Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Xây dựng các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành điện tử việt nam trong giai đoạn gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 128 trang )




Bộ công thơng
viện nghiên cứu điện tử, tự động, tin học hóa








Báo cáo tổng kết đề tài cấp bộ năm 2007

xây dựng các giải pháp, chính sách tổng thể
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành
điện tử việt nam trong giai đoạn gia nhập WTO


Chủ nhiệm đề tài: trần thanh thủy













6939
04/8/2008

hà nội - 2007


B CễNG THNG
Viện Nghiên cứu Điện tử, Tin học, Tự động hoá
&






báo cáo kết quả nghiên cứu
đề tài cấp bộ năm 2007

XY DNG CC GII PHP, CHNH SCH TNG TH NHM
NNG CAO NNG LC CNH TRANH CHO NGNH IN T
VIT NAM TRONG GIAI ON GIA NHP WTO












C quan ch trỡ: VIN NC IN T, TIN HC, T NG HO
Ch nhim ti: TRN THANH THU









Hà Nội 2007
DANH SÁCH CÁN BỘ THAM GIA THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

STT

Họ và tên
Học hàm, học vị, chuyên
môn
Cơ quan công tác
1.
Trần Thanh Thuỷ Ths. Quản trị kinh doanh VIELINA
2.
Nguyễn Duy Hưng Ths. Công nghệ vi điện tử VIELINA
3.
Lê văn Ngự TS. Cơ điện tử VIELINA

4.
Nguyễn Ngọc Lâm PGS.TS. Điện tử hạt nhân VIELINA Tp. HCM
5.
Nguyễn Nam Hải KS. Tự động hoá VIELINA
6.
Lê Thanh Bình KS. CNTT VIELINA
7.
Trần Nguyên Ngọc TS. Kỹ thuật Điện tử Cty Hoàng Hoa
8.
Nguyễn Đức Lương KS. Kỹ thuật Điện tử VIELINA
9.
Nguyễn Tích Tùng KS. Kỹ thuật Điện tử Hội Vô tuyến - Điện tử VN
10.

Trần Văn Biển TS. Kỹ thuật Điện tử Nguyên CVC Vụ KHCN -
BCN







MỤC LỤC


Trang


MỞ ĐẦU


5

CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÀNH ĐIỆN TỬ VIỆT NAM


1.1 Một số khái niệm về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh trong nền
kinh tế thị trường
9

1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh, phân loại cạnh tranh 9

1.1.2 Khái niệm về năng lực cạnh tranh 10

1.1.3 Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh
13

1.2 Tổng quan về ngành điện tử Việt Nam 18

1.2.1 Một số đặc điểm chủ yếu của ngành điện tử 18

1.2.2 Hai mươi năm phát triển của ngành điện tử và những đặc điểm
chủ yếu
19

1.2.3 Nhận diện lại một số chính sách thương mại và đầu tư của Nhà
nước đối với ngành điện tử
23


1.3 Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành điện tử Việt Nam 28

1.3.1 Hệ thống các doanh nghiệp điện tử Việt Nam và thực trạng một
số chỉ tiêu về năng lực cạnh tranh
28

1.3.2 Một số nhận xét về thực trạng năng lực cạnh tranh của hệ thống
các doanh nghiệp điện tử Việt Nam

38

CHƯƠNG II: KINH NGHIỆM VÀ XU HƯ
ỚNG PHÁT TRIỂN
NGÀNH ĐIỆN TỬ CỦA MỘT SỐ NƯỚC
TRONG KHU VỰC VÀ TRÊN THẾ GIỚI


2.1 Kinh nghiệm phát triển ngành điện tử của một số nước trong
khu vực và trên thế giới
45

2.1.1 Kinh nghiệm của các nước khu vực Đông Á 45

2.1.2 Kinh nghiệm của các nước khu vực Đông Nam Á 52

2.1.3 Kinh nghiệm của Mỹ và Cộng đồng Châu Âu (EU) 61

2.2 Xu hướng phát triển ngành điện tử của một số nước trong khu
vực và trên thế giới

62

2.2.1 Khái quát chung về làn sóng công nghiệp Đông Á 62

2.2.2 Một số xu hướng phát triển cụ thể của ngành điện tử ở các
nước trong khu vực và trên thế giới
65

2.3 Một số nhận xét chung và bài học đối với ngành điện tử Việt
Nam
74

2.3.1 Về tình hình và kinh nghiệm phát triển 74

2.3.2 Về xu hướng phát triển 76


CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP,
CHÍNH SÁCH TỔNG THỂ NHẰM NÂNG
CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CHO
NGÀNH ĐIỆN TỬ TRONG GIAI ĐOẠN
VIỆT NAM GIA NHẬP WTO


3.1 Những tác động của WTO đối với các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh điện tử Việt Nam
77

3.1.1 Một số nét đặc trưng về WTO 77


3.1.2 Cam kết của Việt Nam đối với WTO 81

3.1.3 Tác động của WTO đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh điện tử
84

3.2 Phân tích những điểm mạnh, yếu, cơ hội và thách thức. Ma trận
SWOT và tổ hợp các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
cho ngành điện tử Việt Nam
90

3.3 Phương hướng nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành điện tử
trong giai đoạn Việt Nam gia nhập WTO
96

3.3.1 Định hướng phát triển ngành điện tử giai đoạn đến năm 2010,
tầm nhìn đến năm 2020
96

3.3.2 Phương hướng nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh điện tử
99

3.4 Một số giải pháp, chính sách tổng thể nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh cho ngành điện tử Việt Nam
101

3.4.1 Giải pháp của Nhà nước 101

3.4.2 Giải pháp của các doanh nghiệp SXKD điện tử 106


3.4.3 Giải pháp của các tổ chức nghiên cứu - triển khai KH&CN
thuộc lĩnh vực điện tử
119

3.4.4 Giải pháp của các trường Đại học, Cao đẳng và Dạy nghề có
đào tạo các chuyên ngành thuộc lĩnh vực điện tử
120

3.4.5 Giải pháp của Hiệp hội các doanh nghiệp điện tử

121

KẾT LUẬN

122

TÀI LIỆU THAM KHẢO

124

PHỤ LỤC 128




5

MỞ ĐẦU


Trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập sâu vào nền
kinh tế khu vực và thế giới, hầu hết các quốc gia đều thừa nhận trong mọi hoạt
động đều phải có cạnh tranh và coi cạnh tranh không những là môi trường, động
lực của sự phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và tăng
năng suất lao động, tăng hiệu quả của các doanh nghiệp nói riêng, mà còn là yếu tố
quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội khi Nhà nước bảo đảm sự bình
đẳng trước pháp luật của chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế.

Ở Việt Nam, việc chuyển đổi sang kinh tế thị trường bắt đầu từ năm 1986,
nhưng mãi đến những năm gần đây, khi chính sách kinh tế nhiều thành phần đi vào
cuộc sống, tư tưởng cạnh tranh giữa các đơn vị, giữa các thành phần kinh tế được
thừa nhận thì một số doanh nghiệp và mặt hàng của Việt Nam mới có chỗ đứng
trên thị truờng trong nước và vươn ra cạnh tranh được trên thị trường nước ngoài.
Tuy nhiên, sức cạnh tranh của phần lớn doanh nghiệp và hàng hoá của Việt Nam
còn yếu kém cả về chất lượng, mẫu mã và giá cả, tốc độ hội nhập của Việt Nam
còn ở mức trung bình, xếp hạng năng lực cạnh tranh qua các năm còn thấp so với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy, tại Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X, trong định hướng phát triển ngành, lĩnh vực và vùng Đảng ta đã
nhấn mạnh: “Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với khu vực
và thế giới. Thực hiện có hiệu quả các cam kết với các nước, các tổ chức quốc tế
về thương mại, đầu tư, dịch vụ và các lĩnh vực khác. Chuẩn bị tốt các điều kiện để
thực hiện các cam kết sau khi nước ta gia nhập WTO…. Phát huy vai trò chủ thể
và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong hội nhập
kinh tế quốc tế. Xúc tiến mạnh về thương mại và đầu tư, phát triển thị trường mới,
sản phẩm mới và thương hiệu mới;… từng doanh nghiệp phải khẩn trương đổi mới
từ tư duy đến phong cách quản lý, đổi mới thiết bị, công nghệ, nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn đầu tư, giảm chi phí để tăng sức cạnh tranh”
1
.


Nhằm thực hiện thành công Nghị quyết của Đảng, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ
Công Thương) đã chỉ đạo và giao nhiệm vụ cho các đơn vị trong Bộ thực hiện các
đề tài thuộc các chuyên ngành khác nhau, trong đó có đề tài “Xây dựng các giải
pháp, chính sách tổng thể nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành điện tử
Việt Nam trong giai đoạn gia nhập WTO”.

