Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Quản lý hình ảnh lực lượng gìn giữ hòa bình của quân đội nhân dân việt nam trên kênh truyền hình quốc phòng việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 139 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN QUỐC HỒNG

QUẢN LÝ HÌNH ẢNH LỰC LƢỢNG GÌN GIỮ HỊA BÌNH
CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM TRÊN KÊNH
TRUYỀN HÌNH QUỐC PHỊNG VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

HÀ NỘI - 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN QUỐC HỒNG

QUẢN LÝ HÌNH ẢNH LỰC LƢỢNG GÌN GIỮ HỊA BÌNH
CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM TRÊN KÊNH
TRUYỀN HÌNH QUỐC PHÒNG VIỆT NAM HIỆN NAY


Chuyên Ngành: Quản lý Phát thanh Truyền hình & Báo mạng Điện tử
Mã Ngành

: 8320101

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Đinh Thị Thu Hằng

HÀ NỘI - 2022


XÁC NHẬN LUẬN VĂN ĐÃ ĐƢỢC CHỈNH SỬA
Luận văn đã được chỉnh sửa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm luận
văn Thạc sĩ.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2022

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

PGS,TS. Nguyễn Thị Trƣờng Giang


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của tơi dưới sự
hướng dẫn của PGS,TS. Đinh Thị Thu Hằng. Các số liệu, tư liệu sử dụng
trong luận văn này có nguồn gốc rõ ràng, trung thực và chưa từng được công
bố trong bất cứ cơng trình khoa học nào.

Hà Nội, ngày

tháng

Tác giả luận văn

Nguyễn Quốc Hoàng

năm 2022


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BQP : Bộ Quốc phịng
GGHB: Gìn giữ hịa bình
LHQ : Liên hợp quốc
QĐND: Qn đội nhân dân
PT-TH: Phát thanh Truyền hình
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
QPVN: Quốc phòng Việt Nam


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HÌNH ẢNH LỰC LƢỢNG
GÌN GIỮ HỊA BÌNH CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM TRÊN
TRUYỀN HÌNH ............................................................................................ 10
1.1. Các khái niệm cơ bản ............................................................................ 10
1.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung, phương thức quản lý hình ảnh lực lượng
GGHB của QĐND Việt Nam trên truyền hình ............................................ 19

1.3. Mục đích, u cầu của quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND
Việt Nam trên truyền hình ........................................................................... 31
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HÌNH ẢNH LỰC LƢỢNG GÌN
GIỮ HỊA BÌNH CỦA QN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM TRÊN
KÊNH TRUYỀN HÌNH QUỐC PHỊNG VIỆT NAM ............................. 39
2.1. Khái quát về kênh Truyền hình QPVN và Bản tin Thời sự Quốc phòng ..... 39
2.2. Khảo sát thực trạng quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt
Nam trong bản tin Thời sự Quốc phịng trên kênh truyền hình QPVN ....... 44
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý và nguyên nhân của thực trạng ............... 63
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG QUẢN LÝ
HÌNH ẢNH LỰC LƢỢNG GÌN GIỮ HỊA BÌNH CỦA QN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH QUỐC
PHỊNG VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI ..................................................... 73
3.1. Quan điểm tăng cường quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND
Việt Nam trên kênh truyền hình QPVN....................................................... 73
3.2. Giải pháp tăng cường quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND
Việt Nam trên kênh Truyền hình QPVN ..................................................... 79
KẾT LUẬN .................................................................................................... 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 99
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 103
TÓM TẮT LUẬN VĂN .............................................................................. 133


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực hiện chiến lược hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng theo
đường lối của Đảng là nhiệm vụ quan trọng, là kế sách giữ nước từ sớm, từ xa
bằng biện pháp hịa bình nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, tăng cường vị thế quốc
tế và độc lập, tự chủ của đất nước. Việt Nam tham gia vào hoạt động gìn giữ

hịa bình (GGHB) của Liên hợp quốc( LHQ) là đẩy mạnh hội nhập quốc tế và
đối ngoại quốc phòng, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng
quốc tế. Đây là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, hợp tác là chính, kiên
định chủ quyền lãnh thổ, độc lập tự chủ và lợi ích quốc gia, dân tộc. Đặc biệt,
ngày 13/11/2020, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 130/2020/QH14 về
việc Việt Nam tham gia lực lượng GGHB của LHQ, nhằm tạo hành lang pháp
lý chắc chắn để chủ động nghiên cứu, tham mưu và chuẩn bị tốt lực lượng
triển khai tham gia hiệu quả sứ mệnh quốc tế. Việc này thể hiện quyết tâm
chính trị mạnh mẽ, nghiêm túc và khẳng định sự tham gia lâu dài của Việt
Nam đối với sứ mệnh GGHB của LHQ, thúc đẩy và kiến tạo hòa bình ở khu
vực và trên thế giới, phù hợp với chủ trương, đường lối đối ngoại và hội nhập
quốc tế của Việt Nam. Một thế giới hịa bình, ổn định, hợp tác và phát triển là
khát vọng của nhân loại, là mục tiêu cao cả mà mỗi quốc gia đều mong muốn
hướng tới, trong đó có Việt Nam. Việc Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam
tham gia hoạt động GGHB của LHQ từ năm 2014 đến nay đã cho thấy Việt
Nam là một thành viên có trách nhiệm đối với nền hịa bình của thế giới.
Hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam không chỉ thường
xuyên được truyền tới độc giả trong nước mà còn được truyền ra thế giới
thơng qua đa dạng các loại hình truyền thơng như truyền hình, báo in, báo
điện tử, mạng xã hội… bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Nhiều tin bài, phóng
sự có chất lượng đã được đầu tư, xây dựng, giúp công chúng có cái nhìn đa


