Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bài Thu Hoạch Diễn Án Hành chính Hồ Sơ 12 Nguyễn Thị Tuyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.04 KB, 17 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn: Kỹ năng tham gia giải quyết các vụ việc hành chính
Hồ sơ số: LS.HC12
Diễn lần: 01
Ngày diễn: 29/8/2021
Vai diễn (nếu đóng vai): ………………

Họ và tên:
Sinh ngày … tháng … năm …
SBD:
Lớp:

Hà Nội, ngày 29 tháng 8 năm 2021

1.

Nội dung vụ án


Học viên lựa chọn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện.
1.1

Xác định đương sự trong vụ án

Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Tuyết, có địa chỉ tại: Tổ 9, phường Đông Lân, thành phố P,
tỉnh G.L
Đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Mai Anh Tuấn, có địa chỉ tại: 33 đường
Minh Khai, thành phố P, tỉnh G.L


Người bị kiện: Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L, có địa chỉ tại: Số
06 Trần Hưng Đạo, thành phố P, tỉnh G.L
Đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ơng Dương Văn Thành – Phó Chánh thanh tra Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L
1.2

Đối tượng khởi kiện

Quyết định số 23/QĐ-XPHC ngày 10 tháng 3 năm 2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch tỉnh G.L xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và
du lịch.
1.3

Tóm tắt nội dung vụ án

Bà Nguyễn Thị Tuyết là chủ hộ kinh doanh dịch vụ nhà trọ bình dân có tên Hồng Lan tại tổ
09, phường Đơng Lân, thành phố P, tỉnh G.L, được Uỷ ban nhân dân thành phố P cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh số 39A 8005684 ngày 19/11/2012.
Vào khoảng 21 giờ 10 phút ngày 23/12/2013, Đoàn kiểm tra của Thanh tra Sở Văn hoá, Thể
thao và Du lịch tỉnh tỉnh G.L đến kiểm tra nhà trọ Hồng Lan. Theo đó, tại thời điểm kiểm tra,
phịng 11 có ơng Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn Thị Lành đang quan hệ tình dục, khơng
xuất trình được Giấy chứng nhận đăng ký kết hơn. Phịng số 09 có ơng Phan Văn và bà
Nguyễn Thị Thùy đang chung phòng xem tivi. Trong sổ theo dõi của nhà trọ Hồng Lan
khơng có tên bà Nguyễn Thị Lành. Sau khi kiểm tra, Đồn kiểm tra đã lập Biên bản vi phạm
hành chính số 11/BB-VPHC. Biên bản đưa ra kết luận: “Chủ cơ sở nhà trọ Hoàng Lan thiếu
tinh thần trách nhiệm để xảy ra vi phạm như trên”.
Ngày 16/01/2014, Thanh tra Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh G.L lập Tờ trình số 02/TTTTR xin gia hạn thời hạn ra quyết định xử phạt hành chính đối với các cơ sở có hành vi vi


phạm hành chính phức tạp đến hết ngày 11/03/2014 và được Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao

và Du lịch tỉnh G.L phê duyệt.
Sau 76 ngày, kể từ ngày lập Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC, Chánh Thanh tra
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L đã ban hành Quyết định số 23/QĐ-XPHC ngày
10/3/2014 phạt bà Nguyễn Thị Tuyết số tiền 15.000.000đ với lý do: “Đã có hành vi vi phạm
hành chính: Thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh
doanh có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm (Áp dụng khoản 1 Điều
25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ)”
Khơng đồng ý với Quyết định xử phạt vi phạm hành chính nêu trên, cho rằng Quyết định
khơng có căn cứ và q thời hạn xử lý vi phạm hành chính, ngày 24/3/2014, Bà Tuyết đã làm
đơn khiếu nại Quyết định số 23/QĐ-XPHC ngày 10 tháng 3 năm 2014 của Chánh Thanh tra
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L.
Ngày 20/4/2014, Chánh thanh tra Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L đã ra Quyết định số
01/QĐ-TTr về việc giải quyết đơn khiếu nại của bà Tuyết, nội dung: Giữ nguyên quyết định
xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPHC.
Nhận thấy kết quả giải quyết khiếu nại chưa thỏa đáng, ngày 02/5/2014, bà Tuyết nộp đơn
khởi kiện lên Tòa án nhân dân tỉnh G.L, yêu cầu hủy bỏ Quyết định số 23/QĐ-XPHC ngày 10
tháng 3 năm 2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L.