1. Tính cấp thiết và mục tiêu nghiên cứu của đề tài:

Ngành điện tử được đánh giá là có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế -
xã hội ở Việt Nam và tại Quyết định số 55/2007/QĐ - TTg ngày 23 tháng 4 năm
2007 của Thủ tướng Chính phủ ngành điện tử tiếp tục được khẳng định là một

1
Văn kiện Đại hội Đaị biểu toàn quốc lần thứ X. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2006
6

trong ba ngành công nghiệp mũi nhọn giai đoạn từ 2007 đến năm 2020, nhưng
trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, ngành điện tử vẫn không có quy hoạch
và chiến lược và mãi cho đến ngày 28/5/2007, lần đầu tiên Thủ tướng Chính phủ
mới có Quyết định số số 75/2007/QĐ - TTg phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển
công nghiệp điện tử Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Như vậy
là trong một thời gian rất dài ngành điện tử không có chiến lược phát triển tổng thể.
Các doanh nghiệp ngành điện tử phải tự tìm đường đi cho mình và chịu thiệt thòi
khi chính sách không nhất quán, mặc dù sự thay đổi cơ chế quản lý kinh tế ở Việt
Nam 20 năm qua đã làm cho môi trường hoạt động của các doanh nghiệp thay đổi
và có nhiều thuận lợi. Tại Hội nghị đánh giá thực trạng Công nghiệp Điện tử Việt
Nam do Bộ Bưu chính - Viễn thông (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) và
Hiệp hội các doanh nghiệp Điện tử Việt Nam phối hợp tổ chức ngày 08/6/2006 ở
Hà Nội đã nêu lên một hiện thực: ”Mặc dù luôn được tuyên bố chú trọng quan tâm
phát triển, nhưng chưa một lần ngành điện tử Việt Nam có được một chiến lược

phát triển toàn diện. Điều này khiến các doanh nghiệp điện tử Việt Nam không có
một hành lang định hướng phát triển cho mình, không có cơ sở để các cơ quan
chức năng phê duyệt triển khai các dự án, thậm chí phải chịu những bất hợp lý có
nguyên nhân từ sự không đồng nhất về chính sách như quy định về tỷ lệ nội địa
hoá để hưởng chế độ thuế ưu đãi, khung thuế cho linh kiện và sản phẩm nguyên
chiếc của máy tính, v.v ”
2
. Trong điều kiện nhu cầu hàng điện tử thế giới bị giảm
sút, việc ra đời Quyết định số 75/2007/QĐ - TTg ngày 28 tháng 5 năm 2007 của
Thủ tướng Chính phủ là một yếu tố rất quan trọng động viên, khuyến khích các
doanh nghiệp điện tử Việt Nam tìm kiếm những chính sách, giải pháp thích hợp
cho sự phát triển của doanh nghiệp mình nói riêng và toàn ngành điện tử Việt Nam
nói chung theo hướng tìm kiếm các thị trường xuất khẩu và dành lại thị phần thị
trường hàng điện tử Việt Nam đang trong xu thế được chuyển giao cho các doanh
nghiệp nước ngoài một vài năm lại đây.

Gia nhập WTO là mở ra cả một đại dương của những cơ hội và thách thức đang
chờ ở phía trước. Những cơ hội và thách thức này gắn kết với nhau và chuyển hóa
cho nhau. Nếu chúng ta vượt qua được thách thức thì thách thức trở thành cơ hội.
Nếu chúng ta không tận dụng được cơ hội thì cơ hội lại có thể trở thành thách thức.
Đối với ngành điện tử nói chung, các doanh nghiệp điện tử nói riêng, thì thách thức
hàng đầu chính là tính cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên cả thị trường trong nước
và xuất khẩu do các hàng rào bảo hộ, cả thuế quan và phi thuế quan, cũng như các
chính sách ưu đãi đang dần bị loại bỏ, vì thế đòi hỏi đầu tiên với các doanh nghiệp
điện tử trong hội nhập WTO là phải không ngừng lớn lên, cụ thể là phải không
ngừng đầu tư và tăng vốn, công nghệ mới, chất lượng lao động để nâng cao hiệu
quả sản xuất, kinh doanh và tăng năng lực cạnh tranh.

Cạnh tranh khi gia nhập WTO là một thách thức, sẵn sàng chấp nhận cạnh tranh
và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp là vấn đề sống còn đối


2
Nguồn: Tuổi trẻ Online, thứ 6, ngày 16/06/2006
7

với mọi doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường
mở cửa và hội nhập hiện nay. Nếu chúng ta biết tận dụng áp lực của cạnh tranh để
đổi mới, cải tổ và vươn lên thì đó lại là một cơ hội. Thực tế cho thấy hơn nửa thế
kỷ thiếu vắng áp lực của cạnh tranh, nền kinh tế nước ta đã trở nên quá trì trệ và
kém hiệu quả. Cũng tương tự như vậy, thị trường rộng mở là một cơ hội, nhưng
nếu chúng ta lại không có thứ hàng hóa gì có thể bán được cho thiên hạ thì đó chỉ
là sự rộng mở để cho thiên hạ khai thác thị trường trong nước mà thôi.

Xây dựng các giải pháp, chính sách tổng thể nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh cho ngành điện tử Việt Nam trong giai đoạn hội nhập WTO là việc làm rất
cấp thiết và cũng chính là mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Thực hiện tốt mục tiêu
này phần nào sẽ giúp được các doanh nghiệp điện tử không bị thua cuộc, không bị
gạt bỏ ra khỏi thị truờng trong quá trình phát triển và hội nhập, đồng thời cũng đáp
ứng được mong mỏi của nhiều doanh nghiệp điện tử tại Hội nghị đánh giá thực
trạng Công nghiệp Điện tử Việt Nam do Bộ Bưu chính - Viễn thông (nay là Bộ
Thông tin và Truyền thông) và Hiệp hội các doanh nghiệp điện tử Việt Nam phối
hợp tổ chức ngày 08/6/2006 ở Hà Nội: “Dù được ưu tiên phát triển hay không thì
sự ra đời của một chính sách định hướng rõ ràng cho Công nghiệp Điện tử Việt
Nam quan trọng hơn tiền đầu tư”
3
, mặc dù hiện tại ngành điện tử Việt Nam vẫn
phải tranh thủ nguồn đầu tư nước ngoài để có thể phát triển vì nguồn vốn đầu tư
trong nước rất hạn chế.

2. Nội dung nghiên cứu:

Trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu đã xây dựng, nhóm nghiên cứu đề tài sẽ tiến
hành thực hiện các nội dung sau đây:
- Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành điện tử Việt Nam trên cơ
sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và
một số nét tổng quan về ngành điện tử Việt Nam.
- Nghiên cứu kinh nghiệm và xu hướng phát triển ngành điện tử của một số
nước trong khu vực và trên thế giới.
- Phân tích những tác động của WTO đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói
chung, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh điện tử nói riêng. Những thuận
lợi, khó khăn, các cơ hội, các thách thức đối với ngành điện tử khi Việt Nam
gia nhập WTO. Định hướng chiến lược phát triển ngành và các giải pháp,
chính sách tổng thể nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.
Các nội dung này sẽ được bố cục trong Báo cáo tổng kết kết quả nghiên cứu của
đề tài theo các chương, mục tương ứng.


3
Nguồn: Tuổi trẻ Online, thứ 6, ngày 16/06/2006
8

3. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong việc xem xét sự phát triển
của ngành điện tử trong hai thập niên trở lại đây và kết quả khảo sát thực trạng
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh điện tử đối với một
số nhóm sản phẩm đặc trưng của ngành như điện tử dân dụng, điện tử công nghiệp,
điện tử viễn thông, sản xuất máy tính.

Với quan điểm doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế, năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp quyết định năng lực cạnh tranh của ngành, của quốc gia, nhóm đề tài

tập trung chủ yếu nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách hệ thống kết quả điều
tra khảo sát và các tài liệu, dữ liệu thu được từ các nguồn thông tin về thực trạng
sản xuất kinh doanh, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp điện tử, khả năng
cạnh tranh của các sản phẩm điện tử được sản xuất tại Việt Nam và bằng phương
pháp phân tích ma trận SWOT (Strength, Weakness, Opportunity, Threat), tiến
hành tổ hợp và xây dựng các nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
cho ngành điện tử trong giai đoạn hội nhập WTO.