2
chiều về đội quân chiến đấu trong thời bình, nhờ đó nâng cao hiệu quả tuyên
truyền về hoạt động của QĐND Việt Nam và tầm quan trọng của đối ngoại
quốc phòng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung, nhưng cũng
đặt ra vấn đề rất cần thiết, đó là quản lý báo chí truyền thơng. Kênh truyền
hình Quốc phịng Việt Nam (QPVN) là kênh chun biệt. Việc quản lý chặt

chẽ về nội dung và hình thức các tác phẩm báo chí liên quan đến hình ảnh
chiến sĩ QĐND trên kênh Truyền hình QPVN cho thấy Ban Biên tập đã chủ
động xây dựng các bài viết, chương trình gắn kết chặt chẽ lý luận với thực
tiễn, phản ánh đúng thực tiễn đang đặt ra trong quân đội. Tuy nhiên, truyền
thơng về hình ảnh của lực lượng GGHB chưa rõ nét trên kênh Truyền hình
QPVN. Nhiều hoạt động của lực lượng GGHB chưa được thể hiện rõ, quản lý
hình ảnh của lực lượng GGHB chưa hiệu quả từ nội dung đến hình thức của
hình ảnh, chưa đáp ứng nhu cầu công chúng.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài
luận văn “Quản lý hình ảnh lực lượng gìn giữ hịa bình của Quân đội nhân
dân Việt Nam trên kênh Truyền hình Quốc phịng Việt Nam hiện nay”. Đây là
đề tài có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn trong bối cảnh hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thơng tin về QĐND và hình ảnh chiến sĩ QĐND không phải là một đề
tài nghiên cứu mới, nhất là trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của truyền
thông đại chúng hiện nay. Nhưng thông tin về quản lý hình ảnh lực lượng
GGHB của QĐND Việt Nam trên kênh Truyền hình QPVN thì khơng nhiều,
do tính chuyên sâu của vấn đề nghiên cứu. Trong phạm vi bao quát của luận
văn, có thể kể đến một số cơng trình khoa học có liên quan đến đề tài:
2.1. Các nghiên cứu chung về quản lý báo chí truyền thông
- Nguyễn Thế Kỷ (2012), “Công tác chỉ đạo quản lý nhà nước báo chí
trong 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Cơng trình đã tổng kết cơng tác chỉ đạo quản lý nhà nước báo chí trong 25
năm tiến hành sự nghiệp đổi mới; nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng và sự


3
cần thiết của quản lý nhà nước đối với sự phát triển của báo chí cách mạng,
xác định nhiệm vụ quản lý báo chí trong bối cảnh xã hội nhiều thay đổi bởi
quá trình đổi mới của đất nước.

- Đỗ Q Dỗn (2014), “Quản lý và phát triển thơng tin báo chí ở
Việt Nam”, Nxb Thơng tin truyền thơng, Hà Nội. Cuốn sách tập trung làm
rõ thực trạng, những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý, chỉ đạo và phát
triển báo chí; đồng thời đưa ra những giải pháp cơ bản tạo điều kiện để
thơng tin báo chí Việt Nam phát triển nhưng vẫn đảm bảo quản lý tốt.
- Nguyễn Đức Lợi, Lưu Văn An đồng chủ biên (2017), “Thơng tin
báo chí với cơng tác lãnh đạo, quản lý”, Nxb Thông tấn, Hà Nội. Cuốn
sách đưa ra một số vấn đề lý luận về thơng tin báo chí và cơng tác lãnh đạo,
quản lý. Thơng tin báo chí là nhu cầu không thể thiếu của mỗi cá nhân
trong xã hội, nhất là đối với các cơ quan, cá nhân lãnh đạo quản lý.
- Doãn Thị Thuận (2017), “Quản lý báo chí điện tử ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay”, Luận án tiến sĩ, Học viện Báo chí và Tun truyền. Đây là
cơng tỷình khoa học nghiên cứu cơng phu về quản lý báo chí điện tử ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay, trong đó tác giả xây dựng cơ sở lý luận về báo chí
và quản lý báo chí với những nội dung cụ thể, lập luận chặt chẽ; đề xuất các
giải pháp hợp lý để tăng cường quản lý báo chí trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Các nghiên cứu về quản lý thơng tin, hình ảnh chiến sĩ trên báo
chí, về lực lượng gìn giữ hịa bình Liên hợp quốc
- Nguyễn Quốc Hùng - Nguyễn Hồng Quân (2008), “Liên hợp quốc và
lực lượng gìn giữ hịa bình Liên hợp quốc”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cuốn sách giới thiệu về tổ chức LHQ và hoạt động của lực lượng GGHB, cung
cấp cho độc giả những kiến thức cần thiết để hiểu về hoạt động nhân văn này.
- Nguyễn Hồng Thao (2008), “Việt Nam và Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách cho thấy mối quan hệ giữa
Việt Nam và Hội đồng Bảo an LHQ, khi Việt Nam tích cực chuẩn bị tham gia


4
lực lượng GGHB của LHQ, trở thành thành viên không thường trực nhưng rất có
trách nhiệm trong hoạt động đặc biệt này.

