Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Nghiên cứu kinh nghiệm của Hungary về phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, vận dụng vào việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.14 KB, 137 trang )




Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học kinh tế quốc dân




Báo cáo tổng kết đề tài theo nghị định th

Nghiên cứu kinh nghiệm của hunggary
Về phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
Vận dụng vào việt nam



Chủ nhiệm đề tài: Pgs, tskh . lê du phong














6553
24/9/2007

hà nội - 2006

D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
1
Danh mục Bảng

Biểu 1.1: Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ giai đoạn 2000- 2004.
Biểu số 2.2: Số lợng doanh nghiệp trong mỗi vờn ơm
và số nhân viên trong từng doanh nghiệp.
Biểu số 2.3: Chuyên môn của từng doanh nghiệp trong các vờn ơm.
Biểu số 2.4: Số lợng các doanh nghiệp hoạt động trong
vờn ơm doanh nghiệp tại các địa phơng.
Biểu số 2.5: Chuyên ngành của các doanh nghiệp trong các vờn ơm
Biểu số 2.6: Số ngời lao động trong từng doanh nghiệp trong vờn ơm
Biểu số 2.7: khoảng thời gian doanh nghiệp sử dụng dịch vụ của vờn ơm.
Biểu số 2.8: Đặc điểm giới tính, độ tuổi và ngành nghề của ngời lao động trong
vờn ơm doanh nghiệp.
Biểu số 2.9: Xu hớng phát triển của các doanh nghiệp trong vờn ơm.
Biểu số 2.10: Nhu cầu về dịch vụ của các doanh nghiệp trong vờn ơm.
Biểu số 2.11: sự hài lòng của doanh nghiệp đối với dịch vụ của vờn ơm.
Biểu số 2.12: đánh gía lợi ích khi sử dụng các dịch vụ của vờn ơm.
Biểu số 2.13: Thời gian doanh nghiệp rời vờn ơm ra tự lập bên ngoài.
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
2
Lời nói đầu


I- Sự cần thiết của đề tài:
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ trong hai thập kỷ vừa
qua đã làm thay đổi một cách toàn diện và sâu sắc cơ cấu và phơng thức hoạt
động của nền kinh tế toàn cầu nói chung, của từng quốc gia nói riêng. Nếu nh
trớc đây sự phát triển của các nền kinh tế chủ yếu dựa vào sự phong phú, đa
dạng của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, thì ngày nay nó dựa nhiều hơn vào
khoa học, vào trí tuệ. Hàm lợng giá trị trí tuệ trong từng sản phẩm đợc tiêu thụ
trên thị trờng ngày nay cao hơn gấp nhiều lần so với trớc. Nếu trớc kia nông
nghiệp, rồi sau đó là công nghiệp giữ vị trí quan trọng nhất trong cơ cấu của nền
kinh tế quốc dân, thì ngày nay vị trí đó đã nhờng chỗ cho khu vực dịch vụ. Nói
cách khác, khoa học công nghệ ngày nay không còn cách biệt, không còn xa vời
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nữa, mà đã trở thành lực lợng sản xuất trực
tiếp, thành nhân tố quyết định đối với sự phát triển. Quốc gia nào nhận thức đúng
vị trí của khoa học, công nghệ, có đầu t thoả đáng cho nó và có phơng thức tổ
chức nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn cuộc
sống hữu hiệu, quốc gia đó sẽ phát triển nhanh, ngợc lại chắc chắn sẽ rơi vào
tụt hậu, chậm phát triển.
Tuy nhiên, việc tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học, đặc biệt là
việc triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào cuộc sống là một công việc
vô cùng khó khăn, phức tạp và trong thực tiễn không phải nớc nào cũng đạt
đợc thành công nh mong muốn. Bởi vậy việc tìm ra phơng thức thích hợp để
chuyển giao các kết quả nghiên cứu ra sản xuất xã hội một cách nhanh nhất, hiệu
quả nhất là đòi hỏi bức xúc của không ít nớc trên thế giới hiện nay, trong đó có
Việt Nam.
ở Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo đất nớc, Đảng và Chính phủ cũng
đã chú ý tạo điều kiện cho việc đa các kết quả nghiên cứu khoa học vào ứng
dụng trong các hoạt động sản xuất - kinh doanh, dịch vụ. Ngày 28/1/1992 Hội
đồng Bộ trởng ( nay là Chính phủ) đã có nghị định 35-HĐBT về công tác quản
lý khoa học và công nghệ, trong đó cho phép thành lập các tổ chức khoa học-
công nghệ hoạt động độc lập, theo cơ chế thị trờng; Ngày 27/3/98 Thủ tớng