Sau khi xây dựng xong bản thảo Báo cáo tổng kết khoa học, nhóm nghiên cứu
sẽ tiến hành xin ý kiến chuyên gia và tổ chức hội thảo khoa học để trao đổi, thảo
luận về các kết quả nghiên cứu của đề tài.

Trên cơ sở ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhóm nghiên cứu sẽ tiến hành
sửa đổi, điều chỉnh và hoàn thiện nhằm tăng tính khả thi của các kết quả nghiên
cứu, tạo cơ sở cho các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách tham khảo
khi tiến hành xây dựng chiến lược phát triển ngành điện tử trong giai đoạn Việt
Nam gia nhập WTO.



9
Chương I

THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÀNH ĐIỆN TỬ VIỆT NAM

1.1. Một số khái niệm về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế
thị trường
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh


Các học thuyết kinh tế thị trường, dù là trường phái nào cũng đều thừa nhận
cạnh tranh là linh hồn sống, chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường,
nơi mà cung - cầu và giá cả hàng hoá là đặc trưng, là những nhân tố cơ bản.

Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp. Do cách tiếp cận khác
nhau, nên có các quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Có thể dẫn ra như sau:

Theo Các Mác: "Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà
tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng
hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch"
4
.

Theo các tác giả cuốn Từ điển rút gọn về kinh doanh: "Cạnh tranh là sự ganh
đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành cùng một
loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình"
5
.

Theo Từ điển Bách khoa của Việt Nam thì: "Cạnh tranh là hoạt động ganh đua
giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm giành các điều
kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất"
6
.

Ngoài ra, có thể dẫn ra nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm cạnh tranh,
song qua các định nghĩa trên có thể tiếp cận về cạnh tranh như sau:

Thứ nhất, khi nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua nhằm lấy phần thắng

của nhiều chủ thể cùng tham dự.

Thứ hai, mục đích trực tiếp của cạnh tranh là một đối tượng cụ thể hay một loạt
điều kiện có lợi nào đó mà các bên đều muốn giành giật (một cơ hội, một sản
phẩm, một dự án hay một thị trường, một khách hàng,…). Mục đích cuối cùng là
kiếm được lợi nhuận cao.


4
Các Mác “Mác – Ăng Ghen toàn tập” NXB Sự thật, Hà Nội - 1978
5
Adam J.H. “Từ điển rút gọn về kinh doanh”, NXB Longman York Press - 1993
6
“Từ điển Bách khoa” NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội - 1995

10

Thứ ba, cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có các ràng buộc chung
mà các bên tham gia phải tuân thủ như đặc điểm sản phẩm, thị trường, các điều
kiện pháp lý, các thông lệ kinh doanh…

Thứ tư, trong quá trình cạnh tranh các chủ thể tham gia cạnh tranh có thể sử
dụng nhiều công cụ khác nhau như cạnh tranh bằng đặc tính và chất lượng sản
phẩm, cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm (chính sách định giá thấp; chính sách
định giá cao; chính sách giá phân biệt; bán phá giá), cạnh tranh bằng nghệ thuật
tiêu thụ sản phẩm (tổ chức các kênh tiêu thụ), cạnh tranh nhờ dịch vụ bán hàng tốt,
cạnh tranh thông qua hình thức thanh toán…

Với cách tiếp cận trên, khái niệm cạnh tranh có thể hiểu như sau: "Cạnh tranh
là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp cả

nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm
lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường
có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh
là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người
tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi"
7
.

1.1.2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh

Năng lực cạnh tranh hay sức cạnh tranh là một khái niệm phức hợp được xem
xét ở các cấp độ khác nhau như: năng lực cạnh tranh của quốc gia, năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp, của sản phẩm và dịch vụ. Việc nhận biết và phân loại
những khái niệm này là rất cần thiết và có ý nghĩa khi nghiên cứu về cạnh tranh.

a. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của quốc gia:

Theo định nghĩa của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF - World Economic Forum)
“năng lực cạnh tranh hay sức cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy
trì được mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững bền tương
đối và các đặc trưng kinh tế khác”
8
. Khái niệm này cho thấy năng lực cạnh tranh
của quốc gia được xác định trước hết bằng mức độ tăng trưởng của nền kinh tế và
sự có mặt hay thiếu vắng các yếu tố quy định khả năng tăng trưởng kinh tế dài hạn
trong các chính sách kinh tế đã thực hiện.

Theo M. Porter năng lực cạnh tranh của quốc gia dựa trên năng suất lao động.
Ông cho rằng "Khái niệm có ý nghĩa nhất về năng lực cạnh tranh ở cấp quốc gia là
năng suất lao động "

9
.

7
Chu Văn Cấp “Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế”,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2003
8
Viện NC QLKT Trung ương, Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc “Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia”
NXB Giao thông Vận tải, Hà Nội - 2002
9
M. Porter “Chiến lược cạnh tranh”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội - 1996

11

Theo Uỷ ban về cạnh tranh công nghiệp trực thuộc Tổng thống Mỹ "Một nước
là cạnh tranh nếu như nước đó duy trì được một tỷ lệ tăng trưởng thu nhập thực
ngang bằng với tỷ lệ đó của các nước bạn hàng trong một môi trường thương mại
tự do"
10
.

Trên cơ sở các quan niệm nêu trên, có thể hiểu năng lực cạnh tranh của quốc
gia là năng lực của một nền kinh tế có thể tạo ra tăng trưởng bền vững trong môi
trường kinh tế đầy biến động của thị trường thế giới.

b. Khái niệm sức cạnh tranh của doanh nghiệp:

Phần lớn các nhà nghiên cứu kinh tế đều gắn năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường hoặc vị trí của
doanh nghiệp trên thị trường theo thị phần mà nó chiếm giữ thông qua khả năng tổ

chức, quản trị kinh doanh hướng vào đổi mới công nghệ, giảm chi phí nhằm duy trì
hay gia tăng lợi nhuận, bảo đảm sự tồn tại, phát triển bền vững của doanh nghiệp.

Theo quan niệm của Tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên Hợp quốc: "Một
doanh nghiệp được xem là có năng lực cạnh tranh khi doanh nghiệp đó duy trì
được vị thế của mình trên thị trường cùng với các nhà sản xuất khác với các sản
phẩm thay thế, hoặc đưa ra thị trường các sản phẩm tương tự với mức giá thấp hơn,
hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng hay dịch vụ
ngang bằng hoặc cao hơn"
11
.

Theo PGS.TS. Nguyễn Bách Khoa "Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
được hiểu là tích hợp các khả năng và nguồn nội lực để duy trì và phát triển thị
phần, lợi nhuận và định vị những ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp đó trong mối
quan hệ với đối thủ cạnh tranh trực tiếp và tiềm tàng trên một thị trường mục tiêu
xác định"
12
.

Ngoài ra, trên thực tế còn đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhưng tựu trung lại, khi tiếp cận năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp, chúng ta phải chú ý tới 4 vấn đề cơ bản sau đây:

Một là, trong điều kiện kinh tế thị trường, phải lấy yêu cầu của khách hàng làm
chuẩn mực để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, vì yêu cầu của
khách hàng vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sản xuất kinh doanh. Cùng một
loại sản phẩm, các nhóm khách hàng khác nhau có những nhu cầu rất khác nhau.

10

Bộ KH&ĐT, Viện CLPT, Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hiệp Quốc “Tổng quan về cạnh tranh công
nghiệp”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 1999
11
Bộ KH&ĐT, Viện CLPT, Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hiệp Quốc “Tổng quan về cạnh tranh công
nghiệp”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 1999
12
Nguyễn Bách Khoa “Phương pháp luận xác định năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế của doanh
nghiệp”, Tạp chí Khoa học Thương mại số 4+5, Hà Nội - 2004

12

Hai là, yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh trong việc lôi kéo khách hàng phải là
thực lực của doanh nghiệp được tạo thành bởi các yếu tố nội tại cũng như uy tín
của doanh nghiệp.

Ba là, khi nói tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp luôn hàm ý so sánh với
doanh nghiệp hữu quan (tức là các đối thủ cạnh tranh) cùng hoạt động trên thị
trường. Muốn tạo nên năng lực cạnh tranh thực thụ, thực lực của doanh nghiệp
phải tạo nên lợi thế so sánh với các đối thủ cạnh tranh để có thể giữ được khách
hàng của mình và lôi kéo khách hàng của các đối thủ cạnh tranh.

Bốn là, các biểu hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có quan hệ ràng
buộc nhau. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh mạnh khi doanh nghiệp đó có
khả năng thoả mãn đầy đủ nhất tất cả những yêu cầu của khách hàng.

