kích thích được sản xuất. Thêm vào đó là các khoản
nợ sau chiến tranh cần phải trả và hai cuộc chiến tranh biên giớ Tây
Nam và phía Bắc ảnh hưởng nặng nề lên nền kinh tế. Do đó, chính quyền chủ
trương đưa lao động ra làm việc tại các nước Xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và Đông Âu.
6
Năm 1980, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu lao động đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài với hình thức chủ yếu là hợp tác sử dụng lao động thông qua các
Hiệp định Chính phủ trực tiếp kí kết. Từ 1980 – 1990, Việt Nam đã đưa đi
được 265.501 lao động. Trong tổng số 265.501lao động đã đưa đi, phần lớn lao
động của ta chủ yếu được đưa sang 4 nước XHCN (Liên Xô, CHDC Đức, Tiệp
Khắc và Bungari) với tổng số lao động là: 240.301 người, trong đó có 91.955
lao động nữ, chiếm 38,26% và trong tổng số 240.301 lao động đã gửi đi chỉ có
101.084 người đã có nghề chiếm 42,06%. Số lao động còn lại trước khi đi,
phần lớn là không nghề bằng 57,94% tổng số lao động đưa sang 4 nước này.
Ngoài số lao động gửi sang các nước XHCN, Nhà nước ta còn gửi 25.200
lao động sang làm việc ở các nước khác thuộc khu vực vùng Vịnh và Châu
Phi.
Số lượng người lao động Việt Nam đi làm ở Liên Xô, CHDC Đức, Tiệp
Khắc, Bungari từ 1980- 1990.
Trong giai đoạn này, bình quân mỗi năm ta đưa được 2,5 vạn lao động ra
nước ngoài, trong đó lao động có nghề khoảng 42% và lao động không có nghề
chiếm 58%. Đặc biệt những năm 1988, 1989, 1990 lao động không có nghề
chiếm 70%.
7

Bên cạnh đưa người đi lao động, Việt Nam cũng đã ký kết về hợp tác
chuyên gia trong các lĩnh vực: y tế, giáo dục, nông nghiệp với một số quốc
gia châu Phi (Libya, Angeri, Angola, Mozambique, Congo, Madagasca) với
con số người đưa sang là 7.200 người; Trung Đông (Iraq) khoảng 18.000
người. Bên cạnh đó, gần 24.000 thực tập sinh và học sinh học nghề tại các
nước Đông Âu đã chuyển sang lao động trong những năm thập niên 80. Tổng
số lao động được đưa đi trong thời kì này gần 300.000 người.
Theo thống kê, từ năm 1980 đến 1989, ngân sách nhà nước đã thu được
khoảng 800 tỷ đồng và hơn 300 triệu USD, một khoản tiền lớn tại thời điểm
lúc đó. Ngoài giảm bớt số người thất nghiệp trong nước; người lao động được
tiếp cận với công nghệ mới và gửi về nước một khối lượng hàng hóa tiêu dùng
khá lớn, giúp cải thiện cuộc sống gia đình tại Việt Nam trong thời kỳ khó
khăn .
Năm 1989, có nhiều biến động chính trị lớn xảy ra tại các nước Xã hội chủ
nghĩa Đông Âu và khủng hoảng kinh tế, chính trị tại nhiều nước châu Phi, dẫn
đến phần lớn các nước này không còn nhu cầu nhận lao động từ Việt Nam. Sau
khi nước Đức tái thống nhất vào năm 1990, những công nhân chưa hết hợp
đồng được đền bù để trở về nước.
• Giai đoạn 1991 đến nay
 Quy mô
Tình hình và nhu cầu thực tiễn cùng với việc cơ chế quản lý kinh tế Việt
Nam đang trong thời kỳ đổi mớidẫn đến những thay đổi về cơ chế hoạt động
xuất khẩu lao động từ phía chính quyền. Ngày 9-11-1991, Nghị định về đưa
người đi lao động có thời hạn ở nước ngoài ra đời. Cụ thể, các tổ chức doanh
nghiệp được cấp phép kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động thông qua hợp
đồng ký với nước ngoài. Cơ chế này đã đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao
động Việt Nam, mở rộng thị trường xuất khẩu. Số lao động đưa đi nước ngoài
tăng đều mỗi năm.
8
Số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài

Năm Số lao động (người)
Tăng so với
năm trước(%)
Thị trường XKLĐ
1991 1020
1992 810 -20,59 12
1993 3960 388,89
1994 9230 133,1
1995 10050 8,88 15
1996 12660 25,97
1997 18470 45,89
1998 12240 -33,73 27
1999 21240 78,19 38
2000 31468 44,28
2001 36168 14,93
2002 46122 27,52
2003 75000 62,6 46
Tổng 279008
Năm có số lượng lao động xuất khẩu cao nhất trong cả thời kỳ phải nói đến
là năm 2002 với tổng số lao động xuất khẩu đạt được là 46.422 lao động; trong
đó có 10.556 lao động Nữ, chiếm 22,89% và 26.875 lao động có nghề, chiếm
58,27% trong tổng số lao động được đưa đi trong năm 2002. Đặc biệt nhất là
năm 2003, tính đến hết ngày 31 tháng 10 ta đã xuất khẩu được 66.064 lao
động, cao nhất trong cả thời kỳ. Trong số 66.064 lao động đưa đi, có 22.240
lao động Nữ, chiếm 33,66% và 33.128 lao động đã qua đào tạo nghề, chiếm
50,15% trong tổng số lao động được đưa đi trong 10 tháng năm 2003.
9
Từ năm 2006 đến 2008, trung bình mỗi năm có hơn 83.000 lao động xuất
khẩu sang nước ngoài, chiếm khoảng 5% tổng số lao động được giải quyết việc
làm trong cả nước. Năm 2006, Việt Nam đã đưa được 78.855 lao động đi làm