2. Xây dựng kế hoạch hỏi
Mục đích bảng hỏi: Làm rõ, chứng minh Quyết định số 23/QĐ-XPHC ngày 10 tháng 3 năm 2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L là hoàn toàn trái pháp luật.
Người
tiếp

Vấn đề cần

nhận

chứng minh


Câu hỏi

Mục đích hỏi

câu hỏi
Người

Khơng

có Trong Biên bản lấy lời khai ngày Chứng minh hành vi giao cấu của ông

bị

hành vi mại 24/7/2014, ông Thành trả lời lý do Thường và bà Thành không phải hoạt

kiện/Đại dâm diễn ra xin gia hạn là để điều tra, xác minh động mại dâm theo quy định tại Điều 3
diện

trong nhà trọ làm rõ có việc mại dâm hay khơng. Pháp lệnh số 10/2003/PL-UBTVQH11

theo ủy Hồng Lan

Vậy tại thời điểm ban hành Quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về

quyền

định 23/QĐ-XPHC, liệu Thanh tra Phòng, chống mại dâm.

của


Sở đã chứng minh được có sự trao

người bị

đổi tiền hoặc lợi ích vật chất giữa

kiện

ơng Thường và bà Lành để được giao
cấu hay chưa?
Việc ông Thường và bà Lành giao Làm rõ việc Chánh Thanh tra Sở đã áp
cấu nhưng khơng cung cấp được dụng “ngun tắc suy đốn” trong việc
Giấy chứng nhận đăng ký kết hơn có xác định hành vi giao cấu khi khơng có
đồng nghĩa với hành vi mại dâm hay Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của
không?

ông Thường và bà Lành là hành vi mại

Trả lời


dâm.
Quyết

định Ông căn cứ vào đâu để cho rằng Theo Thông tư 33/2010/TT-BCA, chỉ

23/QĐ-XPHC nghề cho thuê lưu trú phải bố trí có cơ sở kinh doanh dịch vụ xoa bóp
thiếu căn cứ phịng nghỉ nam riêng, nữ riêng trừ (massage, tẩm quất) mới phải bố trí
về


mặt

dung

nội trường hợp là vợ chồng? (Theo Biên phòng nam riêng, nữ riêng. Nhà nghỉ
bản lấy lời khai ngày 18/6/2014)

Hoàng Lan kinh doanh dịch vụ lưu trú
nên khơng thuộc trường hợp phải bố trí
phịng nam riêng, nữ riêng.

Trong Công văn số 04/2014/CV-TTr Chứng minh Quyết định số 23/QĐgửi Tòa án tỉnh G.L, Chánh thanh tra XPHC được ban hành khi chưa đủ căn
Sở thừa nhận vì thời hạn ra quyết cứ để khẳng định có hành vi vi phạm.
định xử phạt vi phạm hành chính
khơng cịn nhiều nên thanh tra Sở đã
phân tích cho bà Tuyết hành vi vi
phạm của nhà nghỉ Hoàng Lan. Vậy
có hay khơng việc Chánh thanh tra
Sở ra Quyết định 23/QĐ-XPHC để
kịp “tiến độ” trong khi chưa làm rõ
được vi phạm của cơ sở?
Đã hết thời Ông cho biết thời hạn tối đa để ra Chứng minh đã quá thời hạn xử phạt vi
hạn ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành phạm hành chính căn cứ Điều 66 Luật
Quyết

định chính là bao lâu, kể từ ngày lập biên Xử lý vi phạm hành chính.


23/QĐ-XPHC bản vi phạm hành chính?

Việc áp dụng Ơng có biết, tại thời điểm lập Biên Chứng minh Nghị định 167/2013/NĐNghị

định bản vi phạm hành chính tại nhà trọ CP chưa có hiệu lực tại thời điểm xảy

167/2013/NĐ- Hồng

Lan,

Nghị

định ra vụ việc. Quyết định 23/QĐ-CP căn

CP để xử phạt 167/2013/NĐ-CP chưa có hiệu lực cứ vào đó là trái pháp luật.
hành
hành

chính pháp luật khơng?
vi

vi

phạm nêu trên
là trái pháp
luật
Người

Cơ sở Hồng Tại sao bà Tuyết không ghi thông tin Chứng minh đây là sai sót của bà Tuyết, Đây là sơ suất của bà

khởi


Lan khơng có bà Nguyễn Thị Lành vào sổ theo dõi không liên quan đến việc tạo điều kiện Tuyết. Lúc khách đến

kiện/Đại hành vi tạo trước khi bà Lành vào phòng nghỉ?