Chính phủ có quyết định 68/1998/QĐ-TTg cho phép thí điểm thành lập doanh
nghiệp Nhà nớc trong các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu.
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
3
Tuy nhiên, cho đến nay kết quả mang lại vẫn cha đợc nh mong muốn
Các tiến bộ khoa học-công nghệ vẫn rất khó đa đợc vào thực tiễn cuộc sống,
mặc dù trình độ công nghệ của toàn bộ nền kinh tế nớc ta vẫn đang ở mức rất
khiêm tốn. Làm thế nào để chuyển giao nhanh các kết quả nghiên cứu vào ứng
dụng trong sản xuất - kinh doanh - dịch vụ vì thế vẫn làm một câu hỏi cha tìm
đợc lời giải thoả đáng.
Là những nớc cùng chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
kinh tế thị trờng, Hungary và Việt Nam có nhiều điểm tơng đồng về kinh tế,
chính trị, xã hội và nhân văn. Hungary còn là quốc gia có nền khoa học công
nghệ phát triển khá sớm, thị trờng khoa học - công nghệ của nớc này đã bớc
đầu đợc hình thành. Từ sau khi chuyển đổi nền kinh tế, Hungary đã có nhiều
hình thức chuyển giao khoa học - công nghệ khá hiệu quả, đáng chú ý là việc
phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, việc
xây dựng các vuờn ơm doanh nghiệp công nghệ.
Xuất phát từ điều kiện và hoàn cảnh của nớc ta hiện nay, chúng tôi cho
rằng những kinh nghiệm của Hungary trong việc chuyển giao các kết quả nghiên
cứu khoa học - công nghệ cho các cơ sở sản xuất - kinh doanh - dịch vụ là khá
phù hợp với Việt Nam. Do đó chúng tôi chọn vấn đề : " Nghiên cứu kinh nghiệm
của Hungary về phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa học
và công nghệ, vận dụng vào Việt Nam" làm chủ đề nghiên cứu của mình.
II- Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
1- Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các
loại hình tổ chức hoạt động chuyển giao trong lĩnh vực khoa học và công nghệ ở
Hungary .
2- Phân tích thực trạng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các loại
hình tổ chức hoạt động chuyển giao trong lĩnh vực khoa học và công nghệ ở Việt

Nam hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của nó.
3- Kiến nghị với Đảng và Chính phủ Việt Nam các giải pháp chủ yếu
nhằm tạo ra môi trờng thuận lợi cho phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
các hình thức tổ chức hoạt động chuyển giao trong lĩnh vực khoa học công nghệ
những năm tới.
III- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
1- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các loại
hình tổ chức chuyển giao trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
2- Về không gian nghiên cứu: tập trung vào 2 nớc : Việt Nam và
Hungary.
3- Về thời gian : từ sau khi 2 nớc thực hiện việc chuyển nền kinh tế từ kế
hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trờng.
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
4
IV- Phơng pháp nghiên cứu:
Để giải quyết thành công các mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, đề tài đã sử
dụng các phơng pháp chủ yếu sau đây:
1- Thu thập, biên dịch các tài liệu có liên quan đến lý luận và thực tiễn về
phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa học công nghệ, về
vờn ơm doanh nghiệp công nghệ của Hungary.
2- Tổ chức đợt khảo sát thực tế 7 ngày tại Hungary vào tháng 8/2004.
Trong đợt khảo sát này Đoàn đã gặp, làm việc trao đổi với:
- Tổ chức hợp tác khoa học, công nghệ của Hungary - Tesco.
- Doanh nghiệp sản xuất các phần mềm máy tính của Viện Hàn lâm khoa
học Budapest, Hungary.
- Trờng đại học kinh tế Budapest (Corvina), Hungary
- Trung tâm t vấn kinh tế và kinh doanh của đại học kinh tế Budapest.
- Ban lãnh đạo vờn ơm doanh nghiệp công nghệ thành phố Széket
fehévár
- Khảo sát một số doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong vờn ơm

doanh nghiệp công nghệ Széket fehévár
- Trao đổi với Sứ quán Việt Nam tại Hungary và đại diện cộng đồng ngời
Việt Nam tại Hungary.
Tất các các cuộc làm việc trên đề tài chủ yếu tập trung tìm hiểu về phát
triển các doanh nghiệp và và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, về phát
triển các vờn ơm doanh nghiệp công nghệ .
3- Đã mời một đoàn các nhà khoa học thuộc viện Nghiên cứu Chiến lợc
(một tổ chức t nhân) Budapest sang Việt Nam trao đổi về kinh nghiệm phát
triển các doanh nghiệp và và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công nghệ trên thế
giới và ở Hungary, cũng nh khả năng vận dụng các kinh nghiệm đó ở Việt Nam
vào tháng 5 năm 2005.
4- Đã tiến hành điều tra, khảo sát thực tế ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ
đợc thành lập theo quyết định 68 của Thủ tớng Chính phủ tại các trờng đại
học trong n
ớc, cũng nh một số viện và trung tâm nghiên cứu, triển khai đợc
thành lập theo nghị định 35 HĐBT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trởng ( nay là
Chính phủ) nhằm tìm hiểu thực trạng hoạt động của các tổ chức này kể từ khi
thành lập đến nay.
5- Đã tham khảo ý kiến của một số nhà khoa học, quản lý am hiểu về lĩnh
vực này.

D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
5
V- Nội dung nghiên cứu của đề tài:
Ngoài lời nói đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục các tài liệu tham khảo,
nội dung của đề tài gồm 3 phần.
1- Phần thứ nhất: doanh nghiệp và và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công
nghệ - những vấn đề lý luận và thực tiễn.
2- Phần thứ hai: doanh nghiệp và và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công
nghệ ở Hungary và những bài học đối với Việt Nam.