việc ở nước ngoài, đạt 105% kế hoạch cả năm. Riêng 9 tháng đầu năm 2007,
cả nước đã đưa được 62.760 lao động được đưa đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài, đạt 78,5% kế hoạch cả năm
Đến năm 2009 đã có khoảng 500.000 lao động Việt Nam làm việc ở 40
quốc gia và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề khác nhau. Năm 2011,
tổng số lao động Việt Nam xuất khẩu sang nước ngoài theo số liệu từ Cục
Quản lý Lao động Ngoài nước là 81.475 người. Theo thống kê của Hiệp hội
Xuất khẩu Lao động Việt Nam, con số này là 88.298 người.
Mặt khác, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng không ngừng tăng
lên về cả số lượng và chất lượng. Theo thông tin từ Hiệp Hội Xuất khẩu lao
động Việt Nam (trang thông tin điện tử - Bộ lao động - Thương binh và xã hội
ngày 20/2/2008), trong năm 2007, Hiệp hội biểu dương 19 doanh nghiệp có
thành tích xuất sắc trong việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Trong đó
công ty AIC đã xuất khẩu trên 5.000 lao động, còn lại các công ty khác đã đưa
được hơn 1.000 lao động / năm như các công ty TRAENCO, công ty TTLC
10
 Thị trường xuất khẩu
Bảng 2.2. Số lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài (2000 – 2010)
ĐVT: Người
Nguồn: Báo cáo hàng năm của Cục QLLĐNN - Bộ LĐTB & XH (2011)
Vào thời điểm năm 2011, xét về lượng tiếp nhận thì lao động Việt Nam
nhiều nhất tại Đài Loan, sau đó là Hàn Quốc, Malaysia, Nhật Bản, Ả Rập
Saudi, Lào, Campuchia. Một số thị trường khác như Brunei, Singapore, Các
Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất cũng đang được mở rộng. Các quốc gia
phát triển có thu nhập cao như Úc, Mỹ, Canada, Phần Lan và Ý cũng là mục
tiêu xuất khẩu lao động Việt Nam hướng đến. Riêng 9 tháng đầu năm 2007, cả
11
Năm
Đài
Loan

Malaysia
Nhật
Bản
Hàn
Quốc
Nước
khác
Tổng
cộng
2000 8.099 239 1.497 7.316 14.349 31.500
2001 7.782 23 3.249 3.910 21.204 36.168
2002 13.191 19.965 2.202 1.190 9.574 46.122
2003 29.069 38.227 2.256 4.336 1.112 75.000
2004 37.144 14.567 2.752 4.779 8.205 67.447
2005 22.784 24.605 2.955 12.102 8.148 70.594
2006 14.127 37.941 5.360 10.577 10.850 78.855
2007 23.640 26.704 5.517 12.187 16.972 85.020
2008 31.631 7.810 6.142 18.141 23.266 86.990
2009 21.677 2.792 5.456 7.578 35.525 73.028
2010 28.499 11.741 4.913 8.628 31.765 85.546
Tổng 237.643 184.614 42.299 90.744 180.970 736.270
nước đã đưa được 62.760 lao động được đưa đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài, đạt 78,5% kế hoạch cả năm. Trong đó, đông nhất là Malaysia, với
21.313 người, thứ 2 là thị trường Đài Loan: 16.554; tiếp đó là Hàn Quốc: -
8.536; Qatar: 4.350; Nhật Bản: 3.047; Makau: 1.631; các thị trường khác:
7.032 lao động. Nếu năm 1995, nước ta mới có 29 vạn lao động làm việc tại 15
nước thì đến nay đạt gần 60 vạn làm việc trên 40 nước và vùng lãnh thổ. Tính
đến nay, lao động Việt Nam đang làm việc chủ yếu ở các thị trường: Malaysia
trên 100.000 người, thu nhập bình quân 2-3 triệu đồng/ tháng, một số nghề thu
nhập 5-7 triệu đồng/ tháng; Đài Loan: trên 90.000 người, thu nhập 300-

500USD/ tháng. Hàn Quốc: trên 30.000 người, thu nhập bình quân khoảng
900-1000USD/ tháng. Nhật Bản: khoảng 19.000 tu nghiệp sinh, thu nhập bình
quân trên 1000 USD/tháng. Ngoài ra, tại Các Tiểu Vương quốc Ả Rập thống
nhất có khoảng 3000 lao động và tại Quatar là trên 7000 người. Chúng ta cũng
đang bắt đầu triển khai kế hoạch đưa lao động sang nhiều thị trường mới như
Cộng hoà Séc, Úc, Bruney, Macao…
• Thị trường Malaysia:
Malaysia là một nước ASEAN nhận nhiều lao động nước ngoài. Theo số
liệu thống kê của Bộ Nội vụ Malaysia, số lao động nước ngoài làm việc tại
Malaysia trong những năm gần đây đều lên tới khoảng 2 triệu người, trong đó,
khoảng trên 1/3 làm việc trong lĩnh vực sản xuất chế tạo, số còn lại làm việc
trong các ngành nông nghiệp, đồn điền, xây dựng, dịch vụ và giúp việc gia
đình.Việt Nam bắt đầu đưa lao động sang làm việc tại Malaysia từ năm 2002.
Để đưa lao động sang làm việc tại Malaysia một cách có trật tự, phù hợp với
luật pháp hai nước, ngày 01/12/2003, Việt Nam và Malaysia đã ký Bản Ghi
nhớ về tuyển dụng lao động Việt Nam sang làm việc tại Malaysia. Từ đó đến
nay, đã có khoảng 190.000 lao động Việt Nam sang làm việc tại Malaysia,
trong đó lao động Việt Nam làm việc tại Malaysia tập trung chủ yếu trong lĩnh
vực sản xuất chế tạo (khoảng 70%); số lao động Việt Nam làm việc trong các
ngành nghề khác chỉ chiếm khoảng 30%.
STT Năm
Xuất cảnh
Tổng số Nữ
1 2002 19.965 5.161
12
2 2003 38.227 6.069
3 2004 14.567 3.340
4 2005 24.605 6.660
5 2006 37.941 17.468
6 2007 26.704 9.054