cho người khác lợi dụng cơ sở kinh bà Tuyết đang bận việc

diện

doanh có điều kiện về an ninh, trật tự để riêng nên chỉ kịp vào sổ

điều kiện cho

theo ủy người khác lợi

tổ chức hoạt động mại dâm.

tên ông Thường trước.

quyền

dụng cơ sở

bà Tuyết bảo khách cứ

của

kinh doanh có

vào phịng trước, lát bà


người

điều kiện về

Tuyết lên để lấy thông

khởi

an ninh, trật

tin sau. Tuy nhiên, bà

kiện

tự để tổ chức

Tuyết chưa kịp lưu

hoạt động mại

thông tin của khách vào
sổ theo dõi thì đồn


dâm

kiểm tra đã đến.
Tại sao cả ba lần lên làm việc với Kể cả trường hợp ông Thường bà Lành Trường hợp ông Văn bà
Thanh tra Sở, bà Tuyết đều không không phải quan hệ vợ chồng như đã Thùy là vợ chồng chưa
cung cấp được Giấy đăng ký kết hơn khai báo, thậm chí đã bị phía người bị cưới, đã có họ hàng

của ơng Thường – bà Lành và ơng kiện chứng minh có hành vi mại dâm người thân xác nhận.
Văn – bà Thùy?

thì bà Tuyết hồn tồn vơ can trong sự Cịn ơng Thường bà
việc.

Lành

thì



Tuyết

khơng có cách nào liên
hệ để yêu cầu cung cấp
giấy chứng nhận kết
hôn của hai ông bà do
chỉ là khách vãng lai
nên thông tin không đầy
đủ.
Thông thường khách đến nhà trọ sẽ Cơ sở Hoàng Lan đã thực hiện đúng Khách đến th phịng
phải xuất trình giấy tờ gì? Có cần theo quy định của pháp luật, cụ thể là chỉ

cần

xuất

trình


xuất trình Giấy chứng nhận đăng ký Điều 6 Thông tư 33/2010/TT-BCA

CMND hoặc giấy tờ

kết hôn nếu nam nữ thuê chung một

khác có ảnh do cơ quan

phịng hay khơng?

quản lý Nhà nước Việt
Nam cấp, khơng cần
xuất trình Giấy chứng
nhận đăng ký kết hôn.


bà Tuyết khơng có quản
lý chặt như vậy được.
Tại thời điểm ông Thường bà Lành Chứng minh bà Tuyết không vi phạm



Tuyết

nghĩ

hai

đến, bà có phát hiện điều gì nghi vấn Điều 7 khoản 4 Nghị định 72/


người họ là cặp đơi u

khơng?

2009/NĐ-CP: “Có trách nhiệm phát

nhau thơng thường. Một

hiện và kịp thời báo cho cơ quan Cơng

phần cũng vì đang bận

an về các vụ việc hoặc nghi vấn có liên

việc nên không chú ý

quan đến an ninh, trật tự trong quá trình
kinh doanh.”
Tại sao khi được Thanh tra Sở mời Làm sáng tỏ bà Tuyết đã ngộ nhận về

Trong các bản tường

lên làm việc, bà Tuyết vẫn thừa nhận sai phạm của cơ sở mình.

trình

hành vi vi phạm trong các bản tường

Tuyết thừa nhận cơ sở


trình?

của tơi đã cho hai

của

mình,



trường hợp nam nữ
khơng có giấy kết hơn ở
chung một phịng và
khơng

vào

sổ

một

trường hợp của phịng
11. Sự thật là vậy.
Nhưng sau khi nghe
Luật sư giải thích, bà
Tuyết mới hiểu là pháp


luật khơng cấm nam nữ
khơng có đăng ký kết

hơn



chung

một

phịng. Do đó bà Tuyết
đã làm đơn khiếu nại
lên Thanh tra Sở đề
nghị xem xét lại Quyết
định.
Người

Thời điểm bà và ông Thường đến Chứng minh lời khai của bà Tuyết là

Lúc đó có mỗi bà Tuyết

làm

nhà nghỉ Hồng Lan, bà Tuyết đang đúng.