3- Phần thứ ba: Phát triển doanh nghiệp và và nhỏ trong lĩnh vực khoa
học - công nghệ ở Việt Nam trên cơ sở kinh nghiệm Hungary.
VI- Những ngời tham gia nghiên cứu đề tài
1. GS.TSKH. Lê Du Phong -Đại học Kinh tế Quốc dân - Chủ nhiệm đề tài.
2. GS.TS. Mai Ngọc Cờng - Đại học Kinh tế Quốc dân - Uỷ viên
3. TS. Phạm Hồng Chơng - Đại học Kinh tế Quốc dân - Uỷ viên
4. TS. Nguyễn Thanh Hà - Đại học Kinh tế Quốc dân - Uỷ viên
5. PGS.TS. Nguyễn Thị Nh Liêm - ĐH Kinh tế Đà Nẵng - Uỷ viên
6. Ths.NCS Hồ Thị Hải Yến - Đại học Kinh tế Quốc dân - Uỷ viên
7. CN. Nguyễn Minh Hà - Đại học Kinh tế Quốc dân - Uỷ viên
8. Ths. Trịnh Mai Vân - Đại học Kinh tế Quốc dân - Uỷ viên
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
6
Phần thứ nhất
Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa học -
công nghệ những vấn đề lý luận và thực tiễn


1.1 Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh
vực khoa học - công nghệ .
1.1.1. Doanh nghiệp là gì?
Về phơng diện pháp lý, có khá nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau
về "doanh nghiệp "
Đại từ điển tiếng Việt do tác giả Nguyễn Nh ý soạn thảo, tại trang 543,
định nghĩa về doanh nghiệp nh sau: "doanh nghiệp là tổ chức hoạt động kinh
doanh của những chủ sở hữu có t cách pháp nhân, nhằm mục đích kiếm lời ở
một hoặc nhiều ngành".
Định nghĩa này không sai, song theo chúng tôi là độ bao quát cha cao,
bởi lẽ trong thực tiễn có không ít các doanh nghiệp hoạt động với mục tiêu phi
lợi nhuận hoặc lợi nhuận không phải là mục tiêu hàng đầu.

Theo luật doanh nghiệp đợc Quốc hội nớc Cộng hoà XHCN Việt Nam
thông qua ngày 12/6/1999 thì " doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên, trụ
sở giao dịch ổn định, có tài sản, đợc đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh".
Định nghĩa này cũng không sai, tuy nhiên nó hơi nghiêng về góc độ luật
pháp, doanh nghiệp đợc nhìn nhận dới nhiều góc độ chứ không riêng gì khía
cạnh pháp luật.
Về khía cạnh kinh tế, chúng tôi cho rằng nên hiểu doanh nghiệp là một
đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ, có t cách pháp nhân,hoạt động
kinh doanh theo quy định của luật pháp.
Là một tổ chức kinh tế, trớc hết, doanh nghiệp phải có vốn, bao gồm vốn
cố định và vốn lu động. Vốn cố định của doanh nghiệp nh nhà xởng, máy
móc, thiết bị, các công cụ sản xuất khác để tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ. Vốn lu động của doanh nghiệp là vốn để mua nguyên nhiên vật
liệu, chi trả tiền lơng cho công nhân làm việc trong doanh nghiệp.
Doanh nghiệp phải là cơ sở sản xuất, kinh doanh một loại sản phẩm hàng
hoá nhất định. Họ có thể sản xuất ra hàng hoá đó để bán trên thị trờng; Cũng có
thể họ là cơ sở kinh doanh thơng mại, mua bán dịch vụ vật t hàng hoá trên thị
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
7
trờng. Kết quả hoạt động thu đợc là doanh thu do bán hàng hoá. Hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là tăng thêm giá trị.
Để sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải thuê lao động, thuê đất đai vay
vốn. Thuê lao động, doanh nghiệp phải trả tiền lơng; Thuê đất đai, doanh
nghiệp phải trả địa tô; Vay vốn, doanh nghiệp phải trả lãi suất. Tiền lơng, địa
tô, lãi suất đợc gọi là chi phí sản xuất. Sản xuất đợc sản phẩm, doanh nghiệp
đem bán trên thị trờng, họ sẽ có đợc doanh thu bán hàng. Nếu doanh thu bán
hàng lớn hơn phí tổn sản xuất, doanh nghiệp có lãi. Họ dùng số lãi đó để trang
trải các khoản thuế, tích luỹ để phát triển và phần còn lại là lợi nhuận của mình.
Toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh nh trên đợc tuân thủ theo pháp

