Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Đánh giá tác động của thu ngân sách nhà nước trong thời gian qua xu hướng thay đổi cơ chế thu ngân sách nhà nước khi việt nam gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.1 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH DOANH THƯƠNG MẠI

BÀI THẢO LUẬN
Đề tài: Đánh giá tác động của thu ngân sách Nhà nước trong
thời gian qua. Xu hướng thay đổi cơ chế thu ngân sách Nhà
nước khi Việt Nam gia nhập WTO
Nhóm : 02
Lớp :
Giảng viên :

Hà Nội – 2014
1
DANH SÁCH NHÓM 2
STT Họ và tên Mã SV Lớp HC Ghi chú
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Ký Tên
Nhóm trưởng
2
ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN
STT Họ và tên Nhiệm vụ Điểm Kí tên


1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Ký Tên
Nhóm trưởng
3
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
Thời gian: Từ 7h00 đến 08h30 ngày 25 tháng 3 năm 2013
Địa điểm: Sân thư viện trường Đại học Thương Mại
Thành viên: tham gia đầy đủ
I. Nội dung
+ Các thành viên tìm hiểu sơ qua về đề tài thảo luận
+ Các thành viên đóng góp ý kiến, xây dựng nội dung, bố cục bài thảo luận
+ Nhóm trưởng phân chia công việc cụ thể cho từng thành viên
II. Đánh giá
Buổi họp nghiêm túc, các thành viên tích cực đóng góp ý kiến. Nhóm đưa ra được
nhiều phương án tối ưu. Buổi họp đạt được kết quả tốt.
Nhóm trưởng Thư ký
4
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
Thời gian: Từ 7h30 đến 08h30 ngày 8 tháng 4 năm 2013
Địa điểm: Sân thư viện trường Đại học Thương Mại
Thành viên: tham gia đầy đủ
I. Nội dung
+ Nhóm tổng kết hoàn thành bản word
+ Hoàn thiện, chỉnh sửa lần cuối bản slide
+ Đánh giá tinh thần làm việc các thành viên
II. Đánh giá
Các thành viên tham gia đóng góp ý kiến tích cực, sôi nổi, có tinh thần trách nhiệm.
Buổi thảo luận đạt được kết quả tốt.
Nhóm trưởng Thư ký
5
DÀN Ý CHI TIẾT
6
I. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm, đặc trưng của thu NSNN
1.1. Khái niệm thu NSNN
Để có kinh phí chi cho mọi hoạt động của mình, nhà nước đã đặt ra các
khoản thu (các khoản thuế khóa) do mọi công dân đóng góp để hình thành nên
quỹ tiền tệ của mình. Thực chất, thu ngân sách nhà nước là việc nhà nước dùng
quyền lực của mình để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành
quỹ ngân sách nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu của nhà nước.
Qua sự hình thành của các khoản thu NSNN, có thể hiểu “thu NSNN là
việc Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để huy động, tập trung 1 phần
nguồn tài chính quốc gia để hình thành quỹ tiền tệ cần thiết nhằm đáp ứng các
nhu cầu chi tiêu của Nhà nước”.
1.2. Đặc trưng của thu NSNN
Thu NSNN có 2 đặc trưng cơ bản:

Thứ nhất, thu NSNN là một hình thức phân phối nguồn tài chính quốc
gia giữa nhà nước với các chủ thể trong xã hội dựa trên quyền lực của Nhà
nước nhằm giải quyết hài hòa các mối quan hệ về lợi ích kinh tế. Sự phân phối
này xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy Nhà nước cũng như
yêu cầu thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Thứ hai, thu NSNN gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động của
các phạm trù giá trị khác như các chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội GDP, giá cả,
thu nhập, lãi suất, Trong đó, chỉ tiêu quan trọng nhất là tổng sản phẩm quốc
nội GDP. Sự vận động của các phạm trù giá trị này vừa tác động đến sự tăng
giảm mức thu, vừa đặt ra yêu cầu nâng cao tác dụng điều tiết của các công cụ
thu NSNN.
Thứ ba, thu NSNN chỉ bao gồm những khoản tiền Nhà nước huy động
vào Ngân sách mà không bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho
đối tượng nộp, tức là thu NSNN được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả
không trực tiếp là chủ yếu.
7
2. Phân loại thu NSNN
2.1. Căn cứ vào nội dung kinh tế của các khoản thu
- Thuế: Đây là nguồn thu chủ yếu của Nhà nước, thường chiếm từ 80 –
90% tổng ngân sách nhà nước. Các sắc thuế khi phân loại theo hình thức thu sẽ
gồm hai loại là thuế trực thu và thuế gián thu.
+ Thuế trực thu: là thuế mà người, hoạt động, đồ vật chịu thuế và nộp
thuế là một. Ví dụ như một người nhập hàng hóa từ nước ngoài về và tiêu dùng
luôn, hay như thuế TNDN hay TNCN, nhà đất
+ Thuế gián thu: là thuế mà người chịu thuế và người nộp thuế không
cùng là một. Chẳng hạn, chính quyền đánh thuế vào công ty (công ty nộp thuế)
và công ty lại chuyển thuế này vào chi phí tính vào giá hàng hóa và dịch vụ, do
vậy đối tượng chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng. Ví dụ: thuế VAT, thuế
tiêu thụ đặc biệt Một số loại thuế và sắc thuế phổ biến: thuế tiêu thụ, VAT,
thuế thu nhập, thuế cổ tức, thuế môn bài, thuế tài sản, thuế chuyển nhượng,

