Tải bản đầy đủ (.pdf) (211 trang)

Chính sách thương mại và công nghiệp nhằm phát triển bền vững công nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 211 trang )


1

học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh



báo cáo tổng quan
đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 2008


chính sách thơng mại và công nghiệp
nhằm phát triển bền vững công nghiệp
việt nam

Cơ quan chủ trì :
Viện kinh tế
Chủ nhiệm đề tài : TS. Nguyễn Thị Hờng
Th ký đề tài : ThS. Nguyễn Thị Miền




7241
26/3/2009

Hà Nội - 2008

2
phần mở đầu


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong vài thập kỷ gần đây, do sức ép gắt gao về gia tăng dân số và sự phát
triển kinh tế thiên về mục tiêu tăng trởng nhanh, đã dẫn đến các nguồn tài
nguyên trên trái đất ngày càng cạn kiệt, môi trờng bị suy thoái nghiêm trọng.
Hàng loạt các vấn đề về môi trờng nh thay đổi khí hậu, thủng tầng ôzôn,
suy thoái đa dạng sinh học, suy giảm tài nguyên đất và nớc ngọt đang là
những thách thức to lớn đối với sự tồn tại, phát triển của loài ngời.
Thực trạng trên buộc cộng đồng quốc tế phải xem xét lại mô hình phát
triển: chuyển từ chiến lợc nhấn mạnh tăng trởng kinh tế sang chiến lợc
phát triển bền vững mang tính hài hòa của cả 3 mặt: tăng trởng kinh tế, công
bằng xã hội và bảo vệ môi trờng.
Trong khuôn khổ của Liên hiệp quốc, hàng loạt các cam kết quốc tế về
phát triển bền vững đã đợc ký kết.
Từ sau Hội nghị thợng đỉnh Trái đất về môi trờng và phát triển năm
1992 cho đến năm 2006 đã có trên 120 nớc trên thế giới xây dựng và thực
hiện Chơng trình nghị sự 21 về PTBV cấp quốc gia và 6.414 chơng trình
nghị sự cấp địa phơng.
Việt Nam là một trong những nớc sớm tham gia vào các cam kết
quốc tế về PTBV: Ngay từ năm 1992 tại Hội nghị Rio, Chính phủ Việt Nam
đã trình bày nghiên cứu của mình, trong đó đã nêu lên những phơng hớng
hành động nhằm thực hiện Chơng trình nghị sự 21. Năm 2002 tại Hội nghị
Thợng đỉnh ở Johanesburg đã có bài tham luận quan trọng, góp tiếng nói
chung và khẳng định tiếp tục triển khai mạnh mẽ những nội dung PTBV tại
Việt Nam.
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX và
cam kết quốc tế về phát triển bền vững, Chính phủ Việt Nam đã ban hành
"Định hớng chiến l
ợc phát triển bền vững của Việt Nam trong thế kỷ 21".

3

Để thực hiện định hớng chiến lợc PTBV Việt Nam, các ngành và các
lĩnh vực phải xây dựng và thực hiện các chơng trình hành động cụ thể. Công
nghiệp là lĩnh vực có tác động mạnh mẽ nhất đến PTBV của đất nớc trên cả 3
mặt: kinh tế, xã hội và môi trờng.
Trớc hết, công nghiệp là lĩnh vực có vai trò quan trọng nhất đối với
PTBV kinh tế ở Việt Nam: Tốc độ tăng trởng công nghiệp, trong 20 năm
đổi mới cao gấp 1,5 tốc độ tăng trởng kinh tế. Từ năm 2005 đến nay công
nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng trên 41% GDP; công nghiệp tác động
mạnh mẽ thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn theo hớng CNH, HĐH và sự
phát triển của công nghiệp đã làm xuất hiện nhiều ngành dịch vụ, đặc biệt
là các dịch vụ hiện đại; đóng góp của công nghiệp vào kim ngạch xuất khẩu
ngày càng tăng và hiện nay đã chiếm gần 80% tổng giá trị xuất khẩu của
nớc ta. Tuy vậy, sự phát triển của công nghiệp Việt Nam hiện đang chứa
đựng những nguy cơ đe dọa sự PTBV về kinh tế. Nớc ta đang đứng trớc
tình trạng cạn kiệt các tài nguyên thiên nhiên, nhất là các đầu vào quan
trọng của sản xuất nh than đá, dầu khí, đất đai. Trong điều kiện hội nhập
ngày càng mạnh mẽ nh hiện nay, những hạn chế trong sản xuất công
nghiệp trên đây thực sự đang đe doạ PTBV kinh tế Việt Nam.
Thứ hai, mặt khác, công nghiệp là lĩnh vực tạo ra nhiều công ăn việc
làm và thu nhập cho ngời lao động ở nớc ta trong những năm qua: Tỷ trọng
lao động trong ngành công nghiệp - xây dựng đã tăng từ 13.1% năm 2000 lên
xấp xỉ 20% năm 2007 trong tổng lao động xã hội.
Năng suất lao động công nghiệp không ngừng tăng lên đã nâng cao thu
nhập của ngời lao động, góp phần quan trọng cải thiện đời sống vật chất của
nhân dân giảm tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam.
Tuy vậy, sự phát triển công nghiệp ở nớc ta trong những năm qua cũng
làm nảy sinh những vấn đề xã hội bức xúc. Đó là, tình trạng thu hẹp đất đai
nông nghiệp do phát triển các khu công nghiệp, các khu chế xuất trong khi lao
động nông nghiệp cha đợc thu hút đáng kể vào sản xuất công nghiệp, nên


4
lao động d thừa ở khu vực nông thôn ngày càng tăng; lợi ích lan tỏa của công
nghiệp đối với ngời dân ở các vùng lân cận và trong cả nớc còn thấp.
Đặc biệt, công nghiệp là lĩnh vực có tác động lớn nhất đến PTBV về
môi trờng.
Phát triển công nghiệp ở nớc ta trong những năm qua đã gây nên
những tổn thất rất lớn đối với môi trờng. Với mức độ tiêu hao nguyên liệu
cao mà tỷ lệ phát thải / đơn vị sản phẩm đầu ra của Việt Nam cao gấp nhiều
lần so với mức trung bình của khu vực và thế giới. Ô nhiễm môi trờng nớc,
đất và không khí ở các khu công nghiệp tập trung đã vợt từ 3 - 5 lần so với
mức tối đa cho phép. Tình trạng vi phạm các quy định bảo vệ môi trờng của
các cơ sở sản xuất công nghiệp xẩy ra phổ biến. Tài nguyên môi trờng đang
bị huỷ hoại bởi nguồn chất thải từ các cơ sở sản xuất công nghiệp
Nh vậy, có thể nói rằng sự phát triển của công nghiệp Việt Nam trong
những năm qua, bên cạnh những đóng góp rất quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nớc cũng đồng thời gây nên những tác động tiêu cực
đến sự PTBV trên cả 3 mặt kinh tế, xã hội, đặc biệt là môi trờng.
Thực trạng phát triển công nghiệp thiếu bền vững nh đã nêu trên bắt
nguồn chủ yếu từ sự yếu kém của chính sách thơng mại và công nghiệp. Có
thể khẳng định rằng, chính quy hoạch công nghiệp không hợp lý đã tạo nên
những điểm nóng về môi trờng và xã hội ở các khu kinh tế trọng điểm nh
thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dơng, Đồng Nai, Hà Nội. Những hạn chế của
các công cụ tài chính kỹ thuật và chính sách đối với các nguồn lực đầu vào
của sản xuất đã không tạo đủ động lực và điều kiện để doanh nghiệp đổi mới
công nghệ, thay đổi hành vi ứng xử phù hợp với mục tiêu PTBV công nghiệp.
Với những lý do đã nêu trên, đề tài "Chính sách thơng mại và công
nghiệp nhằm phát triển bền vững công nghiệp Việt Nam" có ý nghĩa cấp
thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và