đang nghe điện thoại.

chứng

làm gì? Cịn có ai khác ở khu lễ tân

Thực ra tôi vào nhà


(Bà

hay không?

nghỉ lần đầu nên khơng

Nguyễn

biết cần phải xuất trình

Thị

CMND. Bà Tuyết bảo

Lành)

tơi lên phịng trước đi,
lát bà ấy sẽ lên lấy
thơng tin sau.


3. Soạn theo luận cứ bảo vệ cho khách hàng
ĐOÀN LUẬT SƯ TỈNH G.L

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ …

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc


----------***----------

----------***----------

BẢN LUẬN CỨ
Bảo vệ cho Người khởi kiện trong vụ án khiếu kiện Quyết định hành chính số 23/QĐXPHC của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L

Kính thưa Hội Đồng Xét Xử (HĐXX),
Tơi là Luật sư … – thuộc Văn phòng Luật sư KANE - Đồn Luật sư tỉnh G.L.
Theo phân cơng của Văn phịng Luật sư, tơi tham gia phiên tịa với tư cách là người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng của tôi là bà Nguyễn Thị Tuyết, có địa chỉ tại: Tổ
9, phường Đơng Lân, Thành phố P, tỉnh G.L, là Người khởi kiện trong vụ án hành chính này.
Tơi xin được trình bày quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị Tuyết.
Bà Nguyễn Thị Tuyết là chủ hộ kinh doanh dịch vụ nhà trọ bình dân có tên Hồng Lan tại tổ
09, phường Đông Lân, thành phố P, tỉnh G.L, được Uỷ ban nhân dân thành phố P cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh số 39A 8005684 ngày 19/11/2012.
Vào khoảng 21giờ 10 phút ngày 23/12/2013, Đoàn kiểm tra của Thanh tra Sở Văn hoá, Thể
thao và Du lịch tỉnh tỉnh G.L đến kiểm tra nhà trọ Hoàng Lan. Theo đó, tại thời điểm kiểm tra,
phịng 11 có ơng Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn Thị Lành đang quan hệ tình dục, khơng
xuất trình được Giấy chứng nhận đăng ký kết hơn. Phịng số 09 có ơng Phan Văn và bà
Nguyễn Thị Thùy đang chung phòng xem tivi. Trong sổ theo dõi của nhà trọ Hồng Lan
khơng có tên bà Nguyễn Thị Lành. Sau khi kiểm tra, Đoàn kiểm tra đã lập Biên bản vi phạm
hành chính số 11/BB-VPHC. Biên bản đưa ra kết luận: “Chủ cơ sở nhà trọ Hoàng Lan thiếu
tinh thần trách nhiệm để xảy ra vi phạm như trên”.
Ngày 16/01/2014, Thanh tra Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh G.L lập Tờ trình số 02/TT-


TTR xin gia hạn thời hạn ra quyết định xử phạt hành chính đối với các cơ sở có hành vi vi
phạm hành chính phức tạp đến hết ngày 11/03/2014 và được Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao

và Du lịch tỉnh G.L phê duyệt.
Sau 76 ngày, kể từ ngày lập Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC, Chánh Thanh tra
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L đã ban hành Quyết định số 23/QĐ-XPHC ngày
10/3/2014 phạt bà Nguyễn Thị Tuyết số tiền 15.000.000đ với lý do: “Đã có hành vi vi phạm
hành chính: Thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh
doanh có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm (Áp dụng khoản 1 Điều
25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ)”.
Khơng đồng ý với Quyết định xử phạt vi phạm hành chính nêu trên, cho rằng Quyết định
khơng có căn cứ và q thời hạn xử lý vi phạm hành chính, Bà Tuyết đã làm đơn khiếu nại
Quyết định số 23/QĐ-XPHC. Tuy nhiên, bà Tuyết nhận thấy kết quả giải quyết đơn khiếu nại
là giữ nguyên Quyết định trên là chưa thỏa đáng. Do đó, ngày 02/5/2014, bà Tuyết nộp đơn
khởi kiện lên Tòa án nhân dân tỉnh G.L, yêu cầu hủy bỏ Quyết định số 23/QĐ-XPHC ngày 10
tháng 3 năm 2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L xử phạt vi
phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch.
Thưa HĐXX,
Thông qua phần xét hỏi và sau khi xem xét một cách toàn diện các chứng cứ mà các Bên đưa
ra, tôi nhận định Quyết định số 23/QĐ-XPHC là trái pháp luật bởi những lý do sau đây:
1.