thuế thừa kế, thuế xuất nhập khẩu, thuế khoán
- Thu phí và lệ phí: Phí và lệ phí là khoản thu có tính chất bắt buộc, nhưng
mang tính đối giá, nghĩa là phí và lệ phí thực chất là khoản tiền mà mọi công
dân trả cho nhà nước khi họ hưởng thụ các dịch vụ do nhà nước cung cấp. So
với thuế, tính pháp lý của phí và lệ phí thấp hơn nhiều. Phí gắn liền với với vấn
đề thu hồi một phần hay toàn bộ chi phí đầu tư đối với hàng hóa dịch vụ công
cộng hữu hình. Lệ phí gắn liền với việc thụ hưởng những lợi ích do việc cung
cấp các dịch vụ hành chính, pháp lý cho các thể nhân và pháp nhân. Các khoản
thu từ các hoạt động kinh tế của nhà nước: thu từ lợi tức từ hoạt động góp vốn
liên doanh, cổ phần của Nhà nước, thu hồi tiền cho vay (cả gốc và lãi) của Nhà
nước, thu hồi vốn đầu tư của Nhà nước tại các cơ sở kinh thế - bán hoặc đấu
giá doanh nghiệp Nhà nước.
- Thu từ hoạt động sự nghiệp: Các khoản thu có lãi và chênh lệch từ các
hoạt động của các cơ sở sự nghiệp có thu của nhà nước.Thu từ bán hoặc cho
thuê tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu nhà nước: Khoản thu này mang tính chất
8
thu hồi vốn và có một phần mang tính chất phân phối lại, vừa có tính chất phân
phối lại, vừa có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản quốc gia vừa tăng
nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Các nguồn thu từ bán hoặc cho thuê tài sản,
tài nguyên, thiên nhiên; thu về bán tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
- Thu từ phạt, tịch thu, tịch biên tài sản: Các khoản thu này cũng là một
phần thu quan trọng của thu ngân sách nhà nước và được pháp luật quy định.
Thu từ hoạt động hợp tác lao động với nước ngoài
2.2. Căn cứ vào tính chất phát sinh của các khoản thu
- Thu thường xuyên: là các khoản thu phát sinh thường xuyên cùng với
nhịp độ hoạt động của nền kinh tế, có tính chất bắt buộc như thuế, phí, lệ phí
với nhiều hình thức cụ thể do luật định.
- Thu không thường xuyên: là những khoản thu chỉ phát sinh vào thời
điểm, vào những khoảng thời gian nhất định, không phát sinh liên tục như thu
từ hoạt động kinh tế của Nhà nước, thu từ hoạt động sự nghiệp, thu tiền bán

hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước
2.3. Căn cứ vào tính chất cân đối NSNN
- Thu trong cân đối ngân sách nhà nước: là các khoản thu nằm trong hoạch
định của Nhà nước (gồm thuế, phí, lệ phí, lợi tức cổ phần của Nhà nước, thu
tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước và các khoản thu
khác). Đây là những khoản thu mang tính chất động viên không hoàn lại, tức là
không có trách nhiệm hoàn trả trực tiếp.
- Thu ngoài cân đối ngân sách nhà nước (thu bù đắp thiếu hụt ngân sách
nhà nước): là những khoản thu có được do Nhà nước đi vay từ các tổ chức dân
cư, các tổ chức kinh tế xã hội, vay từ nước ngoài – là các khoản thu mang tính
chất hoàn trả trực tiếp.
9
3. Các yếu tố ảnh hưởng tới thu NSNN
Việc thu NSNN của mỗi quốc gia chịu tác động của nhiều yếu tố kinh tế,
chính trị, xã hội. Tuy nhiên, các yếu tố ảnh hưởng đến thu NSNN của mỗi nước có
sự khác nhau song đều bắt nguồn từ năm yếu tố cơ bản sau đây:
Thứ nhất, là thu nhập GDP bình quân đầu người. Đây là chỉ tiêu phản ánh
trình độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu
dùng và đầu tư của một nước; là yếu tố khách quan quyết định mức động viên của
NSNN.
Thứ hai, là tỷ suất lợi nhuận bình quân trong nền kinh tế. Đây là chi tiêu
phản ánh hiệu quả của đầu tư phát triển kinh tế, tỷ suất này càng lớn thì khả năng
tái tạo và mở rộng các nguồn thu nhập các lớn, từ đó khả năng huy động cho
NSNN càng lớn.
Thứ ba, là khả năng khai thác và xuất khẩu nguồn tài nguyên thiên nhiên
dầu mỏ và khoáng sản. Đây là yếu tố làm tăng thu NSNN, ảnh hưởng đến việc
năng cao tỉ suất thu. Đối với các nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào,
phong phú thì việc khai thác và xuất khẩu tài nguyên sẽ đem lại nguồn thu to lớn
cho NSNN. Với cùng 1 điều kiện phát triển kinh tế, quốc gia nào có tỷ trọng xuất
khẩu dầu mỏ và khoáng sản lớn thì tỷ lệ động viên vào NSNN cũng lớn hơn.

Thứ tư, là mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước. Yếu tố này lại
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như quy mô tổ chức của bộ máy Nhà nước và
hiệu quả hoạt động của bộ máy đó. Khi các nguồn tài trợ khác cho chi phí hoạt
động của Nhà nước không tăng lên, việc tăng chi của Nhà nước sẽ đòi hỏi tỷ suất
thu của NSNN cũng phải tăng lên mới bù đắp được.
Thứ năm, là sự ảnh hưởng của tổ chức bộ máy thu nộp. Nó ảnh hưởng tới
chi phí và hiệu quả hoạt động của thu NSNN. Nếu hệ thống tổ chức cơ quan thuế,
hải quan, kho bạc Nhà nước gọn nhẹ, đạt hiệu quả cao, chống được thất thu do
trốn, lậu thuế thì đây sẽ là yếu tố tích cực làm giảm tỷ suất thu NSNN mà vẫn thỏa
mãn được các nhu cầu chi tiêu của NSNN.
10
4. Nguyên tắc thiết lập hệ thống thu NSNN
4.1. Các nguyên tắc định hướng
Gồm 2 nguyên tắc:
- Nguyên tắc thu theo lợi ích: Việc thu NSNN phải căn cứ vào lợi ích mà
người đóng góp có thể nhận được từ những hàng hóa và dịch vụ công cộng mà
Nhà nước cung cấp.
- Nguyên tắc thu theo khả năng: Theo nguyên tắc này việc thiết lập các
mức thu phải dựa nào khả năng thu nhập của người nộp. Người có thu nhập cao
thì phải đóng thuế cao và ngược lại.
Tuy nhiên, 2 nguyên tắc trên đều là nguyên tắc lý tưởng, bởi lẽ việc thi
hành đầu gặp phải các trở ngại. Cho nên trong thực tế, người ta xem 2 nguyên
tắc trên như là những định hướng cho việc thiết lập hệ thống thu NSNN.
4.2. Các nguyên tắc thực hiện thực tế
- Nguyên tắc ổn định và lâu dài: Trong những điều kiện hoạt động nền
kinh tế bình thường thì phải ổn định mức thu, ổn định các sắc thuế, không được
gây xáo trộn lớn trong hệ thống thuế, đồng thời tỷ lệ động viên của NSNN phải
thích hợp, đảm bảo kích thích nền kinh tế tăng trương, nuôi dưỡng và phát triển
nguồn thu. Thực hiện nguyên tắc này có ý nghĩa tạo thuận lợi cho việc kế
hoạch hóa ngân sách nhà nước và tạo điều kiện để kích thích người nộp thuế

