MỤC LỤC
I. LÝ THUYẾT H-O…………………………………………………….…….….2
I.1.Giả thiết………………………………………………………………….…… 2
I.2.Khái niệm cần biết………………………………………………………….… 2
I.2.Khái niệm cần biết………………………………………………………….… 3
II. TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM GẦN ĐÂY….…… 4
II.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu……………………………………………………4
II.2. Cơ cấu xuất nhập khẩu……………………………………………………… 5
II.3. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu nói chung…………………… 6
III. XU HƯỚNG THAY ĐỔI CƠ CẤU XUẤT NHẬP KHẨU……………… 6
III.1. Cơ cấu thị trường…………………………………………………………….6
III.2. Cơ cấu ngành……………………………………………………………….15
IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VIỆT NAM CẦN QUAN TÂM…………………… 17
V. TRẢ LỜI CÂU HỎI THẢO LUẬN……………………………………… 20
1
I. LÝ THUYẾT H-O.
I.1.Giả thiết.
-Thế giới bao gồm 2 quốc gia, 2 yếu tố sản xuất, 2 mặt hàng. Mức độ trang bị các
yếu tố ở mỗi quốc gia là cố định và mức độ trang bị các yếu tố ở 2 quốc gia là
khác nhau.
-Công nghệ sản xuất là giống nhau giữa 2 quốc gia.
-Các mặt hàng khác nhau có hàm lượng yếu tố sản xuất là khác nhau và không có
sự hoán vị về hàm lượng các yếu tố sản xuất tại bất kỳ mức giá cả yếu tố tương
quan nào.
-Cạnh tranh hoàn hảo trên cả thị trường hàng hóa lẫn thị trường yếu tố sản xuất.
-Chuyên môn hóa là không hoàn toàn.
-Các yếu tố sản xuất có thể di chuyển tự do trong mỗi quốc gia nhưng không di
chuyển được giữa các quốc gia.
-Sở thích là giống nhau giữa 2 quốc gia.
-Thương mại được thực hiện tự do.
I.2.Khái niệm cần biết.
+) Hàm lượng yếu tố sản xuất.
Một mặt hàng (X) được coi là có hàm lượng lao động cao nếu tỷ lệ lao động/vốn
được sử dụng để sản xuất ra một đơn vị mặt hàng đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng đối
với mặt hàng thứ hai (Y).
L(X)/K(X) > L(Y)/K(Y)
2
VD: Để sản xuất 1 đơn vị mặt hàng X cần 3 đơn vị lao động và 5 đơn vị vốn
(L(X)/K(X)=3/5. Để sản xuất 1 đơn vị mặt hàng Y cần 2 đơn vị lao động và 4 đơn
vị vốn (L(Y)/K(Y)=1/2). Như vậy, mặt hàng X có hàm lượng lao động cao hơn
mặt hàng Y.
+) Mức độ dồi dào tương đối.
Quốc gia A được coi là dồi dào tương đối về lao động nếu:
L(A)/K(A) > L(B)/K(B)
Nếu một quốc gia dồi dào về lao động tức là khan hiếm về vốn và ngược lại.
I.3.Định lý H-O.
“Một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng sử dụng nhiều tương đối yếu
tố sản xuất dồi dào tương đối, và nhập khẩu những mặt hàng sử dụng nhiều tương
đối yếu tố sản xuất khan hiếm tương đối của quốc gia đó”.
Ví dụ: Nếu quốc gia A dồi dào tương đối yếu tố lao động và khan hiếm tương đối
yếu tố vốn so với quốc gia B thì quốc gia A sẽ xuất khẩu những mặt hàng có hàm
lượng lao động cao sang quốc gia B và nhập khẩu từ quốc gia B các mặt hàng có
hàm lượng vốn cao.
II. TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM GẦN ĐÂY.
Năm 2012, mặc dù kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn
nhưng hoạt động xuất khẩu của nước ta vẫn đạt kết quả khá, tăng trưởng cả về quy
mô xuất khẩu và tốc độ tăng so với năm trước. Theo Bộ Công Thương, tổng kim
3
ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2012 đạt 114,6 tỷ USD, tăng 18,3% so với năm
2011, vượt chỉ tiêu đề ra (chỉ tiêu là 13%). Xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp
100% vốn trong nước chiếm tỷ trọng 36,9%, đạt 42,3 tỷ USD với tốc độ tăng
trưởng thấp, chỉ tăng 1,3% so với năm 2011. Xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, chiếm 63,1% đạt khoảng 72,3 tỷ USD,tăng 31,2%.
II.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu.
Bảng tốc độ tăng giảm xuất nhập khẩu, tỉ lệ nhập siêu qua các năm 2006-2010.
Nếu như năm 2007 Việt Nam nhập siêu với tỷ lệ 29,1%, năm 2008 tỷ lệ
28,8%, năm 2009 tỷ lệ 22,5%, năm 2010 tỷ lệ 17,5%, năm 2011 tỷ lệ 10,1% so với
kim ngạch xuất khẩu thì năm 2012 Việt Nam đã xuất siêu khoảng 284 triệu USD.
Từ bảng trên ta thấy xuất khẩu của nước ta tăng dần theo các năm, tốc độ
tăng bình quân là: 18%. Quy mô xuất khẩu thay đổi từ 39,83 tỷ USD năm 2006 tới
4
114,6 tỷ USD năm 2012 (số liệu ngoài bảng), mở rộng tại nhiều ngành hàng, số
ngành hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD năm 2011 là 23 ngành hàng.
II.2. Cơ cấu xuất nhập khẩu.
Trong số các mặt hàng chủ lực, dệt may vẫn là ngành đóng góp lớn nhất
vào tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012. Theo Tổng cục Hải quan, tính đến ngày
15/11/2012, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may đạt 13.089 triệu USD, chiếm
tới 13,28% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 7,8% so cùng kỳ năm 2011. Tiếp theo
đó là những mặt hàng xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao như mặt hàng máy
tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện cũng
đạt kim ngạch xuất khẩu lần lượt là 6.502 triệu USD, tăng 68,6% so cùng kỳ và
10.674 triệu USD, tăng 92,8% so cùng kỳ năm 2011. Những mặt hàng này đã đạt
được tốc độ tăng trưởng cao hơn rất nhiều so với năm 2011, góp mặt vào nhóm 10
mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn nhất trong năm 2012.