luật quy định.
Về quy mô, ngời ta doanh nghiệp thành doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Việc phân loại quy mô doanh nghiệp đợc dựa trên các tiêu chí về
vốn, đất đai, lao động và doanh thu của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tuỳ trình độ
phát triển kinh tế xã hội và tuỳ theo mục tiêu phân chia, ngời ta có thể lựa chọn
một số tiêu chí nhất định. Ví dụ, ở các nớc phát triển, việc xác định quy mô
doanh nghiệp thờng dựa trên hai tiêu chí chủ yếu là vốn và doanh thu. Bởi lẽ ở
các nớc này, do trình độ phát triển khoa học và công nghệ cao, nên với một
lợng lao động nhỏ cũng có thể có thể sử dụng lợng vốn và mang lại quy mô
doanh thu lớn. ở các nớc đang phát triển nh nớc ta, thờng sử dụng cả 4 tiêu
chí để xác định quy mô doanh nghiệp. Tuy vậy, đối với mỗi ngành sản xuất, việc
lựa chọn tiêu chí cũng khác nhau. Chẳng hạn, khi xác định quy mô trang trại
nông nghiệp, ngời ta thờng dựa vào tiêu chuẩn vốn, đất đai và doanh thu; Còn
khi xác định các doanh nghiệp công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngời ta lại sử
dụng tiêu chí về vốn, lao động và doanh thu.
ở Việt Nam, theo quy định của Thủ t
ớng Chính phủ tại nghị định
90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
đã xác định tiêu chí doanh nghiệp nhỏ và vừa nh sau: "doanh nghiệp nhỏ và vừa
là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã có đăng ký kinh doanh theo pháp luật
hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình
hàng năm không vợt quá 30 ngời.
Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể ngành, địa phơng, trong quá
trình thực hiện các biện pháp, chơng trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng
đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên".
Nh vậy là, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng
ký kinh doanh và thoả mãn hai tiêu chí trên đều đợc xếp vào loại hình doanh
nghiệp vừa và nhỏ .
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
8

1.1.2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công nghệ
Doanh nghiệp trong lĩnh vực KH&CN là loại hình doanh nghiệp hoạt động
nghiên cứu, triển khai, ứng dụng những thành tựu KH&CN vào thực tiễn sản
xuất kinh doanh dịch vụ.
Xuất phát từ tiêu chí phân loại và thực tế doanh nghiệp, các doanh nghiệp
trong lĩnh vực KH&CN ở nớc ta thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì thế
chúng ta gọi là Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công nghệ
Ngoài những nét chung của một doanh nghiệp vừa và nhỏ thông thờng,
các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công nghệ còn có những
đặc điểm hết sức riêng biệt. Tính riêng biệt này là do tính đặc thù của hoạt động
khoa học - công nghệ sinh ra, đó là :
Thứ nhất, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công
nghệ thờng là do các trờng đại học, các viện nghiên cứu hoặc các tổ chức
khoa học - công nghệ thành lập. Do đó nó luôn gắn bó mật thiết với công tác
nghiên cứu khoa học và đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho đất nớc.
Đây là điều khác biệt hết sức căn bản giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong lĩnh vực khoa học - công nghệ so với các doanh nghiệp cùng loại hoạt
động trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh - dịch vụ. Các doanh nghiệp vừa và
nhỏ thông thờng ở nớc ta một là do năng lực (năng lực tài chính, trình độ khoa
học - kỹ thuật,
năng lực tổ chức, quản lý v.v), hai là, do đa phần mới đợc
thành lập trong những năm gần đây, nên mục tiêu hàng đầu của họ là tìm cách
tăng lợi nhuận, củng cố sự phát triển của công ty, cha quan tâm nhiều đến việc
ứng dụng các tiến bộ khoa học, và cũng cha quan tâm nhiều đến việc góp phần
đào tạo nguồn nhân lực.
Các doanh nghiệp và và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công nghệ trái lại
là những tổ chức đợc sinh ra từ các đơn vị nghiên cứu và đào tạo, do đó nhiệm
vụ trớc hết của họ là phải phục vụ cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và
chuyển giao công nghệ của các cơ quan chủ quản, thông qua đó thực hiện việc
gắn kết giữa đào tạo, nghiên cứu khoa học với thực tế cuộc sống.

Điều đó cũng có nghĩa là, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực
khoa học - công nghệ, bên cạnh việc kinh doanh thông thờng còn phải là nơi
triển khai ứng dụng các kết quả đã đợc các nhà khoa học trong cơ quan nghiên
cứu thành công, rồi sau đó chuyển giao cho toàn xã hội sử dụng, đồng thời cũng
là nơi để cho sinh viên các trờng đại học thực tập, kiểm nghiệm các kiến thức
đã đợc học ở trờng so với thực tế, và các cán bộ của doanh nghiệp phải có
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
9
trách nhiệm hớng dẫn sinh viên về chuyên môn, giúp đỡ họ về mặt rèn luyện t
cách, đạo đức, lối sống trong suốt quá trình thực tập.
Đặc điểm trên cho thấy, để các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực
khoa học - công nghệ ra đời đợc, đặc biệt là hoạt động có hiệu quả, đòi hỏi Nhà
nớc bên cạnh các chính sách chung đối với các doanh nghiệp, rất cần có những
chính sách đặc thù đối với hoạt động của loại doanh nghiệp này, nhất là 5 năm
đầu khi nó mới thành lập.
Chúng tôi nói chỉ cần hỗ trợ 5 năm đầu thôi, vì trong thực tiễn các doanh
nghiệp và và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công nghệ của các nớc hoạt động
rất hiệu quả, xin nêu dới đây 2 mô hình của Trung Quốc.