cải tiến đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Nguyên tắc đảm bảo công bằng: Thiết lập hệ thống thuế phải có quan
điểm công bằng đối với mọi người chịu thuế, không phân biệt địa vị xã hội,
thành phần kinh tế. Do đó việc thiết kế hệ thống thuế chủ yếu dựa trên khả
năng thu nhập của người chịu thuế. Để đảm bảo được nguyên tắc công bằng
trong thiết kế hệ thống thuế phải kết hợp sắc thuế trực thu với sắc thuế gián
thu.
- Nguyên tắc rõ ràng, chắc chắn: nguyên tắc này đòi hỏi trong thiết kế hệ
thống thuế các điều luật của các sắc thuế phải rõ ràng, cụ thể ở từng mức thuế,
cơ sở đánh thuế, phương pháp tính thuế Các từ ngữ được sử dụng của văn bản
11
phải thông dụng, dễ hiểu không chứa đựng nhiều hàm ý để tất cả mọi người
đều hiểu được và chấp hành giống nhau. Đảm bảo nguyên tắc này giúp cho
việc tổ chức chấp hành luật thống nhất, tránh được tình trạng lách luật, trốn lậu
thuế.
- Nguyên tắc giản đơn: nguyên tắc này đòi hỏi trong các sắc thuế cần hạn
chế số lượng thuế suất, xác định rõ mục tiêu chính, không đề ra quá nhiều mục
tiêu trong một sắc thuế. Có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển
khai luật thuế vào thực tiễn, tránh được những hiện tượng tiêu cực trong thu
thuế.
II. TÁC ĐỘNG CỦA THU NSNN TRONG THỜI GIAN QUA
1. Các nhân tố ảnh hưởng tới thu NSNN trong thời gian qua
1.1. Thu nhập GDP bình quân đầu người
GDP (Gross Domestic Product) tức tổng sản phẩm quốc nội là giá
trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong
phạm vi một lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một
năm). GDP phản ánh mức độ phát triển nền kinh tế và phản ánh khả năng tiết
kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước. Mức độ phát triển nền kinh tế hàng
hóa tiền tệ luôn là nhân tố quan trọng nhất đối với sự phát triển của mọi khâu
tài chính. GDP bình quân đầu người là một yếu tố khách quan quyết định mức

động viên của NSNN. Do đó, khi xác định mức độ động viên thu nhập vào
NSNN mà thoát ly chỉ tiêu này thì sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn
đề tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của nền kinh tế.
2008 2009 2010 2011 2012
Mức tăng trưởng
GDP (%)
6.23 5.3 6.78 5.89 5.03
Quyết toán thu
NSNN (tỉ đồng)
430549 454786 588428 704276 741500
Bảng mức tăng trưởng GDP và quyết toán thu NSNN của Việt Nam
giai đoạn 2008 2012
12
Từ bảng trên ta có thể thấy mức tăng trưởng GDP của Việt Nam những
năm gần đây biến động nhưng không có biến đổi quá lớn qua các năm. Có thể
nói GDP đã phản ánh đúng thực trạng nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn
2008-2012 đầy biến động. Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển, nhu cầu chi
tiêu rất lớn do vậy khi GDP không có biến động lớn thì NSNN sẽ tăng liên tục
kể cả khi GDP suy giảm so với năm trước liền kề nhằm kích thích phát triển
kinh tế.
1.2. Tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế
Tỷ suất lợi nhuận bình quân trong nền kinh tế là chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả của đầu tư phát triển nền kinh tế nói chung và hiệu quả của các doanh
nghiệp nói riêng. Tỷ suất lợi nhuận bình quân càng lớn sẽ phản ánh khả năng
tái tạo và mở rộng các nguồn thu nhập trong nền kinh tế càng lớn, từ đó đưa tới
khả năng huy động cho NSNN. Đây là yếu tố quyết định đến việc nâng cao
tỷ suất thu NSNN. Do vậy, khi xác định tỷ suất thu Ngân sách cần căn cứ vào
tỷ suất lợi nhuận bình quân trong nền kinh tế để đảm bảo việc huy động của
Ngân sách Nhà nước không gây khó khăn về mặt tài chính cho các hoạt động
kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn làm cho