ngoài nớc liên quan đến PTBV công nghiệp và chính sách phát triển để thực

5
hiện PTBV công nghiệp. Nhng cha có công trình nào đợc công bố nghiên
cứu chính sách thơng mại và công nghiệp nhằm thực hiện PTBV công nghiệp.
Có thể tìm thấy một số nội dung có liên quan với chủ đề trên ở trong
những công trình thuộc 2 nhóm sau đây:
a) Nhóm các công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về phát triển
bền vững công nghiệp.
Các công trình thuộc nhóm này đều tập trung vào những nội dung sau
đây:
- Quá trình nhận thức về PTBV; xây dựng Chơng trình nghị sự 21 trên
thế giới và ở Việt Nam, trong đó, có chơng trình PTBV công nghiệp.
- Khai thác tài nguyên và phát triển các lĩnh vực, các ngành gắn với PTBV.
- Các tiêu chí phát triển bền vững công nghiệp ở Việt Nam.
Tiêu biểu cho nhóm này bao gồm những công trình sau đây:
1. Trong khuôn khổ của dự án VIE/021/01 đã có 6 Tập bài giảng phát triển
bền vững của các cơ sở đào tạo sau đây đã đợc viết và in thành sách (2006):
- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Kinh tế và Phát triển
- Đại học Kinh tế quốc dân - Khoa Kinh tế - Quản lý tài nguyên môi
trờng và đô thị.
- Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Học viện Hành chính quốc gia.
- Trờng Đại học S phạm Hà Nội - Viện Nghiên cứu s phạm.
- Trờng Cao đẳng Kế hoạch Đà Nẵng.
2. United Conference on Environment and Development (1992),
Chơng trình nghị sự 21 (tiếng Anh).
3. Vandineam, A (2001), phát triển bền vững: Lý thuyết và quá trình
thực hiện chuyển đổi hệ thống kinh tế xã hội theo hớng bền vững, UNESCO.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu t (2006), Bộ chỉ tiêu và cơ sở dữ liệu giám sát

phát triển bền vững ở Việt Nam.
b) Các công trình nghiên cứu về tác động của công nghiệp và chính
sách phát triển công nghiệp theo định hớng phát triển bền vững.

6
Những nội dung chủ yếu đợc nghiên cứu ở trong nhóm các công trình
này là:
- Tác động của phát triển công nghiệp và phát triển khu công nghiệp đối
với PTBV ở Việt Nam.
- Chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam từ những năm đổi mới
đến 2005 và tác động của nó đến PTBV công nghiệp chủ yếu trên nội dung
kinh tế.
- Kinh nghiệm quốc tế về phát triển khu công nghiệp.
- Phân tích sự kết hợp giữa các chính sách trong phát triển công nghiệp.
- Quá trình đô thị hóa gắn với phát triển khu công nghiệp.
- Đề xuất các giải pháp phát triển công nghiệp của Việt Nam trong
những năm tới.
Tiêu biểu cho nhóm này có thể kể đến những công trình sau đây:
1. Bộ Kế hoạch và Đầu t (2006), ảnh hởng của chính sách phát triển
các khu công nghiệp tới phát triển bền vững ở Việt Nam; Dự án "Hỗ trợ xây
dựng và thực hiện chơng trình nghị sự quốc gia Việt Nam" VIE/01/021.
2. Phan Đăng Tuyết - Lê Minh Đức (2005), Chính sách công nghiệp
theo định hớng phát triển bền vững, Bộ Kế hoạch và Đầu t Dự án "Hỗ trợ
xây dựng và thực hiện Chơng trình nghị sự 21 quốc gia của Việt Nam
VIE/01/021.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu t (2006), Chính sách phát triển bền vững ở
Việt Nam, Dự án "Hỗ trợ xây dựng và thực hiện Chơng trình nghị sự 21 quốc
gia Việt Nam" VIE/02/021, H.
4. Bộ Thơng mại - Viện Nghiên cứu thơng mại - Trung tâm T vấn và
Đào tạo kinh tế thơng mại (1998), Thơng mại - môi trờng và phát triển bền

vững ở Việt Nam, H.
5. Ngân hàng thế giới (1995), Việt Nam - Báo cáo kinh tế về công
nghiệp hóa và chính sách công nghiệp, Vụ Khu vực 1, Khu vực Đông á và
Thái Bình Dơng, NXB Thế giới, H.

7
6. Trần Văn Thọ (1997), Công nghiệp Việt Nam trong thời đại Châu
á - Thái Bình Dơng, NXB thành phố Hồ Chí Minh - Thời báo Kinh tế Sài
Gòn VAPEC.
7. Kenichi Ohno và Nguyễn Văn Thờng (2005), Hoàn thiện chiến lợc
phát triển công nghiệp Việt Nam, NXB Lý luận chính trị, H.
8. Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (Jica) - Đại học Kinh tế quốc dân
(2004), Chính sách công nghiệp và chính sách thơng mại của Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập, NXB Thanh Hóa.
9. Bộ Kế hoạch và Đầu t (2004), Phát triển bền vững, Kỷ yếu Hội nghị
phát triển bền vững toàn quốc lần thứ nhất - Dự án VIE/01/021, H.
10. Bộ Kế hoạch và Đầu t (2006), 15 năm xây dựng và phát triển khu
công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam (1991 - 2006), kỷ yếu Hội thảo quốc
gia tại Long An.
11. Bộ Kế hoạch và Đầu t (2006), Kỷ yếu Hội nghị phát triển bền vững
toàn quốc lần thứ hai, H.
12. Nguyễn Thế Chinh (1999), áp dụng các công cụ kinh tế để nâng
cao năng lực quản lý môi trờng ở Hà Nội, NXB Chính trị Quốc gia, H.
13. Bộ T pháp (2005), Đánh giá thực trạng áp dụng các công cụ kinh
tế trong quản lý môi trờng ở Việt Nam hiện nay - Giải pháp hoàn thiện, Kỷ
yếu hội thảo khoa học, H.
14. Nguyễn Thị Hờng (2005), "Kết hợp đồng bộ các giải pháp để tiết
kiệm tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trờng trong chiến lợc phát triển
bền vững ở Việt Nam", Tạp chí Ngân hàng, số 6/2005.
15. Nguyễn Bá Ân (2004), Phân cấp quản lý và việc lồng ghép phát

triển trong công tác quy hoạch của các địa phơng, Diễn đàn Chơng trình
nghị sự địa phơng ngày 16/12/2004.