- Nguyễn Thị Huệ (2013), “Việt Nam tích cực chuẩn bị tham gia lực
lượng gìn giữ hịa bình Liên hợp quốc”, Tạp chí Quan hệ Quốc phịng, 24, tr.3138. Bài viết đề cập đến quá trình chuẩn bị một cách tích cực và chủ động của
Việt Nam để tham gia lực lượng GGHB của LHQ vào năm 2014. Quá trình xây
dựng, phát triển và trưởng thành của lực lượng GGHB của Việt Nam gắn liền
với những kết quả nổi bật mà Cục GGHB Việt Nam đạt được trong suốt quá
trình hình thành và phát triển.
- Vũ Thị Hương Trà (2016), “Nâng cao chất lượng các chương trình
đối thoại tọa đàm trên Kênh truyền hình Quốc phịng Việt Nam”, Luật văn
Thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Luận văn làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về chất lượng các chương trình đối
thoại tọa đàm trên Kênh truyền hình Quốc phòng Việt Nam, đề xuất giải
pháp, phương hướng nâng cao các chương trình đối thoại tọa đàm thời gian
tới. Hình ảnh người chiến sĩ được thể hiện rõ qua phân tích các chương trình
đối thoại tọa đàm trên Kênh truyền hình Quốc phịng Việt Nam.
- Nguyễn Thái Long (2018), Thơng tin về hình ảnh người chiến sỹ Cơng
an nhân dân trong các chương trình chuyên biệt và phim tài liệu trên kênh
ANTV, Luận văn thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Luận văn trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thơng tin hình
ảnh chiến sĩ CAND trên các chương trình chuyên biệt và phim tài liệu, luận
văn tập trung khảo sát thực trạng thơng tin hình ảnh người chiến sĩ CAND
trong các chương trình chuyên biệt và phim tài liệu của kênh ANTV; đề
xuất một số giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng
thơng tin hình ảnh người chiến sĩ CAND trên Kênh ANTV.
- Vũ Văn Hồn (2020), Quản lý hình ảnh chiến sĩ trên Kênh Truyền
hình Quốc Phịng Việt Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ Báo chí học, Học viện


5
Báo chí và Tuyên truyền. Luận văn đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận và
thực tiễn về các nội dung cơ bản có liên quan đến quản lý hình ảnh chiến sĩ

trên truyền hình; khẳng định vai trị, nhiệm vụ, tầm quan trọng của việc quản
lý hình ảnh chiến sĩ trên kênh Truyền hình QPVN; đề xuất những giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng hình ảnh chiến sĩ trên kênh truyền hình QPVN nói
riêng và trên báo chí truyền hình nói chung, xây dựng hình ảnh anh Bộ đội Cụ
Hồ trong tâm thức công chúng.
- Mỹ Hạnh (2021), Xây dựng lực lượng gìn giữ hịa bình LHQ của Việt
Nam không ngừng lớn mạnh, Báo điện tử Quân đội nhân dân, ngày
26/05/2021. Tác giả bài viết ghi lại cuộc phỏng vấn Thượng tướng Hoàng
Xuân Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng về vấn
về nhiệm vụ tham gia hoạt động GGHB của QĐND Việt Nam. Từ năm 2014
đến nay, Việt Nam đã cử 55 lượt sĩ quan triển khai theo hình thức cá nhân và
189 cán bộ, bác sĩ, nhân viên y tế tham gia trong đội hình Bệnh viện dã chiến
cấp 2, trong đó có 3 sĩ quan ứng thi và xuất sắc trúng tuyển vào làm việc tại
trụ sở LHQ. Điều đó khẳng định Việt Nam có trách nhiệm ngày càng cao với
vai trị thành viên LHQ, đóng góp ngày càng thiết thực và hiệu quả cho hoạt
động này. Điều này cũng cho thấy, Việt Nam đã thực hiện đúng cam kết đóng
góp nhân sự có chất lượng tham gia sứ mệnh GGHB của LHQ, đồng thời
chứng tỏ trình độ chun mơn của lực lượng GGHB Việt Nam ngày càng đáp
ứng các yêu cầu, đòi hỏi cao của hoạt động GGHB của LHQ. Việc quân đội
tiếp tục đẩy mạnh tham gia hoạt động GGHB LHQ là hành động thiết thực
góp phần quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, trong
đó xác định thúc đẩy hội nhập quốc tế tồn diện, sâu rộng, linh hoạt vì lợi ích
quốc gia-dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ.
Nhìn chung, nghiên cứu về báo chí truyền thơng và quản lý báo chí,
quản lý thơng tin báo chí, hình ảnh người chiến sĩ CAND hay QĐND… được
thực hiện khá nhiều. Tuy nhiên vấn đề quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của


6
QĐND Việt Nam trên kênh Truyền hình QPVN hiện nay chưa được đề cập

tới trong các nghiên cứu trước đây. Vì thế đề tài của luận văn kế thừa kết quả
nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước nhưng vẫn có tính mới, khơng lặp
lại các cơng trình đã có.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống một số vấn đề lý luận và phân tích thực trạng quản
lý hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam trên kênh Truyền hình
QPVN, luận văn đề xuất quan điểm và giải pháp tăng cường quản lý hình ảnh
lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam trên kênh Truyền hình QPVN thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn xác định 3 nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm rõ hơn cơ sở lý luận về quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của
QĐND Việt Nam trên kênh truyền hình.
- Phân tích thực trạng quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND
Việt Nam trên kênh Truyền hình QPVN.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp tăng cường quản lý hình ảnh lực
lượng GGHB của QĐND Việt Nam trên kênh Truyền hình QPVN.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND
Việt Nam trên kênh Truyền hình QPVN.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND
Việt Nam trên kênh Truyền hình QPVN, qua khảo sát bản tin Thời sự Quốc
phịng. Bản tin Thời sự Quốc phịng có vị trí đặc biệt trong kênh Truyền hình
QPVN. Phần tin tức qn sự - quốc phịng có các nội dung về bảo vệ an ninh