ngồn tài chính càng lớn, dẫn tới nâng cao tỷ suất thu cho NSNN và ngược lại,
khi kinh tế chậm phát triển, tỷ suất lợi nhuận thấp làm giảm nguồn thu cho
NSNN.
2008 2009 2010 2011 2012
Chỉ số giá tiêu
dùng CPI (%)
19.89 6.52 11.75 18.13 6.81
Vốn đầu tư phát
triển toàn xã hội
(tỷ đồng)
616735 708826 830278 824495 989300
Bảng chỉ số giá tiêu dùng CPI và vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
của Việt Nam giai đoạn 2008 - 2012
Tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế là một chỉ tiêu tài chính khó
đo lường. Tuy nhiên, do mục tiêu chính của đề tài nghiên cứu là tác động của
tỷ suất lợi nhuận bình quân tới thu NSNN nên chúng ta hoàn toàn có thể đánh
13
giá ảnh hưởng của tỷ suất lợi nhuận bình quân thông qua các yếu tố khác. Từ
bảng trên chúng ta thấy được chỉ số giá tiêu dùng CPI và tổng vốn đầu tư phát
triển toàn xã hội của Việt Nam giai đoạn 2008-2012. Tạo nên tỷ suất lợi nhuận
bình quân có sự chi phối rất lớn của cấu trúc tư bản hữu cơ, tức vốn đầu tư vào
các bộ phận chi phí sản xuất bất biến và khả biến. Trong giai đoạn 2008-2012
vốn đầu tư toàn xã hội tăng đều và mạnh (trung bình mỗi năm tăng một trăm
ngàn tỉ, ngoại trừ năm 2011 có sự giảm nhẹ), cho thấy quá trình đầu tư phát
triển của mọi nhóm ngành trong xã hội đều được mở rộng, tạo tiền đề cho sự
tăng trưởng của tỷ suất lợi nhuận bình quân. Bên cạnh đó chỉ số giá tiêu dùng
cũng tăng qua các năm ở mức chấp nhận được, đây cũng là điều kiện để kích
thích tiêu dùng và các nhà đầu tư có chính sách về lãi suất hợp lý; CPI cũng
cho thấy nỗ lực của Nhà nước trong hoạt động kiềm chế lạm phát. Như vậy từ
hai chỉ tiêu trên có thể kết luận sự tồn tại của tăng trưởng tỷ suất lợi nhuận bình

quân ảnh hưởng tích cực tới nguồn thu NSNN.
1.3. Tiềm năng tài nguyên
Việt Nam là một quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào,
phong phú do vậy việc khai thác và xuất khẩu tài nguyên sẽ đem lại nguồn thu
to lớn cho NSNN. Theo thống kê hiện Việt Nam đang có hơn 5,000 mỏ đang
khai thác với khoảng 60 loại khoáng sản thuộc nhiều nhóm khác nhau: Nhóm
khoáng sản nhiên liệu như dầu khí, than, nhóm khoáng sản sắt và hợp kim sắt
như sắt, chromite, titan, manganese, nhóm khoáng sản kim loại màu như
bauxite, thiếc, đồng, chì-kẽm, antimony, molypden, nhóm khoáng sản quý như
vàng, đá quý, nhóm khoáng sản hóa chất công nghiệp như apatite, cao lanh, cát
thủy tinh, nhóm khoáng sản vật liệu xây dựng như đá vôi xi măng, đá xây
dựng, đá ốp lát… đóng góp khoảng 11% GDP và 25% thu NSNN. Trong đó
không thể không nhắc tới vai trò của dầu mỏ trong tạo nguồn thu cho NSNN.
2008 2009 2010 2011
Thu NSNN (tỉ đồng)
430549 454786 588428 704276
14
Thu từ dâu thô 89603 61137 69179 110205
Cơ cấu % 20.81 13.44 11.76 15.65
Bảng giá trị đóng góp của nguồn thu dầu thô vào NSNN giai đoạn
2008 - 2011
1.4. Mức độ trang trải các khoản phí
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển, đi lên từ nên kinh tế
nông nghiệp nên việc trang trải các khoản chi phí vào đầu tư các dự án có vai
trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội là thiết yếu và phải chi liên
tục qua các năm. Điều này lý giải tại sao NSNN luôn ở trong tình trạng bội chi
và lý giải một phần sự gia tăng nguồn thu NSNN qua các năm để bù đắp lượng
thiếu hụt trong NSNN.
2008 2009 2010 2011
Chi NSNN (tỉ đồng)

452766 561273 648833 803367
Phân theo
cơ cấu (%)
Chi đầu tư phát triển
26.38 32.31 28.23 24.13
Chi PT sự nghiệp
55.74 54.05 58.05 64.51
Chi bổ sung quỹ TC
0.04 0.04 0.04 0.01
Bảng chi NSNN và cơ cấu chi NSNN của Việt Nam giai đoạn 2008-2011
Chi đầu tư phát triển của nhà nước luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
chi đầu tư phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chi đầu tư phát triển của
nhà nước bao gồm: đầu tư xây dựng cơ bản, hỗ trợ phát triển kinh tế, đầu tư
các chương trình không mang tính chất đầu tư xây dựng cơ bản(chi cấp vốn
ban đầu, vốn bổ sung pháp định hoặc vốn điều lệ cho các doanh nghiệp nhà
nước thực hiện cổ phần hoá, chi trợ cấp, trợ giá cho các doanh nghiệp khi thực
hiện nhiệm vụ công ích). Trong đó, đại bộ phận là đầu tư xây dựng cơ bản,
chiếm gần 90% tổng chi đầu tư phát triển.
Chi phát triển sự nghiệp bao gồm rất nhiều các khoản chi như chi cho
giáo dục, y tế, khoa học công nghệ… Tất cả các khoản chi này đều tăng đều
qua các năm, đặc biệt chi cho giáo dục và y tế tăng mạnh trong những năm gần
đây, năm 2011 chi cho lĩnh vực giáo dục đào tạo là 120339 tỉ đồng chiếm 15%
15
tổng chi NSNN. Việc gia tăng tất cả các khoản chi tất yếu sẽ dẫn đến tăng thu
NSNN; tuy nhiên đây là quyết định đúng đắn của Nhà nước do Việt Nam đang
trong thời kỳ phát triển cần phát triển đồng bộ nhiều lĩnh vực trong cùng một
giai đoạn.
1.5. Tổ chức bộ máy thu nộp
Tổ chức bộ máy thu nộp có ảnh hưởng đến chi phí và hiệu quả hoạt động
của thu NSNN. Nếu tổ chức hệ thống cơ quan thuế, hải quan, kho bạc Nhà