8
3. Mục tiêu, đối tợng và phạm vi nghiên cứu
a) Mục tiêu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của chính sách thơng
mại và công nghiệp với PTBV công nghiệp để trên cơ sở đó đề xuất những
giải pháp chủ yếu hoàn thiện chính sách thơng mại và công nghiệp nhằm
phát triển bền vững công nghiệp Việt Nam.
b) Đối tợng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu chính sách thơng mại và công nghiệp nhằm PTBV
công nghiệp Việt Nam.
c) Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các công cụ chủ yếu của chính sách
thơng mại và công nghiệp có tác động đồng thời đối với cả ba nội dung
của PTBV về kinh tế, xã hội và môi trờng.
- Về thời gian: Từ năm 1991 đến nay:
4. Nội dung nghiên cứu
Để đạt đợc mục tiêu nêu trên, đề tài tập trung vào giải quyết các nội
dung cơ bản sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận và nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về chính
sách thơng mại và công nghiệp đối với PTBV công nghiệp.
- Phân tích và đánh giá thực trạng của chính sách thơng mại và công
nghiệp nhằm PTBV công nghiệp Việt Nam.
- Đề xuất, định hớng và giải pháp hoàn thiện chính sách thơng mại
và công nghiệp nhằm PTBV công nghiệp Việt Nam đến 2020.

9
Phần thứ nhất

Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế
về chính sách thơng mại và công nghiệp
nhằm phát triển bền vững công nghiệp

1.1. Nhận thức cơ bản về phát triển bền vững công nghiệp
1.1.1. Nhn thc chung v phỏt trin bn vng Vit nam v v trớ
ca PTBV cụng nghip trong s phỏt trin ú
1.1.1.1. Nhn thc chung v PTBV Vit Nam
Trong quỏ trỡnh nhn thc v xut cỏc chớnh sỏch phỏt trin trc
õy ch mi cp ch yu n cỏc li ớch ca cỏc th h hin ti ch cha
quan tõm n phỳc li ca cỏc th h tng lai. Tuy nhiờn, trong khi hng t
i
cuc sng tt p hn thỡ con ngi li luụn gõy ra nhng thit hi bi cỏc hot
ng kinh t v phỏt trin i vi ti nguyờn thiờn nhiờn v h sinh thỏi ton
cu. Nhng vn ú e da n s n nh ca quỏ trỡnh phỏt trin v buc
con ngi phi thng nht hnh ng i n s phỏt trin bn vng hn.
Nm 1980, Hip h
i quc t v bo v thiờn nhiờn v ti nguyờn thiờn
nhiờn (IUCN) ó a ra Chin lc bo ton th gii vi mc tiờu tng th
l t c s phỏt trin bn vng bng cỏch bo v cỏc ti nguyờn sng.
Trong chin lc ny, ln u tiờn cp ti PTBV nhng mi ch hiu
PTBV vi mt ni dung hn hp l phỏt trin bn vng v mt sinh thỏi.

n nm 1987, Hi ng Th gii v Mụi trng v Phỏt trin
(WCED) ca Liờn hp quc trong Bỏo cỏo Tng lai chung ca chỳng ta
do b Gro Harlem Brundtland lm Ch tch ó a ra khỏi nim Phỏt trin
bn vng l s phỏt trin ỏp ng c nhng nhu cu ca hin ti, nhng
khụng lm tn hi n kh nng ỏp ng nhu cu ca cỏc th h tng lai
.
Thỏng 6/1992, Hi ngh Thng nh Trỏi t v Mụi trng v Phỏt

trin c t chc Rio de Janeiro (Brazil) ó a ra bn tuyờn ngụn V

10
Môi trường và Phát triển” đã tái khẳng định khái niệm trên và cùng thỏa thuận
một chương trình nghị sự Phát triển bền vững gọi là Agenda 21.
Mười năm sau, năm 2002, Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển
bền vững được tổ chức ở Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) đã xác định
PTBV là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3
mặt của sự
phát triển, đó là: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi
trường. Tại hội nghị này đã xác định phải xúc tiến và thực hiện Agenda 21 và
đã đề ra các mục tiêu cho thiên niên kỷ 21.
PTBV là xu thế chung mà toàn nhân loại đang nỗ lực thực hiện. Đó
cũng là mục tiêu chiến lược quan trọng mà Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt
nam đang phấn đấu để quyết tâm biến thành hiện thực trong tương lai. Chính
phủ
Việt nam đã cử các đoàn cấp cao tham gia các hội nghị quốc tế và cam
kết thực hiện PTBV; đã ban hành và tích cực thực hiện “Kế hoạch quốc gia về
môi trường và Phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000, tạo tiền đề cho
PTBV ở Việt Nam. Quan điểm PTBV đã được khẳng định trong Chỉ thị số
36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ chính trị về tămg cường công
tác bả
o vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, trong đó nhấn
mạnh “bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong
đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tất cả các cấp,
các ngành, là cơ sở quan trọng đảm bảo PTBV, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước”. Quan điểm PTBV đ
ã được tái khẳng định trong các
văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và lần thứ X của Đảng
cộng sản Việt Nam.

Chính phủ Việt Nam đã ban hành “Định hướng chiến lược phát triển
bền vững ở Việt Nam” (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam)
1
. Có thể nêu
tóm tắt mục tiêu, những nguyên tắc chính và những lĩnh vực hoạt động cần ưu
tiên thể hiện trong Định hướng chiến lược PTBVở Việt Nam như sau:


1
Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 17 tháng 8 năm 2004 Về việc ban hành
Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt nam

11
- Về mục tiêu:
“Mục tiêu tổng quát của PTBV là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự
giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng
thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết
hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã
hội và bảo vệ môi trường”.
“Mục tiêu PTBV v
ề kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn định với cơ
cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống nhân dân, tránh
được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại gánh nặng nợ nần
lớn cho các thế hệ mai sau”.
“Mục tiêu của PTBV về xã hội là đạt được kết quả cao trong thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, bả
o đảm chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm
sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được nâng cao, mọi người có cơ hội được
học hành và có việc làm, giảm tình trạng đói nghèo và hạn chế khoảng cách
giàu nghèo giữa các tầng lớp và các nhóm xã hội, giảm các tệ nạn xã hội,

nâng cao mức độ công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên và
giữa các thế hệ trong một xã hội, duy trì và phát huy được tính đa dạ
ng và bản
sắc văn hóa dân tộc, không ngừng nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật
chất và tinh thần”.
“Mục tiêu của PTBV về môi trường là khai thác hợp lý, sử dụng tiết
kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý
và kiểm sóat có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống;
bảo vệ được các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ
sinh
quyển và bảo tồn sự đa dạng sinh học; khắc phục suy thóai và cải thiện chất
lượng môi trường”.
1.1.1.2. Vị trí của PTBV công nghiệp trong PTBV ở Việt Nam
Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, quá trình tăng
trưởng kinh tế đồng thời là quá trình chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa. Theo xu hướng đó, qui mô, tỷ trọng của công nghiệp