Tóm lại, có thể hiểu: "Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực
và lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ khác trong việc thoả mãn tốt nhất
các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp trong
môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước".


c. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm

Đối với khái niệm này, cho đến nay các nhà nghiên cứu kinh tế vẫn chưa đưa ra
một định nghĩa thống nhất.

Theo một số tác giả, năng lực cạnh tranh hay sức cạnh tranh của sản phẩm là sự
vượt trội của sản phẩm đó về các chỉ tiêu so với sản phẩm cùng loại do các đối thủ
khác cung cấp trên cùng một thị trường
13
.

Một số tác giả khác lại cho rằng năng lực cạnh tranh hay sức cạnh tranh của sản
phẩm chính là năng lực nắm giữ và nâng cao thị phần của loại sản phẩm do chủ thể
sản xuất và cung ứng nào đó đưa ra để tiêu thụ so với sản phẩm cùng loại của các
chủ thể sản xuất, cung cấp khác đưa đến tiêu thụ ở cùng một khu vực thị trường và
thời gian nhất định
14
.

Như vậy, mặc dù vẫn chưa thống nhất khái niệm, nhưng có thể hiểu rằng, năng
lực cạnh tranh hay sức cạnh tranh của sản phẩm được cấu thành bởi nhiều yếu tố,
trong đó có những yếu tố chính như khả năng sử dụng thay thế, chất lượng, giá cả
của sản phẩm, khả năng thoả mãn cao hơn các yêu cầu, thị hiếu của người tiêu
dùng, được người tiêu dùng lựa chọn chấp nhận tiêu thụ, đồng thời đem lại lợi
nhuận có thể chấp nhận được cho nhà sản xuất, v.v … và các yếu tố khác như kiểu

13
Viện NC QLKT Trung ương, Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc “Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia”
NXB Giao thông Vận tải, Hà Nội - 2002
14

“Từ điển kinh doanh”, Đại học KTQD - 2000

13

dáng, mẫu mã, hình thức của sản phẩm, phương thức tiêu thụ, quảng cáo, dịch vụ
sau bán hàng, v.v…

Ba cấp độ năng lực cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, tạo
điều kiện cho nhau, chế định nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có năng
lực cạnh tranh quốc gia cao phải có nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh
mạnh, ngược lại để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh mạnh,
môi trường sản xuất kinh doanh của nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách kinh
tế vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự báo được, bộ máy Nhà nước phải trong sạch, hoạt
động có tính chuyên nghiệp và có hiệu quả cao. Đồng thời, năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng lực cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ
mà doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.

Như vậy, có thể khẳng định, doanh nghiệp là nhân tố quan trọng quyết định
năng lực cạnh tranh của ngành, của quốc gia. Nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, của sản phẩm vừa là bộ phận cấu thành, vừa là một trong những
mục tiêu để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành, của quốc gia.

1.1.3. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh

Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh,
các nhà kinh tế đã xây dựng hệ thống các chỉ tiêu có thể so sánh được trong mối
tương quan với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp và tiềm năng, bao gồm:

- Các chỉ tiêu năng lực cạnh tranh phi marketing

- Các chỉ tiêu năng lực cạnh tranh marketing
- Năng lực cạnh tranh của toàn tổ chức doanh nghiệp

Nội dung và mức độ tác động của các loại chỉ tiêu này đến năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh như sau:

1.1.3.1. Các chỉ tiêu năng lực cạnh tranh phi marketing

- Thị phần doanh nghiệp:

Thị phần doanh nghiệp là phần thị trường mà doanh nghiệp đã chiếm được. Thị
phần càng lớn thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng mạnh.

- Vị thế tài chính:

Vị thế tài chính của một doanh nghiệp có tầm quan trọng tối cao không chỉ đối
với chiến lược phát triển của doanh nghiệp nói chung và còn đối với việc nâng cao
vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp đó. Ở Việt Nam, trong điều kiện các doanh

14

nghiệp, các ngành hiện đang sản xuất kinh doanh với chi phí đơn vị cao hơn cả giá
thế giới cộng với chi phí nhập khẩu các sản phẩm, dịch vụ cùng loại, thì một trong
những nhân tố cạnh tranh quan trọng cần xem xét là mức độ chi phí của doanh
nghiệp trong tương quan đối với đối thủ cạnh tranh trực tiếp.

- Năng lực quản trị và lãnh đạo:

Do môi trường sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn ở trạng
thái không ổn định, đòi hỏi các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được phải

linh hoạt thích ứng với các biến động đó, nếu không doanh nghiệp sẽ trở thành lạc
hậu và bị loại khỏi cuộc chơi. Nhu cầu luôn thay đổi, chu kỳ sống của sản phẩm bị
rút ngắn, các sản phẩm thay thế liên tục xuất hiện với chất lượng, mẫu mã, công
dụng cao hơn. Do vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá bởi sự
linh hoạt và biết thực hành của doanh nghiệp để luôn đáp ứng được nhu cầu luôn
thay đổi của thị trường. Sự linh hoạt và biết thực hành trong quản trị và lãnh đạo sẽ
giảm được tỷ lệ chi phí quản lý trong giá thành sản phẩm, qua đó nâng cao được
sức cạnh tranh của sản phẩm và của doanh nghiệp.

- Năng lực nguồn nhân lực:

Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, con người là yếu tố quyết định đến
ưu thế cạnh tranh. Doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ quản trị và lãnh đạo có trình
độ, kinh nghiệm, có năng lực đánh giá, năng động và có mối quan hệ tốt với bên
ngoài, không những sẽ có những lợi ích trước mắt như tăng doanh thu, giá trị sản
xuất, lợi nhuận mà còn cả uy tín và lợi ích lâu dài. Bên cạnh đó, với trình độ tay
nghề cao, chuyên môn nghiệp vụ giỏi và lòng hăng say làm việc của người lao
động, doanh nghiệp sẽ có điều kiện để tăng năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm, đảm bảo cho sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường.

- Năng lực R&D:

Năng lực R&D bao gồm các phân tích về các thành tựu đổi mới để triển khai
các sản phẩm mới, quá trình mới, công tác tổ chức hoạt động nghiên cứu triển khai
(theo định hướng thị trường hay định hướng công nghệ), ngân quỹ dành cho R&D
và vị thế nói chung của bộ phận R&D của doanh nghiệp trong ngành. R&D hữu
hiệu cho phép doanh nghiệp có được sức mạnh trong đổi mới công nghệ, có ưu thế
vượt trội trong giới thiệu sản phẩm mới, cải tiến và cập nhật liên tục các sản phẩm.
Ngược lại, một doanh nghiệp có thể sẽ bị tụt hậu năng lực cạnh tranh trong ngành
bởi yếu kém trong R&D.


- Năng lực sản xuất, tác nghiệp:

Năng lực sản xuất, tác nghiệp là năng lực sản xuất và công nghệ kinh doanh
hiện tại và tương lai của doanh nghiệp so với đòi hỏi của thị trường trong mối quan

15

hệ với đối thủ cạnh tranh và chiến lược sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đang
theo đuổi. Các yếu tố cấu thành năng lực sản xuất, tác nghiệp bao gồm:

· Quy mô doanh nghiệp: Thực chất là quy mô vốn của doanh nghiệp. Đây là
cơ sở để doanh nghiệp tiến hành thực hiện tốt các nội dung hoạt động của
mình, đặc biệt là các hoạt động về đầu tư, mở rộng, phát triển sản phẩm mới,
nâng cao năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trong khu vực và
trên thế giới. Trong nền kinh tế hội nhập, quy mô của doanh nghiệp càng trở
nên quan trọng. Tận dụng lợi thế quy mô lớn, doanh nghiệp có thể giảm chi
phí trên một đơn vị sản phẩm, tạo thế cạnh tranh cho sản phẩm trên thị
trường trong nước và quốc tế.
· Trình độ trang thiết bị, công nghệ : Tình trạng trang thiết bị và công nghệ có
ảnh hưởng sâu sắc tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đây là yếu tố
vật chất quan trọng nhất thể hiện năng lực sản xuất của doanh nghiệp và tác
động trực tiếp đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, đến giá thành
và giá bán sản phẩm. Một doanh nghiệp có trang thiết bị hiện đại, công nghệ
tiên tiến thì sản phẩm của doanh nghiệp nhất định có chất lượng cao, đảm
bảo và ngược lại sẽ không có bất kỳ một doanh nghiệp nào có thể nói là có
năng lực cạnh tranh mạnh khi mà trong doanh nghiệp là cả hệ thống trang
thiết bị cũ kỹ với công nghệ sản xuất lạc hậu.