Đã hết thời hạn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPHC

Căn cứ Điều 66 khoản 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, thời hạn ra quyết định xử
phạt vi phạm hành chính tối đa là 60 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính, áp
dụng đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp và được thủ trưởng trực tiếp phê duyệt yêu
cầu gia hạn bằng văn bản.
Theo Điều 8 khoản 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính, cách tính thời hạn, thời hiệu trong xử lý
vi phạm hành chính được áp dụng theo quy định của Bộ luật dân sự, trừ trường hợp trong Luật
này có quy định cụ thể thời gian theo ngày làm việc. Tức là kể từ ngày lập biên bản vi phạm
hành chính là ngày 23/12/2013, trong trường hợp vụ việc có nhiều tình phức tạp và được thủ
trưởng trực tiếp là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L phê duyệt yêu cầu gia

hạn bằng văn bản, thì muộn nhất là ngày 21/2/2014, Chánh Thanh tra Sở phải ra quyết định xử


phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, thực tế là phải đến ngày 10/3/2014, Chánh Thanh tra Sở
mới ban hành Quyết định số 23/QĐ-XPHC. Điều 65 khoản 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính
năm 2012 quy định khơng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp đã hết
thời hạn ra quyết định xử phạt theo Điều 66 khoản 1 Luật này. Thanh tra Sở không thể lấy lý
do đã được Giám đốc Sở cho phép gia hạn ban hành Quyết định xử phạt đến ngày 11/3/2014
vì trong mọi trường hợp, quy định pháp luật phải là cao nhất và là cơ sở để các chủ thể áp
dụng pháp luật căn cứ vào đó để thực hiện chức năng của mình. Như vậy, Quyết định 23/QĐXPHC được ban hành khi đã hết thời hạn ra quyết định xử phạt do lỗi của người có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính. Nói cách khác, Quyết định 23/QĐ-XPHC khơng có hiệu
lực pháp luật.
2.

Việc cáo buộc bà Nguyễn Thị Tuyết có hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm tạo

điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ
chức hoạt động mại dâm là khơng có cơ sở
Thứ nhất, khơng có hoạt động mại dâm tại cơ sở nhà trọ Hoàng Lan. Theo Điều 3 Pháp lệnh
số 10/2003/PL-UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về phòng chống mại dâm: mại
dâm là hành vi mua dâm, bán dâm, trong đó một người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả
cho người kia để được giao cấu và người kia thực hiện hành vi giao cấu để được trả tiền hoặc
lợi ích vật chất khác. Theo định nghĩa về mại dâm, việc có hành vi giao cấu khơng đồng nghĩa
với hoạt động mại dâm, điều quan trọng là phải xác định xem có tồn tại tiền hoặc lợi ích vật
chất được trao đổi để thực hiện hành vi giao cấu hay không. Như vậy, với những chứng cứ đã
thu thập được, không thể khẳng định ông Thường và bà Lành đã thực hiện hành vi mua bán
dâm.
Thứ hai, việc Thanh tra Sở viện dẫn lý do bà Tuyết không cung cấp được giấy chứng nhận
đăng ký kết hôn của ông Thường - bà Lành và ông Văn - bà Thùy để nhận định hành vi của
các ông bà trên là hành vi mua bán dâm là khơng có cơ sở. Cần phải biết rằng pháp luật không

quy định nam nữ phải có đăng ký kết hơn mới được quan hệ tình dục, cũng khơng có quy định
nào về việc cấm nam nữ ở chung phịng hay phải có đăng ký kết hơn mới được ở chung
phịng. Việc Thanh tra Sở yêu cầu bà Tuyết cung cấp đăng ký kết hôn của hai cặp đôi trên cho
thấy sự hiểu sai về cơ bản, bởi theo quy định của pháp luật và cụ thể được thể hiện trong Hiến
pháp, công dân được làm những gì pháp luật khơng cấm. Khi xem xét, đánh giá hành vi của cá
nhân có phải là vi phạm hành chính hay khơng, bao giờ cũng phải có những căn cứ pháp lý rõ