12
trong cơ cấu kinh tế ngày càng tăng, số lượng các ngành công nghiệp chuyên
môn hóa ngày càng nhiều và trở nên đa dạng hơn. Đồng thời do đặc điểm
riêng của sản xuất công nghiệp, lĩnh vực này tác động rất mạnh đến sự phát
triển của các ngành kinh tế khác và toàn bộ hoạt động của nền kinh tế quốc
dân trên tất cả các mặt kinh tế xã hội và môi trường. Vì lẽ đó, sự phát tri
ển
của công nghiệp có tác động to lớn đến PTBV của đất nước.
- Tác động của công nghiệp đối với PTBV về kinh tế
Sự phát triển của công nghiệp ảnh hưởng đến PTBV về kinh tế của đất
nước thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, trong quá trình công nghiệp hóa đất nước công nghiệp là
ngành có tốc độ tăng trưởng vượt trội so với các ngành khác, đặc biệt là so

vớ
i nông nghiệp.
Điều này bắt nguồn từ đặc điểm của sản xuất công nghiệp có đầu vào
phong phú, đa dạng không bị ràng buộc chặt vào chỉ một số nguồn lực tự
nhiên không thể thay thế được như đối với sản xuất nông nghiệp. Nhờ vậy,
qui mô sản xuất công nghiệp có điều kiện tăng nhanh hơn gập bội so với nông
nghiệp. M
ặt khác, các ngành công nghiệp cũng thường có năng suất lao động
cao hơn do quy trình sản xuất công nghiệp có thể phân chia thành các công
đoạn khác nhau để thực hiện, chuyên môn hoá sâu (sản xuất công nghiệp
không thể thực hiện được do gắn liền với chu kỳ sống của cây con). Nhờ đó,
tổng cung trong công nghiệp có điều kiện tăng nhanh.
Bên cạnh đó, sự phát triển của công nghiệp thu hút một lực lượng lao
động lớ
n có năng suất lao động ngày càng cao, tiền lương và thu nhập từ công
nghiệp tăng nhanh tạo điều kiện tăng chi tiêu của các hộ gia đình. Hơn nữa,
khi thu nhập bình quân đầu người tăng lên, thì tỷ trọng chi tiêu dành cho các
sản phẩm công nghiệp tăng nhanh. Vì thế, tổng cầu các sản phẩm công nghiệp
tăng nhanh.

13
Thứ hai, công nghiệp có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của đất nước theo hướng CNH, HĐH.
Sự tăng trưởng vượt trội của công nghiệp làm cho tỷ trọng của công
nghiệp trong nền kinh tế ngày càng gia tăng, trình độ phân công lao động xã
hội và chuyên môn hóa sản xuất ngày càng trở nên sâu sắc, nhiều ngành nghề
mới xuất hiện và tăng trưởng nhanh, sự thay đổi về công ngh
ệ cũng diễn ra
thường xuyên hơn. Những thay đổi đó làm cho CNH, HĐH đất nước ngày
càng đạt trình độ cao hơn.

Công nghiệp phát triển cũng có tác động tích cực đến sự phát triển của
nông nghiệp và dịch vụ. Một mặt, công nghiệp cung cấp các tư liệu sản xuất
với qui mô ngày càng lớn, hiện đại và phong phú nhằm đáp ứng các nhu cầu
ngày càng cao và đa dạng của nông nghiệp và dịch vụ
. Mặt khác, sự phát triển
của công nghiệp tạo thị trường cho sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ. Đồng
thời, đòi hỏi nông nghiệp và dịch vụ phải thay đổi theo yêu cầu của sự phát
triển của công nghiệp cả về qui mô và trình độ của phát triển, nghĩa là đòi hỏi
nông nghiệp và dịch vụ cũng phát triển theo hướng CNH, HĐH.
Tóm lại, nếu như công nghiệp t
ăng trưởng cao và liên tục trong một
thời gian dài gắn với quá trình CNH, HĐH và gia tăng năng lực nội sinh của
mình, đặc biệt là trình độ khoa học công nghệ; đồng thời tác động tích cực
vào sự phát triển của các ngành nông nghiệp và dịch vụ, thì công nghiệp sẽ
đóng góp quan trọng cho sự PTBV về kinh tế của đất nước.
- Tác động của công nghiệp đối với phát triển bền vững về xã hộ
i
Sự phát triển của công nghiệp ảnh hưởng đến PTBV về xã hội của đất
nước thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, sự phát triển của công nghiệp tác động nâng cao năng suất
lao động trong nông nghiệp và tạo điều kiện để thu hút lực lượng lao động dư
thừa trong nông nghiệp vào các ngành công nghiệp và các ngành có liên quan.
Thứ hai, sự phát triển của công nghiệp gắn liền vớ
i quá trình đô thị hóa
và phân bố lại dân cư và lao động. Việc phân bố lại được thực hiện theo

14
hướng: tỷ trọng dân cư và lao động khu vực nông thôn giảm dần, tỷ trọng dân
cư và lao động trong khu vực đô thị tăng dần; tỷ trọng lao động trong nông
nghiệp giảm dần và tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ tăng dần.

Thứ ba, sự phân bố công nghiệp trên không gian lãnh thổ một cách hợp
lý tạo điều kiện khai thác được tiềm năng, thế mạ
nh của từng vùng vào phát
triển công nghiệp và tạo điều kiện phát triển kinh tế vùng. Nhờ đó, việc huy
động các nguồn lực tại chỗ, đặc biệt là lực lượng lao động của vùng tham gia
vào hoạt động kinh tế, tạo việc làm tăng thu nhập, nhờ đó giảm bớt chênh lệch
về kinh tế - xã hội giữa các vùng và thực hiện xóa đói giảm nghèo.
- Tác động của công nghiệp
đối với phát triển bền vững về tài
nguyên và môi trường
Dưới sự phát triển của khoa học công nghệ công nghiệp ngày càng sản
xuất ra những thiết bị, sản phẩm, công nghệ tiết kiệm tài nguyên, thân thiện
hơn với môi trường và góp phần xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường. Tuy
nhiên, công nghiệp cũng là ngành gây ra phát thải nhiều nhất: phát thải từ một
bộ phận của tài nguyên thiên nhiên không được sử dụng trong quá trình khai
thác và ch
ế biến các sản phẩm công nghiệp; phát thải từ các sản phẩm công
nghiệp được sử dụng trong các ngành nông nghiệp và dịch vụ; phát thải do
con người tiêu dùng các sản phẩm công nghiệp. Mặt khác, do công nghiệp là
ngành sản xuất có quy mô tiêu thụ nguồn lực đầu vào rất lớn, do đó mức độ
phát thải hết sức lớn và trong đó chứa đựng nhiều chất độc hại. Như vậy, có
thể nói công nghi
ệp là ngành có tác động tiêu cực lớn nhất đến tình trạng cạn
kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường.
Tóm lại, công nghiệp có tác động to lớn đến PTBV của quốc gia trên
tất cả các mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Những tác động đó có thể là
những tác động tích cực hoặc tiêu cực. Để phát huy tác động tích cực đến
PTBV của nền kinh tế bản thân công nghiệp phải được PTBV và tạo điều kiệ
n
để các ngành kinh tế quốc dân khác PTBV. Công nghiệp ngày càng có vai trò