nước gọn nhẹ, đạt hiệu quả cao, chống lại thất thu do trốn, lậu thuế thì đây sẽ là
yếu tố tích cực làm giảm tỷ suất thu NSNN mà vẫn thỏa mãn được các nhu cầu
chi tiêu của NSNN.
Tuy nhiên thực tế ở Việt Nam hiện nay cơ chế tài chính còn rườm rà,
phức tạp. Luật quản lý Thuế còn nhiều điểm bất cập, thủ tục rốm rắm, gây khó
khăn cho cơ quan thuế cũng như các tổ chức cá nhân nộp thuế; chế tài xử phạt
chưa đủ mạnh, đủ nghiêm tạo kẽ hở rất lớn để tình trạng kê khai sai, quyết toán
sai, thành lập “DN ma” để trốn thuế, lậu thuế, chiếm dụng tiền thuế; thuế hội
nhập chưa khắc phục được tình trạng chuyển giá trốn thuế của các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài; chậm trễ trong giải ngân của các dự án, công trình…
2. Tác động của thu NSNN
Mặc dù là nước có GDP tính theo đầu người thấp nhất nhưng Việt Nam
có tỷ lệ thu ngân sách/GDP cao nhất và tỷ lệ bội chi ngân sách cao nhất so với
các nước trong khu vực. Nếu cộng khoản thu với khoản bội chi ngân sách thì tỷ
lệ chi ngân sách của Việt Nam lên đến 32,6% GDP, hơn gần gấp đôi
Philippines là nước có GDP/đầu người cao hơn hẳn nước ta.
16
Bảng các chỉ số kinh tế vĩ mô của Việt Nam và một số nước cùng khu vực
Tác động của thu NSNN cụ thể như sau:
2.1. Mặt tiêu cực
Thu ngân sách quá cao gây sức ép nặng nề lên khu vực doanh nghiệp,
nhất là khối doanh nghiệp dân doanh. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), khoản
thu này chiếm đến 34,5% thu nhập của doanh nghiệp. Thời gian nộp thuế của
các doanh nghiệp Việt Nam lên đến 872 giờ/năm, xếp hạng 138/185 nền kinh
tế (theo WB, 2013), làm cho chi phí về thời gian của doanh nghiệp cũng rất
cao.
Tình hình kinh tế kém phát triển, thuế thu nhập doanh nghiệp càng cao
càng ảnh hưởng tới lợi nhuận thuần và công cuộc tái đầu tư vốn cho chu kỳ sản
xuất kinh doanh tiếp theo. Do đó, doanh nghiệp sẽ phải áp dụng mọi biện pháp,
kể cả cắt giảm nhân sự để tiết kiệm tối đa chi phí. Từ đó, sẽ dẫn tới tình trạng

thất nghiệp tăng cao.
Trong 10 năm qua, Quốc hội đã cho phép lập 70 quỹ tài chính nhà nước
các loại (quỹ bình ổn giá, quỹ cổ phần hóa ), trong đó có khoảng 40 quỹ đang
hoạt động. Hiện có khoảng 30 quỹ đang còn tồn một số vốn không nhỏ chưa
17
chi hết trong khi ngân sách vẫn tiếp tục bội chi mà ngân sách chưa điều hòa
được.
Ngoài nguồn thu chính thức vào ngân sách nhà nước, theo báo cáo về chỉ
số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2012, khoảng 65% doanh nghiệp cho biết họ
phải tốn chi phí không chính thức khá lớn để “bôi trơn” các thủ tục hành chính
trong kinh doanh. Cộng tất cả khoản thu chính thức và phi chính thức thì bộ
máy nhà nước của nước ta có tỷ lệ chi rất lớn so với GDP.
Trong khi có tình trạng thu phi chính thức và thuế suất cao hơn mức
trung bình của khu vực thì tỷ lệ thu từ khai thác tài nguyên thiên nhiên (khai
mỏ, khai thác gỗ ), thu để ngăn chặn đầu cơ bất động sản, thu từ doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài và ngăn chặn các hiện tượng chuyển giá, thu từ các thu nhập
chưa được kê khai còn bị thất thu rất lớn. Tình trạng đó góp phần dẫn đến bất
bình đẳng về thu nhập tăng mạnh, dẫn đến bất công xã hội tăng lên.
Theo nghiên cứu gần đây của Ủy ban Kinh tế Quốc hội cho thấy Việt
Nam là nước có tỷ lệ huy động thuế và phí trên GDP đang cao gấp 1,2-1,8 lần
so với các nước trong khu vực. Điều này cho thấy việc tăng thu thuế và phí sẽ
chất thêm gánh nặng lên các doanh nghiệp và người dân Việt Nam, và có nguy
cơ làm giảm tốc độ tăng trưởng và hậu quả là nguồn thu lại giảm.
2.2. Mặt tích cực
Dù còn nhiều hạn chế cần khắc phục song thu NSNN đã được sử dụng
đúng định hướng của Đảng và đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế nói riêng
và cho toàn bộ xã hội nói chung như đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, kiềm chế
lạm phát, ổn định vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội.
a. Thu NSNN chú trọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng nhằm tạo nền tảng
vững chắc để phát triển các ngành kinh tế.