Trong khi nhóm hàng công nghiệp tiếp tục đóng vai trò quan trọng vào tăng
trưởng kim ngạch xuất khẩu thì kim ngạch xuất khẩu của ngành nông lâm nghiệp
thủy sản lại có xu hướng giảm sút. Các mặt hàng chủ lực của ngành này như gạo,
cao su đều ở mức thấp hơn so với cùng kỳ năm 2011. Cụ thể, 11 tháng đầu năm
2012, kim ngạch xuất khẩu gạo chỉ đạt 3.247 triệu USD so với mức 3.463 triệu
USD của 11 tháng năm 2011, kim ngạch xuất cao su chỉ đạt 2.416 triệu USD so
với mức 2.778 triệu USD của cùng kỳ năm 2011. Xuất khẩu thủy sản mặc dù
không giảm song tốc độ tăng tương đối khiêm tốn với giá trị kim ngạch chỉ đạt
5.331 triệu USD, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm 2011. Nguyên nhân khiến kim
ngạch xuất khẩu của các mặt hàng này giảm chủ yếu do giá trên thị trường thế giới
giảm, nên mặc dù khối lượng xuất khẩu vẫn tăng, song giá trị kim ngạch xuất khẩu
lại giảm.
5
Nhập khẩu 11 tháng đạt 98.729 triệu USD, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm
2011, trong đó, kim ngạch nhập khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) đạt 52.037 triệu USD, chiếm tới 52,7% kim ngạch nhập
khẩu của cả nước và tăng 23,8% so với cùng kỳ năm 2011.
Về cơ cấu mặt hàng nhập khẩu, các mặt hàng thuộc ngành công nghiệp chế
biến như máy móc thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác; máy vi tính, sản phẩm điện
tử và linh kiện; điện thoại các loại và linh kiện chiếm tỷ trọng lớn và có tốc độ
tăng trưởng khá cao, trong khi đó kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng nguyên phụ
liệu ngành dệt may, da giày và các mặt hàng sắt thép, kim loại đều giảm so với
cùng kỳ năm 2011. Đây là dấu hiệu cho thấy các ngành công nghiệp chế biến đã
có xu hướng phục hồi trong khi đó những khó khăn ngành dệt may và ngành xây
dựng vẫn còn.
Nếu như thị trường xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là các đối tác từ EU và
Mỹ thì ngược lại thị trường nhập khẩu chủ yếu lại từ Trung Quốc (25% tổng kim
ngạch nhập khẩu), Hàn quốc (13,4%) và các thị trường trong khu vực ASEAN
(18,5%).
=> Tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu một số ngành thâm dụng lao động chủ yếu.
Đóng góp của các ngành hàng thâm dụng lao động tới tăng trưởng kinh tế,
các vấn đề việc làm, an sinh xã hội là rấy lớn. => vai trò càng cốt yếu, càng khó
thay đổi, thực tế chính những ngành xuất khẩu tài nguyên, nông sản thô đang là
nguồn cung cấp ngoại tệ chính cho tăng trưởng kinh tế nói chung, các ngành công
nghiệp, dịch vụ nói riêng.
6
II.3. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu nói chung:
-Yếu tố đầu vào nhập khẩu và quan hệ với xuất khẩu.
- Quốc gia nhỏ tham gia thị trường toàn cầu, thị phần xuất khẩu trên thế giới chưa
nhiều khiến chúng ta khó có thể tác động tới giá và chịu bị động từ các bất ổn kinh
tế.
- Chính sách, chương trình khuyến khích xuất khẩu.
- Chuyển đổi cơ cấu sản xuất phù hợp với nhu cầu xuất khẩu và tiêu thụ nội địa.
-Tận dụng lợi thế từ thương mại quốc tế hiện nay trong khai thác lợi thế của các
nước vào phục vụ hoạt động sản xuất của mình.
III. XU HƯỚNG THAY ĐỔI CƠ CẤU XUẤT NHẬP KHẨU.
III.1. Cơ cấu thị trường.
Sản phẩm xuất khẩu của Việt nam đã có mặt trên 220 quốc gia và vùng
lãnh thổ, trong gần 80 thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam, có 25 thị trường
đạt trên 1 tỷ USD, 17 thị trường đạt trên 2 tỷ USD, 9 thị trường đạt trên 3 tỷ USD.
Theo tổng hợp của Tổng cục Thống kê, các thị trường khu vực EU và ASEAN
được gộp lại, nên các thị trường lớn bao gồm danh sách sau đây:
7
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường trên đạt 88
tỷ USD, tăng 19,4% so với năm trước, cao hơn tốc độ tăng của tổng kim ngạch
xuất khẩu (18,3%), chiếm 76,8% tổng số, cao hơn tỷ trọng 76,1% của năm 2011.
EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam vào thị trường này đã tăng gần như liên tục trong mấy năm nay, chỉ
bị ngắt quãng vào năm 2009 (năm 2005 đạt 5,52 tỷ USD, năm 2008 cao gấp đôi,
đạt 10,9 tỷ USD, năm 2009 đạt 9,4 tỷ USD, năm 2010 đạt 11,39 tỷ USD, năm
2011 đạt 16,55 tỷ USD, năm 2012 đạt 20,3 tỷ USD, chiếm 17,7% tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam). So với năm 2011, xuất khẩu của Việt Nam sang EU
tăng 22,5%- cao hơn tốc độ tăng của tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, cao
hơn tốc độ tăng của 6 thị trường trên. Theo mặt hàng, kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng kim ngạch (tổng giá tri sản xuất) của
mặt hàng tương ứng của cả nước, như điện thoại các loại và linh kiện chiếm 43%;
8
giày dép chiếm 36%; máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện chiếm 19%; hàng
dệt may chiếm 16%
Theo nước cụ thể, khu vực EU có 6 nước đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD là
Đức, Hà Lan, Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Bỉ. Đáng lưu ý, năm 2012 là năm khu
vực EU gặp nhiều khó khăn do bị khủng hoảng nợ công, kinh tế bị suy thoái, tỷ lệ
thất nghiệp cao, người dân phải “thắt lưng buộc bụng”… thì đạt được quy mô và
tốc độ tăng trưởng cao như trên càng nổi bật, càng có ý nghĩa, vượt khỏi dự đoán
của mọi người, từ các nhà hoạch định chính sách vĩ mô, đến các chuyên gia, doanh
nghiệp ở trong nước và quốc tế. Một điểm đáng lưu ý là, trong quan hệ buôn bán
của Việt Nam đối với khu vực này, Việt Nam liên tục ở vị thế xuất siêu lớn (năm
2005 đạt trên 2,9 tỷ USD, năm 2008 đạt trên 5,3 tỷ USD, năm 2009 đạt gần 4,1 tỷ
USD, năm 2010 đạt trên 5 tỷ USD, năm 2011 đạt gần 8,8 tỷ USD, năm 2012 đạt
đến 11,5 tỷ USD). Hầu hết các thị trường trong khu vực, Việt Nam đều xuất siêu,
lớn nhất là Đức, Hà Lan, Italia, Bỉ, Áo. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam vào các thị trường truyền thống lâu đời còn đạt kim ngạch thấp (dưới 100
triệu USD) như Estonia, Bungari, Hungaria, Litvia, Rumani, Slovenia; hoặc
các nước có kim ngạch lớn hơn, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng của hai
bên, như Séc, Slovakia, Ba Lan, Ucraina.
Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu tính theo nước là lớn nhất của Việt Nam,
tăng mạnh từ khi hai nước ký Hiệp định Thương mại song phương, nhất là khi
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Xuất khẩu của Việt
Nam sang Hoa Kỳ nếu năm 1995 mới đạt 170 triệu USD, năm 2000 đạt 733 triệu
USD, thì năm 2001 đã vượt qua mốc 1 tỷ USD, năm 2005 đạt gần 6 tỷ USD, năm
2010 đạt 14,2 tỷ USD, năm 2011 đạt gần 17 tỷ USD, năm 2012 đạt 19,6 tỷ USD.
So với năm trước, xuất khẩu sang Mỹ tăng 15,6% và chiếm 17,1% tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam. Trong các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ, có 14
mặt hàng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD, trong đó có 7 mặt hàng đạt trên 500
triệu USD, đặc biệt có 4 mặt hàng đạt trên 1 tỷ USD, cao nhất là dệt may, tiếp đến
9
là giày dép, gỗ và sản phẩm gỗ, thuỷ sản. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất
khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu về mặt hàng tương ứng
của Việt Nam, như dệt may chiếm gần 50%; túi xách, ví, va li, mũ và ô dù chiếm
41,3%; gỗ và sản phẩm gỗ chiếm 38,6%; sản phẩm từ sắt thép chiếm 30,9%; giày
dép chiếm 30,8%; hạt điều chiếm 27,7%; thuỷ sản chiếm 19,5%; máy móc, thiết
bị, dụng cụ phụ tùng khác chiếm 17,3%; hạt tiêu chiếm 14,7% Đáng lưu ý, trong
quan hệ buôn bán với Hoa Kỳ, Việt Nam liên tục ở vị thế xuất siêu lớn (năm 2000
đạt 0,37 tỷ USD, năm 2005 đạt 5,06 tỷ USD, năm 2010 đạt 10,47 tỷ USD, năm
2011 đạt 12,4 tỷ USD, năm 2012 đạt 14,9 tỷ USD). Thị trường Hoa Kỳ gần như
vô tận, bởi tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào đây còn chiếm tỷ lệ khá
khiêm tốn so với tổng kim ngạch nhập khẩu của nước này (0,83%); nhu cầu các
nhà nhập khẩu tại đây thường lớn; trong khi số Việt kiều tại Mỹ khá đông… Tuy
nhiên, đối với từng mặt hàng thì cần tránh “bỏ trứng vào một giỏ”, cần quan tâm
đến những quy định về xuất xứ, vệ sinh an toàn thực phẩm để tránh bị rào cản kỹ
thuật.
ASEAN là khu vực mà Việt Nam năm 2012 xuất khẩu lớn thứ ba về kim
ngạch (chiếm 15,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam), tăng 27,2% so với
năm trước, cao gấp rưỡi tốc độ tăng chung. Xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực
ASEAN nếu năm 2000 mới đạt 2,62 tỷ USD, thì năm 2005 đạt trên 5,74 tỷ USD,
năm 2010 đạt 10,37 tỷ USD- tức là cứ sau 5 năm lại tăng gấp đôi- năm 2011 đạt
trên 13,58 tỷ USD, năm 2012 đạt 17,3 tỷ USD. Trong khu vực này có 6 nước đạt
kim ngạch trên 1 tỷ USD, cao nhất là Malaysia, tiếp đến là Campuchia, Thái Lan,
Indonesia, Singapore, Philippines. Theo nhóm hàng xuất khẩu sang khu vực
ASEAN của Việt Nam, có 18 mặt hàng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD, trong
đó có 8 mặt hàng đạt trên 500 triệu USD (4 mặt hàng đạt trên 1 tỷ USD là dầu thô;
sắt thép; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; xăng dầu); 4 mặt hàng đạt
trên 500 triệu USD là gạo; điện thoại các loại và linh kiện; phương tiện vận tải và
phụ tùng; cao su). Trong quan hệ buôn bán với khu vực ASEAN, Việt Nam ở vị thế
10
nhập siêu (năm 2000 là 1,83 tỷ USD, năm 2005 là 3,58 tỷ USD, năm 2010 là 6,04
tỷ USD, năm 2011 là 7,33 tỷ USD, năm 2012 là 3,7 tỷ USD). Những nước trong
khu vực mà Việt Nam nhập siêu lớn là Singapore (khoảng 4,2 tỷ USD), Thái Lan
(trên 2,8 tỷ USD), Brunei (0,52 tỷ USD)…
Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam. Nếu năm 2000 mới đạt
2,58 tỷ USD, năm 2005 đạt 4,34 tỷ USD, thì năm 2010 đạt 7,73 tỷ USD, năm
2011 đạt 10,78 tỷ USD, năm 2012 đạt 13,1 tỷ USD. Nếu tính theo nước, thì đứng
thứ hai sau Hoa Kỳ và chiếm 11,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Kim
ngạch xuất khẩu năm nay so với năm trước tăng 21,4%, cao hơn tốc độ tăng
chung. Theo nhóm hàng mà Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản có 16 nhóm đạt
trên 100 triệu USD, trong đó có 5 nhóm đạt trên 1 tỷ USD (dầu thô; dệt may;
phương tiện vận tải và phụ tùng; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng; thuỷ sản).