Hộp 1. Công ty khoa học Founder Bắc Kinh

Công ty khoa học Founder Bắc Kinh ( Peking University Founder Group
Corporation) là công ty đợc thành lập từ trờng đại học Bắc Kinh vào năm
1986, đến nay với số vốn là hơn 6 tỷ nhân dân tệ và hơn 5000 nhân viên, công ty
trở thành một trong 10 công ty công nghệ cao hàng đầu Trung Quốc, 1 trong 6
doanh nghiệp coi trọng việc phát triển công nghệ mới, và là 1 trong 5 nhà sản
xuất máy tính cá nhân với sự hỗ trợ u tiên từ Chính phủ. Công ty còn đợc coi
là ngời sáng lập nắm giữ khả năng phát triển mạnh mẽ trong hệ thống phần mền
cung cấp việc thu thập thông tin cho các doanh nghiệp báo chí, preprinting, tivi
truyền thống và internet trong nớc cũng nh quốc tế. Ngoài ra, công ty còn nắm

giữ tới hơn 85% thị trờng trong việc cung cấp các hệ thống thông tin trên phạm
vi diện rộng cho các ngân hàng, các hãng bảo hiểm cũng nh các thiết bị giảng
dạy, phần mềm giáo dục đa truyền thông và hệ thống mạng lới nội bộ đặc biệt
đợc thiết kế cho các tổ chức giáo dục. Founder Group là công ty công nghệ cao
Nhà nớc đầu tiên đợc "niêm yết" trên thị trờng quốc tế.
Nhiều công ty con của Founder Group cũng mang lại thành công, tiêu biểu
là công ty công nghệ cao Shenzhen Founder. Với 150 triệu USD, Shenzhen
Founder đã xây dựng khu công viên khoa học kỹ thuật Shiyan (Peking
University Founder Shiyan Science Park) rộng 320,000 m
2
chuyên nghiên cứu và
phát triển, mở rộng thơng mại hoá các sản phẩm công nghiệp, dựa trên sự hỗ
trợ của đại học Bắc Kinh và Founder Group.
Nguồn : Chuyên đề nghiên cứu khoa học của Đỗ Thu Hơng
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
10

Hộp 2. Công ty Legend
Đầu năm 1984, 8 nhà khoa học trong lĩnh vực khoa học và công nghệ máy
tính từ Viện Công nghệ máy tính thuộc Viện Khoa học Trung Quốc đã hùn
200.000 nhân dân tệ ( khoảng 24.000 USD) mở cửa hàng mua, bán các sản phẩm
máy tính nớc ngoài tại một nhà kho trong Viện Khoa học Bắc Kinh lấy tên là
Legend. Sau khi đã đủ tiền và lực, Legend bắt đầu sản xuất mainboard vào năm
1990.Phát triển sản xuất nhờ đón đầu đợc sự hỗ trợ từ Chính phủ thông qua việc
liên kết giữa các viện nghiên cứu và doanh nghiệp, công ty quyết định niêm yết
cổ phiếu khá sớm, ngay vào năm 1984 nên chỉ ba năm sau đó đã nhận đợc
nguồn vốn đầu t nớc ngoài. Và vào năm 2000 nó đã có tên trong danh sách cổ
phiếu trên thị trờng chứng khoán New york.
Sau đó đổi tên thành Levono vào năm 2003, hãng đã có những bớc nhảy
dài trong việc đa tên tuổi máy tính " Made in China" sánh cùng các tên tuổi nổi

tiếng nh Dell, IBM, HPTại thị trờng toàn cầu, Levono có 2% thị phần so với
17% của Dell và 5,6% của IBM, tuy nhiên, trên thị trờng trong nớc, với 27%
thị phần, sức mạnh của Lenovo đã thực sự ngang ngửa với Dell, Hp, hai nhà sản
xuất máy tính lớn nhất thế giới hiện nay.
Năm 2005, Levono đã quyết định chi ra tới 1,25 tỷ Đô la Mỹ để mua lại
phần sản xuất máy tính cá nhân của IBM, một thơng hiệu máy tính nổi tiếng
toàn cầu. Đổi lại, Levono sẽ sở hữu các nhãn hiệu của IBM cùng các trung tâm
nghiên cứu và phát triển tại Mỹ và văn phòng kinh doanh của IBM tại 160 nớc.
Levono đợc coi là doanh nghiệp khoa học và công nghệ thành công nhất đất
nớc Trung Quốc từ trớc đến nay.
Nguồn : Chuyên đề nghiên cứu khoa học của Đỗ Thu Hơng