7

quốc phịng, về hoạt động của QĐND trong đó có hoạt động của lực lượng
GGHB thơng qua các tin, phóng sự ngắn.
- Phạm vi thời gian: 2 năm, từ tháng 1/2020 đến 12/2021. Đây là
khoảng thời gian Việt Nam đảm nhiệm vai trị Ủy viên khơng thường trực Hội
đồng Bảo an LHQ lần thứ hai, nhiệm kỳ 2020-2021. Luận văn có mở rộng so
sánh quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam trên kênh
Truyền hình QPVN trong những năm gần đây, từ sau khi thành lập ảnh lực
lượng GGHB (2014) để thấy thực trạng quản lý ngày càng hiệu quả hơn.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn sử dụng cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trong tiếp cận đề tài. Luận văn tiếp cận liên ngành, sử dụng cơ sở
lý luận về khoa học quản lý, lý luận báo chí – truyền thơng, lý luận báo
truyền hình.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích tài liệu: Luận văn tập trung phân tích, tìm hiểu
cơ sở lý luận về báo chí, báo truyền hình, về các yếu tố trong quản lý báo chí;
các văn bản hướng dẫn về cơng tác phát thanh, truyền hình; các chỉ thị, nghị
quyết của Quân ủy Trung ương; chỉ thị, hướng dẫn của Bộ Quốc phịng (BQP),
Tổng cục Chính trị về công tác đấu tranh, chống lại các thế lực thù địch, xây
dựng QĐND thêm vững mạnh trên hệ thống báo chí Qn đội nói chung và
trên Kênh Truyền hình QPVN nói riêng; các báo cáo sơ kết, tổng kết về tình
hình hoạt động của Phịng Thời sự kênh Truyền hình QPVN.
- Phương pháp phân tích nội dung: Phương pháp này được tác giả thể
hiện qua các bản tin thời sự Quốc phịng liên quan đến vấn đề thơng tin về
hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam trên kênh Truyền hình
QPVN, chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu thơng tin về hình ảnh lực lượng



8
GGHB để đưa ra những giải pháp thiết thực, hiệu quả trong cơng tác quản lý
hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam trên kênh truyền hình
QPVN hiện nay.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Luận văn sử dụng phỏng vấn sâu Lãnh
đạo ban Thời sự - kênh Truyền hình QPVN và phóng viên trực tiếp tham gia
sản xuất chương trình thời sự để đánh giá thực trạng quản lý hình ảnh lực
lượng GGHB của QĐND Việt Nam trên kênh Truyền hình QPVN; nhân tố
ảnh hưởng và giải pháp tăng cường quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của
QĐND Việt Nam trên kênh Truyền hình QPVN.
Tác giả luận văn thực hiện 8 cuộc phỏng vấn sâu bao gồm: Lãnh đạo
Cục GGHB Việt Nam: 1; Lãnh đạo kênh Truyền hình QPVN: 2 người; Lãnh
đạo phòng thời sự: 2 người; cán bộ, phóng viên: 3 người.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Về lý luận, nghiên cứu đóng góp những luận chứng về quản lý hình ảnh
lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam trên kênh truyền hình, góp phần củng cố
hệ thống lý luận chung của truyền hình trong tình hình mới. Luận văn góp phần
bổ sung, làm phong phú thêm lý luận về quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của
QĐND Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình
về hình ảnh chiến sĩ QĐND trên các kênh, đài truyền hình nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn bước đầu nghiên cứu một cách có hệ thống quản lý hình ảnh lực
lượng GGHB trên kênh truyền hình QPVN bằng việc khảo sát các Bản tin Thời
sự Quốc phòng trong khoảng thời gian 2 năm trên kênh Truyền hình QPVN, xác
định ưu điểm và hạn chế trong quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND
Việt Nam trên kênh Truyền hình QPVN. Luận văn là cơng trình nghiên cứu
khách quan, có giá trị thực tiễn đối với lãnh đạo Kênh truyền hình QPVN và
các cơ quan quản lý hữu quan (như TCCT, Cục Báo chí) tham khảo, phục vụ



9
cho cơng tác quản lý báo chí trong thời gian tới. Qua đó, kênh Truyền hình
QPVN củng cố thêm vị trí và niềm tin trong lịng cơng chúng.
7. Đóng góp mới của đề tài
- Đề tài là một trong những nghiên cứu, làm rõ việc quản lý hình ảnh
về hoạt động lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam trên kênh Truyền hình
QPVN. Góp phần bổ sung, đóng góp tích cực và khẳng định vai trị quan
trọng của cơng tác thơng tin đối ngoại trong chiến lược phát triển của đất
nước, củng cố sự nghiệp xây dựng QĐND Việt Nam chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại. Đề tài góp phần nâng cao uy tín của kênh truyền hình
QPVN trong tun truyền chủ trương, đường lối của Đảng ta về an ninh quốc
phòng, nâng cao nhận thức của nhân dân về hoạt động GGHB của QĐND
Việt Nam trên thế giới.
- Kết quả của đề tài góp phần giúp kênh Truyền hình QPVN có căn cứ
xác thực để tăng cường quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam
phù hợp với nhu cầu của công chúng, đạt hiệu quả thông tin tuyên truyền.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh mục Tài liệu tham khảo, Phụ lục,
luận văn bao gồm 3 chương, 8 tiết:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của
QĐND Việt Nam trên truyền hình
Chương 2: Thực trạng quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND
Việt Nam trên kênh Truyền hình QPVN
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường quản lý hình ảnh lực
lượng GGHB của QĐND Việt Nam trên kênh Truyền hình QPVN thời gian tới