Trong quan hệ buôn bán với Nhật Bản, Việt Nam nhìn chung ở vị thế xuất siêu
(năm 2000 là 274 triệu USD, năm 2005 là 266 triệu USD, năm 2010 nhập siêu là
1288 triệu USD, năm 2011 là 381 triệu USD, năm 2012 là 1400 triệu USD).
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa cũng là một thị trường xuất khẩu lớn của
Việt Nam. Nếu năm 2000 mới đạt 1,54 tỷ USD, năm 2005 đạt 3,22 tỷ USD, thì
năm 2010 đạt 7,74 tỷ USD, năm 2011 đạt 11,13 tỷ USD, năm 2012 đạt 12,2 tỷ
USD, chiếm 10,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam; nếu tính theo nước
thì đứng thứ 3 sau Hoa Kỳ, Nhật Bản. Theo nhóm hàng, xuất nhập khẩu của Việt
Nam có 19 nhóm đạt trên 100 triệu USD, trong đó có 4 nhóm đạt trên 1 tỷ USD
(máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; cao su; sắn và sản phẩm từ sắn; dầu
thô). Trong quan hệ buôn bán với CHND Trung Hoa, Việt Nam đã chuyển từ xuất
siêu lớn sang nhập siêu lớn (năm 2000, Việt Nam xuất siêu 0,14 tỷ USD, năm
2005 nhập siêu 2,67 tỷ USD, năm 2010 nhập siêu 12,46 tỷ USD, năm 2011 nhập
siêu 13,47 tỷ USD, năm 2012 nhập siêu 16,7 tỷ USD).
11
Hàn Quốc là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam. Nếu năm 2000 mới
đạt 353 triệu USD, năm 2005 đạt 664 triệu USD, thì năm 2010 đạt 3,09 tỷ USD,
năm 2011 đạt 4,72 tỷ USD, năm 2012 đạt khoảng 5,5 tỷ USD, tăng 16,6% so với
năm trước và chiếm 4,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong các
nhóm hàng Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc, có 10 nhóm hàng đạt trên 100
triệu USD, cao nhất là dệt may, tiếp đến là dầu thô, thuỷ sản, phương tiện vận tải
và phụ tùng. Trong quan hệ buôn bán với Hàn Quốc, Việt Nam ở vị thế nhập siêu
lớn (năm 2000 Việt Nam nhập siêu từ Hàn Quốc 1,4 tỷ USD, năm 2011 nhập siêu
8,46 tỷ USD, năm 2012 nhập siêu 10,1 tỷ USD).
Đánh giá xu hướng xuất khẩu của việt nam: Sử dụng dữ liệu tổng hợp của
Trademap-ITC để đánh giá Top 10 thị trường nhập khẩu cao nhất của Việt Nam
tính từ năm 2006 đến nay là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Úc,
Malaysia, Thái Lan, Thụy Sỹ, Đài Loan, Pháp. Ngoài
Top 10 thị trường nhập khẩu hàng Việt Nam, các thị
trường khác sau Top 10 tính tổng giá trị cho 5 năm trở
lại đây là Canada, Thổ Nhĩ Kỳ, Braxin, Nam Phi,
Isarel, Cộng hòa Séc, Chi lê, Bồ Đào Nha, Peru và
Costa Rica.
Biểu đồ quan hệ ba biến giữa (1) mức tăng
trưởng xuất khẩu hàng năm của Việt Nam với (2) tăng
trưởng nhập khẩu của các thị trường xác định các vị trí
các nước trên trục tọa độ, kích thước bóng thể hiện thị phần nhập khẩu của đối tác
trong tổng nhập khẩu toàn cầu tính cho tất cả các loại hàng hóa. Hình trên cho
thấy, mức tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam so với mức tăng nhập khẩu chung
của đối tác là cao hơn (bóng màu xanh), trừ các thị trường Indonesia, Singapore và
Úc có mức tăng trưởng nhập khẩu cao hơn. Các thị trường năng động như Trung
Quốc, Hàn Quốc, Hồng kong vừa có thị phần lớn vừa tăng trưởng nhanh và xuất
khẩu của Việt Nam góp phần lớn vào sự tăng trưởng nhanh chóng này.
12
Như vậy, trong giai đoạn từ năm 2006 đến 2010, mức tăng trưởng xuất
khẩu hàng năm cho các thị trường của Việt Nam nằm trong ngưỡng từ 10-20%,
trong khi các thị trường này đang ổn định và nhiều thị trường có xu hướng tăng
trưởng âm. Điều này ngụ ý rằng cạnh tranh sẽ càng gay gắt hơn và Việt Nam
được lựa chọn là quốc gia cung ứng các sản phẩm hàng hóa nguyên vật liệu thô
với chi phí thấp hoặc là quốc gia được lựa chọn thuê ngoài trong việc gia công
hàng dệt may và giày dép.
*** Xu hướng thay đổi cơ cấu xuất khẩu trên thị trường quốc tế:
Những thay đổi trong cơ cấu xuất khẩu trên thị trường quốc tế có những
chiều hướng mới, các xu hướng rõ nét nhất là:
- Xuất khẩu ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc dân của các
quốc gia, thể hiện mức độ mở cửa của các nền kinh tế quốc gia trên thị trường thế
giới.
- Tốc độ tăng trưởng của hàng hoá “vô hình” nhanh hơn các hàng hoá “hữu hình”.
- Giảm đáng kể tỷ trọng các nhóm hàng lương thực, thực phẩm.
- Giảm mạnh tỷ trọng của nguyên liệu, tăng nhanh tỷ trọng của dầu mỏ và khí đốt.
- Tăng nhanh tỷ trọng của sản phẩm công nghiệp chế biến, nhất là máy móc thiết
bị.
Phân tích 1: Một xu hướng của thị trường thế giới hiện nay là các sản phẩm
có hàm lượng khoa học và công nghệ cao, sức cạnh tranh mạnh mẽ, trong khi các
sản phẩm nguyên liệu thô ngày càng mất giá và kém sức cạnh tranh. Chu kỳ sống
của các loại sản phẩm xuất khẩu được rút ngắn, việc đổi mới thiết bị, công nghệ,
13
mẫu mã hàng hoá diễn ra liên tục. Đây là một kết quả tất yếu khi khoa học kỹ
thuật phát triển, bởi chính sự phát triển đó làm giảm giá thành sản phẩm, sự tiêu
hao ít nguyên liệu, dẫn tới nhu cầu về nguyên liệu ngày càng có xu hướng giảm.