ràng. Khơng thể đánh đồng trường hợp có hành vi giao cấu trong khi không phải quan hệ vợ
chồng/ không cung cấp được đăng ký kết hôn là hoạt động mại dâm được. Đây là hành vi “suy
đoán” thiếu căn cứ trong việc xác định vi phạm hành chính của chủ thể áp dụng pháp luật.
Thứ ba, kể cả trong trường hợp ơng Thường bà Lành có thực sự xảy ra hành vi mua bán dâm,
không thể quy chụp bà Tuyết có hành vi tạo điều kiện cho hai ơng bà trên tổ chức thực hiện
hoạt động mại dâm. Sai sót duy nhất của bà Tuyết là khơng kịp vào sổ theo dõi của khách lưu
trú là bà Lành. Nếu nhận định như vậy là thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra hoạt động mua
dâm, bán dâm ở cơ sở do mình quản lý thì cần đáp ứng hai yếu tố sau:
Một là, đã xảy ra hoạt động mua dâm, bán dâm giữa ông Thường và và Lành. Tuy nhiên nhận
định này đã bị bác bỏ ở phía trên.
Hai là, hành vi không vào sổ theo dõi khách lưu trú của bà Tuyết có mối quan hệ biện chứng
hay nói cách khác là nguyên nhân trực tiếp gây ra việc tổ chức hoạt động mại dâm giữa ông
Thường và bà Lành. Để xác định kết quả, ta chỉ cần xét xem trong trường hợp bà Tuyết có vào
sổ theo dõi bà Lành, thì ơng Thường và bà Lành có thực hiện hoạt động mại dâm nữa hay
không. Tôi cho rằng nhiều người trong khán phịng này có câu trả lời là có. Bởi lẽ, việc u
cầu xuất trình chứng minh nhân dân hay vào sổ theo dõi chẳng thể nào giúp chủ cơ sở xác
định được liệu khách hàng của họ có phải một người bán dâm hay khơng, và cũng chẳng ảnh
hưởng đến việc mua bán dâm của họ. Phải chăng đã đến lúc chúng ta nên nhìn nhận lại cơ chế
quản lý lỏng lẻo của Nhà nước hiện nay đối với vấn nạn mại dâm. Việc xử phạt chủ cơ sở kinh
doanh nhà trọ khi cơ sở để xảy ra hoạt động mại dâm là một cách Nhà nước nâng cao trách
nhiệm của các cơ sở này trong việc hạn chế tình trạng mại dâm, đồng thời cũng đặt gánh nặng
vào họ. Bởi lẽ, việc xác định có hay khơng xảy ra hành vi mua bán dâm là rất khó, nhất là khi

các cặp đơi ở chung phịng khơng bắt buộc phải là vợ chồng, nên khơng thể u cầu họ xuất
trình đăng ký kết hơn mới cho ở chung phòng được.
3.

Việc áp dụng Nghị định 167/2013/NĐ-CP chưa có hiệu lực để làm căn cứ xử phạt

là trái pháp luật
Ngày 10/3/2014, căn cứ Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC được lập ngày
23/12/2013, ơng Trần Ngọc Minh (Phó Giám đốc kiêm Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch tỉnh G.L) ban hành Quyết định số 23/QĐ-XPHC xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch, nội dung: “áp dụng khoản 1 Điều 25 Nghị định


167/2013/NĐ-CP xử phạt bà Nguyễn Thị Tuyết 15.000.000đ về hành vi vi phạm hành chính:
thiếu tinh thần trách nhiệm, tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều
kiện về an ninh trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm”. Như vậy, Chánh thanh tra sở Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L đã căn cứ vào nội dung Nghị định số 167/2013/NĐ-CP để
ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính nêu trên.
Có một vướng mắc là Nghị định 167/2013/NĐ-CP mà Chánh Thanh tra Sở lấy làm căn cứ
pháp lý để xử phạt bà Tuyết có hiệu lực kể từ ngày 28/12/2013, trong khi biên bản vi phạm
hành chính được lập trước đó vào ngày 23/12/2013.
Theo Điều 79 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, không được quy định
hiệu lực trở về trước đối với các trường hợp quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn hoặc quy
định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực hiện hành vi đó pháp luật
không quy định trách nhiệm pháp lý.
Căn cứ Điều 73 khoản 1 Nghị định 167/2013/NĐ-CP: “Đối với hành vi vi phạm hành chính
trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an tồn xã hội; phịng, chống tệ nạn xã hội; phịng cháy và chữa
cháy; phịng, chống bạo lực gia đình xảy ra trước ngày Nghị định này có hiệu lực mà sau đó
mới bị phát hiện hoặc đang xem xét, giải quyết, thì áp dụng các quy định có lợi cho cá nhân,
tổ chức vi phạm”.