Vốn ngân sách nhà nước luôn chiếm 75% tổng đầu tư cơ sở hạ tầng, bao
gồm đầu tư vào hệ thống giao thông đường bộ quốc gia; hệ thống cảng biển,
cảng hàng không quốc gia; hệ thống giao thông và viễn thông nông thôn; một
số cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ quan trọng của quốc gia;
18
duy trì và phát triển hệ thống các cơ sở khám chữa bệnh từ Trung ương đến địa
phương, bước đầu đáp ứng được một phần nhu cầu cơ bản của xã hội.
Các đường quốc lộ liện tỉnh được xây dựng và đi vào hoạt động hiệu quả
như dự án Cầu Giẽ – Ninh Bình – đường cao tốc đầu tiên của khu vực phía Bắc
sau nhiều năm triển khai với không ít khó khăn về vốn cũng được đưa vào khai
thác; nhiều tuyến cao tốc lớn sắp được hoàn thành và đưa vào khai thác như:
Nội Bài – Lào Cai, Hà Nội – Thái Nguyên, TP.HCM – Long Thành – Dầu
Giây, tăng cường qui hoạch các trục đường chính ở các thành phố lớn nhằm
giảm sự ùn tắt giao thông trong các giờ cao điểm…Những tuyến đường này có
ý nghĩa kinh tế rất lớn, đó là cầu nối giúp việc giao thương giữa các tỉnh thuận
tiện hơn, giúp cho các doanh nghiệp có xu hướng mở rộng địa bàn đầu tư, sản
xuất. Đồng thời cũng không thể không nhắc đến ý nghĩa xã hội của nó: việc đi
lại, tham gia giao thông được thuận tiện hơn rất nhiều, vấn đề quản lý giao
thông của nhà nước cũng dễ dàng hơn.
Ngoài ra, NSNN còn chú trọng đến công tác xây dựng hệ thống giao
thông liên xã, liên huyện ở các cùng nông thôn. Thực hiện chính sách bê tông
hóa đường xá ở nông thôn giúp cho việc đi lại, sản xuất, buôn bán của bà con
thuận tiện hơn rất nhiều. Cho đến ngày 01/7/2011 cả nước đã có 8940 xã,
chiếm 98, % tổng số xã cả nước đã có đường ô tô đến trung tâm xã (tăng 2, %
so với năm 2006), trong đó đi lại được 4 mùa là 8803 xã, chiếm 97, % (tăng 3,
% so với năm 2006); xã có đường ô tô đến trung tâm xã đã được nhựa hóa, bê
tông hóa là 7917 xã chiếm 87, % (tăng 17, % so với năm 2006). Một điều đáng
chú ý là không chỉ đường đến trung tâm huyện, xã ở các vùng đồng bằng được
chú trọng mà đường đến các thôn, bản miền núi cũng được các cấp chính
quyền hết sức quan tâm đầu tư với số liệu rất ấn tượng đó là có tới 89, % số

thôn, bản có đường ô tô đến được. Điều đó góp phần thay đổi cuộc sống của
người dân nơi vùng cao vốn chịu nhiều thiệt thòi về điều kiện thời tiết, thổ
nhưỡng cũng như văn hóa xã hội.
b. NSNN được sử dụng để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô
19
Do ảnh hưởng của những yếu tố bất ngờ khó dự đoán như lạm phát, nhập
siêu, bong bóng bất động sản… đã ảnh hưởng tới nền kinh tế vĩ mô; làm tăng
nợ xấu, giảm tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại, đẩy các DN đến
bờ vực phá sản. Vì vậy, Nhà nước đã sử dụng các nguồn thu NSNN như một
công cụ (chính sách tài khóa) nhàm kiềm chế lạm phát, hỗ trợ các DN tồn tại
và vượt qua thời kỳ khó khăn.
Tháng 5/2013 Chính phủ triển khai Nghị quyết 13 nhằm kích thích tăng
tổng cầu và hỗ trợ thị trường với các biện pháp như: hoãn thời gian nộp thế thu
nhập DN cho một số đối tượng; hoãn nộp tiền sử dụng đất năm 2011 cho DN
bất động sản… Trong đó, chính sách tiền tệ tập trung vào mục tiêu kiềm chế
lạm phát và ổn định tỷ giá; 6 lần giảm lãi suất huy động tiền gửi; hạ lãi suất cho
vay xuống dưới 15%; đồng thời tập trung xử lý thanh khoản của ngân hàng
thương mại thông qua việc “bơm” thêm tiền cho hệ thống bằng các công cụ của
NHNN. Bên cạnh đó, chính sách tài khoá phần nào nới lỏng đầu tư công theo
mức bội chi ngân sách, thực hiện giải ngân theo kế hoạch và phát hành trái
phiếu trong kế hoạch được Quốc hội cho phép; tăng lương cơ bản vào
1/5/2012…
Với những nỗ lực nêu trên đã mang lại những kết quả nhất định trong
năm 2012: sự suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế đã dừng lại trong quý I và đã
tăng trở lại từ quý II, dù mức tăng khá chậm: GDP quý I tăng 4%; quý II tăng
4,66%; quý III tăng 5,6% và cả năm 2012 tăng 5,03%; CPI theo chiều hướng
giảm, thậm chí trong 2 tháng (6 và 7/2012) tăng trưởng âm; CPI cả năm chỉ
tăng 6,81% so với cuối năm 2011; xuất khẩu cả năm đạt 114 tỷ USD tăng
16,6% so với năm 2011; nhập siêu giảm mạnh…
c. NSNN luôn ưu tiên cho các hoạt động hỗ trợ người có thu nhập thấp,