Như vậy Việt nam sẽ không tránh khỏi tác động suy giảm sản lượng xuất khẩu
nguyên, nhiên liệu trong tương lai.
Phân tích 2: Hàng hoá nông sản xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chủ yếu
là nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế, vì vậy, sức cạnh tranh kém, người xuất
khẩu bị ép giá thiệt thòi. Trong thực tế mấy năm gần đây đã chứng tỏ điều đó, các
mặt hàng nông sản trên thế giới đều có xu hướng “cung lớn hơn cầu”, giá giảm.
Để nâng cao cạnh tranh, cũng như hạn chế sự giao động về giá cả thì không còn
con đường nào khác là phải đổi mới cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng cường xuất
khẩu các mặt hàng tinh chế, giảm dần sản phẩm thô và sản phẩm sơ chế.
=> Tình hình trên Việt Nam phải có giải pháp từng bước thay đổi cơ cấu hàng
xuất khẩu.
III.2. Cơ cấu ngành.
Xem xét cơ cấu xuất nhập khẩu theo ngành cho thấy khu vực nông lâm
thủy sản luôn xuất siêu, còn khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ luôn nhập
siêu. Để gia tăng hàm lượng trị giá cho các sản phẩm nông lâm thủy sản, vấn đề
khó khăn không phải là công nghệ sản xuất thực phẩm hoặc hàng chế biến, mà
chính là khó khăn về khâu tiếp thị và phát triển thị trường, đặc biệt là xây dựng
và quản trị hệ thống phân phối trực tiếp đến người tiêu dùng. Nông nghiệp đang là
ngành tạo ra ngoại tệ để phục vụ hoạt động của các ngành công nghiệp, xây dựng
và dịch vụ.
Đối với các ngành hàng dệt may, giày dép, điện tử thì xuất khẩu phụ thuộc
quá nhiều vào lao động việc nhập khẩu các nguyên phụ liệu và các sản phẩm phụ
14
trợ. Nếu tăng xuất khẩu các ngành này, nhập khẩu cũng gia tăng tương ứng. Các
mặt hàng muốn chuyển từ phân đoạn bán sản phẩm mang tính gia công với chi phí
thấp sang thành các sản phẩm khác biệt hóa, có thương hiệu trực tiếp tại thị trường
nhập khẩu sẽ vô cùng khó khăn và đòi hỏi đầu tư lớn mới có thể cạnh tranh được
với các doanh nghiệp toàn cầu. Điều này là không thể đối với quy mô và năng lực
của doanh nghiệp Việt Nam. Nhưng nguy hiểm hơn nữa khi việc lệ thuộc vào sản
phẩm đầu vào từ nước ngoài kéo theo hệ lụy là Việt Nam không có quyền tác
động đến mức giá và khối lượng đầu vào từ nguồn cung. Trong trường hợp nguồn
cung tăng giá hoặc hạn chế số lượng, sẽ phá vỡ mô hình sản xuất dựa trên lao
động và giá rẻ của Việt Nam hiện nay.
Để thấy được rõ nét các phân tích về chuỗi giá trị toàn cầu này, có lẽ cần
các nghiên cứu riêng cho từng ngành hàng và từng sản phẩm cụ thể. Từ đó, Chính
phủ có chiến lược và lộ trình hành động cho việc khuyến khích thay đổi ngành
kinh tế, chuyển dịch sang các khu vực có giá trị gia tăng cao hơn, được hưởng các
chính sách ưu đãi và hỗ trợ phát triển của Chính phủ. Tái cấu trúc ngành kinh
doanh trọng điểm cho nền tảng tăng trưởng là một vấn đề khá phức tạp, liên quan
đến nhiều Bộ/Ngành và đòi hỏi định hướng chiến lược và tầm nhìn dài hạn của
Chính phủ để có thể đầu tư đủ cho phát triển. Ngay lập tức, có thể Việt Nam chưa
có các ngành công nghệ sinh học phân tử, sản phẩm dựa trên nghiên cứu tế bào
mầm, thực phẩm biến đổi gen hoặc thiết bị công nghệ thông tin và phát triển nội
dung số nhưng ưu tiên và có chính sách ưu đãi cho phát triển các ngành dựa trên
nền tảng công nghệ cao sẽ đảm bảo tăng trưởng bền vững trong dài hạn.
***Trình độ lao động của việt nam:
GDP đầu người thuộc mức trung bình (năm 2012 là 1555 USD), mức lương giá rẻ.
Đa số người lao động Việt Nam hoạt động trong các ngành thâm dụng lao động
(chỉ riêng ngành dệt may đã có trên 2 triệu lao động, số người trong lĩnh vực nông
nghiệp càng nhiều hơn) => duy trì ngành thâm dụng lao động giúp đảm bảo cuộc
sống cho đa số lao động Việt Nam => đặt ra khó khăn trong bài toán thay đổi.
15
Kết luận về lí thuyết H-O dựa trên thực tiễn việt nam thời gian qua:
Lí thuyết lợi thế so sánh H-O đã đúng khi chỉ ra các nước sẽ tập trung sản
xuất và xuất khẩu các sản phẩm sử dụng các yếu tố đầu vào dồi dào tương đối của
quốc gia mình. Trong trường hợp so sánh giữa vốn và lao động, lí thuyết và thực
tiễn chỉ ra rằng Việt Nam là quốc gia dồi dào tương đối về lao động, và thực tiễn
phân tích tiến trình xuất khẩu các ngành hàng chủ đạo của nền kinh tế cho thấy,
thời gian qua, Việt Nam đã đang tận dụng lợi thế của mình, tập trung sản xuất xuất
khẩu các ngành hàng thâm dụng lao động; nhưng cũng chính thực tiễn chỉ ra rằng,
xu hướng chung trong thương mại quốc tế khi nhu cầu sử dụng nguyên liệu thô
đầu vào giảm dần, và được thay thế bởi các đầu vào mới cũng như việc nhu cầu
tiêu dùng các hàng hóa cấp thấp thường ít biến động khi thu nhập thay đổi, nếu chỉ
dựa vào việc khai thác các yếu tố lợi thế về lao động dồi dào, không tính toán tới
chuyển dịch cơ cấu hàng hóa,đáp ứng thị hiếu của thi trường, Việt Nam khó có thể
trở mình, bắt kịp đà phát triển của khu vực và thế giới. Trong điều kiện các ngành
hàng sử dụng vốn, công nghệ, lao động trình độ cao còn hạn chế, chúng ta buộc
phải duy trì những ngành hàng “thế mạnh” trong thời điểm hiện tại, nhưng cùng
với đó cần phải tính tới giải pháp quy hoạch, tập trung đầu tư phát triển các ngành
hàng chiến lược, yêu cầu đầu tư trọng điểm cần có một kế hoạch cụ thể, lâu dài.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc mang =>thương mại quốc tế=> bổ sung những
điều kiện mà lí thuyết H-O chưa đề cập tới như sự tự do lưu chuyển vốn, công
nghệ; quá trình phân công lao động quốc tế diễn ra sôi động, tất yếu dẫn đến sự
cân bằng về các yếu tố sản xuất đầu vào như vốn hay lao động bản thân các quốc
gia hoàn toàn có thể tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VIỆT NAM CẦN QUAN TÂM.