Xét rằng, Nghị định 167/2013 được ban hành, thay thế Nghị định số 73/2010/NĐ-CP ngày 12
tháng 7 năm 2010 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an
tồn xã hội.
Khi xét hai điều luật tương đương ở cả hai Nghị định trên, ta thấy:
 Căn cứ Nghị định 167/2013/NĐ-CP: mức xử phạt đối với hành vi thiếu tinh thần trách
nhiệm để xảy ra hoạt động mua dâm, bán dâm ở cơ sở do mình quản lý sẽ bị phạt tiền
từ 15.000.000đ – 20.000.000đ (Điều 25 khoản 1)
 Căn cứ Nghị định 73/2010/NĐ-CP: mức xử phạt đối với hành vi tạo điều kiện cho
người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt
động mại dâm, ma túy, cờ bạc hoặc các hoạt động khác trái pháp luật sẽ bị phạt tiền từ
5.000.000đ – 15.000.000đ (Điều 14 khoản 3 điểm đ)
Như vậy, Chánh thanh tra sở Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L đã không xem xét áp
dụng nguyên tắc có lợi khi dùng căn cứ pháp lý có khung xử phạt cao hơn cho cá nhân, tổ


chức.
Căn cứ Điều 83 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008: “Văn bản quy phạm
pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực.
Trong trường hợp văn bản có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó.” Có thể kết
luận rằng, tại thời điểm xảy ra vụ việc, Nghị định 73/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội vẫn còn hiệu lực pháp luật và việc
áp dụng Nghị định 167/2013/NĐ-CP để xử phạt hành chính hành vi vi phạm nêu trên là trái
pháp luật.
Kết luận:
Từ những lập luận có căn cứ nêu trên, tơi khẳng định việc Chánh thanh tra sở Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch tỉnh G.L ban hành Quyết định số 23/QĐ-XPHC là không có cơ sở, trái
quy định pháp luật vì những lý do sau:
Một là, đã hết thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính căn cứ Điều 65 khoản 1 và
Điều 66 khoản 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Hai là, việc cáo buộc bà Nguyễn Thị Tuyết có hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều

kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt
động mại dâm là khơng có cơ sở theo định nghĩa về mại dâm quy định tại Điều 3 Pháp lệnh số
10/2003/PL-UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về phòng chống mại dâm.
Ba là, việc áp dụng Nghị định 167/2013/NĐ-CP chưa có hiệu lực để làm căn cứ xử phạt là trái
pháp luật theo quy định tại Điều 79 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và
Điều 73 khoản 1 Nghị định 167/2013/NĐ-CP
Kiến nghị:
Căn cứ Điều 193 khoản 2 điểm b Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Điều 65 khoản 1 và
Điều 66 khoản 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Điều 79 và Điều 83 Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật hành chính, đề nghị HĐXX: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của bà Nguyễn Thị Tuyết về việc hủy Quyết định xử phạt số 23/QĐ-XPHC và Quyết định số
01/QĐ-TTr về việc giải quyết đơn khiếu nại của bà Tuyết.
.
NHẬN XÉT PHẦN DIỄN ÁN


1.

Luật sư cần có quan điểm thế nào đối với việc bà Lành xuất trình chứng cứ là

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn tại phần hỏi?
Nếu là luật sư bên người khởi kiện: Đây là một tình tiết có lợi cho phía người khởi kiện bởi
người bị kiện đang căn cứ vào đó để ra quyết định xử phạt liên quan đến mại dâm. Tuy nhiên,
cần phải làm rõ rằng, việc có hay khơng có giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của ông Thường
và bà Lành không làm thay đổi đến tình tiết vụ án vì theo thực tế, Thanh tra sở khơng tìm
được bằng chứng chứng minh ông Thường bà Lành có hành vi trao đổi tiền hoặc lợi ích vật
chất để quan hệ tình dục (mua bán dâm). Do đó, xét việc pháp luật khơng quy định nam nữ
phải có đăng ký kết hơn mới được quan hệ tình dục, cũng khơng có quy định nào về việc cấm
nam nữ ở chung phịng hay phải có đăng ký kết hơn mới được ở chung phịng. Việc Thanh tra
Sở yêu cầu bà Tuyết cung cấp đăng ký kết hôn của hai cặp đôi trên cho thấy sự hiểu sai về cơ