quan trọng trong phát triển kinh tế ở giai đoạn CNH, HĐH của nước ta hiện

15
nay. Đồng thời, xuất phát từ những tác động của công nghiệp đối với PTBV
như đã nêu trên, có thể kết luận rằng, công nghiệp Việt Nam là ngành có vai
trò quan trọng nhất đối với PTBV của đất nước.
1.1.2. Nhận thức về phát triển bền vững công nghiệp
1.1.2.1. Đặc điểm và tính chất của sản xuất công nghiệp
Công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành sản xuất vật chất củ
a nền
kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, công nghiệp có những đặc trưng khác so với
nông nghiệp cả về đối tượng lao động, công nghệ sản xuất và đặc điểm các
sản phẩm do công nghiệp sản xuất ra.
Đối tượng lao động trong sản xuất công nghiệp là toàn bộ các nguồn tài
nguyên thiên nhiên mà con người có thể khai thác và chế biến theo phương
pháp công nghiệp. Các mỏ khoáng sản nằm sâu trong lòng đất hay dưới đáy
đại dương là
đối tượng của ngành công nghiệp khai mỏ. Các loại nguyên liệu,
nhiên liệu từ công nghiệp khai khoáng, các loại nguyên liệu động thực vật từ
các ngành nông, lâm, thủy sản là đối tượng của công nghiệp chế biến; năng
lượng mặt trời, sức gió, sức nước, thủy triều…cung cấp năng lượng cho sản
xuất điện năng. Các chất phế thải từ công nghiệp, từ sinh hoạt củ
a con người
và từ hoạt động y tế cũng là đối tượng của sản xuất công nghiệp.
Công nghệ sản xuất được sử dụng trong công nghiệp chủ yếu là quá
trình tác động trực tiếp bằng phương pháp cơ lý hóa để biến đổi các nguyên
liệu ban đầu thành các sản phẩm trung gian cho đến các sản phẩm cuối cùng
khác nhau về chất so với đặc tính ban đầu của chúng. Những công nghệ này
ngày càng phong phú muôn hình muôn vẻ
dưới sự phát triển mạnh mẽ của

khoa học công nghệ.
Sản phẩm công nghiệp do con người sáng tạo ra có khả năng đáp ứng
nhiều loại nhu cầu của sản xuất và đời sống. Gắn với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, đặc biệt là sự phát triển của quá trình chuyên môn hóa sản
xuất và sự phát triển của khoa học công nghệ, các sản ph
ẩm công nghiệp ngày
càng trở nên phong phú cả trong việc thỏa mãn nhu cầu muôn màu muôn vẻ

16
của sản xuất và đời sống, cũng như trong nguyên liệu sử dụng, trong cấu trúc
của sản phẩm và phương pháp cụ thể để sản xuất chúng.
Những đặc trưng trên đã đem đến cho quá trình sản xuất và tiêu dùng
các sản phẩm công nghiệp những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, công nghiệp có trình độ tập trung hóa, chuyên môn hóa và
hợp tác hóa trong sản xuất công nghiệ
p rất cao.
Tập trung hóa sản xuất giúp cho công nghiệp có điều kiện phát huy
hiệu quả kinh tế theo qui mô nhờ giảm chi phí cố định trên một đơn vị sản
phẩm sản xuất và tiêu thụ. Chuyên môn hóa và việc mở rộng quan hệ hợp tác
sản xuất nhằm phát huy mạnh mẽ hơn hiệu quả của quá trình chuyên môn hóa
sản xuất nhờ tăng năng suất lao động. Chuyên môn hóa và hợp tác hóa mang
tính toàn cầu hiệ
n nay khiến cho mỗi quốc gia có thể lựa chọn một số loại sản
phẩm hay một số khâu nhất định trong sản xuất sản phẩm (trong chuỗi chế
biến từ nguyên liệu ban đầu đến sản phẩm cuối cùng) hoặc một số chi tiết, bộ
phận nhất định của sản phẩm… để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu trong
việc sản xuất một lo
ại sản phẩm nhất định. Vấn đề đặt ra là việc tổ chức sản
xuất công nghiệp trong nước và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu như thế
nào để không chỉ phát huy tiềm năng, lợi thế hiện có của đất nước mà còn

nhanh chóng vươn tới những khâu có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị
toàn cầu nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của sản xuất công nghiệp.
Thứ
hai, công nghiệp tiêu thụ các nguồn lực đầu vào lớn.
Do sản xuất có thể phát triển với qui mô lớn, nên công nghiệp cũng là
ngành tiêu thụ các nguồn lực đầu vào lớn. Tùy theo trình độ tập trung hóa sản
xuất, đặc điểm sử dụng các nguồn lực đầu vào của các ngành công nghiệp
chuyên môn hóa và trình độ công nghệ sản xuất mà mô hình tiêu thụ các
nguồn lực đầu vào khác nhau. Những ngành công nghiệp may, giày dép, chế
biến nông lâm thủy sản là nh
ững ngành “sử dụng nhiều lao động, tốn ít vốn”,
trong khi các ngành công nghiệp xi măng, sắt thép, lọc và hóa dầu…. lại là
những ngành “sử dụng nhiều vốn, ít lao động”. Các ngành khai thác và chế

17
biến các sản phẩm thô là “ngành sử dụng nhiều tài nguyên” hơn là các ngành
công nghiệp chế biến có độ chế biến sâu hơn. Cùng một ngành công nghiệp
nhưng cơ sở sản xuất nào có công nghệ khai thác và chế biến thấp hơn thì tiêu
tốn tài nguyên hơn…Như vậy, việc lựa chọn cơ cấu các ngành công nghiệp
chuyên môn hóa có ảnh hưởng lớn đến việc thu hút và sử dụng các nguồn lực
sản xuấ
t của quốc gia.
Thứ ba, công nghiệp có khả năng đổi mới công nghệ tương đối nhanh.
Điều này xuất phát từ trình độ phát triển khoa học công nghệ nói chung
và trong công nghiệp nói riêng, đặc điểm của sản xuất công nghiệp cũng như
những yêu cầu của thực tế sản xuất và đời sống xã hội, trực tiếp là yêu cầu
nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả c
ủa sản xuất công nghiệp. Công
nghệ sản xuất trong công nghiệp luôn hàm chứa hai mặt. Nhờ công nghệ mới
giúp cho sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực, phát hiện và sử

dụng các loại vật liệu và năng lượng mới thay thế các nguồn lực khan hiếm,
sản xuất ra những sản phẩm mới đáp ứng yêu cầu của sản xuất và đời sống,
t
ạo ra những vật liệu mới và phương pháp sản xuất mới, các sản phẩm mới
ngày càng “thân thiện” hơn với môi trường hoặc giúp con người giải quyết
vấn đề ô nhiễm môi trường. Mặt khác, những công nghệ mới cũng luôn tiềm
ẩn những nguy cơ mới gắn với bản thân những công nghệ, công cụ, vật liệu
và năng lượng mới mà con người sử dụng, trong nhiều tr
ường hợp là không
lường trước được
1
.
Thứ tư, công nghiệp có khả năng phân bố trên mọi vùng lãnh thổ.
Các ngành công nghiệp do điều kiện sản xuất ít phụ thuộc vào điều
kiện tự nhiên, nên có thể phân bố trên mọi vùng không gian lãnh thổ (ngoại
trừ các ngành công nghiệp khai khoáng đòi hỏi cần phải gắn liền với các mỏ
khoáng sản được phân bố theo tự nhiên). Đây là điều kiện thuận lợi để trong


1
Chẳng hạn, để khắc phục tình trạng khan hiếm của dầu mỏ con người có thể sử dụng nhiên liệu sinh học
hoặc thay thế một cách phổ biến bằng cách sử dụng năng lượng nguyên tử. Sử dụng nguyên liệu sinh học tạo
ra nguy cơ mới về an toàn lương thực. Sử dụng rộng rãi năng lượng nguyên tử sẽ đối mặt với ô nhiễm và
không an toàn củ
a loại năng lượng này….