16
Từ những đặc điểm trên đây của thương mại trong thời đại ngày nay và đặc
biệt là khi Việt Nam đã là thành viên của tổ chức WTO, đặt ra cho nước ta một số
vấn đề phải đặc biệt quan tâm trong quá trình phát triển quan hệ thương mại quốc
tế:
Một là, phải có chính sách thương mại đúng đắn, phù hợp nhằm khai thác
triệt để lợi thế so sánh thông qua quan hệ buôn bán quốc tế để chiếm lĩnh và mở
rộng thị trường khu vực và thị trường thế giới cho mình.
Lợi thế so sánh là những điều kiện và khả năng thuận lợi (hoặc khó khăn)
của một nước này so với nước khác trong việc sản xuất cùng một loại sản phẩm
hàng hóa hay kinh doanh và dịch vụ thương mại trong những thời điểm nhất định,
nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất cho mỗi quốc gia.
Lợi thế so sánh thương mại quốc tế bao gồm ba loại: lợi thế so sánh tự
nhiên vốn có, lợi thế so sánh nảy sinh do sự phát triển của lực lượng sản xuất và
lợi thế so sánh phát sinh do đổi mới chủ trương, chính sách và cơ chế quản lý Nhà
nước. Việc tiến hành trao đổi giữa các quốc gia phải tạo ra lợi ích cho cả hai bên,
nếu một quốc gia có lợi còn quốc gia khác bị thiệt thì họ sẽ từ chối tham gia vào
thương mại quốc tế.
Khi tham gia trao đổi mua bán thương mại quốc tế, các quốc gia phải biết
lựa chọn sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa có lợi thế so sánh tốt nhất và nhập
khẩu những hàng hóa mà mình sản xuất bất lợi nhất. Đây cũng là một bài học mà
chúng ta đã rút ra qua hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế.
Hai là, lựa chọn mặt hàng và thị trường có lợi nhất cho mình để phát triển
và mở rộng quan hệ thương mại quốc tế.
Trong quan hệ thương mại thế giới, cần đa phương hóa, linh hoạt hoá thị
trường, mở rộng buôn bán với nhiều nước. Song ở giai đoạn trước mắt đối với
17
nước ta kinh tế chưa phát triển cao, các điều kiện về khoa học – kỹ thuật còn nhiều
hạn chế, khả năng cạnh tranh còn yếu, cần lựa chọn những mặt hàng có chất lượng
cao xây dựng thành thương hiệu quốc tế và những thị trường có khả năng và ưu
thế riêng đối với mình để khai thác và tham gia xuất, nhập khẩu buôn bán thương
mại, dịch vụ, trên cơ sở đó từng bước giành chỗ đứng trên thị trường thế giới.
Ba là, hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt động thương mại cả ở thị trường
trong nước và thị trường ngoài nước. Đây là vấn đề hết sức cần thiết để phát triển
lành mạnh thị trường trong nước làm cơ sở hậu phương cho phát triển thị trường
ngoài nước. Thị trường trong nước phát triển vững chắc là điều kiện quan trọng để
mở rộng thị trường ra ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu và chủ động nhập khẩu của
nước ta, ngược lại thị trường ngoài nước được phát triển sẽ tạo điều kiện thúc đẩy
thị trường trong nước phát triển mạnh hơn, phục vụ tốt hơn cho sản xuất và đời
sống.
Bốn là, thực hiện tốt các cam kết với WTO và các cam kết song phương
khác về thương mại. Việc này chỉ có lợi cho ta, một mặt chứng tỏ với thế giới rằng
Việt Nam là nước làm ăn nghiêm chỉnh đúng luật, đúng cam kết; mặt khác tranh
thủ được sự ủng hộ của thế giới và đặc biệt là của tổ chức thương mại thế giới
WTO, khi chúng ta gặp phải những khó khăn, rào cản và tranh chấp về thương mại
quốc tế.
Năm là, phát huy tốt vai trò quản lý và điều tiết của Nhà nước về thương
mại.
Để phát huy đến mức cao nhất lợi thế so sánh thương mại, thì điều quan
trọng là phải có những con người quản lý có tri thức mới về thương mại, cùng với
những cơ chế, chính sách thương mại đúng đắn phù hợp điều kiện kinh tế – xã hội
của đất nước trong thời kỳ mới và phù hợp xu thế phát triển và hội nhập kinh tế –
thương mại khu vực và thế giới. Do vậy, vấn đề cốt lõi để thực hiện mục đích trên
18
là phải nhận thức đúng đắn vai trò quan trọng quản lý Nhà nước đối với thương
mại trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Nhà nước phải làm tốt chức năng quản
lý kinh tế vĩ mô nói chung và quản lý hoạt động thương mại quốc tế nói riêng.
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước đóng vai trò là người định hướng
chiến lược, quy định khung pháp luật, đề ra những mục tiêu chung cho sự phát
triển, công bằng, thống nhất điều hoà các quyền lợi chung và cá nhân.
Nhìn chung các nước hiện nay, kể cả các nước đã phát triển và các nước
chậm và đang phát triển đều coi trọng việc kết hợp giữa cơ chế thị trường tự do và
sự điều tiết của Nhà nước trong quản lý kinh tế thị trường để nhằm đạt được hiệu
quả kinh tế cao nhất.