7 2008 7.810 4.158
8 2009 2.792 1.604
9 2010 11.741 5.502
10 5 tháng đầu năm 2011 4.293 1.941
Tổng cộng 188.528 61.047
Số lượng lao động Việt Nam sang làm việc tại Malaysia từ năm 2002
Qua số liệu trên có thể thấy rằng năm 2004, số lượng lao động Việt Nam
sang làm việc tại Malaysia giảm hẳn, do thời kỳ đó Malaysia tạm dừng một số
công trình xây dựng lớn, nên nhiều lao động Việt Nam bị mất việc làm. Tình
hình đó đã ảnh hưởng đến tâm lý của người lao động không muốn đi làm việc
ở Malaysia nữa. Sau đó, đến thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới, lại có một
bộ phận lớn lao động phải về nước do bị mất việc, những người còn ở lại làm
việc tại Malaysia cũng không có nhiều việc làm, nên thu nhập thấp. Cũng vào
năm đó, Malaysia đưa ra chính sách hạn chế nhận lao động nước ngoài trong
một số lĩnh vực, vì vậy, năm 2009, chỉ có một số lượng rất ít lao động Việt
Nam sang làm việc tại Malaysia.
Từ cuối năm 2009, kinh tế Malaysia đã ổn định và phát triển trở lại. Chính
phủ Malaysia cũng không thu phí levy từ người lao động nữa, vì vậy, lao động
Việt Nam có thêm nhiều việc làm, thu nhập ổn định. Nhiều nhà máy, xí nghiệp
tại Malaysia có nhu cầu nhận nhiều lao động Việt Nam. Vì vậy, số lượng lao
động Việt Nam đi làm việc tại Malaysia đã tăng trở lại. Năm 2010, đã có gần
12 nghìn lao động Việt Nam sang làm việc tại Malaysia.
Hiện nay, lao động Việt Nam làm việc tại Malaysia có mức lương cơ bản
khoảng 21RM/ngày. Cộng với các khoản tiền làm thêm giờ, thu nhập của
13
người lao động cũng đạt khoảng từ 750RM/tháng trở lên. Đây là mức thu nhập
mà người lao động Việt Nam chấp nhận được.
Một số kiến nghị để đẩy mạnh hợp tác
1/ Cơ quan chức năng hai nước tiếp tục hợp tác để tìm ra các giải pháp bảo
vệ tốt hơn quyền lợi của người lao động, đặc biệt là để giảm chi phí cho người

lao động trước khi đi làm việc tại Malaysia; tăng cường công tác thanh kiểm
tra, quản lý doanh nghiệp hai bên (doanh nghiệp tiếp nhận của Malaysia và
doanh nghiệp cung ứng của Việt Nam) và xử lý các vi phạm trong hoạt động
cung ứng và tiếp nhận lao động Việt Nam sang làm việc tại Malaysia.
2/ Phía Malaysia tạo điều kiện để doanh nghiệp Việt Nam cử cán bộ đại
diện thường trực ở Malaysia để hỗ trợ người sử dụng lao động trong công tác
quản lý lao động và giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến người lao
động do doanh nghiệp đưa đi, không để vụ việc kéo dài ảnh hưởng đến bản
thân người lao động, doanh nghiệp và dư luận xã hội. Lý do cần phải có cán bộ
đại diện của doanh nghiệp Việt Nam tại Malaysia để hỗ trợ các doanh nghiệp
tiếp nhận của Malaysia trong công tác quản lý lao động là do lao động Việt
Nam bị hạn chế về mặt ngôn ngữ, nên thường gặp khó khăn trong giao tiếp với
người sử dụng lao động và lao động các nước khác, dẫn đến khả năng phát sinh
vụ việc do hiểu sai xuất phát từ ngôn ngữ bất đồng.
• Thị trường Đài Loan
Bắt đầu từ cuối năm 1999, đến nay đã đưa được trên 200 nghìn lượt lao
động sang làm việc. Trước đây, lao động ta cũng bỏ hợp đồng ra ngoài với tỷ
lệ lớn, dẫn đến từ đầu năm 2005 Đài Loan buộc phải tạm dừng nhận lao động
chăm sóc người bệnh và phục vụ trong các gia đình. Trước tình hình đó, Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội đã chỉ đạo các doanh nghiệp tăng cường
14
khai thác hợp đồng đưa lao động sang làm việc trong các ngành sản xuất công
nghiệp, thu nhập khoảng 700USD/tháng.
Mức lương bình quân trong năm 2007 và năm 2008 là khoảng chừng
44.000 Đài tệ, năm 2009, lúc xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nghiêm
trọng nhất, mức lương bình quân khoảng 42.000 Đài tệ, còn từ tháng 1 ~7 năm
nay, mức lương bình quân khoảng 46.000 Đài tệ, đã vượt tiêu chuẩn trước khi
xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính ."
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, nhiều lao động ta thiếu
việc làm, giảm thu nhập và phải về nước trước hạn (từ cuối năm 2008 đến quý