18
qui hoạch phát triển công nghiệp có thể giải bài toán phát triển công nghiệp
gắn với yêu cầu về hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường. Xuất phát từ yêu
cầu hiệu quả kinh tế trong sản xuất công nghiệp (một số ngành công nghiệp

chế biến cần phải xây dựng nhà máy gần với cơ sở nguyên liệu, trong khi một
số cơ sở khác lại gắn với thị trường tiêu th
ụ…) và những yêu cầu xã hội và
môi trường mà bài tóan phân bố công nghiệp trên không gian lãnh thổ trong
qui hoạch phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia, địa phương và vùng lãnh
thổ, cũng như qui hoạch phát triển một ngành công nghiệp chuyên môn hóa
cụ thể là rất cần thiết. Qui hoạch không gian lãnh thổ trong sản xuất công
nghiệp không hợp lý sẽ không tận dụng được không gian một cách hiệu quả
nhằm giải quyết nhu cầu đa dạ
ng và lâu dài cho phát triển công nghiệp, trong
khi lại làm gia tăng khoảng cách kinh tế-xã hội trong phát triển vùng. Sai lệch
trong phân bổ công nghiệp theo vùng cũng tác động không nhỏ đến vấn đề ô
nhiễm môi trường. Những nơi tập trung công nghiệp và dân cư quá lớn tạo ra
áp lực rất lớn trong vấn đề giảiq uyết môi trường và hàng loạt vấn đề xã hội
nảy sinh.
Thứ tư, sản xuất công nghiệp đi liền với phát th
ải lớn.
Sản xuất công nghiệp luôn luôn là một quá trình bao gồm hai mặt. Một
mặt, đó là quá trình khai thác và chế biến các nguồn tài nguyên thiên nhiên,
mặt khác, đó cũng là quá trình phát thải. Việc phát thải nảy sinh không chỉ từ
bản thân quá trình sản xuất công nghiệp, mà còn từ việc tiêu dùng các sản
phẩm công nghiệp.
Qui mô và tính chất nguy hại của các loại rác thải phụ thuộc vào:
- Trình độ tập trung hóa của sản xuất công nghiệp. Công nghiệp có qui
mô sả
n xuất càng lớn thì qui mô của phát thải càng lớn.
- Đặc điểm của các ngành công nghiệp chuyên môn hóa trong việc khai
thác, sử dụng và chế biến các loại tài nguyên thiên nhiên. Những ngành sản
xuất công nghiệp thiên về sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhất là những
ngành công nghiệp sản xuất các sản phẩm thô xuất khẩu sẽ có qui mô phát


19
thải lớn hơn các ngành công nghiệp có độ chế biến sâu hơn. Tính chất gây hại
cho môi trường cũng rất khác nhau tùy thuộc vào các loại tài nguyên thiên
nhiên mà ngành công nghiệp đó sử dụng.
- Trình độ công nghệ trong sản xuất công nghiệp có ảnh hưởng rất lớn
đến việc tiêu thụ nguyên nhiên vật liệu năng lượng cũng như khả năng phát thải
của sản xuất công nghiệp. Nếu khai thác và sử dụng kh
ối lượng tài nguyên
thiên nhiên lớn trong khi công nghệ khai thác và chế biến lạc hậu sẽ dẫn đến
hậu quả kép: tiêu hao tài nguyên thiên nhiên trong một đơn vị sản phẩm lớn
làm tăng chi phí sản xuất, gây lãng phí tài nguyên thiên nhiên và phát thải lớn.
- Tiêu dùng các sản phẩm công nghiệp cũng tạo ra lượng chất thải lớn
về bao bì (nhất là các loại bao nilông phải có thời gian hàng trăm năm mới
phân hủy được), về hóa chất (nhất là sơn và các ch
ất tẩy rửa), nhiên liệu (nhất
là xăng dầu sử dụng trong giao thông vận tải) và các loại phế liệu khi các sản
phẩm công nghiệp (máy móc, thiết bị và các tiện nghi, đồ dùng gia đình…) bị
loại bỏ khi đã hết thời hạn sử dụng.
- Năng lực xử lý các chất thải và kiểm soát môi trường của các cơ sở
sản xuất công nghiệp. Nếu các cơ sở sản xu
ất công nghiệp không quan tâm
đến xử lý các chất thải công nghiệp do chính mình là tác nhân gây ra sẽ làm
cho qui mô và tính nguy hại của rác thải ngày càng lớn đối với môi trường,
nhất là khi nó đã vượt quá giới hạn cho phép.
Đặc điểm của tiêu hao nguyên liệu, năng lượng và phát thải trong công
nghiệp là vấn đề có ảnh hưởng ngoại ứng tiêu cực điển hình theo kiểu “kẻ ăn
ốc, người đổ vỏ” “quýt làm cam chịu” mang tính liên ngành, liên vùng và
đụng chạm
đến lợi ích của nhiều bên. Phát triển công nghiệp chế biến gỗ có

thể tác động trực tiếp đến sự tồn vong của các cánh rừng nhiệt đới là tác nhân
của tình trạng lũ quét, lũ ống, tình trạng rửa trôi, xói mòn, thoái hóa đất, tình
trạng sa mạc hóa, hủy hoại tính đa dạng sinh học, sự thiếu bền vững và phát
huy hiệu quả của các công trình thủy lợi, thủy điện và đời số
ng cũng như điều
kiện sống của những cư dân sống gắn với rừng.