10
Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HÌNH ẢNH LỰC LƢỢNG
GÌN GIỮ HỊA BÌNH CỦA QN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
TRÊN TRUYỀN HÌNH
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam và hình ảnh lực lượng
GGHB của QĐND Việt Nam
1.1.1.1. Lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam
GGHB là “những hoạt động đóng góp cho tương lai q trình giải
quyết và thiết lập nền hịa bình, bao gồm các hoạt động nhằm tạo điều kiện
ủng hộ hịa bình lâu dài. Hoạt động GGHB bao gồm việc theo dõi sự rút quân
của những lực lượng tham chiến ở các vùng xung đột trước đây, việc giám sát
bầu cử, hỗ trợ tái thiết”[14]. Thực tế, LHQ không phải là tổ chức duy nhất
thực hiện các nhiệm vụ GGHB. Các lực lượng GGHB ngoài LHQ bao gồm
phái đoàn NATO ở Kosovo, có sự ủy quyền của LHQ và Lực lượng đa quốc
gia và Quan sát viên trên Bán đảo Sinai hoặc các tổ chức do Liên minh Châu
Âu như EUFOR RCA, với ủy quyền của LHQ và Liên minh châu Phi như
Phái đoàn Liên minh châu Phi tại Nam Sudan. Theo luật pháp quốc tế, những
người GGHB là những người không tham chiến do lập trường trung lập của
họ trong cuộc xung đột và luôn được bảo vệ khỏi các cuộc tấn công [23].
Nghị quyết số 130/2020/QH14 về tham gia lực lượng GGHB của LHQ
đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thơng qua; có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/7/2021. Nghị quyết gồm 06 chương 18 điều, quy định về nguyên
tắc, hình thức, lĩnh vực, lực lượng, thẩm quyền, quy trình triển khai lực lượng,
kinh phí bảo đảm, chế độ, chính sách và quản lý Nhà nước đối với việc tham
gia lực lượng GGHB của LHQ. Đối tượng áp dụng là sỹ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ và đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng; sỹ quan,


11
hạ sỹ quan nghiệp vụ, chuyên môn kỹ thuật, chiến sỹ và đơn vị thuộc Bộ

Công an được cử tham gia lực lượng GGHB của LHQ; cơ quan, tổ chức, cá
nhân liên quan đến việc tham gia lực lượng GGHB của LHQ. Nguyên tắc
tham gia lực lượng GGHB của LHQ là đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam; quyết định của Hội đồng Quốc
phòng và An ninh; sự thống lĩnh của Chủ tịch nước và quản lý Nhà nước của
Chính phủ. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; phù hợp với Hiến
chương Liên hợp quốc, pháp luật quốc tế, điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên. Đồng thời, bảo đảm độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển; phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc, điều kiện và khả năng của
Việt Nam; tơn trọng chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của các quốc gia. Chỉ
tham gia hoạt động hỗ trợ khắc phục hậu quả chiến tranh, duy trì hịa bình sau
xung đột, vì mục đích nhân đạo trên cơ sở đề nghị của LHQ. Chỉ triển khai ở
quốc gia, khu vực đã được Liên hợp quốc thành lập phái bộ và tại các cơ quan
của LHQ. Ngồi ra, hình thức tham gia lực lượng GGHB của LHQ gồm có
hình thức cá nhân và hình thức đơn vị. Các lĩnh vực tham gia lực lượng
GGHB của LHQ bao gồm: tham mưu; hậu cần; kỹ thuật; thông tin, liên lạc;
công binh; quân y; cảnh sát; kiểm soát quân sự; quan sát viên quân sự; quan
sát viên và giám sát bầu cử; các lĩnh vực khác do Hội đồng Quốc phòng và
An ninh quyết định.
Nghị quyết quy định rõ về xây dựng lực lượng Việt Nam tham gia hoạt
động GGHB của LHQ: Bộ Quốc phịng chủ trì, phối hợp với Bộ Cơng an và
các bộ, ngành có liên quan lập kế hoạch trung hạn và dài hạn về xây dựng lực
lượng Việt Nam tham gia hoạt động GGHB của LHQ trình Thủ tướng Chính
phủ xem xét, quyết định. Bộ trưởng Bộ Quốc phịng, Bộ trưởng Bộ Cơng an
quy định biên chế, tổ chức đơn vị và tiêu chuẩn lực lượng thuộc thẩm quyền
quản lý để tham gia hoạt động GGHB của LHQ. Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an
tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện cho cá nhân, đơn vị tham gia hoạt động


12

GGHB về chun mơn, nghiệp vụ, chính trị, pháp luật, ngoại ngữ phù hợp với
yêu cầu nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn và giới tính. Phải bộ GGHB là tổ chức
được thành lập theo nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, với sự
đồng thuận của chính phủ và các bên liên quan, do Liên hợp quốc quản lý và
điều hành, nhằm duy trì, GGHB, an ninh ở quốc gia nói triển khai phái bộ.
Lực lượng Việt Nam tham gia hoạt động GGHB của LHQ bao gồm cá nhân,
đơn vị và vũ khí, trang bị, phương tiện thuộc Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an
được giao thực hiện nhiệm vụ tham gia hoạt động GGHB.
Như vậy, lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam là lực lượng được
Việt Nam cử tham gia hoạt động GGHB của LHQ nhằm duy trì, GGHB, an
ninh ở quốc gia và khu vực xảy ra xung đột trên thế giới, được thực hiện theo
nghị quyết của Hội đồng Bảo an LHQ, đặt dưới sự quản lý của LHQ.
Quân đội Nhân dân (QĐND) Việt Nam là lực lượng chính của Lực
lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, được tổ chức theo hướng tinh gọn, được
trang bị các loại vũ khí, khí tài hiện đại cần thiết, thực hiện huấn luyện thường
xuyên, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Hiện nay, QĐND Việt
Nam có lực lượng thường trực gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương với
tổng quân số khoảng 450.000 người và lực lượng quân dự bị khoảng 5 triệu
người. Bộ đội chủ lực là thành phần nòng cốt của QĐND Việt Nam gồm lực
lượng cơ động của các quân đoàn, quân chủng, binh chủng, bộ đội chủ lực
của quân khu và bộ đội chuyên môn kỹ thuật. Bên cạnh các đơn vị huấn luyện
sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu còn có hệ thống hồn chỉnh các đơn vị bảo
đảm hậu cần, kỹ thuật; các học viện, viện nghiên cứu, các trường đào tạo sĩ
quan và trường nghiệp vụ các cấp. Lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam
luôn khẳng định các cam kết trong tham gia hoạt động GGHB của LHQ. Hiện
nay, có 61 lượt sĩ quan cá nhân tham gia các vị trí sĩ quan liên lạc, quan sát
viên quân sự, sĩ quan tham mưu được cử tới Phái bộ Nam Sudan và Cộng hồ
Trung Phi, trong đó có 8 nữ quân nhân. Việt Nam đang có 3 sĩ quan đang làm