II năm 2009 có khoảng 5.500 người về nước trước hạn). Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội đang chỉ đạo phối hợp với phía Đài Loan thực hiện các
giải pháp bảo đảm quyền lợi cho người lao động.
Theo thống kê của cơ quan lao động Đài Loan trong 5 tháng đầu năm
2011, số lượng lao động nước ngoài tại Đài Loan tăng thêm xấp xỉ 22.500 lượt
người, tăng hơn gấp 2 lần so với lượng gia tăng cùng kì năm ngoái.Cụ thể,
tổng số lao động ta tại Đài Loan là 85.650 người, tăng 6.269 lượt người kể từ
đầu năm, tiếp tục giữ vị trí thứ 2 về tổng số lao động nước ngoài tại Đài Loan
và chiếm 21,43% tổng số lao động nước ngoài làm việc tại thị trường này.
Trong đó lao động ngành sản xuất và xây dựng chiếm 29,63% thị phần ngành
nghề; lao động chăm sóc người bệnh tại bệnh viện và các cơ sở dưỡng lão tại
Đài Loan hiện vẫn do phía Việt Nam cung ứng là chủ yếu, chiếm 74,79% thị
phần ngành nghề.
Theo Cục quản lý lao động ngoài nước, Đài Loan là thị trường tiếp nhận
lao động Việt Nam lớn nhất trong năm 2012, với khoảng 30.500 người. Lao
động Việt Nam tham gia thị trường này làm việc trong nhiều lĩnh vực như: sản
xuất chế tạo, cơ khí, may mặc, nông nghiệp, đồ mộc Lương cơ bản khoảng 8-
9 triệu đồng. Đối với lao động tại nhà máy, công trường làm thêm 2 giờ trong
ngày bình thường được trả thêm 33% lương mỗi giờ; làm thêm các giờ tiếp
theo được trả thêm 66% lương mỗi giờ; làm thêm ngày chủ nhật, ngày nghỉ lễ,
nghỉ phép được trả lương gấp 2 lần ngày thường.“Đây sẽ là thị trường tiềm
năng của NLĐ Việt Nam trong năm 2013” - giám đốc một Cty XKLĐ nói.
Thị trường Hàn Quốc
15
Trước đây, ta đưa lao động sang Hàn Quốc theo hình thức tu nghiệp sinh
thông qua một số doanh nghiệp dịch vụ. Từ năm 2004, theo Luật Cấp phép
việc làm cho người lao động nước ngoài của Hàn Quốc, hai bên đã ký thỏa
thuận về đưa lao động Việt Nam sang làm việc tại nước này theo hình thức phi
lợi nhuận, người lao động chỉ phải chịu chi phí 700 USD trước khi đi. Tỷ lệ hồ
sơ dự tuyển của lao động Việt Nam gửi đi được người sử dụng lao động lựa

chọn tiếp nhận là 85%, cao nhất trong số 15 quốc gia đưa lao động sang Hàn
Quốc.
Năm 2012 :
Hiện Việt Namcó khoảng 75 nghìn lao động (bao gồm cả số lao động đã
hết hạn hợp đồng nhưng còn ở lại làm việc) đang làm việc tại Hàn Quốc.
Trong đó, số lao động đi theo Chương trình cấp phép việc làm cho lao động
ngoài nước của Hàn Quốc (gọi tắt là EPS) khoảng 63 nghìn người, 2.700 người
đi làm thuyền viên trên các tàu đánh bắt cá Hàn Quốc, số lao động kỹ thuật cao
khoảng 600 người và có khoảng 3.000 lao động sang Hàn Quốc đi theo hợp
đồng thực tập nâng cao tay nghề của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và lao động đi theo hợp đồng cá nhân. Chỉ tính riêng trong 6 tháng đầu
năm 2012, gần 6.500 lao động Việt Nam được đưa sang làm việc tại Hàn Quốc
theo Chương trình EPS.
Lao động Việt Nam làm việc tại Hàn Quốc có mức thu nhập khá cao, bình
quân từ 900 – 1.200 USD/tháng, hàng năm các lao động chuyển về nước cho
gia đình trên 600 triệu USD.
Lao động người Việt Nam được các doanh nghiệp Hàn Quốc ưa thích bởi
tính cần cù, chịu khó, sáng tạo và nhanh chóng hòa nhập với môi trường sinh
hoạt và làm việc. Theo thống kê, lao động Việt Nam tại Hàn Quốc chủ yếu làm
việc trong lĩnh vực sản xuất, chế tạo (78,3%), số còn lại làm việc trong lĩnh
vực xây dựng (9,3%), nông nghiệp (10,5%), ngư nghiệp (1,7%) và dịch vụ
(0,2%).
Phần 4: Đánh giá tổng kết
I. Lợi ích của xuất khẩu lao động
16
1. Giải quyết việc làm
Mặc dù nền kinh tế của Việt Nam đã phục hồi và tiếp tục tăng trưởng, phần
lớn người Việt Nam vẫn trong tình trạng nghèo đói, thất nghiệp, trình độ giáo
dục chưa cao. Mong muốn cải thiện đời sống là nguyên nhân chính thúc đẩy
người lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài.