20
Thứ sáu, sản xuất công nghiệp là nơi nảy sinh nhiều vấn đề trực tiếp
liên quan đến kinh tế - xã hội - môi trường; đến lợi ích kinh tế của nhiều bên:
Chủ doanh nghiệp - Người lao động - Dân địa phương sống gần nơi doanh
nghiệp đóng - Nhà nước.
Doanh nghiệp sản xuất cong nghiệp vừa là đơn vị kinh tế; vừa là đơn vị
xã hội tập trung một lự
c lượng lao động tương đối lớn (tùy theo qui mô doanh
nghiệp); vừa là nơi sử dụng tài nguyên thiên nhiên và phát thải. Mục tiêu tối
đa hóa lợi ích của chủ doanh nghiệp có thể gây ra cách nhìn nhận vấn đề và
cách giải quyết phiến diện không đúng với trách nhiệm pháp ý của mình đối
với người lao động (những vấn đề liên quan đến tiền lương và bảo hiểm xã
hội, chế độ làm việc, điề
u kiện vệ sinh, sức khỏe và an toàn lao động, chế độ
nhà ở và các lợi ích chính đáng khác…); thiếu trách nhiệm xã hội trong vấn
để bảo vệ môi trường ảnh hưởng đến thu nhập và điều kiẹn sống của nhân dân
địa phương, đến giữ gìn và bảo tồn giá trị văn hóa lịch sử của địa phương;
thiếu trách nhiệm trong việc thực thi nghĩa vụ với nhà nước gây tổn h
ại
nghiêm trọng đến PTBV.
1.1.2.2. Nội dung của phát triển bền vững công nghiệp và các chỉ tiêu
phát triển bền vững công nghiệp
Khái niệm “phát triển bền vững công nghiệp” cũng có thể tiếp khái

niệm PTBV nói chung đã được quốc tế thừa nhận:“Phát triển bền vững là quá
trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự
phát triển, đó là: phát triển kinh tế, phát tri
ển xã hội và bảo vệ môi trường”.
Tuy nhiên, nhận thức như vậy còn quá xa để đưa ra một mô hình phát triển
công nghiệp hướng tới bền vững. Trong công nghiệp thể hiện rất điển hình bất
kỳ một hoạt động nào cũng tác động đến cả ba mặt kinh tế-xã hội-môi trường.
Để giải quyết một vấn đề nào của kinh tế, xã hội, môi trường cũng cần ph
ải
tính đến tất cả các yếu tố kinh tế - xã hội - môi trường.
Hơn nữa, do qui mô,
phạm vi, tính chất, phương thức và kết quả của các tác động của công nghiệp
đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội và môi trường là rất khác so với các

21
lĩnh vực khác, cho nên cần phải có cách hiểu cụ thể hơn đối với “phát triển
bền vững trong công nghiệp. Khái niệm phát triển bền vững công nghiệp do
Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên Hợp quốc (UNIDO) tại Hội nghị
Copenhagen, tháng 10/1991đã đưa ra như là: “những mô hình (pattern) công
nghiệp hóa hướng vào các lợi ích về kinh tế và xã hội của thế hệ hiện tại và các
thế hệ sau mà không làm tổn hạ
i tới quá trình sinh thái nền”. Khái niệm này đã
chứa đựng những nội dung cụ thể hơn. Đồng thời, tại hội nghị này những tiêu
chí cụ thể hơn cũng đề cập đến, trong đó có 3 tiêu chí quan trọng là:
- Bảo vệ năng lực sinh thái.
- Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực con người, nguyên vật liệu và
năng lượng.
- Công bằng trong chia sẻ gánh nặng về môi trường, xã hội và các
thành quả công nghiệp hóa.
PGS, TS Phan Đăng Tuất và tác giả Lê minh Đức trong “Chính sách

công nghiệp theo định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam
1
” không chỉ
dừng lại ở phân tích khái niệm, mà đã đưa ra 5 tiêu chí nhằm cụ thể hóa hơn
trong định hướng cho phát triển bền vững công nghiệp Việt Nam như sau:
Tiêu chí 1: Tăng trưởng bền vững bao hàm cùng lúc các đảm bảo tăng
trưởng và chất lượng tăng trưởng thể hiện ở 3 yếu tố chính: giá trị gia tăng,
năng lực cạnh tranh và cơ cấu công nghiệp.
Tiêu chí 2: Tạo vị th
ế trong phân công quốc tế được đặt ra trong bối
cảnh hội nhập và tự do hóa thương mại.
Tiêu chí 3: Tiêu dùng bền vững công nghiệp bao gồm cả tiêu dùng sản
xuất và tiêu dùng sản phẩm công nghiệp nhằm đáp ứng nguyên tắc quan trọng
nhất của PTBV là hài hòa giữa phát triển và bảo vệ môi trường.
Tiêu chí 4: Doanh nghiệp bền vững phản ánh năng lực tự điều chỉnh và
thích nghi trong môi trường luôn biến độ
ng, hàm chứa không chỉ các nội dung


1
Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Dự án “Hỗ trợ xây dựng và thực hiện Chương trình Nghị sự 21 Quốc gia Việt
Nam” VIE/01/021- PGS,TS Phan Đăng Tuất và Lê Minh Đức “Chính sách công nghiệp theo định hướng phát
triển bền vững ở Việt Nam” Hà nội, tháng 11 năm 2005

22
về kinh tế mà còn là trách nhiệm xã hội đầy đủ của doanh nghiệp, chính là
trách nhiệm đối với môi trường và xã hội của doanh nghiệp.
Tiêu chí 5: Chia sẻ cơ hội thực hiện công bằng xã hội, phù hợp thể chế
chính trị và an ninh.
Kế thừa các khái niệm và tiêu chí về PTBV công nghiệp đã nêu trên,

đồng thời dựa trên những đặc điểm của sản xuất công nghiệp đặt trong mối
liên hệ
đến PTBV công nghiệp, theo chúng tôi, nội dung của PTBV công
nghiệp có thể được hiểu như sau:
* Nội dung và các chỉ tiêu PTBV công nghiệp về kinh tế
- Trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước công nghiệp ngày càng chiếm
tỷ trọng cao trong cơ cấu của nền kinh tế. Do đó, công nghiệp phải tăng
trưởng cao, liên tục và dài hạn để đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng tương
đối cao, liên tục và dài hạn. Đương nhiên, sự
tăng trưởng cao như vậy phải là
tăng trưởng của giá trị gia tăng (VA) chứ không phải là tăng trưởng nhanh giá
trị sản xuất công nghiệp (GO) bằng cách tăng nhanh các chi phí trung gian,
như kiểu các ngành chế biến sản phẩm thô hoặc gia công xuất khẩu.
- Tăng trưởng cao, liên tục và dài hạn của công nghiệp chỉ có thể thực
hiện được khi công nghiệp có năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh tế
cao.
Hiệu quả sản xuất công nghiệp thể hiện ở phương thức tăng trưởng phải chủ
yếu dựa vào hiệu quả sử dụng các yếu tố nguồn lực và được thể hiện qua
năng suất tổng hợp các nhân tố TFP (total Factor Produtivity). Trong điều
kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng đầy đủ,
toàn diệ
n và sâu sắc, thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh
tế cao là phương thức cơ bản để công nghiệp có thể duy trì sự tăng trưởng
cao, liên tục, lâu dài và đóng góp ngày càng cao vào sự tăng trưởng của nền
kinh tế đất nước.
- Cơ cấu công nghiệp tạo sự phát triển bền vững của công nghiệp và
thúc đẩy cơ cấu của nền kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH, H
ĐH.