13
việc tại trụ sở LHQ. Việt Nam đã cử 3 lượt Bệnh viện dã chiến cấp 2 làm
nhiệm vụ tại Phái bộ Nam Sudan và đang làm công tác chuẩn bị để triển khai
Bệnh viện dã chiến cấp 2 lượt thứ 4 trong năm 2022 theo kế hoạch của LHQ.
1.1.1.2. Hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa hình ảnh là “ hình người, vật, cảnh
tượng thu được bằng khí cụ quang học để lại ấn tượng nhất định và tái hiện
được trong trí nhớ”[45, tr. 569]. Hình ảnh có thể là một bức hình, tấm ảnh,
hay hình ảnh thứ ghi lại hay thể hiện/tái tạo được cảm nhận thị giác, tương tự
với cảm nhận thị giác từ vật thể có thật, do đó mơ tả được những vật thể đó.
Hình ảnh có thể có hai chiều, như thể hiện trên tranh vẽ trên mặt phẳng, hoặc
ba chiều, như thể hiện trên tác phẩm điêu khắc. Hình ảnh có thể được ghi lại
bằng thiết bị quang học như máy ảnh, gương, thấu kính, kính viễn vọng, kính
hiển vi do con người tạo ra, hoặc bởi các cơ chế tự nhiên, như mắt người hay
mặt nước. Hình ảnh có thể được dùng theo nghĩa rộng, thể hiện bản đồ, đồ thị,
nghệ thuật trừu tượng. Với nghĩa này, hình ảnh có thể được tạo ra mới hồn
tồn, thay vì ghi chép lại, bằng cách vẽ, tạc tượng, in ấn hay xây dựng bằng
đồ họa máy tính. Hình ảnh tưởng tượng xuất hiện trong suy nghĩ của con
người, tương tự như trí nhớ. Hình ảnh chuyển động có thể là phim, video,
hoạt hình…
Trong triết học, hình ảnh là kết quả của sự phản ánh khách thể, đối
tượng vào ý thức của con người. Từ giác độ cảm tính, hình ảnh là những cảm
giác, tri giác và biểu tượng; ở trình độ tư duy, đó là những khái niệm, phán
đốn và suy luận. Về mặt nguồn gốc, hình ảnh là khách quan; nhưng về cách
nhận thức (hình thức) tồn tại, hình ảnh là chủ quan. Hình thức thể hiện vật
chất của hình ảnh là các hành động thực tiễn, ngơn ngữ, các mơ hình ký hiệu
khác nhau. Hình thức đặc thù của hình ảnh là hình tượng nghệ thuật. Hình ảnh
khơng tồn tại độc lập đối với cơ chất vật chất của nó là bộ não và đối với đối
tượng của sự phản ánh. Nó khách quan về mặt nội dung khi phản ánh chân



14
thực đối tượng. Tuy nhiên, khơng bao giờ hình ảnh hàm chứa hết các thuộc
tính và quan hệ của đối tượng, nguyên mẫu luôn luôn phong phú hơn bản sao.
Mặc dù vậy, một khi đã xuất hiện, hình ảnh vẫn có tính độc lập tương đối của
nó và đóng vai trị tích cực trong hành vi của con người và của động vật, giúp
con người điều chỉnh hành vi cho phù hợp với hồn cảnh. Trong nhiếp ảnh,
hình ảnh là sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức sự vật bằng mắt.
Hình ảnh gồm hai yếu tố cơ bản: hình dáng của vật thể và sắc độ của hình
ảnh. Vận dụng khéo léo hai yếu tố này, hình ảnh gây được sự chú ý của con
mắt nhìn, dẫn người xem tìm hiểu nội dung bức ảnh. Ấn tượng thị giác là điều
kiện để người xem tiếp nhận, thưởng thức hình ảnh. Hình ảnh là đối tượng
chính của nhà nhiếp ảnh - người đi săn hình ảnh. Trong mĩ thuật, hình ảnh là
sự diễn tả hay tái hiện một vật, một người trong nghệ thuật tạo hình (hội hoạ,
đồ hoạ, điêu khắc...). Hình ảnh trong nghệ thuật khơng phải là sự sao chụp thụ
động vẻ bên ngoài của mẫu thật, mà còn nhằm lột tả tinh thần của mẫu. Người
ta có thể thấy trong hình ảnh cá tính nghệ thuật của nghệ sĩ và dấu ấn thời đại.
Vật liệu để thực hiện hình ảnh cũng có tác dụng đến cảm thụ thẩm mĩ của
người xem: tượng tạc bằng đá hoa cho hiệu quả nghệ thuật khác với tượng gỗ
hay tượng đồng.
Như vậy, hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam là những
hình dung về diện mạo lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam với ấn tượng
nhất định, được tái hiện trong trí nhớ. Đó là hình ảnh đẹp về lực lượng
GGHB của QĐND Việt Nam khắc sâu trong tâm khảm chúng ta. Dù thời
bình hay thời chiến, chiến sĩ QĐND cũng đều có một mệnh lệnh từ trái tim,
ln sẵn sàng ra đi, gác lại mọi việc của gia đình, sẵn sàng hy sinh vì nhân
dân, Tổ quốc. Bất kể ở thời điểm nào, chúng ta đều nhận thấy sự tận tụy, trách
nhiệm, tinh thần xả thân hy sinh vì nhân dân của cán bộ, chiến sĩ QĐND, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, động cơ trong sáng, trách nhiệm cao; có đạo
đức, lối sống trong sạch, lành mạnh; có tri thức khoa học, trình độ qn sự,