Theo thống kê năm 2009, Việt Nam có 46,7 triệu lao động, chiếm hơn
50% dân số, trong đó 90% hoạt động ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Bên
cạnh đó, mỗi năm có thêm hơn 1 triệu người đến tuổi lao động. Thêm vào đó,
mức độ gia tăng của lực lượng lao động trong bối cảnh tỷ lệ thất nghiệp ở
thành thị và tỷ lệ thời gian nhàn rỗi ở nông thôn tương đối cao đặt ra những
vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Trong đó, xuất khẩu lao động
được xem một giải pháp để giảm tỷ lệ thất nghiệp tại Việt Nam.
2. Nguồn thu ngoại tệ
Lao động xuất khẩu qua đào tạo ngày càng tăng. Người lao động đi làm
việc có thời hạn ở nước ngoài thường có thu nhập cao, khoảng từ 6 - 10 lần so
với thu nhập từ việc làm trong nước.Năm 2007, người lao động Việt Nam ở
nước ngoài gửi về nước lượng kiều hối từ 1,6 tỷ USD. Trung bình mỗi năm gửi
về từ 1,6 tỷ đến 2 tỷ USD. Trong đó từ Hàn Quốc trên 700 triệu USD, Nhật
Bản hơn 300 triệu USD. Năm 2010, Việt Nam đứng thứ 16 trong 30 quốc gia
có lượng kiều hối chuyển về nhiều nhất, là một trong 10 quốc gia có thu nhập
lớn từ xuất khẩu lao động.
3. Xuất khẩu lao động góp phần tiết kiệm chi phí đào tạo, nâng cao tay
nghề và phát triển nguồn nhân lực.
Hoạt động xuất khẩu lao động ngoài mục đích giải quyết công ăn việc
làm, tạo thu nhập cho người lao động còn có một số nhiệm vụ quan trọng khác
là: qua lao động ở nước ngoài, người lao động tiếp thu kinh nghiệm quản lý,
sản xuất tiên tiến, nâng cao, trình độ tay nghề, nghiệp vụ của mình cũng như
rèn luyện tác phong và kỷ luật công nghiệp, kể cả trình độ ngoại ngữ, góp phần
cải thiện và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thời kỳ Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Sau khi về nước chính họ sẽ trở thành một nguồn
lao động có kỹ năng, trình độ nghề nghiệp cao… bổ sung vào lực lượng lao
động có trình độ cho các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp trong nước…
17
4. Phát triển kinh tế-xã hội
Xuất khẩu lao động cũng tạo điều kiện thay đổi đời sống của người dân.

Tại một số làng xã tỉ lệ xuất khẩu lao động cao, nhiều người từ nghèo trở nên
giàu có, ước tính trung bình số tiền gửi về hằng năm có thể đạt từ 40 đến 100
tỷ đồngThêm vào đó, nhiều người trở về nước đã trở thành các nhà đầu tư, gây
dựng doanh nghiệp, tạo việc làm cho lao động địa phương.
Một lợi ích khác là xuất khẩu lao động giúp một bộ phận lao động tiếp cận
với máy móc và công nghệ tiên tiến, cơ chế quản lý hiện đại, tác phong công
nghiệp, nâng cao trình độ và tay nghề. Do đó, xuất khẩu lao động được coi là
ngành kinh tế đối ngoại mang lại nhiều lợi ích kinh tế và xã hội.
5. Mối quan hệ hữu nghị
Thông qua người lao động, công nhân các nước cùng làm việc và người
dân bản xứ có thể tìm hiểu về đất nước, con người cũng như truyền thống văn
hoá Việt Nam. Từ đó làm cho các mối quan hệ ngày càng trở nên gắn bó mật
thiết hơn. Ngoài các mối quan hệ của người lao động ra thì các mối quan hệ
giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa nhà nước với nhà nước cũng không
ngừng được cải thiện. Do vậy xuất khẩu lao động một mặt đem lại những lợi
ích kinh tế, xã hội to lớn, nhưng mặt khác lại góp phần củng cố các mối quan
hệ hợp tác cũng như hội nhập quốc tế.
II. Khó khăn
Hoạt động xuất khẩu lao động (XKLĐ) của ta còn quá nhiều hạn chế, từ
kinh nghiệm đến hệ thống luật pháp và chính sách. Cũng chính vì vậy, tình
trạng cò mồi, lừa đảo trong hoạt động XKLĐ ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó,
các doanh nghiệp được cấp phép hoạt động XKLĐ lại có quy mô nhỏ, cách
làm manh mún, chưa chủ động trong tuyển dụng, thiếu sự phối hợp với các địa
phương trong việc cung cấp thông tin đơn hàng và kế hoạch chuẩn bị nguồn
lao động. Đặc biệt, một trong những hạn chế phổ biến ở đây là các cơ sở chưa
chú trọng công tác đào tạo nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho
NLĐ.
1. Về người lao động:
18
a. Trình độ lao động thấp

Mặc dù trong thực tế nhiều chủ sử dụng lao động nước ngoài có
nhận xét tốt về lao động Việt Nam là cần cù, khéo tay, thích làm thêm giờ
Nhưng nhìn chung số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong thời
gian qua tỷ lệ có tay nghề mới ở mức 30 - 35%, cộng với nhận thức và kỷ luật
làm việc chưa cao nên thường phải chấp nhận làm việc ở nơi có thu nhập thấp
và phải chấp nhận trả phí môi giới cao thì mới có đơn hàng.
Do lao động Việt Nam vốn xuất thân từ nông thôn, đa số không nghề, không
ngoại ngữ, không tác phong công nghiệp, mà chúng ta vẫn thường gọi là lao
động “3không”, rất bất lợi khi muốn ra nước ngoài làm việc. Thông thường
những lao động “3không” bao giờ cũng rất khó được tuyển chọn và thu nhập
thấp. Đối tượng lao động này cũng rất khó tiếp cận và học hỏi công việc cũng
như phong tục tập quán, văn hóa của nước sở tại nếu được tuyển dụng. Thời
gian kéo dài sẽ dẫn đến tâm lý chán việc, tệ hơn là góp phần vào số lượng lao
động bỏ trốn. Đó là những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân người lao
động. Ngoài ra, thực trạng này còn ảnh hưởng rất lớn đến thương hiệu, uy tín
lao động Việt Nam trên thị trường thế giới. Thực tế thì cho đến thời điểm này,
thị trường lao động ngoài nước vẫn cần chấp nhận một bộ phận lao động giản
đơn, chưa qua đào tạo nghề hoặc trình độ nghề thấp. Tuy nhiên, ở hầu hết các
thị trường, nhu cầu về lao động có tay nghề đang gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là
những lao động có tay nghề cao. Cụ thể, những thị trường như Mỹ, Canada,
Australia. Singapore được coi là thị trường cao nhất kể cả thu nhập và điều
kiện nhập cảnh. Muốn có một tấm visa vào những thị trường này, người lao
động phải có kỹ năng tay nghề cao, kinh nghiệm làm việc thực tế và phải đạt
trinh độ tiếng Anh 4.5 điểm IELTS trở lên…
Thêm một nỗi bức xúc khác, đó là tiêu cực trong việc thi lấy chứng chỉ ngoại
ngữ, làm hồ sơ. Điều này xảy ra thường xuyên ở nhiều tỉnh, thành. Do vậy,
"đoàn quân" XKLĐ có nhiều thành phần phức tạp, trong đó đối tượng là "cậu
ấm, cô chiêu" chưa từng biết đến lao động vất vả, chưa hề biết thế nào là "tác
phong sản xuất công nghiệp", nhưng đến nước bạn vẫn phải đảm nhận quy
trình đứng máy theo dây chuyền, dẫn đến ý thức kỷ luật kém, hiệu quả kinh tế