người nghèo phát triển kinh tế; đảm bảo an sinh xã hội cho nhân dân.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành T.Ư Ðảng khóa VII chỉ
rõ: "Trợ giúp người nghèo chủ yếu bằng cách cho vay vốn, hướng dẫn cách
làm ăn. Hình thành quỹ xóa đói, giảm nghèo ở từng địa phương trên cơ sở dân
20
giúp dân, Nhà nước giúp dân và tranh thủ các nguồn tài trợ nhân đạo trong
nước và quốc tế. Phấn đấu tăng số hộ giàu, đi đôi với xóa đói, giảm nghèo".
Nghị quyết Ðại hội XI của Ðảng tiếp tục khẳng định: "Nhà nước chăm lo, phục
vụ nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân". Lấy ngày
17-10 hằng năm là "Ngày vì người nghèo" (cùng với ngày "Thế giới chống đói
nghèo" do Liên hợp quốc khởi xướng).
Từ năm 1995 đến nay, tất cả các tỉnh, thành phố đều thành lập các ban
chỉ đạo, triển khai hàng chục chương trình và chính sách đầu tư, cho vay phát
triển hạ tầng, việc làm, hỗ trợ hộ nghèo, hộ đồng bào các dân tộc thiểu số phát
triển sản xuất, kinh doanh; khuyến khích các hoạt động cộng đồng, tương thân,
tương ái, từ thiện, đền ơn đáp nghĩa.
Tháng 5-2002, Chính phủ chính thức triển khai "Chiến lược toàn diện về
tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo" phù hợp với mục tiêu phát triển Thiên
niên kỷ (MDG) của LHQ. Từ năm 2003 tới năm 2012, ngân sách Nhà nước
chiếm hơn 51% tổng chi cho BÐASXH (bảo đảm an sinh xã hội), bình quân
khoảng 6,6% GDP/năm. Riêng giai đoạn 2006 - 2012, Chính phủ đã đầu tư hơn
700 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ cho gần 3.000 dự án giao thông, thủy
lợi, y tế, giáo dục nhằm tăng cường hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo; trong đó, riêng
các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã được ngân sách Nhà nước
đầu tư hơn 54.770 tỷ đồng. Hằng năm, Nhà nước chi trợ cấp xã hội thường
xuyên tới khoảng 2% dân số, trợ cấp đột xuất khoảng 0,5% - 0,6% GDP cho
khắc phục hậu quả các vùng bị thiên tai.
Giai đoạn 2010 - 2013, thực hiện Nghị định 41/2010/NÐ-CP về chính
sách đẩy mạnh tín dụng cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tổng dư nợ tín
dụng cho nông nghiệp đã tăng 2,1 lần (từ 292 nghìn tỷ đồng, lên gần 622 nghìn

tỷ đồng). Nhà nước còn thực hiện giao quản lý đất và rừng ổn định; vận động
người dân tộc thiểu số sống định canh, định cư và tái định cư ở những địa bàn
phù hợp, vì lợi ích kinh tế - xã hội và môi trường cộng đồng và quốc gia.
21
Khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân
ngày càng được cải thiện cũng là một điểm nhấn trong sử dụng NSNN đảm
bảo an sinh xã hội ở Việt Nam.
Cuối năm 2012, khoảng 90,7% số người nghèo nhất đã được sử dụng
điện lưới; hơn 85% số dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh;
100% số xã có trạm y tế, trong đó 78% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; 100%
số xã có đường giao thông đến trung tâm; 67,5% số xã có công trình thủy lợi
nhỏ. Hàng nghìn nhà tình nghĩa và hàng trăm dự án nhà ở xã hội được triển
khai trên toàn quốc, góp phần đáp ứng nhu cầu cho hàng triệu người dân thuộc
đối tượng chính sách. Từ năm 2010, cả nước đã cơ bản hoàn thành phổ cập
THCS với 100% số xã có đủ trường tiểu học, THCS. Tỷ lệ nhập học đúng độ
tuổi ở bậc tiểu học là 97,7% và bậc trung học cơ sở là 87,2%. Mỗi năm, 1,8
triệu lao động được dạy nghề qua hệ thống 10 nghìn trường, trung tâm học tập
cộng đồng và gần 700 trung tâm giáo dục thường xuyên. Riêng hai năm 2011 -
2012, ngân sách Nhà nước đã hỗ trợ 11.844 tỷ đồng tiền miễn, giảm học phí,
trợ cấp học bổng, hỗ trợ tiền ăn trưa cho bốn triệu lượt học sinh con của hộ
nghèo, hộ chính sách và trẻ đến 5 tuổi. Theo Quyết định 36/2013/QÐ-TTg, từ
ngày 15-3-2013, Nhà nước thực hiện hỗ trợ 15kg gạo/tháng (chín tháng/năm
học) cho mỗi học sinh tiểu học và THCS người dân tộc thuộc khu vực có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Chính sách bình ổn giá tại một số siêu thị, điểm bán đã góp phần kích
thích người dân mua sắm, đẩy mạnh sản xuất trong nước, khích lệ doanh
nghiệp tiếp tục hoạt động nhằm phát triển nền kinh tế. Nhà nước đề ra các
chính sách nhằm giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm lãi suất ngân hàng,
trợ giá cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh các mặt hàng thiết yếu.
Nếu quan sát chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam từ năm 2002 đến 2012

có thể thấy có sự biến động khá lớn. Năm 2003 có CPI thấp nhất, với mức
3,01%. Trong năm 2008 và 2011, chỉ số giá CPI đứng ở mức cao, 18-20%. Tuy
nhiên, năm 2012, chỉ số này là 6,81% thấp hơn so với mục tiêu của Quốc hội
22
và Chính phủ là 8%. Chỉ số CPI giảm thấp so với năm 2011 chịu tác động của
nhiều yếu tố như lượng hàng hóa tồn kho lớn, sức mua giảm bởi hàng chục
ngàn doanh nghiệp phải đóng cửa và thu hẹp sản xuất, kinh doanh, mặc dù số
doanh nghiệp mới thành lập cũng có con số gần tương ứng. Nếu quan sát sự
thay đổi của CPI các quý của năm 2012 có thể thấy, chỉ số này có xu hướng
tăng lên từ 4,08% trong Quý II lên 5,05% trong quý III và 5,44% trong Quý
IV. Chỉ số CPI có xu hướng giảm trong Quý II/2012 làm xuất hiện nhận định
nền kinh tế rơi vào giảm phát, song thực tế cho thấy không có tình trạng giảm
phát xảy ra ở Việt Nam trong năm 2012.
III. XU HƯỚNG THAY ĐỔI CƠ CẤU THU NSNN KHI VIỆT NAM GIA
NHẬP WTO
1. Khái quát về tiến trình hội nhập WTO của Việt Nam
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thành lập ngày 1/1/1995, là một tổ chức
quốc tế đặt trụ sở ở Genève, Thụy Sĩ, có chức năng giám sát các hiệp định thương
mại giữa các nước thành viên với nhau theo các quy tắc thương mại. Hoạt động của
WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do
thương mại. Đến nay tổng số thành viên WTO đã lên 160. Đây là tổ chức Thương
mại lớn nhất toàn cầu, chiếm hơn 90% thương mại thế giới.
Nhận rõ sự cần thiết tham gia tổ chức WTO, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX đã khẳng định lại " Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa
phương hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với
điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song
phương và đa phương tiến tới gia nhập WTO ".
Tiến trình hội nhấp WTO của Việt Nam:
- 1/1995, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO.
- 8/1996: Việt Nam nộp “Bị vong lục về chính sách thương mại”