15
năng lực, phương thức, tác phong công tác và sức khoẻ tốt. Họ luôn thực hành
dân chủ, tự giác, nghiêm minh; ln chăm lo, xây dựng đồn kết nội bộ, gắn
bó máu thịt với nhân dân và có tinh thần đồn kết quốc tế trong sáng.
1.1.2. Quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam
Quản lý là khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau và được thể hiện
bằng thuật ngữ khác nhau, nhưng đều có điểm chung là thừa nhận đây là chức
năng vốn có của mọi tổ chức. Cá nhân, các bộ phận trong tổ chức đều phải có
sự điều khiển từ trung tâm, nhằm thực hiện mục tiêu chung của tổ chức, đó là
hoạt động quản lý. Xã hội ngày càng phát triển, quản lý càng có vai trị quan
trọng, hoạt động quản lý dựa trên những cơ sở khoa học và kinh nghiệm thực
tiễn để con người đúc rút thành khoa học quản lý. Quản lý trở thành đối tượng
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, mỗi ngành khoa học nghiên cứu về
quản lý từ góc độ riêng của mình, đưa ra định nghĩa về quản lý theo góc tiếp
cận chuyên ngành. Theo điều khiển học thì quản lý là điều khiển, chỉ đạo một
hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên
tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của
người quản lý nhằm đạt được những mục đích đã định trước. Theo xã hội học
thì quản lý là yếu tố khách quan của mọi quá trình lao động xã hội trong mọi
hình thái xã hội, quản lý cần thiết đối với mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội,
là một yếu tố quan trọng và quyết định nhất đến sự phát triển của mỗi tổ chức,
mỗi quốc gia. Nếu xét quản lý dưới tư cách là một hoạt động, có thể hiểu
quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý tới đối
tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa:
quản lý là “trông nom, coi giữ”, là “trơng coi và giữ gìn theo những yêu cầu
nhất định. Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất
định” [45, tr.303].
Nhìn chung theo các nhà nghiên cứu, quản lý là sự tác động có tổ chức,

có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã


16
đề ra, là “một hoạt động thực tiễn đặc biệt của con người, trong đó các chủ thể
tác động lên các đối tượng bằng các công cụ và phương thức khác nhau,
thơng qua quy trình quản lý nhất định, nhằm thực hiện một cách hiệu quả nhất
các mục tiêu của tổ chức trong điều kiện biến động của môi trường” [27,
tr.92]. Cách tiếp cận có thể khác nhau, song điểm chung của các nhà khoa học
là đều nhìn nhận quản lý như một hoạt động xã hội, bao giờ cũng là một tác
động hướng đích, có mục tiêu xác định, thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ
phận là chủ thể quản lý và khách thể quản lý.
Có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành
vi của cá nhân để đạt mục đích chung, phù hợp với mơi trường quản lý.
Khi nói đến quản lý là nói đến hoạt động bao gồm nhiều yếu tố có mối
quan hệ tương tác, bổ sung cho nhau. Đó là chủ thể quản lý, đối tượng quản
lý, nội dung và phương thức quản lý, mục đích và kết quả quản lý, môi trường
quản lý…Quản lý được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa chủ thể và đối
tượng quản lý, đây là mối quan hệ mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp
với quy luật khách quan, bởi vì quản lý là khoa học cũng là nghệ thuật.
Theo chúng tơi hiểu, quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt
Nam là tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng nhằm xây dựng hình ảnh lực
lượng GGHB của QĐND Việt Nam, truyền tải hình ảnh chiến sĩ tới công chúng
một cách hiệu quả, để công chúng hiểu biết, tin yêu và trân trọng lực lượng
GGHB của QĐND Việt Nam.
Về bản chất, quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam
chính là quản lý nội dung và hình thức thơng tin về lực lượng GGHB của QĐND
Việt Nam trên các phương tiện truyền thông, tạo ấn tượng tích cực trong nhận
thức của cơng chúng về lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam, quảng bá sâu

rộng về hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam vốn được dân yêu quý
nhằm tạo sự hiểu biết sâu sắc, sự tôn trọng đối với lực lượng GGHB của QĐND


17
Việt Nam. Việt Nam đã ủng hộ các sáng kiến của LHQ, nêu bật các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương LHQ trong việc giải quyết các
xung đột quốc tế thơng qua biện pháp hịa bình. Một trong những yếu tố then
chốt thể hiện sự cởi mở và gắn kết với thế giới là việc Việt Nam sẵn sàng có
được tiếng nói và vị trí nổi bật hơn trong LHQ. Điều này được thể hiện rõ nhất
qua nỗ lực tham gia hoạt động GGHB của LHQ đầu năm 2014, quốc kỳ Việt
Nam đã tự hào tung bay tại các Phái bộ GGHB của LHQ ở Nam Sudan và Cộng
hòa Trung Phi. Việt Nam cam kết đóng góp chủ động và có trách nhiệm nhằm
đảm bảo Hiến chương GGHB của LHQ, tôn trọng luật pháp quốc tế và đạt được
các mục tiêu phát triển bền vững.
1.1.3. Quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam trên
truyền hình
Truyền hình thường được hiểu là hệ thống điện tử viễn thơng có khả
năng thu nhận tín hiệu sóng và tín hiệu vơ tuyến hoặc hữu tuyến để chuyển
thành hình ảnh và âm thanh, là một loại máy phát hình truyền tải nội dung chủ
yếu bằng hình ảnh sống động và âm thanh kèm theo. Truyền hình xuất hiện
vào cuối năm 1920, sau đó được phổ biến với việc cải thiện rất nhiều về hình
thức. Trong những năm 1950, truyền hình đã trở thành phương tiện chính để
định hướng dư luận. Vào giữa những năm 1960, việc phát truyền hình màu và
kinh doanh máy thu hình màu tăng ở Mỹ và bắt đầu ở hầu hết các nước phát
triển khác. Kể từ những năm 2010, truyền hình Internet đã gia tăng các
chương trình truyền hình có sẵn thơng qua Internet thông qua các dịch vụ như
iPlayer, Hulu, và Netflix.
Truyền hình với tư cách là một loại hình báo chí ngày càng khẳng định
vai trị quan trọng của mình trong đời sống, và được giải thích bằng từ ngữ