thấp.
19
Do trình độ thấp nên với những nghề có thu nhập cao, thị trường đang cần
như các ngành khách sạn, nhà hàng, công nghệ điện tử , với yêu cầu về tay
nghề cũng như ngoại ngữ khá cao thì lao động Việt Nam đáp ứng được rất ít.
Trong các lĩnh vực sản xuất chế tạo, những kiến thức liên quan tới quy định an
toàn, vệ sinh lao động, nội quy của nhà máy rất cần thiết với người lao động.
Nó không chỉ giúp cho người lao động hiểu và tuân thủ các quy trình khi tham
gia sản xuất mà còn giúp họ tránh được những bất trắc có thể đe dọa đến sức
khỏe và tính mạng. Thế nhưng những điều này, người lao động cũng còn mơ
hồ.
b. Hiện tượng lao động bỏ trốn
Vấn đề thu nhập thấp, chi phí cho những công đoạn "chạy" đi cho bằng được
đã đội lên, khiến nhiều lao động tìm cách trốn đi làm công ty khác , hoặc trốn ở
lại sau khi hết hợp đồng, lưu trú bất hợp pháp.
Theo thống kê tỉ lệ bỏ trốn và cư trú bất hợp pháp tại Hàn
Quốc (40%), Nhật Bản (30%) và Đài Loan (10-15%). Mục đích các lao động
20
phá vỡ hợp đồng ra ngoài làm là để có thu nhập cao hơn, cư trú bất hợp pháp
để có thể ở lại làm việc lâu hơn, như tu nghiệp sinh tại Nhật Bản có mức lương
trung bình khoảng 500 – 700 USD/tháng, nhưng nếu trốn ra làm việc ở ngoài
có thể được mức lương gấp 3 lần. Tại châu Âu cũng có tình trạng nhiều lao
động Việt Nam tự ý phá vỡ hợp đồng và lưu trú bất hợp pháp.
Tại Hàn Quốc, Hiệp hội Nông - Ngư nghiệp, Hiệp hội các doanh nghiệp vừa
và nhỏ đã có những đánh giá không tích cực về lao động Việt Nam trong việc
chuyển đổi nơi làm việc cũng như tình trạng lưu trú bất hợp pháp. Điều này
dẫn đến xu hướng tuyển dụng lao động Việt Nam có dấu hiệu giảm dần tại một
số công ty. Thống kê năm 2011 của Hàn Quốc cho biết Việt Nam đứng đầu về
số lượng lao động cư trú bất hợp pháp (8.780 trong hơn 60.000 lao động) và
đứng đầu về yêu cầu đòi chuyển đổi nơi làm việc với các lý do không chính

đáng (32%) so với các quốc gia khác.
Bên cạnh đó còn hiện tượng người dân tự ý hoặc được môi giới đưa sang
nước ngoài làm việc và lưu trú bất hợp pháp không qua hợp đồng lao động
bằng những con đường như như đi du lịch, thăm người thân hoặc kết hôn giả.
Ứng phó với tình trạng này, Nhật Bản tuyên bố sẽ mạnh tay hơn trong việc
kiểm soát người lao động nước ngoài, nếu bỏ trốn khi bắt được sẽ trục xuất
ngay về nước. Về phía Hàn Quốc, chính quyền đã cân nhắc đến biện pháp hạn
chế việc tổ chức kỳ kiểm tra tiếng Hàn hoặc cắt giảm chỉ tiêu tiếp nhận lao
động Việt Nam, đồng thời thực hiện các giải pháp truy quét tình trạng lao động
nước ngoài cư trú bất hợp pháp. Kết quả con số này giảm xuống đáng kể. Nhận
định từ giới chức Việt Nam cho biết, việc lao động "cư trú bất hợp pháp tại
Hàn Quốc ngày càng gia tăng đã tác động xấu đến ổn định xã hội và góp phần
làm phát sinh tội phạm liên quan đến người nước ngoài".
Tất cả những hành vi "bất chấp luật pháp" đó đã làm cho người bản địa
mất thiện cảm với người lao động Việt Nam. Việc này đã được cảnh báo từ
trước, song tại Hàn Quốc quá nhiều người bỏ trốn khi hết thời hạn hợp đồng
nên khiến nước bạn phải tạm ngừng tiếp nhận lao động của nước ta.
c. Thông tin thân phận người lao động
Nhiều lao động Việt Nam qua đời ở nước ngoài, tuy nhiên những con số này
chưa được công bố rộng rãi. Bộ Lao động - Thương binh và Xã Hội cho biết
21
những trường hợp chết đã làm thủ tục thông báo về gia đình, còn đăng lên báo
thì không có lợi trong dư luận xã hội vì nhiều vấn đề chưa được rõ ràng. Một
số trường hợp do khâu kiểm tra sức khỏe không được kỹ nên ra nước ngoài
gặp điều kiện lao động căng thẳng, cộng thêm có lao động không giữ mình nên
đã uống rượu, dẫn đến đột tử.
]
Có thông tin về trường hợp người lao động mất
do tai nạn nhưng hai tháng sau gia đình tại Việt Nam mới được báo tin.
Theo thống kê của Cục Quản lý Lao động Ngoài nước Việt Nam, từ tháng 4