1.1.3.2. Các chỉ tiêu năng lực cạnh tranh marketing:


Các yếu tố marketing là nguồn nội lực quan trọng hình thành năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp, vì đây là những yếu tố căn bản để vừa sáng tạo những giá
trị gia tăng cao hơn cho khách hàng, vừa đưa ra sự khác biệt rõ nét trong tương
quan với các đối thủ cạnh tranh. Đánh giá năng lực cạnh tranh marketing của
doanh nghiệp là phân tích cách thức mà marketing được quản trị trong doanh
nghiệp và hiệu suất thực hiện marketing trên thị trường mục tiêu. Những tác nhân,
lực lượng marketing cơ bản bao gồm:

- Tổ chức marketing:

Trong các doanh nghiệp có định hướng thị trường, marketing không chỉ là trách
nhiệm riêng biệt của bộ phận marketing, mà là trách nhiệm của tất cả mọi người ở
các bậc quản trị trong doanh nghiệp. Nghiên cứu đánh giá năng lực cạnh tranh
marketing chính là:

o Xác định phạm vi ra quyết định và thực tiễn thực hiện marketing thông qua
tổ chức marketing.
o Đánh giá kết cấu tổ chức marketing, khả năng đảm bảo việc sáng tạo giá trị
cho khách hàng và khả năng đối phó với đối thủ cạnh tranh của tổ chức
marketing.

16

o Tình hình thông tin về hoạt động marketing của nội bộ doanh nghiệp cho các
nhân sự trong tổ chức marketing.

- Hệ thông tin marketing:

Doanh nghiệp sẽ có năng lực cạnh tranh khi doanh nghiệp thường xuyên nhận

được kịp thời, chính xác, rõ ràng các tin tức thị trường liên quan đến môi trường vĩ
mô và môi trường ngành. Ngày nay, sự bùng nổ của cuộc cách mạng thông tin đã
khẳng định vai trò to lớn của thông tin đối với các doanh nghiệp. Thông tin về thị
trường mua bán, thông tin về tâm lý và thị hiếu khách hàng, về giá cả, về đối thủ
cạnh tranh, v.v có ý nghĩa quan trọng đến việc ra quyết định sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Đủ thông tin và xử lý đúng thông tin, một mặt giúp cho doanh
nghiệp hạn chế được rủi ro trong sản xuất kinh doanh, mặt khác qua thông tin có
thể tìm và tạo ra "lợi thế so sánh" của doanh nghiệp trên thương trường, chuẩn bị
đưa ra đúng thời điểm những sản phẩm mới thay thế để tăng cường sức cạnh tranh
của hàng hoá. Thông tin đủ, chính xác hoặc bưng bít thông tin có thể thúc đẩy thị
trường một cách tích cực hoặc tạo ra những nhu cầu giả tạo, hành vi cạnh tranh sai
trái làm biến dạng thị trường.

- Hoạch định chiến lược marketing:

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị chi phối bởi chiến lược marketing của
doanh nghiệp. Nếu có chiến lược marketing đúng thì năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp sẽ được nâng cao. Một số chiến lược quan trọng trong chiến lược
marketing của doanh nghiệp là chiến lược phát triển thị trường mục tiêu, chiến
lược giữ vững và phát triển thị trường hiện tại, chiến lược tiếp cận và thâm nhập thị
trường mới, các chiến lược marketing hỗn hợp bao gồm Product (sản phẩm) - Price
(giá cả) - Promotion (quảng cáo giới thiệu) - Place (địa điểm).

1.1.3.3. Năng lực cạnh tranh của toàn tổ chức doanh nghiệp:

- Năng lực phối hợp và phân nhiệm giữa các chức năng

Sự tồn tại cấu trúc tổ chức chức năng ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
còn chứa đựng những hiệu ứng phân chia ranh giới giữa các phòng, ban quản trị
chức năng nên dẫn tới một hạn chế có tính phổ biến là các nhà quản trị chức năng

có xu thế tập trung tới các quyền lợi cục bộ hơn là tới khách hàng và đối thủ cạnh
tranh của doanh nghiệp. Vì vậy, việc xác định năng lực của bộ máy tổ chức tổng
thể để phối thuộc những nguồn đa chức năng của doanh nghiệp nhằm sáng tạo và
duy trì các giá trị vượt trội cho khách hàng cũng như khả năng đáp ứng nhanh hơn
với những thay đổi trong môi trường ngoại vi so với đối thủ cạnh tranh là rất cần
thiệt. Nói cách khác, doanh nghiệp nào đạt được trình độ cao trong tác nghiệp đa
chức năng và năng lực xuất sắc trong ứng xử thị trường thì doanh nghiệp đó có
năng lực cạnh tranh mạnh.

17

- Khả năng hợp tác hữu hiệu với các doanh nghiệp hữu quan

Tình trạng tranh mua, tranh bán ở thị trường nội địa, tranh bán, tranh mua trên
thị trường thế giới sẽ làm giảm đáng kể năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Đặc biệt trong điều kiện vốn ít, quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, các doanh nghiệp
càng phải tăng cường liên kết và hợp tác. Có như vậy mới thiết lập được quan hệ
bạn hàng và nhanh chóng hình thành hệ thống phân phối, mở rộng thị trường, nâng
cao năng lực cạnh tranh. Trong trường hợp này, vai trò cầu nối để liên kết, hợp tác
các doanh nghiệp khi tung sản phẩm ra thị trường của hiệp hội các doanh nghiệp là
rất quan trọng và phải được phát huy đến mức tối đa.

- Đảm bảo "chữ tín" đối với khách hàng

Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường, đảm bảo "chữ
tín" có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Những hành động bất tín, gian lận, v.v chỉ
có thể đem lại lợi ích nhỏ nhoi trước mắt, nhưng nhất định sẽ làm cho doanh
nghiệp thiệt hại nhiều và lâu dài, mất bạn hàng và chỗ đứng trên thị trường.

- Hoạch định chi phí sản xuất kinh doanh


Chi phí sản xuất kinh doanh là một trong những yếu tố cơ bản tác động lên giá
thành sản phẩm - một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng cạnh
tranh của sản phẩm và của doanh nghiệp trên thị trường. Trong bối cảnh cạnh tranh
gay gắt của thời kỳ hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, việc giảm thiểu chi phí
sản xuất kinh doanh để giảm giá thành sản phẩm là một yêu cầu bức thiết. Muốn
vậy, trong rất nhiều loại chi phí cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như chi
phí mua nguyên vật liệu, linh kiện đầu vào, chi phí lao động, chi phí tài sản cố
định, chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới (R&D) chi phí tiện ích (điện,
nước, xăng dầu, thông tin liên lạc), chi phí vận tải, v.v , doanh nghiệp cần phải
hoạch định, tính toán, cân nhắc thật hợp lý, đặc biệt là khoản chi phí dành cho công
tác nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới (R&D). Đây là khoản chi phí chiếm tỷ
trọng cao trong cơ cấu chi phí, đồng thời cũng là chi phí quan trọng trong nền kinh
tế hiện đại. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển, có năng lực cạnh tranh
mạnh thì phải biết luôn luôn đầu tư để đổi mới, đặc biệt là đổi mới kỹ thuật, công
nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động để giảm giá thành
hoặc tạo ra các sản phẩm mới, độc đáo, hiện đại, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của
khách hàng, qua đó mà thu hút khách hàng, phát triển thị trường, xây dựng thương
hiệu, làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và tạo vị trí vững chắc cho doanh
nghiệp trên thị trường, hay nói cách khác, tăng năng lực cạnh tranh cho doanh
nghiệp.





18

1.2. Tổng quan về ngành điện tử Việt Nam
1.2.1. Một số đặc điểm chủ yếu của ngành điện tử


Ngành điện tử là ngành sản xuất có các đặc điểm chủ yếu sau đây:

- Tích hợp các thành tựu KH&CN của nhiều lĩnh vực công nghệ cao.
- Cấu trúc sản phẩm khá phức tạp và đòi hỏi sự hỗ trợ của nhiều ngành công
nghiệp nhằm đáp ứng tính đa dạng của công nghệ và các yếu tố đầu vào. Các
ngành công nghiệp hỗ trợ không chỉ bao hàm việc sản xuất hàng hóa, mà còn
cả những dịch vụ khác nhau như thiết kế, kỹ thuật, tư vấn, sản xuất thử, thử
nghiệm, kiểm tra và đánh giá chất lượng sản phẩm, chuyển giao công nghệ.
- Tiềm năng thị trường các sản phẩm điện tử lớn và được mở rộng cùng với sự
phát triển của nền kinh tế và sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng. Vì vậy, cạnh tranh
toàn cầu để xuất khẩu các sản phẩm điện tử là điều rất quan trọng.
- Quá trình sản xuất các sản phẩm điện tử sử dụng rất ít nguyên liệu, năng lượng,
vì các sản phẩm này đuợc phát triển với mục tiêu hạn chế chi phí các nguồn
nguyên liệu và năng lượng không tái tạo, cũng như nhằm bảo vệ môi trường.