23

Cơ cấu công nghiệp bền vững thể hiện ở một cơ cấu đa dạng nhưng
thống nhất, có khả năng hỗ trợ tốt cho nhau nhằm khai thác được tiềm năng
và lợi thế của đất nước để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh tế.
Tính đa dạng của cơ cấu bắt nguồn từ chỗ các nguồn lự
c cho sản xuất công
nghiệp là đa dạng, các sản phẩm công nghiệp đáp ứng nhu cầu muôn hình
muôn vẻ của sản xuất và đời sống là đa dạng, các qui trình và phương pháp
công nghệ trong sản xuất công nghiệp là đa dạng. Vì vậy, một cơ cấu đơn
điệu không thể khai thác được các nguồn lực đa dạng, công nghệ đa dạng và
các nhu cầu sản phẩm đa dạng. Tuy nhiên, tính đa d
ạng của cơ cấu phải tạo ra
sự liên kết và hỗ trợ tốt cho nhau giữa các ngành công nghiệp chuyên môn
hóa, chứ không phải là biệt lập, cô lập thậm chí đối lập nhau trong quá trình
phát triển. Phải tạo ra sự liên kết và hỗ trợ nhau giữa các ngành công nghiệp
chuyên môn hóa (giữa công nghiệp thượng, trung, hạ nguồn, công nghiệp phù
trợ; giữa công nghiệp xuất khẩu với các sản phẩm và công nghệ nhập khẩu),
giữ
a công nghiệp của các vùng và giữa công nghiệp của khu vực doanh
nghiệp nhà nước với công nghiệp của khu vực dân doanh trong nước và khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Cốt lõi của cơ cấu công nghiệp hiện đại phải là sự phát triển của các
ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao và độ chế biến sâu, được hỗ
trợ bởi hệ thống đổi mới và nghiên cứu phát triển (R&D) có năng lực
trở
thành động lực chính của tăng trưởng, quyết định nội dung về chất của cơ cấu.
Trong bối cảnh phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc bị thúc
đẩy bởi quá trình hội nhập kinh tế quốc tế công nghiệp Việt Nam mặc dù nhỏ
bé, song cũng phải xác định được chỗ đứng trong không gian chung và trở
thành một mắt xích quan trọng trong mạng lưới phân công quốc tế, từng bướ
c

hướng đến các “phân đoạn quốc tế” ngày càng có lợi cho phát triển trong một
số lĩnh vực công nghiệp.
Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo các xu hướng nói trên phải tạo
điều kiện thúc đẩy chuyển cơ cấu nông nghiệp và dịch theo hướng CNH-HĐH.

24
Từ những nội dung đã phân tích ở trên có thể đưa ra một số chỉ tiêu của
PTBV công nghiệp về kinh tế như sau:
- Tốc độ gia tăng của công nghiệp và đóng của nó vào tốc độ tăng của
nền kinh tế.
- Hiệu quả sản xuất thể hiện ở chỉ số VA (giá gia tăng) / GO (giá trị sản
xuất công nghiệp) và chỉ số ICOR của công nghiệp.
- Năng suất tổng hợp các nhân tố (TFP).
- Năng lực cạnh tranh của công nghiệp thể hiện ở năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp, sản phẩm công nghiệp và tác động của công nghiệp đối với
năng lực cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ.
- Tỷ trọng đóng góp của công nghiệp vào GDP tỷ trọng xuất khẩu công
nghiệp / Tổng kim ngạch xuấ
t khẩu, tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu có hàm
lượng khoa học và công nghệ / tổng giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp.
- Các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu và xu hướng thay đổi của cơ cấu nội bộ
ngành công nghiệp xét theo trình độ công nghệ, theo cấu trúc của các sản
phẩm công nghiệp, theo cơ cấu giữa các ngành thượng nguồn, trung nguồn và
hạ nguồn; cơ cấu phân bố theo vùng lãnh thổ.
- Tác động thúc đẩy c
ủa công nghiệp đối với chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp và dịch vụ thể hiện qua thay đổi tỷ trọng của các lĩnh vực này/GDP.
* Nội dung và các chỉ tiêu PTBV công nghiệp về xã hội
- Công nghiệp tạo ra công ăn việc làm ngày càng nhiều và thu nhập
ngày càng tăng.

Hiện nay tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị khoảng 5% và tình trạng
dư thừa lao động trong nông nghiệp cũng ngày càng gia tăng đ
ang tạo ra sức
ép rất lớn trong vấn đề giải quyết việc làm. Việc gia tăng tình trạng dư thừa
lao động ở nước ta bị tác động bởi ba tác nhân chính: Một là, tốc độ tăng dân
số vẫn ở mức cao, ước tính đến giữa thế kỷ 21 dân số Việt Nam có thể đạt qui
mô 130-140 triệu người, trong khi nước ta vốn là một nước đất chật người
đông, di
ện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người rất thấp. Hai là, nhu cầu

25
đất cho xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và phát triển công
nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa ngày càng tăng, đã dẫn đến chuyển
một bộ phận không nhỏ đất nông lâm nghiệp thành đất phi nông nghiệp, làm
cho đất nông lâm nghiệp càng bị giảm sút. Ba là, nhờ áp dụng hệ thống máy
móc và những tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp làm cho năng suất lao động
trong nông nghiệp tăng lên. Chính vì thế
, lực lượng lao động nông nghiệp của
nước ta đang ở tình trạng dư thừa tuyệt đối, chứ không chỉ là dư thừa lúc
“nông nhàn”. Để đảm bảo điều kiện sống tối thiểu cho các hộ gia đình nông
thôn, đặc biệt là ở vùng châu thổ sông Hồng và vùng Duyên hải miền Trung,
người ta phải chia nhỏ đất đai nông nghiệp cho các hộ gia đình và áp dụng
chế độ hạn đ
iền. Song tình trạng này tồn tại lâu dài nông nghiệp sẽ không thể
tiếp tục phát triển. Nếu như tích tụ và tập trung ruộng đất để hình thành các
trang trại qui mô lớn nhằm tăng hiệu quả kinh doanh trong nông nghiệp thì
tình trạng dư thừa lao động tuyệt đối sẽ gia tăng và càng trở thành vấn đề xã
hội rất lớn. Trong bối cảnh như vậy, phát triển công nghiệp để thu hút lao
động, đặc biệt là lao
động dôi dư trong nông nghiệp vừa có ý nghĩa nâng cao

hiệu quả sử dụng nguồn lực lao động cho tăng trưởng, vừa góp phần giải
quyết vấn đề xã hội cấp bách là tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động và tích cực tham gia vào xóa đói giảm nghèo.
- Công nghiệp góp phần giảm bớt khoảng thu nhập giữa thành thị và
nông thôn và giữa các vùng miền. Công nghiệp thường phát triển trên những
địa bàn có vị trí đị
a lý, khả năng cung ứng các nguồn lực và hệ thống kết cấu
hạ tầng thuận lợi. Những địa bàn như vậy thường là các khu công nghiệp, đô
thị. Hệ quả tất yếu là tạo ra sự phát triển kinh tế không đồng đều giữa các
vùng kinh tế. Chênh lệch thu nhập giữa các vùng chủ yếu là chênh lệch giữa
thành thị và nông thôn ngày càng doãng ra theo hướng bất lợi cho khu vực
nông nghiệp nông thôn. Phát triển công nghi
ệp như vậy xét về lâu dài là vừa
không bền vững về kinh tế, vừa không bền vững về xã hội, bởi lẽ những khu
công nghiệp - đô thị tập trung vừa đắt đỏ, tốn kém, vừa quá tải trong các hoạt

×