năm 2002 đến đầu năm 2008 đã có hơn 300 trường hợp người lao động Việt
Nam chết tại Malaysia. Riêng năm 2007, Phóng viên báo Pháp Luật TP.HCM
thống kê có ít nhất 100 lao động Việt Nam chết tại Malaysia. Con số này nhiều
hơn hẳn các thị trường lao động khác, trong đó 1/3 thống kê do "đột tử". Có
nhiều nghi vấn chưa giải đáp quanh vấn đề này vì nhiều nhân chứng tại
Malaysia và gia đình các nạn nhân khẳng định những người bị chết đều khỏe
mạnh, trước đó không có biểu hiện bệnh tật. Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội cho biết việc khám sức khỏe không cẩn thận là nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến lao động bị đột tử phổ biến tại quốc gia này.
Tháng 12 năm 2011, ba lao động tại Nga thiệt mạng vì bị ngạt khí gas. Do
xuất khẩu lao động theo đường dây bất hợp pháp nên khi chết, họ không được
chôn cất mà chỉ được quấn vải rồi lấp đất lên.
2. Quy định và thủ tục pháp lý
• Thủ tục hành chính còn rườm rà: Việc thực thi công vụ của một số cán bộ ở địa
phương, chưa thực sự tận tâm, thậm chí có nơi còn gây khó dễ, tốn kém, tiêu
cực cho người lao động nhất là ở khâu xác nhận thủ tục giấy tờ lý lịch tư pháp
và thủ tục xin cấp hộ chiếu.
• Ở nước ngoài còn thiếu một hệ thống tùy viên lao động tại những địa bàn có
nhiều lao động làm việc hoặc có khả năng tiếp nhận lao động.
• Công tác thông tin tuyên truyền về xuất khẩu lao động còn hạn chế dẫn đến
tình trạng phần đông người lao động bị thiếu thông tin nên khả năng người lao
động tự liên hệ trực tiếp với doanh nghiệp xuất khẩu lao động là khó khăn, dẫn
tới tình trạng là doanh nghiệp cần tuyển người thì không có trong khi đó người
cần đi xuất khẩu lao động thì không biết đâu có nhu cầu để mà đến tuyển nên
22
không ít trường hợp đáng tiếc người lao động bị kẻ xấu lừa đảo đã xảy ra gây
tâm lý hoang mang cho người lao động và xã hội.
Quy định và thủ tục pháp lý không rõ ràng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
lợi dụng lách luật để cuối cùng bắt người lao động phải chịu những chi phí cao
một cách bất hợp lý. Theo khuyến nghị của các nước khác, Việt Nam nên tập

trung vào các đầu mối ở cấp tỉnh để đưa người lao động đi nước ngoài để quản
lý chặt chẽ hơn.
3. Đơn vị tuyển dụng và sử dụng lao động
Năng lực và trình độ của các doanh nghiệp XKLĐ Việt Nam hiện nay cũng
là một thách thức lớn,trong tổng số trên 140 doanh nghiệp được cấp lại và cấp
mới Giấy phép xuất khẩu lao động theo Luật người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng, thì có khoảng 1/3 là doanh nghiệp mạnh, bảo
đảm được một số tiêu chí chính như: tìm kiếm được các đơn hàng hấp dẫn
(điều kiện làm việc, thu nhập, điều kiện sống, đi lại tốt, không có hoặc có ở
mức thấp về tiền môi giới ), tạo nguồn nhanh và phù hợp với yêu cầu của đối
tác, có cơ sở đào tạo nghề hoặc chủ động hợp tác với cơ sở đào tạo nghề để tạo
nguồn; quản lý tốt và sử lý mọi phát sinh nhanh gọn phù hợp với pháp luật
Còn lại 2/3 số doanh nghiệp năng lực và trình độ ở mức trung bình và thấp
(năm 2007 chỉ có trên 20 doanh nghiệp và tổ chức đưa được từ 1.000 lao động
trở lên đi làm việc ở nước ngoài, 6 tháng đầu năm 2008 có 15 doanh nghiệp và
tổ chức đưa được từ 500 người trở lên đi làm việc ở nước ngoài, thậm chí có
tới 33 doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2008 chỉ đưa đi được dưới 50
người).
Mặc dù theo luật định, mức trần tiền môi giới cho các thị trường cứ mỗi năm
của hợp đồng không vượt quá một tháng lương của người lao động, tuy nhiên
trong thực tế, nhiều công ty xuất khẩu đòi hỏi người lao động phải đóng phí
môi giới cao hơn. Ngoài ra còn tiền dịch vụ (mức trần khoảng 10% của lương
tháng, đóng trước 18 tháng) trả cho công ty xuất khẩu, chi phí đặt cọc "chống
trốn", chi phí dạy nghề và ngoại ngữ trước khi xuất hành, vé máy bay lượt
đi, Nhiều lao động đã phải thế chấp đất và nhà cửa hay vay mượn để có đủ
tiền lo chi phí.
23
Theo sự tính toán của báo Lao Động: "Mức lương tối thiểu người lao động
được hưởng là 15.840 Đài tệ/tháng. Bị trừ thuế tại Đài Loan: 3.168 đài tệ; phí
cho công ty Việt Nam tuyển dụng lao động là 12%/tháng lương : 2.000 đài tệ;