Do có những đặc điểm nêu trên mà ngành điện tử đòi hỏi phải có đầu tư vốn lớn
và có công nghệ hiện đại và các sản phẩm sản xuất ra có một số đặc thù riêng so
với các ngành sản xuất khác, đó là:

q Sản phẩm có tính quốc tế hoá rất cao.
q Đời sống sản phẩm rất ngắn nhưng ứng dụng ở tầm nhìn rất xa và phạm vi
rất rộng.
q Sản phẩm là kết quả tích hợp nhiều lĩnh vực công nghệ cao, chứa đựng hàm
lượng R&D lớn và do đó có giái trị gia tăng cao.

Đối với Việt Nam ngành điện tử là ngành công nghiệp tuy đã có hơn 20 năm
hoạt động, nhưng có thể nói là còn rất trẻ và mới mẻ. Trong khi ở các nền kinh tế
phát triển khác, với những đặc điểm nêu trên, điện tử đã trở thành một ngành chủ
đạo, thường chiếm một tỷ trọng đáng kể (từ 30% ÷ 50%) trong tổng kim ngạch

xuất khẩu, thì ở Việt Nam, mặc dù luôn được coi là một ngành công nghiệp mũi
nhọn, nhưng mãi đến ngày 28 tháng 5 năm 2007 Thủ tướng Chính phủ mới có
Quyết định số 75/2007/QĐ - TTg phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển công
nghiệp điện tử Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.

Thông qua việc phân tích những đặc điểm chủ yếu và các chính sách đầu tư,
phát triển, thương mại của Việt Nam cho các hoạt động của ngành điện tử trong
suốt thời gian qua, có thể nhận diện một cách đầy đủ bức tranh về sự phát triển của
ngành điện tử Việt Nam trong thập kỷ những năm 80 và 90 như sau:




19

1.2.2. Hai mươi năm phát triển của ngành điện tử và những đặc điểm chủ yếu

Trừ một vài doanh nghiệp lắp ráp điện tử có mặt từ cuối những năm 70, hầu hết
các doanh nghiệp điện tử Việt Nam đều mới được thành lập vào cuối những năm
80, thập kỷ những năm 90 và đầu những năm 2000. Do đó có thể coi ngành điện tử
là một ngành công nghiệp non trẻ và sự ra đời của ngành điện tử dường như là kết
quả của sự chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường. Sự bùng
nổ của nhu cầu về hàng điện tử và sự cần thiết phải phát triển ngành công nghệ
thông tin trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội dưới tác động của tăng
trưởng kinh tế đã tạo ra cho ngành điện tử Việt Nam một thị trường nội địa đáng
kể, rất hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Chỉ trong vòng hơn 20 năm, ngành điện
tử Việt Nam đã trải qua những biến động rất dữ dội và đầy nghịch lý:

Thứ nhất, thị trường điện tử mới, sôi động, nhịp độ phát triển nhanh. Từ một số
rất ít các xí nghiệp lắp ráp điện tử dân dụng, liên doanh với các công ty Nhật Bản

như SONY, NATIONAL, SANYO của những năm 70, đến cuối năm 2006 Việt
Nam đã có 534 doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp và kinh doanh các mặt hàng này
15
.
Số lượng và chất lượng sản phẩm các mặt hàng điện tử trên thị trường Việt Nam
được gia tăng và đa dạng hoá nhanh chóng, đặc biệt là các mặt hàng điện tử dân
dụng, điện tử công nghiệp và các mặt hàng máy tính. Hiện tại thị trường các mặt
hàng điện tử của Việt Nam còn tiềm ẩn một năng lực rất lớn: 2/3 trong tổng số gần
18 triệu gia đình chưa có các thiết bị nghe nhìn, tủ lạnh, máy giặt; tổng giá trị thiết
bị tin học còn quá nhỏ, chỉ chiếm khoảng 0,3% GDP, nghĩa là còn thấp xa so với
nhu cầu thực sự của nền kinh tế quốc dân; thị trường các thiết bị điện tử công
nghiệp còn bỏ ngỏ, hầu như đang dành toàn bộ cho các công ty nước ngoài.

Thứ hai, sự sôi động của thị trường chuyển từ sự cạnh tranh giữa người mua
sang sự cạnh tranh của người bán.

Vào đầu những năm 90, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của
người mua tăng lên và theo đó, họ không còn thích sử dụng hàng điện tử cũ và các
thiết bị tin học lạc hậu. Mặt khác, nguồn cung cấp hàng hoá trên thị trường trong
nước chưa nhiều do năng lực lắp ráp cũng như nhập khẩu của các doanh nghiệp
trong nước còn nhỏ, các xí nghiệp liên doanh chưa đi vào hoạt động. Nhu cầu lớn
hơn khả năng cung cấp đã khiến cho thị trường các mặt hàng điện tử - tin học hoạt
động rất nhộn nhịp. Đã có không ít các nhà sản xuất đã nhìn nhận và đánh giá thiếu
đầy đủ hiện tượng này nên đã nhập khẩu ồ ạt SKD, IKD để lắp ráp các sản phẩm
tung ra thị trường. Cũng giống như ngành ô tô, xe máy, số lượng các xí nghiệp liên
doanh trong ngành điện tử cũng tăng lên rất nhanh. Trong khi theo nhiều dự báo,
nhu cầu các mặt hàng điện tử - tin học đang tăng chậm dần do giới hạn bởi sức
mua thực tế, thì số lượng hàng cung cấp đã vượt quá xa so với nhu cầu. Không
những thế, một số lượng lớn hàng nhập mang các nhãn hiệu nổi tiếng thế giới cũng


15
Nguồn: TT Thông tin và Dự báo KTXH Quốc gia

20

đã xâm nhập thị trường Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhập khẩu ồ ạt
và lắp ráp không có bảo hành cộng với kết quả phát triển khả quan của công nghệ
điện tử - tin học trên thế giới đã làm cho giá cả các mặt hàng này giảm xuống một
cách đáng kể. Kết quả là để bán được hàng, thu hồi vốn, các nhà sản xuất đã tranh
nhau hạ giá thành. Thị trường náo loạn trong sự cạnh tranh của người bán mà các
dấu hiệu lạc quan của ngành điện tử trong thời gian này vẫn chưa hề xuất hiện.

Thứ ba, đã bắt đầu có ý tưởng xây dựng "thương hiệu Việt Nam" từ việc
chuyển nhập khẩu SKD sang nhập khẩu IKD vào đầu những năm 90. Đây là một
bước chuyển quan trọng để hình thành những cơ sở lắp ráp chuyên dụng, không
thua kém nước ngoài về trang bị, công nghệ và trình độ tay nghề. Các cơ sở sản
xuất điện tử loại này như Viettronic Thủ Đức, Biên Hoà, Đống Đa, Tân Bình,
Hanel… đã đầu tư những dây chuyền sản xuất mới như hệ thống lắp ráp linh kiện
tự động, lắp ráp bề mặt, , kết hợp ứng dụng các công nghệ mới nên đã nâng cao
được năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm và khả năng giành lại thị trường. Các
doanh nghiệp này cũng đã chú trọng nội địa hoá mặt hàng, tập trung nghiên cứu,
thiết kế, chế tạo và chuyển giao công nghệ, tranh thủ sự hợp tác với nước ngoài,
nhờ đó một số thương hiệu Việt Nam như VTB, BELCO đã tìm được chỗ đứng
trên thị trường trong và ngoài nước. Tuy vậy, theo đánh giá của các chuyên gia,
vấn đề "nội địa hoá" các sản phẩm điện tử hiện mới chỉ dừng lại ở mức "áo ngoài"
như hộp xốp, bao bì, và trình độ công nghệ sản xuất của ngành điện tử Việt
Nam, dù dưới hình thức nào cũng vẫn còn quá nhỏ bé và thấp xa so với các nước
trong khu vực và thế giới.

Thứ tư, mở rộng cửa với bên ngoài nhưng chưa tìm được lối ra cho các sản

phẩm được lắp ráp trong nước. Khi thực hiện chính sách kinh tế thị trường mở,
Việt Nam đã trở thành một bộ phận của thị trường sản phẩm điện tử quốc tế. Các
sản phẩm điện tử trên thế giới đã tràn vào Việt Nam dưới nhiều hình thức khác
nhau: nhập khẩu chính thức linh kiện và bộ linh kiện; nhập khẩu chính thức và
nhập lậu các sản phẩm nguyên chiếc; các sản phẩm do các liên doanh nước ngoài
sản xuất tại Việt Nam.