bản, bởi theo quy định của pháp luật và cụ thể được thể hiện trong Hiến pháp, cơng dân được
làm những gì pháp luật khơng cấm. Khi xem xét, đánh giá hành vi của cá nhân có phải là vi
phạm hành chính hay khơng, bao giờ cũng phải có những căn cứ pháp lý rõ ràng. Khơng thể
đánh đồng trường hợp có hành vi giao cấu trong khi không phải quan hệ vợ chồng/ không
cung cấp được đăng ký kết hôn là hoạt động mại dâm được. Đây là hành vi “suy đoán” thiếu
căn cứ trong việc xác định vi phạm hành chính của chủ thể áp dụng pháp luật. Trường hợp
luật sư phía người bị kiện yêu cầu xác minh lại, luật sư người khởi kiện có thể lập luận như
trên để yêu cầu HĐXX bác yêu cầu bên phía luật sư người bị kiện.
Nếu là luật sư bên người bị kiện: Đây là một tình tiết bất ngờ làm thay đổi về cơ bản căn cứ ra
quyết định xử phạt hành chính. Bởi lẽ, theo biên bản vi phạm hành chính, ơng Thường và bà
Lành có hành vi quan hệ tình dục và bà Lành không được ghi vào sổ theo dõi. Thanh tra Sở đã
căn cứ vào việc ông Thường bà Lành không cung cấp được đăng ký kết hôn cũng như việc bà
Tuyết không cung cấp được đăng ký kết hôn của ông Thường bà Lành để ra quyết định xử
phạt. Do đó, nếu là luật sư phía người bị kiện, có căn cứ để nghi ngờ đăng ký kết hôn là giả vì
trước đó ơng Thường và bà Lành khơng cung cấp được. Việc yêu cầu xác minh, giám định là
có cơ sở.
2. Nhận xét về phương pháp và mục đích hỏi tại phiên tòa của hai bên luật sư để xác
định hành vi vi phạm hành chính trong vụ án
Để xác định hành vi vi phạm hành chính trong vụ án, luật sư hai bên đã có một số câu hỏi


đúng trọng tâm vấn đề, đặc biệt là luật sư phía người khởi kiện. Luật sư người khởi kiện đã
bám sát vào vấn đề trọng tâm là có hay khơng có hành vi vi phạm của bà Tuyết. Luật sư đi từ
định nghĩa mua bán dâm để khẳng định không có hành vi mua bán dâm xảy ra, từ đó dồn
người bị kiện vào thế yếu. Thông qua phần hỏi, Luật sư cũng đã làm sáng tỏ được Chánh
thanh tra đã khơng xem xét áp dụng ngun tắc có lợi khi dùng căn cứ pháp lý có khung xử
phạt cao hơn cho cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, luật sư cần làm rõ hơn vấn đề không thể quy
chụp bà Tuyết có hành vi tạo điều kiện cho hai ơng bà trên tổ chức thực hiện hoạt động mại
dâm chỉ vì bà Tuyết khơng vào sổ theo dõi bà Lành, bằng cách đặt các câu hỏi như: pháp luật
có quy định phải kiểm tra đăng ký kết hôn của nam nữ muốn ở chung phịng hay khơng? Tại

sao bà Tuyết khơng ghi sổ bà Lành? Bà Tuyết có thấy điều gì bất thường ở bà Lành khơng?
Bà Tuyết có quen biết ông Thường bà Lành hay không?
Về phần luật sư người bị kiện, do rơi vào trường hợp yếu thế nên việc đặt câu hỏi không thể
hiện được nhiều. Tuy nhiên, luật sư người bị kiện đã làm hết khả năng của mình, đặt ra những
câu hỏi khá liên quan để làm sáng tỏ có hay khơng hành vi vi phạm của bà Tuyết và quan hệ
của ông Thường bà Lành. Luật sư đã xoáy vào những câu hỏi liên quan đến việc bà Tuyết
thừa nhận vi phạm trong những lần làm việc với Thanh tra sở.



×