Thứ hai, các doanh nghiệp và và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công
nghệ thờng có đội ngũ cán bộ, công nhân có trình độ chuyên môn cao hơn các
doanh nghiệp cùng loại ở các lĩnh vực khác, đồng thời sản phẩm và dịch vụ chủ
yếu của họ là những sản phẩm, dịch vụ mới, có hàm lợng trí tuệ cao.
Do yêu cầu của công tác nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực là phải
nhanh chóng tiếp cận với trình độ công nghệ chung của khu vực và thế giới, nên
ở các trờng đại học, các viện nghiên cứu thờng đợc Nhà nớc u tiên cho
nhập và trang bị các máy móc, thiết bị và công nghệ tiên tiến của thế giới. Các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công nghệ do các đơn vị này
thành lập, nhờ đó cũng đợc thừa hởng phần nào những u tiên đó.
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
11
Mặt khác, đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kinh doanh, cán bộ nghiên cứu,
triển khai của các doanh nghiệp khoa học - công nghệ đều là những cán bộ khoa
học có trình độ, có năng lực, có uy tín, năng động, am hiểu và trong một chừng
mực nhất định đã có kinh nghiệm trên thơng trờng, đợc các cơ quan chủ quản
điều chuyển sang, do đó nguồn nhân lực của các doanh nghiệp này cao hơn mặt
bằng chung của xã hội khá nhiều.

Ngoài ra, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công
nghệ, do các mối quan hệ sẵn có của cơ quan chủ quản đối với xã hội (nhất là
thông qua đội ngũ cán bộ họ đã đào tạo, bồi dỡng hiện đang có mặt khắp mọi
ngành, mọi lĩnh vực và địa phơng) họ còn có thể huy động đợc nhiều nguồn
lực vật thể và phi vật thể phục vụ cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Những lợi thế trên tạo cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực
khoa học - công nghệ nét độc đáo trong việc tạo ra các sản phẩm phục vụ xã hội.
Đó là, các sản phẩm do các doanh nghiệp này đa ra thờng là sản phẩm mới,
tồn tại dới dạng bí quyết công nghệ. Số lợng tung ra thị trờng không nhiều,
song do có hàm lợng khoa học cao nên chất lợng tốt, có sức cạnh tranh mạnh
trên thị trờng.
Đặc điểm này cho thấy, bên cạnh những chính sách chung, rất cần có
chính sách để giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa học -
công nghệ chuyển giao nhanh kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của họ cho các
doanh nghiệp khác.
Thứ ba, hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa
học - công nghệ có tính rủi ro rất cao.
Nghiên cứu và triển khai là một lĩnh vực tiềm ẩn nguy cơ rủi ro rất cao.
Các doanh nghiệp có thể bỏ ra hàng triệu USD để tiến hành nghiên cứu và thử
nghiệm các sản phẩm, các quy trình công nghệ. Lịch sử phát triển khoa học -
công nghệ của thế giới, cũng nh của Việt Nam đã cho thấy, không phải nghiên
cứu, thử nghiệm nào cũng gặp thuận lợi, cũng mang lại thành công một cách dễ
dàng nh ta vẫn hằng mong đợi. Trong thực tiễn, có không ít các nghiên cứu, các
thử nghiệm phải làm đi, làm lại hàng chục lần, thậm chí cả trăm lần mới có đợc
kết quả. Chi phí về sức lực, tiền của cho những lần nghiên cứu, thử nghiệm đó vì
thế đã trở nên hết sức to lớn, nhiều khi vợt quá khả năng chịu đựng của một
doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tất nhiên, nếu việc nghiên
cứu, thử nghiệm thành công, sản phẩm hoặc công nghệ của nó đợc đa vào sử
dụng trong nền kinh tế thì lợi ích mang lại cho đất nớc cũng không phải là nhỏ.
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc

12
Chính vì thế, ở tất cả các quốc gia, cùng với việc coi khoa học và công
nghệ là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, thì Nhà nớc thờng
có những chính sách u đãi đặc biệt nh: Thành lập quỹ phòng chống rủi ro cho
các hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm các sản phẩm mới, công nghệ mới; Cho
phép các doanh nghiệp khoa học - công nghệ đợc tiếp cận với các nguồn vốn
tín dụng mà không nhất thiết phải có tài sản thế chấp, đợc hởng các chính sách
u đãi về tài chính nh thuế, chính sách về tiền công, tiền lơng, tiền thởng v.v.
ở Hàn Quốc dới thời tổng thống Pák Chung Hy, Viện khoa học của nớc
này còn đợc Tổng thống cho phép tự quyết toàn bộ vấn đề chi tiêu và cơ quan
kiểm toán Nhà nớc không đợc phép tiến hành kiểm toán đối với Viện.
Do hoạt động có tính rủi ro cao, nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
lĩnh vực khoa học - công nghệ thờng đợc các Chính phủ cho phép trích lập các
quỹ dự phòng và quỹ bù đắp rủi ro lớn, đợc góp vốn hoặc tiếp cận các quỹ mạo
hiểm mà không có nhiều giới hạn ngăn cấm từ pháp luật.
Thứ t, thông thờng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa
học - công nghệ vừa là một đơn vị hạch toán độc lập, vừa là một đơn vị thành
viên của một trờng đại học hoặc một viện nghiên cứu.
Là một doanh nghiệp, trớc hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh
vực khoa học - công nghệ có đầy đủ t cách pháp nhân nh mọi doanh nghiệp
khác, nó phải chịu trách nhiệm vật chất đối với mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình trớc pháp luật, nó phải tính toán mọi chi phí và phải tận dụng
mọi nguồn thu để sao cho hoạt động sản xuất - kinh doanh - dịch vụ của doanh
nghiệp thật sự có lãi.
Tuy nhiên, thông th
ờng các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa
học - công nghệ là do các trờng đại học hoặc các viện nghiên cứu thành lập ra,
do đó là thành viên chịu sự quản lý trực tiếp của các đơn vị này. Vì thế về mặt tổ
chức, quản lý và hoạt động nó cũng có những nét khác biệt so với có loại hình
doanh nghiệp thông thờng, đó là:

- Là một đơn vị trực thuộc trờng hoặc viện, nên ngay từ đầu khi mới
thành lập, các doanh nghiệp này đã có lợi thế tuyệt đối là đợc hởng thơng
hiệu của trờng hoặc của viện, đợc sự bảo đảm của trờng và viện đối với xã
hội. Đó là lợi thế tự nhiên, lợi thế tuyệt đối của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong lĩnh vực khoa học - công nghệ mà các doanh nghiệp mới thành lập khác
ngoài xã hội phải mất nhiều năm phấn đấu mới có đợc.
- Thông thờng các trờng đại học, các viện nghiên cứu là những cơ quan
đứng ra thành lập các doanh nghiệp khoa học - công nghệ, thì họ cũng là những
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
13
ngời nắm cổ phần chi phối của doanh nghiệp. Nói cách khác, các trờng và
viện vẫn là những ngời có quyền quyết định trong việc hoạch định chiến lợc
sản phẩm, kinh doanh, trong phơng thức huy động vốn, phân phối lợi nhuận,
kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của doanh nghiệp, bảo đảm cho các doanh
nghiệp phát triển đúng mục tiêu mà trờng và viện đã đề ra khi thành lập.
Nói nh thế không có nghĩa là trờng và viện có thể can thiệp một cách
tuỳ tiện vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp bất kỳ lúc nào.
Tuy là đơn vị thành viên, song nó là đơn vị hạch toán độc lập, bên cạnh việc chịu
trách nhiệm trớc nhà trờng hoặc viện, nó còn phải chịu trách nhiệm trớc pháp
luật. Vì thế mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các cơ quan thành lập ra nó về
mặt kinh tế đều phải thông qua hợp đồng: Hợp đồng chuyển giao các kết quả
nghiên cứu, hợp đồng thử nghiệm các công nghệ mới, quy trình tổ chức quản lý
mới, hợp đồng đào tạo, bồi dỡng sinh viên, nghiên cứu sinh .v.v
- Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, với t cách là chủ thể thành lập và giám
sát hoạt động của doanh nghiệp khoa học - công nghệ, các trờng đại học và
viện nghiên cứu có vai trò tối quan trọng trong qúa trình phát triển của các doanh
nghiệp này. Các trờng và viện là chủ thể cung cấp những nguồn nhân lực quan
trọng nhất cho sự hình thành và phát triển của doanh nghiệp nh : vốn, mặt bằng
hoạt đông, máy móc thiết bị, đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn
.v.vCác trờng và viện với uy tín sẵn có của mình cũng có thể tiến hành việc

huy đông, thu hút các nguồn vốn bằng tiền, hiện vật và bí quyết khoa học công
nghệ ban đầu cho doanh nghiệp, hoặc tiến hành ký kết các hợp đồng chuyển giao
và t vấn đối với các cơ quan, địa phơng trong cả nớc, sau đó giao cho doanh
nghiệp triển khai thực hiện.
Các trờng đại học và viện nghiên cứu còn là đối tác chủ yếu cung cấp
một trong những đầu vào quan trọng nhất cho doanh nghiệp, đó là các kết quả
nghiên cứu, các bí quyết công nghệ.
Trờng đại học và viện nghiên cũng đồng thời là một đối tác quan trọng sử
dụng sản phẩm đầu ra của các doanh nghiệp. Đó là các kết quả triển khai đợc
đúc kết, khái quát thành các mô hình lý thuyết, các công nghệ mới và quy trình
thực hiện nó đợc kiểm nghiệm, các máy móc thiết bị mới đợc tạo ra .v.v
Các sản phẩm này sẽ bổ sung, tạo ra năng lực mới cho trờng và viện
trong đào tạo, cũng nh trong nghiên cứu khoa học.
Trong xu thế phát triển hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong lĩnh vực khoa học - công nghệ là các công ty cổ phần, trong đó cơ quan
chủ quản là các trờng đại học và các viện nghiên cứu chiếm cổ phần chi phối.
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
14
Tất nhiên đây là bối cảnh của Việt Nam. ở nhiều nớc, không ít các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khoa học - công nghệ là do cá nhân các nhà
khoa học, học một nhóm các nhà khoa học góp vốn thành lập, trờng hợp công
ty Legend chúng tôi đề cập ở hộp số 2 là một ví dụ.
Chúng tôi cho rằng xu hớng này (cá nhân, nhóm đứng ra thành lập doanh
nghiệp) cũng sẽ ngày càng phát triển ở Việt Nam trong những năm tới.
1.2. Những nhân tố tác động đến sự hình thành và
phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh
vực khoa học - công nghệ.
Có rất nhiều nhân tố khách quan và chủ quan tác động tới sự hình thành và phát
triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công nghệ. Trong điều
kiện hiện tại của Việt Nam hiện nay, nổi lên các nhân tố chủ yếu sau đây.