Do đặc điểm là ngành sản xuất đòi hỏi phải có đầu tư vốn lớn và có công nghệ
hiện đại, sản phẩm sản xuất ra phải có thương hiệu được người tiêu dùng quen biết
và tin tưởng mới dễ dàng tiêu thụ, nên hoạt động của khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài trong ngành điện tử chiếm ưu thế gần như tuyệt đối. Mặt khác, với trình độ
chuyên môn và quy mô sản xuất linh kiện cũng như lắp ráp sản phẩm còn yếu,
công nghiệp điện tử Việt Nam lệ thuộc nặng nề vào các linh kiện và công nghệ
nhập ngoại, hầu hết các doanh nghiệp đều gặp khó khăn trong việc mua linh kiện,
phụ tùng phục vụ sản xuất từ các công ty đã có liên doanh tại Việt Nam như
SONY, SHARP, SANYO, NATIONAL, PHILIP, LG, SAMSUNG,…, nên các
doanh nghiệp điện tử Việt Nam đang đứng trước nguy cơ mất dần thị phần ở ngay
cả trên thị trường nội địa.


21

Thứ năm, thị trường điện tử mất cân đối nghiêm trọng giữa các mảng kinh
doanh: điện tử dân dụng chiếm thị phần lớn và có xu hướng bão hòa, điện tử công
nghiệp và điện tử y sinh phát triển kém và chậm, điện tử viễn thông phát triển khả
quan hơn.

Trước hết, sản phẩm có thị trường lớn và kinh doanh sôi động nhất ở nước ta
hiện nay là các mặt hàng điện tử dân dụng như các thiết bị nghe nhìn, các phương
tiện giải trí,… Trong cơ cấu sản xuất, sản phẩm được lắp ráp hoặc sản xuất tại Việt

Nam, điện tử dân dụng chiếm khoảng 80% với doanh số chiếm tỷ trọng khoảng
30% tổng doanh số tiêu thụ của toàn ngành. Do đánh giá chưa hợp lý về nhu cầu
thiết bị điện tử dân dụng, nên trong một thời gian dài ở Việt Nam đã có quá nhiều
doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này. Kết quả là cung vượt cầu, nhiều doanh
nghiệp đã rơi vào tình trạng "tiến thoái lưỡng nan", rất khó khăn.

Thiết bị điện tử công nghiệp chưa được chú trọng, thị trường đang bỏ ngỏ. Chỉ
số 10% giá trị hàng điện tử công nghiệp và 10% giá trị hàng điện tử phục vụ an
ninh quốc phòng mà toàn ngành đặt ra vẫn chưa đạt được. Công nghiệp sản xuất
linh kiện không đáng kể vì cần có vốn đầu tư lớn, hơn nữa trong cả một thời gian
dài thuế nhập khẩu linh kiện (5%) lại thấp hơn thuế nhập khẩu vật tư để sản xuất
linh kiện (>5%), nên sự mất cân đối giữa lắp ráp sản phẩm và sản xuất phụ tùng
linh kiện càng gia tăng. Theo thống kê chưa đầy đủ, trong lĩnh vực sản xuất điện
tử, tỷ lệ vốn đầu tư cho chế tạo sản phẩm/ chế tạo phụ kiện/ chế tạo linh kiện ở
Việt Nam rất thấp, chỉ là 7/2/1
16
.

Đối với thiết bị điện tử y sinh, sau hai mươi năm thực hiện công tác đổi mới,
ngành y tế đã từng bước quan tâm đầu tư nâng cấp. Nhiều cơ sở thuộc các lĩnh vực
y tế dự phòng, khám chữa bệnh, y dược học cổ truyền, đào tạo, nghiên cứu khoa
học, chuyển giao công nghệ sản xuất thuốc và trang thiết bị y tế đã được trang bị
các thiết bị điện tử y sinh hiện đại, nhờ đó đã nâng cao được chất lượng khám,
chữa bệnh và chăm sóc bảo vệ sức khỏe của nhân dân. Một số nhà máy, xí nghiệp
sản xuất trang thiết bị y tế cũng đã được đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ. Các
trang thiết bị y tế thông thường, thiết bị nội thất bệnh viện sản xuất trong nước đã
được tăng cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng được phần nào nhu cầu của ngành
y tế và bước đầu xuất khẩu. Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất trang thiết bị y tế
trong cả nước như Công ty Điện tử Đống Đa, Công ty Điện tử y tế kỹ thuật cao,
Công ty Nhựa y tế, Cty TNHH công nghệ cao về thiết bị y tế Shimadzu - Việt

Nam, Công ty cổ phần y tế Danameco, Công ty cổ phần Menifa, Công ty cổ phần
Merufa, Công ty liên doanh Vinahankook, Công ty liên doanh Vikimco… đều đã
áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO để quản lý chất lượng sản
phẩm của mình.


16
Nguồn: Bộ Bưu chính Viễn thông “Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp điện tử Việt Nam giai đoạn đến
2010, tầm nhìn đến năm 2020”, Hà Nội – 2006

22

Theo tài liệu Hội nghị trang thiết bị y tế do Bộ Y tế tổ chức ngày 18 tháng 12
năm 2006, trong số các sản phẩm sản xuất trong nước đã có trên 600 sản phẩm
được Bộ Y tế cấp giấy chứng nhận đăng ký lưu hành, trong đó có các sản phẩm
điện tử y sinh như các loại nồi hấp, tủ sấy, thiết bị tiệt trùng, các thiết bị chẩn đoán
hình ảnh X quang, siêu âm, các loại thiết bị Laser phục vụ điều trị hoặc phẫu thuật,
các loại máy điện tim, máy nghe tim thai, máy lắc máu, máy hút dịch, v.v…

Điện tử viễn thông phát triển khả quan hơn bằng chính sự mạnh bạo trong việc
đầu tư hiện đại hoá các kỹ thuật vi ba, điện tử tự động số, sử dụng cáp quang, các
hệ thống thông tin di động với các công nghệ CDMA, và GSM, phát triển mạng đa
dịch vụ trong cả nước, đảm bảo việc khai thác mạng Internet. Các doanh nghiệp
công nghiệp thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã từng
bước chiếm lĩnh được thị trường trong nước, cung cấp cho mạng lưới những sản
phẩm hiện đại, đạt trình độ công nghệ tiên tiến. Các sản phẩm chính bao gồm: tổng
đài điện tử kỹ thuật số, thiết bị truyền dẫn quang và vi ba số, cáp quang, cáp đồng,
ống nhựa và các sản phẩm nhựa, máy điện thoại các loại, thiết bị đấu nối, phụ kiện,
các thiết bị mạng ngoại vi …Tuy nhiên, do chưa được đầu tư đúng mức và thiếu
chính sách hỗ trợ nên công nghiệp điện tử viễn thông chưa phát triển tương xứng

với tiềm năng của lĩnh vực này, chưa đủ khả năng nắm bắt được các công nghệ
nguồn. Hiện nay, các doanh nghiệp trong khối đang đứng trước ngưỡng chuyển đổi
công nghệ lên sản xuất các thiết bị mạng viễn thông thế hệ mới - NGN (Next
Generation Networks). Đây là thách thức nhưng cũng là cơ hội để công nghiệp
điện tử viễn thông phát triển đột phá, vươn lên làm chủ những công nghệ hiện đại.

Mặc dù có những biến động và nghịch lý nêu trên, nhưng qua 20 năm xây dựng
và phát triển, ngành điện tử Việt Nam đã đạt được một số kết quả khả quan, tạo
tiền đề cho một giai đoạn phát triển mới. Sau đây là một số thành tựu nổi bật:

- Tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt từ 20 - 30%. Nhóm sản phẩm điện
tử dân dụng tăng trưởng mạnh trong giai đoạn 1991 - 1995 (35%); nhóm sản
phẩm phụ tùng tăng trưởng mạnh trong giai đoạn 1995 - 2000 (30 - 45%);
nhóm sản phẩm công nghệ thông tin tăng trưởng mạnh trong giai đoạn 2000 -
2005 (30 - 50%)
17
.
- Cơ bản đáp ứng được nhu cầu trong nước về các loại sản phẩm điện tử dân
dụng, điện lạnh và máy tính. Tổng doanh thu ngành công nghiệp điện tử trong
nước tăng trưởng liên tục trong những năm gần đây, cụ thể năm 2001 đạt
16.057,86 tỷ VNĐ, năm 2002 đạt 17.206,62 tỷ VNĐ, năm 2003 đạt 23.843,48
tỷ VNĐ, năm 2004 đạt 31.703,37 tỷ VNĐ, năm 2005 đạt 39.131,61 tỷ VNĐ và
năm 2006 đạt 44.900,05 tỷ VNĐ (khoảng 2.784,5 triệu USD)
18
.
- Xuất khẩu sản phẩm đi 35 nước trong khu vực và trên thế giới. Kim ngạch xuất
khẩu tăng 16 lần trong vòng 10 năm. Năm 1996 mới có sản phẩm xuất khẩu và

17
Nguồn: Bộ Bưu chính Viễn thông “Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp điện tử Việt Nam giai đoạn đến

2010, tầm nhìn đến năm 2020”, Hà Nội – 2006
18
Nguồn: TT Thông tin và Dự báo KTXH Quốc gia

23

chỉ xuất khẩu được 90 triệu USD, năm 2004 xuất khẩu 1,075 tỷ USD và năm
2005 đã xuất khẩu được 1,5 tỷ USD
19
. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là phụ tùng
linh kiện điện tử và máy tính.