Đẩy mạnh phát triển thương mại và dịch vụ quốc tế là xu hướng tất yếu của
tất cả các nước trên thế giới, nhất là các nước đã phát triển; do năng lực sản xuất
ngày càng lớn, cho nên luôn luôn ở tình trạng thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm
có lợi nhất. Hoạt động thương mại quốc tế ngày càng mở rộng và cạnh tranh thị
trường thế giới ngày càng gay gắt là tất yếu. Trong tình hình đó, để có lợi thế
trong quan hệ thương mại thế giới, chen chân được vào thị trường thế giới và bảo
đảm không thất bại thì nước ta cần có những chính sách thương mại quốc tế khôn
ngoan, linh hoạt, mềm dẻo, vừa phù hợp với điều kiện của nước mình, vừa phù
hợp thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo luật pháp quốc gia, vừa đảm bảo luật lệ của
"sân chơi" trên thị trường quốc tế.
V. TRẢ LỜI CÂU HỎI THẢO LUẬN.
Câu 1: Giải pháp cho việc thúc đẩy sản xuất sản phẩm có hàm lượng công nghệ
cao.
Trả lời:
19
Qua bài thuyết trình, trong phạm vi tìm hiểu về lợi thế vốn và lao động, tại
Việt nam đã đang đặt ra bài toán thúc đẩy sản xuất các mặt hàng công nghệ cao.
Đây là xu hướng tất yếu mà chính phủ đang nỗ lực đưa ra các giải pháp thực hiện.
Các giải pháp được đưa ra xoay quanh hai yếu tố đầu vào sản xuất này: vốn, lao
động.
Việc đầu tư sản xuất các mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao đòi hỏi
lượng vốn lớn, năng lực công nghệ, và điều quan trọng là cơ hội về thị trường mà
Việt nam có thể hướng tới. Khi đưa ra quyết định đầu tư vào mặt hàng nào chúng
ta cần căn cứ vào nhu cầu thị trường, xác định được thị phần mà chúng ta có thể
chiếm lĩnh.
- Giải quyết bài toán về vốn và công nghệ, chính phủ cần tích cực cải thiện
cơ sở hạ tầng tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng, thu hút và sử dụng hiệu quả
nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao. Khi
đã định hướng được thị trường và mặt hàng xuất khẩu (có hàm lượng công nghệ
cao), chính phủ cần chủ động mở rộng hoạt động hợp tác liên doanh liên kết giữa
doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, tận dụng nguồn lực công
nghệ, dây chuyền sản xuất cũng như thực hiện sản xuất đúng quy chuẩn quốc tế và
thông qua các đối tác này để xuất khẩu sản phẩm về nước bạn. Chính phủ cũng
cần có những ưu đãi hấp dẫn, đối với hoạt động sản xuất hướng vào thị trường
trong nước, khai thác hiệu quả lợi thế sân nhà.
Bên cạnh đó cần có những hỗ trợ kịp thời đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ đang đi tiên phong trong chuyển đổi, sản xuất các sản phẩm có hàm lượng
công nghệ cao, chủ động liên kết khối các doanh nghiệp này nhằm gia tăng năng
lực cạnh tranh đáp ứng nhu cầu và làm chủ thị phần trong nước.
=> Hoạt động sản xuất, xuất khẩu trước hết phải đáp ứng ổn thỏa các nhu
cầu trong nước, sau khi đã làm chủ được thị trường trong nước mới có thể hướng
tới xuất khẩu một cách bền vững.
20
- Qúa trình chuyển dịch cơ cấu ngành hàng cần diễn ra có trọng tâm trọng
điểm, đảm bảo duy trì các ngành hàng thâm dụng lao động đóng góp lớn trong cơ
cấu xuất khẩu, và cân đối về nguồn lực đầu tư giữa các ngành tránh sự cắt giảm,
thay đổi đột ngột gây ra những hệ lụy kinh tế xã hội không đáng có. Quá trình
chuyển đổi, sản xuất các mặt hàng hàm lượng công nghệ cao đòi hỏi phải nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, kịp thời đáp ứng các nhu cầu nhân lực trong quá trinh
chuyển đổi, tránh gây những hệ lụy không đáng có về kinh tế, xã hội.
Một điểm quan trọng nữa là hoạt động đầu tư nghiên cứu ứng dụng khoa
học công nghệ cần được chú trọng hơn nữa từ phía chính phủ, doanh nghiệp. Có
như vậy mới tạo được sự chủ động về tiếp thu, làm chủ công nghệ cho đất nước.
Câu 2: Thị trường mới và thị trường truyền thống là gì?
Trả lời:
Thị trường truyền thống là thị trường có quan hệ thương mại lâu đời,
thường có nhiều hoạt động trao đổi thương mại qua lại lẫn nhau. Thị trường mới là
kiểu đặt qua hệ thương mại chưa lâu, thương mại hai chiều vẫn còn nhiều tiềm
năng chưa khai thác hết. Quy mô thị trường được cải thiện trên những khía cạnh là
sự gia tăng về giá trị thương mại, gia tăng về mặt hàng trao đổi thương mại.
21
Câu 3: Trong giả định H-O, các nguồn lực không được tự do di chuyển nhưng
trong điều kiện kinh tế hiện nay thì các yếu tố này tự do di chuyển giữa các nước.
Như vậy Việt Nam áp dụnglý thuyết này như thế nào?
Trả lời:
Câu hỏi này đề cập đến hiện tượng xóa nhòa lợi thế tương đối giữa các
quốc gia. Đây là hiện tượng tất yếu và đang diễn ra nhanh trong bối cảnh toàn cầu
hóa mạnh mẽ hiện nay (ví dụ như lợi thế về nguồn lao động rẻ của Việt Nam đang
giảm dần, lợi thế về vốn của một số nước lớn cũng không còn sâu sắc như trước
nữa). Như vậy, các quốc gia hiện nay phải tự tìm ra và khai thác những lợi thế mới
và cố gắng giữ vững những lợi thế sẵn có (lợi thế về công nghệ, lao động chất
lượng cao,…) và không nên chỉ tập trung vào những lợi thế dễ bị đánh mất như
vốn, lao động giá rẻ. Tuy nhiên, có những nguồn lực không thể di chuyển như đất
đai, những lợi thế riêng có về vị trí địa lý, khí hậu… Đây thực sự là những lợi thế
bền vững mà các quốc gia cần phải khai thác.