khác nhau như báo hình, truyền hình, báo truyền hình... Điều 3 của Luật Báo
chí năm 2016 giải thích: Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề
trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng


18
tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đơng đảo cơng chúng thơng
qua các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử. Báo hình là loại hình
báo chí sử dụng hình ảnh là chủ yếu, kết hợp tiếng nói, âm thanh, chữ viết,
được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ
khác nhau [34]. Tác giả Tạ Ngọc Tấn cho rằng: “Truyền hình là một loại hình
phương tiện truyền thơng đại chúng chuyển tải thơng tin bằng hình ảnh động
và âm thanh. Nguyên nghĩa của thuật ngữ vô tuyến truyền hình (television)
bắt đầu từ hai từ tele có nghĩa là “ở xa” và vision là “thấy được”, tức là “thấy
được ở xa” [38,tr.127]. Theo đó, “thơng tin truyền hình tái hiện cuộc sống
hiện thực trong trạng thái sinh động. Nghĩa là truyền hình có thể là một phạm
vi, một bộ phận nguyên dạng của những gì đang diễn ra ngồi đời nhưng nó
được cho là rõ hơn, đẹp hơn. Người xem truyền hình có cảm giác như họ có
mặt, trực tiếp chứng kiến hay đang tham gia vào những sự kiện thực tế đó”
[38, tr.132]. Theo tác giả Dương Xn Sơn: “Truyền hình là một loại hình
truyền thơng đại chúng chuyển tải thơng tin bằng hình ảnh và âm thanh về
một vật thể hoặc một cảnh đi xa bằng sóng vơ tuyến điện” [35,tr.13].
Như vậy, có thể hiểu truyền hình là một loại hình truyền thơng đại
chúng chuyển tải thơng tin trực tiếp đến cơng chúng thơng qua hình ảnh và
âm thanh, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ khác
nhau. Thế mạnh của truyền hình là khả năng tích hợp trong nó hầu hết các
loại thông tin từ báo in, phát thanh, điện ảnh. Sự kết hợp hài hồ giữa hình
ảnh và âm thanh, tạo ra cho nó khả năng truyền tải thơng tin phong phú, có
sức hấp dẫn đặc biệt nhờ việc tạo sự giao tiếp với con người bằng cả thị giác
và thính giác. Tuy nhiên, do tín hiệu hình ảnh động và âm thanh được truyền

theo tuyến tính, người tiếp nhận thơng tin hầu như tập trung tồn bộ các giác
quan vào những gì diễn ra trên màn hình, hạn chế khả năng tiếp nhận thơng
tin của con người. Truyền hình cũng địi hỏi cơng chúng phải có sự đầu tư
tương đối lớn với mặt thiết bị để có thể tiếp cận được với thông tin.


19
Theo chúng tơi hiểu, quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt
Nam trên truyền hình là tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng nhằm xây
dựng hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam trên truyền hình, truyền
tải hiệu quả hình ảnh đó tới cơng chúng để công chúng hiểu biết, tin yêu và trân
trọng ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam.
Quản lý hình ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam trên truyền
hình là khái niệm mới vì chính đặc thù lực lượng GGHB của QĐND Việt
Nam. Việt Nam tham gia hoạt động GGHB của LHQ chưa lâu và cũng chưa
được truyền thông nhiều, vì thế các nghiên cứu về nội dung này cịn chưa
tương xứng với vai trị của nó. Về bản chất, quản lý hình ảnh lực lượng GGHB
của QĐND Việt Nam chính là quản lý nội dung và hình thức đăng tải thông tin
về lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam trên các chương trình truyền hình.
Điều 3, Luật báo chí năm 2016 quy định: Chương trình phát thanh, chương trình
truyền hình là tập hợp các tin, bài trên báo nói, báo hình theo một chủ đề trong
thời lượng nhất định, có dấu hiệu nhận biết mở đầu và kết thúc. Kênh phát
thanh, kênh truyền hình là sản phẩm báo chí, gồm các chương trình phát thanh,
truyền hình được sắp xếp ổn định, liên tục, được phát sóng trong khung giờ nhất
định và có dấu hiệu nhận biết [34]. Trong luận văn này, khi nói đến quản lý hình
ảnh lực lượng GGHB của QĐND Việt Nam trên kênh Truyền hình QPVN là sử
dụng khái niệm này.
1.2. Chủ thể, đối tƣợng, nội dung, phƣơng thức quản lý hình ảnh
lực lƣợng GGHB của QĐND Việt Nam trên truyền hình
1.2.1. Chủ thể và đối tượng quản lý

1.2.1.1. Chủ thể quản lý
Nói đến quản lý là nói đến chủ thể, tức là trả lời câu hỏi: ai quản lý.
Chủ thể quản lý báo chí là các cơ quan quản lý nhà nước được quy định tại
Luật Báo chí 2016. Đó là Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông, Các Bộ,
cơ quan ngang bộ, BQP mà trực tiếp là Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam


×