- 1996: Bắt đầu đàm phán Hiệp định Thương mại song phương với Hoa kỳ
23
- 1998 - 2000: Tiến hành 4 phiên họp đa phương với Ban Công tác về Minh bạch
hóa các chính sách thương mại vào tháng 7-1998, 12-1998, 7-1999, và 11-2000. Kết
thúc 4 phiên họp, Ban công tác của WTO đã công nhận Việt Nam cơ bản kết thúc quá
trình minh bạch hóa chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm phán mở cửa thị
trường.
- 7/2000: ký kết chính thức BTA với Hoa Kỳ
- 12/2001: BTA có hiệu lực
- 4/2002: Tiến hành phiên họp đa phương thứ 5 với Ban Công tác. Việt Nam đưa
ra Bản chào đầu tiên về hàng hóa và dịch vụ. Bắt đầu tiến hành đàm phán song
phương.
- 2002/2006: Đàm phán song phương với một số thành viên có yêu cầu đàm
phán.
- 10-2004: Kết thúc đàm phán song phương với EU - đối tác lớn nhất
- 5-2006: Kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ - đối tác cuối cùng trong
28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương.
- 26-10-2006: Kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng, Ban Công tác
chính thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cộng đã có
14 phiên họp đa phương từ tháng 7-1998 đến tháng 10-2006.
- 7-11-2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại Geneva để
chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO. Ngày 7/11/2006, Bộ trưởng Thương mại
Trương Đình Tuyển và Tổng giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) Pascal
Lamy đã ký vào Nghị định thư gia nhập của Việt Nam kết thúc 11 năm tiến hành
hàng loạt các cuộc đàm phán song phương, đa phương và tham vấn kể từ khi đệ đơn
gia nhập vào năm 1995.
- 11-1-2007 WTO nhận được được quyết định phê chuẩn chính thức của Quốc
hội nước CHXHCN Việt Nam. Kể từ đây, Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của
WTO.
2. Thay đổi cơ cấu thu NSNN khi VN gia nhập WTO

24
2.1. Thu NSNN trước khi VN gia nhập WTO
Theo Bộ Tài chính, trong tổng thu ngân sách năm 2006, nguồn thu trong
nước ước đạt 132.000 tỷ đồng, thu từ dầu khí khoảng 63.400 tỷ đồng, từ thuế
XNK 40.000 tỷ đồng và viện trợ không hoàn lại khoảng 2.500 tỷ đồng. Ngoài
ra, khoảng 8.000 tỷ đồng trong ngân sách nhà nước năm 2005 cũng sẽ được
chuyển sang năm 2006. Trong số nguồn thu ngân sách trong nước (không kể
thu từ dầu thô) thì thu từ kinh tế quốc doanh đạt 42.243 tỷ đồng, doanh nghiệp
FDI là 27.807 tỷ đồng, còn lại là thu từ các loại thuế Trong khi đó, Bộ Tài
chính ước tính tổng chi ngân sách năm 2006 là khoảng 294.400 tỷ đồng (tăng
28% so với dự toán năm 2005), trong đó, khoảng 81.580 tỷ đồng sẽ được đầu
tư phát triển kinh tế, 131.470 tỷ đồng cho các hoạt động quốc phòng, an ninh,
quản lý hành chính và các vấn đề kinh tế xã hội khác, 29.197 tỷ đồng cho chi
cải cách tiền lương và khoảng 40.800 tỷ đồng để trả nợ. Khoảng 11.350 tỷ
đồng sẽ được bổ xung vào quỹ dự phòng, dự trữ tài chính. Dự toán ngân sách
2006 cũng cho thấy, bội chi ngân sách của Việt Nam trong năm 2006 vào
khoảng 48.500 tỷ đồng, tăng 19% so với năm 2005, tuy nhiên vẫn ở mức 5%
GDP của năm 2006. Để có thể khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách trong
năm 2005, Bộ Tài chính sẽ huy động khoảng 36.000 tỷ đồng từ các khoản vay
trong nước và 12.500 tỷ đồng từ các khoản tín dụng quốc tế.Bộ Tài chính cũng
ước tính thu ngân sách đạt mức là 1.600.000 tỷ đồng trong giai đoạn 2006-
2010, vẫn chủ yếu từ xuất khẩu dầu thô, thuế XNK, nộp ngân sách của các
doanh nghiệp FDI và danh nghiệp trong nước. Trong khi đó, chi ngân sách của
Việt Nam trong giai đoạn này là 1.900.000 tỷ đồng (thâm hụt ngân sách là
300.000 tỷ đồng). Năm 2005, dự toán thu ngân sách là 183.000 tỷ đồng, với
tổng chi là 229.750 tỷ đồng (thâm hụt ngân sách là 40.750 tỷ đồng). Dự toán
ngân sách nhà nước năm 2006với tổng các nguồn thu ước đạt 237.900 tỷ đồng,
tăng 13% so với thực hiện năm 2005.
2.2. Thay đổi cơ cấu thu NSNN sau khi gia nhập WTO
a. Tác động của những cam kết gia nhập WTO ảnh hưởng tới thu NSNN

25

×