Câu 4: Việt Nam nên phân bổ nguồn lực như thế nào khi đang mất dần lợi thế
tương đối về lao động, có cần chuyển sang các mặt hàng sử dụng nhiều vốn
không?
Trả lời:
Xem câu 7!
Câu 5: Làm rõ hàm lượng lao động được sử dụng ở mặt nào.
Trả lời:
22
Hàm lượng lao động ở đây chỉ tỷ trọng đóng góp của đơn vị lao động, có
thể tính bằng thời gian (giờ, ngày,…) hoặc số lượng lao động. Đơn vị nào cũng
được, chỉ cần 2 nước so sánh theo cùng 1 loại đơn vị là được.
Câu 6: Nguyên nhân Việt Nam xuất siêu 2012? Nhận xét.
Trả lời:
Năm 2012, Việt Nam chịu tác động từ khủng hoảng trên thế giới, sản xuất
trì trệ dẫn đến nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu giảm mạnh, tiêu dùng thắt chặt
cũng làm giảm lượng hàng nhập khẩu. Trong khi đó, xuất khẩu cũng bị giảm sút
nhưng không mạnh bằng nhập khẩu do thị trường nước ngoài vẫn còn nhu cầu với
các mặt hàng của Việt Nam. Do đó, Việt Nam xuất siêu nhưng đây không phải là
một tín hiệu đáng mừng. Với việc thu hẹp sản xuất như vậy, trong tương lai dù
nhu cầu thế giới tăng trở lại thì việc gia tăng xuất khẩu của Việt Nam cũng sẽ chịu
độ trễ nhất định.
Câu 7: Những lợi thế của Việt Nam? Nên phát triển những mặt hàng nào?
Trả lời:
Theo lý thuyết H-O, Việt Nam có lợi thế về lao động và nên phát triển các
mặt hàng thâm dụng lao động như nông sản, dệt may, đồ gỗ,… Tuy nhiên, lợi thế
về lao động của Việt Nam không bền vững nên hiện nay, Việt Nam cần tính tới
việc khai thác các thế mạnh tiềm năng về công nghệ và vốn. Trong mấy năm qua,
Việt Nam đã dần đi theo hướng giải pháp này, bằng chứng là năm 2012, giá trị
xuất khẩu mặt hàng linh kiện điện tử của Việt Nam đứng thứ 3 trong các mặt hàng
xuất khẩu.
23
Câu 8: Để có giá trị xuất khẩu cao, Việt Nam cần đầu tư vào giáo dục để nâng cao
chất lượng lao động, nhưng khi đó thì lao động Việt Nam có còn rẻ nữa không?
Trả lời:
Nền kinh tế tri thức là hướng đi của xã hội loài người. Giáo dục đào tạo
chính là con đường để đưa nền kinh tế tiến tới mức như kì vọng cũng như để
chúng ta theo kịp thời đại. Vậy nên nâng cao chất lượng lao động mục đích chính
là nâng cao năng suất lao động từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế. Chứ thật sự là
trong vòng 20 năm tới, khi qua giai đoạn dân số vàng thì Việt Nam khó có thể
dùng lao động giá rẻ và dồi dào như hiện tại để mà cạnh tranh hay nâng cao giá trị
xuất khẩu.
Câu 9: Giải thích biểu đồ: khi 2 đường tiếp tuyến tại điểm sản xuất của 2 nước
song song thì đạt hiệu quả max? Khi đó, 2 nước có tiếp tục trao đổi không, trao
đổi như thế nào?
Trả lời:
Độ dốc của 2 đường tiếp tuyến với 2 đường giới hạn khả năng sản xuất của
2 nước thể hiện độ dồi dào tương đối các yếu tố sản xuất của mỗi nước. Khi 2
đường này song song nhau tức là 2 nước không còn dồi dào tương đối yếu tố nào
so với nhau nữa. Lúc này, 2 nước không tiếp tục đẩy mạnh chuyên môn hóa nữa
mà sản xuất tại điểm sản xuất này (điểm sản xuất mà tại đó 2 tiếp tuyến song song
nhau) và tiến hành trao đổi quốc tế với tỷ lệ đúng bằng độ dốc đường tiếp tuyến.
Hai nước sẽ dừng trao đổi nếu một nước đạt đến điểm thỏa dụng cao nhất (tiếp
điểm của đường giới hạn tiêu dùng với đường bàng quan).
24
Câu 10: Giải thích việc tăng khai thác dầu mỏ, khí đốt để vận hành máy móc.
Điều đó có đúng không?
Trả lời:
Dầu mỏ, khí đốt là tài nguyên thiên nhiên sẵn có và là một trong các mặt
hàng xuất khẩu chính của Việt Nam. Hiện nay, nhu cầu dầu mỏ và khí đốt trên thế
giới vẫn rất cao vì chưa có loại năng lượng thay thế thật sự hiệu quả. Do đó, các
công ty khai thác ở Việt Nam đã đẩy mạnh khai thác loại tài nguyên này. Tuy
nhiên, dầu mỏ và khí đốt xuất khẩu của Việt Nam đều ở dạng thô, giá thành thấp,
cực kì lãng phí tiềm năng. Việc Việt Nam nên ưu tiên hiện nay không phải là gia
tăng sản lượng khai thác mà là xây dựng các nhà máy chế biến dầu mỏ, khí đốt để
tăng giá trị thặng dư của chúng trước khi xuất khẩu.
Câu 11: Năm 2012, dệt may là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, trong
khi đó nguyên vật liệu nhập khẩu cho dệt may có xu hướng giảm. Nhưng dệt may
vẫn còn nhiều khó khăn. Vậy khó khăn đó là gì?
Trả lời:
Năm 2012, dệt may là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, trong khi đó
nguyên vật liệu nhập khẩu cho dệt may có xu hướng giảm là do công nghiệp hỗ
trợ trong nước đã có bước phát triển nên cho phép giảmnhập khẩu nguyên vật liệu.
Khó khăn hiện nay của dệt may Việt Nam chủ yếu đến từ việc bị bạn hàng quốc tế
ép giá và thiếu các kỹ năng cần thiết khi tham gia dịch vụ ngoại thương như bảo
hiểm, phân tích thị trường, kỹ năng đàm phán.
Câu 12: Trên thực tế, các nước có luôn áp dụng lý thuyết H-O không? Tại sao?
25