1.2.3. Nhận diện lại một số chính sách thương mại và đầu tư của Nhà nước đối với
ngành điện tử

Những đặc điểm phát triển chủ yếu của ngành điện tử Việt Nam đã phản ánh
những khía cạnh khác nhau trong sự xáo động của chính sách thương mại, đầu tư
với ngành công nghiệp này. Nhìn một cách khái quát, có thể thấy trong một thời
gian dài chính sách phát triển ngành điện tử Việt Nam đã chưa có các bước đi thích
hợp, định hướng chung cho ngành điện tử theo mô thức hướng tới xuất khẩu còn
chưa được xác định một cách rõ ràng. Do đó, các chính sách cụ thể về thương mại,
đầu tư cho ngành điện tử thiếu sự nhất quán. Ví dụ, các chính sách thuế đối với sản
phẩm điện tử có lúc khuyến khích sản xuất trong nước, có lúc lại khuyến khích
nhập khẩu, kể cả nhập khẩu nguyên chiếc. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với quan
điểm chung về công nghiệp hoá của Việt Nam là phát triển ngành công nghiệp theo
mô thức hướng ngoại dựa vào xuất khẩu để theo đó không những không làm mất
thị phần ở ngay trên thị trường Việt Nam mà còn xác lập được những thị phần nhất
định trong các nền kinh tế khu vực và thế giới trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn
cầu.


1. Chính sách đầu tư phát triển:

Quãng thời gian giành cho việc lắp ráp các sản phẩm điện tử thuần tuý đã kéo
dài quá lâu thay vì phải nhanh chóng chuyển sang đầu tư từng bước cho sản xuất
linh kiện, phụ tùng. Đây là nguyên nhân quan trọng đầu tiên gây nên sự hụt hẫng
của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam ở giai đoạn hiện tại. Mặt khác, việc sản
xuất phụ tùng, linh kiện theo các bộ linh kiện IKD, CKD còn thiếu các tiêu chuẩn
hợp lý thích ứng với sự đổi mới thường xuyên của công nghệ điện tử trên thế giới.
Điều này cũng hoàn toàn ngược với kinh nghiệm của các nước NICs Đông Á và
ASEAN rằng công nghệ cao và sản phẩm được thế giới chấp nhận là những yêu
cầu bắt buộc khi cho phép đầu tư vào ngành điện tử. Như vậy, yêu cầu xuất khẩu ở
Việt Nam chưa trở thành tiêu chuẩn đầu tiên khi cấp phép đầu tư vào lĩnh vực này.
Đó là chưa kể đến việc nếu không có công nghệ thích hợp và đạt các chuẩn quốc
tế, việc xác định giá tính thuế cứng nhắc, không cụ thể sẽ gây nhiều trở ngại cho
sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Trong thực tế, ở phần lớn các doanh
nghiệp sản xuất hàng điện tử của Việt Nam, các trang thiết bị cho lắp ráp được đầu
tư bổ sung dần dần, trừ một số dây chuyền mới nhập đồng bộ, hầu hết là thiếu
đồng bộ, không đồng đều, có công nghệ tiên tiến xen lẫn công nghệ lạc hậu, thiết
kế mới xen kẽ vào thiết kế cũ của nhiều hãng, nhiều thế hệ khác nhau. Vì vậy, mặc

19
Nguồn: Bộ Bưu chính Viễn thông “Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp điện tử Việt Nam giai đoạn đến
2010, tầm nhìn đến năm 2020”, Hà Nội – 2006

24

dù các sản phẩm trong nước của các doanh nghiệp điện tử như Viettronic Tân
Bình, Viettronic Đống Đa, Viettronic Biên Hoà, Hanel đã đạt tiêu chuẩn chất
lượng cao vẫn không được thị trường trong nước ưa chuộng bằng hàng ngoại nhập.
Mức tiêu thụ giảm đã kéo theo mức sản xuất giảm, công nhân không có việc làm.


Theo đa số ý kiến của các doanh nghiệp thì sự yếu kém hiện nay của ngành điện
tử Việt Nam còn do thiếu hẳn một chiến lược đầu tư đúng đắn. Trong khi vừa cho
phép các doanh nghiệp trong nước đầu tư mua dây chuyền công nghệ để tiến hành
lắp ráp IKD nhằm tạo dựng môi trường thương mại cho các sản phẩm mang
thương hiệu Việt Nam thì xuất phát từ sự bùng nổ của nhu cầu hàng điện tử vào
cuối những năm 80, đầu những năm 90, Nhà nước lại ồ ạt cấp giấy phép cho các
doanh nghiệp nước ngoài liên doanh đầu tư vào lĩnh vực này. Những hãng nước
ngoài liên doanh với Việt Nam lại chính là những hãng trước đây đã cung cấp các
bộ linh kiện và chi tiết cho các doanh nghiệp trong nước. Cùng với xu thế này, có
quá nhiều doanh nghiệp từ những ngành sản xuất khác của Việt Nam cũng chuyển
vốn đầu tư vào ngành điện tử. Hơn nữa, về bản chất, hoạt động của các xí nghiệp
liên doanh là không khác gì so với hoạt động trước đây của các doanh nghiệp Việt
Nam, vẫn là lắp ráp và sản phẩm tiêu thụ trong nước là chủ yếu. Kết quả là đầu tư
ồ ạt đã làm cho cung vượt cầu và theo đó, thay vì khuyến khích sản xuất trong
nước, các xí nghiệp liên doanh có tiềm lực sản xuất lớn hơn trên thực tế, để chiếm
lĩnh thị trường đã từng bước ngăn trở bằng cách ngừng hoặc hạn chế cung cấp phụ
tùng, linh kiện để thu hẹp hoạt động của các doanh nghiệp có 100% vốn trong
nước. Các doanh nghiệp trong nước do ế đọng sản phẩm, để thu hồi vốn, họ phải
bán phá giá các sản phẩm của mình. Do đầu tư không đồng bộ, manh mún, dàn trải
và thiếu thông tin nên nhìn chung trình độ công nghệ lắp ráp hiện nay của các
doanh nghiệp điện tử Việt Nam chỉ mới tương đương trình độ 20 năm về trước của
những nền công nghiệp mới như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, khả năng để tiến
hành lắp ráp, sản xuất các sản phẩm điện tử cao cấp phục vụ tiêu dùng trong nước
và sản xuất là rất hạn chế. Vậy là, với chính sách đầu tư không rõ ràng, các doanh
nghiệp điện tử trong nước đang bàn giao dần thị trường cho các nhà đầu tư nước
ngoài và chiến lược tạo dựng thương hiệu Việt Nam cũng như hướng tới xuất khẩu
của ngành điện tử không dễ trở thành hiện thực.

2. Chính sách thuế


Sản xuất trong ngành điện tử cho đến nay vẫn chỉ mới dừng ở công nghệ lắp
ráp, do đó, mức thuế áp dụng cho ngành trong một thời gian dài được vận dụng
theo điểm 6, mục 1 trong Biểu thuế doanh thu ban hành kèm theo Nghị định số
55/NĐ - CP ngày 28/8/1993 của Chính phủ (xem Bảng 1.1)
20
. Nhìn vào biểu thuế
này rõ ràng chính sách thuế đã bộc lộ nhiều bất hợp lý, các sắc thuế đó không
hướng vào sản xuất trong nước mà là nhằm khuyến khích nhập khẩu. Trong khi

20
Viện Kinh tế Thế giới “Chính sách thương mại, đầu tư và sự phát triển một số ngành công nghiệp chủ lực của Việt
Nam”

×