bảo hiểm tại Đài Loan: 46 đài tệ; phí môi giới 5.750 đài tệ. Mỗi tháng người
lao động được ứng 2.000 đài tệ để sinh hoạt. Như vậy với mức lương 15.840
đài tệ/tháng, sau khi trừ các chi phí, người lao động chỉ tiết kiệm mỗi tháng
khoảng 2.876 đài tệ. Số tiền này chỉ bằng 1/2 số tiền chi cho môi giới. Nếu với
việc quy đổi khoảng 33 đài tệ = 1 USD thì họ chỉ còn giữ lại để gửi về nhà
khoảng 87 USD/tháng. Như vậy có thể nói người lao động làm việc quần quật
trong 1 tháng chủ yếu chỉ để trả cho các loại phí và chủ yếu là phí môi
giới." Cứ mỗi người lao động thì công ty môi giới có thể hưởng lợi gấp ba lần
số tiền mà mỗi người làm công có thể để dư được (phí môi giới gần gấp 2, và
phí dịch vụ gần bằng) và gần phân nửa số lương tháng của họ, dù không phải
trực tiếp lao động.
Theo luật của Đài Loan, mức phí môi giới lao động phải trả hàng tháng là
từ 47 đến 56 USD, tuỳ thuộc thời hạn hợp đồng. Tuy nhiên, có nguồn tin cho
biết có nhiều trường hợp bên môi giới lấy số tiền nhiều hơn mức cho phép và
không quan tâm đến quyền lợi của người lao động
Phần 5 : Định hướng
I. Xác định và phân tích thị trường xuất khẩu lao động tiềm năng của
Việt Nam
A. Tiếp tục khai thác các thị trường truyền thống:
1. Thị trường Hàn Quốc:
Hàn Quốc là một trong những thị trường xuất khẩu lao động truyền thống
của Việt Nam. Đây cũng là thị trường thu hút đông đảo người lao động tham
gia. Trong năm 2012, phía Hàn Quốc đã tiếp nhận tới 7.252 lao động Việt Nam
( theo chương trình EPS). Con số này của năm 2011 là 12600 lao động. Dù
giảm 5.348 lao động so với năm 2011, do phía Hàn Quốc tạm dừng tiếp nhận
lao động mới theo Chương trình EPS – Lao động về đúng hạn vẫn tuyển dụng
bình thường, tuy nhiên con số này vẫn chứng tỏ chủ sử dụng lao động rất thích
lao động Việt Nam.
24
Năm 2013, có rất nhiều tín hiệu vui cho người lao động đi xuất khẩu lao

động tại Hàn Quốc: Theo ông Phan Văn Minh – Giám đốc Trung tâm lao động
nước ngoài ( Bộ LĐ – TB & XH) nếu trong năm 2013, Việt Nam thực hiện tốt
việc giảm lao động bỏ trốn, cư trú bất hợp pháp, HQ sẽ kí gia hạn tiếp chương
trình EPS đối với Việt Nam. Bộ Việc làm và Lao động vừa ra thông báo về
mức lương tối thiểu cho người lao động nước ngoài từ 1.1.2013 đến
31.12.2013 là khá cao. Thu nhập trung bình của NLĐ làm việc tại Hàn Quốc là
cao nhất từ 1300 – 1700 USD/ tháng ( khoảng 26- 35 triệu đồng / tháng), còn
phổ biến cũng từ 1000-1500 USD/ tháng.
 HQ sẽ vẫn là thị trường chủ chốt của Việt Nam trong năm 2013 và sẽ thu hút
đông đảo lao động tham gia.
2. Thị trường Đài Loan:
Theo cục quản lí lao động nước ngoài, Đài Loan là thị trường tiếp nhận
lao động Việt Nam lớn nhất trong năm 2012, với khoảng 30.500 người. Lao
động tham gia thị trường này làm việc trong nhiều lĩnh vực như: sản xuất chế
tạo,cơ khí, may mặc, nông nghiệp, đồ mộc… Lương cơ bản khoảng 8-9 triệu
đồng. Đối với lao động tại nhà máy, công trường làm thêm 2 giờ trong ngày
bình thường được trả thêm 33% lương mỗi giờ, làm thêm các giờ tiếp theo
được trả thêm 66% lương mỗi giờ, làm thêm ngày chủ nhật, ngày nghỉ lễ, nghỉ
phép được trả lương gấp 2 ngày thường. Do đó, đây tiếp tục sẽ là thị trường
tiềm năng của người lao động Việt Nam trong năm 2013.
Ngoài Đài Loan, Macau ( Trung Quốc) cũng là thị trường thu hút nhiều lao
động Việt Nam, nhất là các lao động có nhu cầu đi làm thêm giúp việc gia
đình. Hiện theo ước tính, có khoảng 10.000 lao động Việt Nam đang làm việc
hơp pháp tại thị trường này.
3. Thị trường Malaysia:
Malaysia là nước nhập khẩu lao động hàng đầu châu Á với hơn 2 triệu lao
động nước ngoài, chủ yếu đến từ Indonesia, Ấn Độ, Sri Lanka, Bangladesh và
Việt Nam, chiếm 20% lực lượng lao động nước này.
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu lao động sang Malaysia đầu năm 1992, tính
đến nay đã có hơn 100.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại Malaysia. Thị

trường Malaysia là một thị trường dễ tính, cần nhiều lao động phổ thông,
25

×