1.2.1. Yêu cầu của việc đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nớc
Trong 20 năm thực hiện đờng lối đổi mới, nền kinh tế nớc ta đã đạt
đợc những thành tựu hết sức to lớn về sự phát triển. Từ một nớc nông nghiệp
lạc hậu, sản xuất nông nghiệp không cung cấp đủ lơng thực, thực phẩm cho nhu
cầu ăn của ngời dân, mỗi năm phải nhập của nớc ngoài từ 0,5 đến 1 triệu tấn
lơng thực; sản xuất công nghiệp nhỏ bé, không cung cấp nổi các sản phẩm công
nghiệp thông thờng và thiết yếu cho nhu cầu sản xuất và đời sống của xã hội;
hệ thống cơ sở hạ tầng lạc hậu, các hoạt động dịch vụ không phát triển, chỉ sau
một thời gian ngắn chúng ta đã vơn lên trở thành một nớc sản xuất đủ đáp ứng
mọi nhu cầu trong nớc và còn d thừa để xuất khẩu ra thị trờng thế giới, trong
đó có một số sản phẩm chiếm thị phần khá cao nh: Hạt tiêu đứng đầu thế giới,
xếp thứ hai về gạo và thứ 3 về cà phê .v.v.
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đánh giá
nh sau: Công cuộc đổi mới trong 20 năm qua đã đạt đợc những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của đất n
ớc, cải thiện đáng
kể đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta.
Sau 20 năm đổi mới, đất nớc ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội;
kinh tế tăng trởng khá nhanh, nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN bớc
đầu đợc xây dựng, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc đợc đẩy mạnh.
Tuy nhiên, cho đến nay kinh tế nớc ta vẫn trong tình trạng kém phát triển
và tụt hậu xa so với nhiều nớc trong khu vực và thế giới.
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
15
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn cha đợc triển
khai một cách có bài bản. Các phơng thức canh tác tiên tiến chậm đợc áp dụng
trên diện rộng. Năng suất nhiều cây trồng, vật nuôi và chất lợng sản phẩm nông
nghiệp còn thấp, còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu . Chuyển dịch cơ cấu
sản xuất nông nghiệp và nông thôn còn chậm, nhiều nơi còn mang tính tự phát,

cha bền vững.
- Trong các ngành công nghiệp, tỷ trọng công nghệ hiện đại còn ở mức
thấp, tốc độ đổi mới công nghệ chậm, hiện nay nớc ta sử dụng phổ biến là công
nghệ ở trình độ trung bình.
- Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội cha đáp ứng đợc yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Để phát triển nhanh, bảo đảm đến năm 2020 về cơ bản đa nớc ta thành
một nớc công nghiệp, trong những năm tới nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta là
phải tập trung huy động và sử dụng tốt, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực để đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Để đẩy nhanh nhịp độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong cả nớc, một lần
nữa cần phải quán triệt đầy đủ, sâu sắc quan điểm của Đảng ta về vấn đề này để từ đó
mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp có nhận thức đúng và hành động đúng.
Nghị quyết hội nghị Trung ơng 7 khoá VII của Đảng ta (1994) đã chỉ rõ:
"công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế- xã hội. Từ sử dụng
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phơng tiện và phơng pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao".
Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng xác định:
"Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nớc ta thành một
nớc công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu,
n
ớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh phấn đấu đến năm 2020 đa nớc ta
cơ bản thành một nớc công nghiệp".
Chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 đợc đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX thông qua viết: " con đờng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá của nớc ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bớc tuần tự,

vừa có bớc nhảy vọt. Phát triển những lợi thế của đất nớc, tận dụng mọi khả
năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
16
nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ
biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bớc phát triển
kinh tế tri thức".
Điều đó có nghĩa là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc là công việc
trọng tâm của cả đất nớc trong những năm sắp tới, nó sẽ không chỉ diễn ra ở
một số ngành, một số lĩnh vực và địa phơng nh những năm vừa qua, mà đợc
tiến hành mạnh mẽ, quyết liệt ở mọi ngành, mọi lĩnh vực và đều khắp trong cả
nớc, trong đó đặc biệt chú trọng khu vực nông nghiệp và nông thôn.Dự thảo
báo cáo chính trị trình đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X viết : " Đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc " Trong đó " hết sức coi trọng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, hớng tới xây dựng một nền nông
nghiệp hàng hoá đa dạng, có năng suất, chất lợng và khả năng cạnh tranh cao,
phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phơng " Cụ thể là : " phải chuyển
giao nhanh và ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đặc
biệt là trong các khâu giống, kỹ thuật canh tác và nuôi trồng, công nghệ sau thu
hoạch, gắn với hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ng, công tác thú y,
bảo vệ thực vật".
Nh vậy là, đã đến lúc sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc
đòi hỏi khoa học - công nghệ phải trực tiếp gắn với hoạt động sản xuất - kinh
doanh - dịch vụ ở từng sản phẩm, từng doanh nghiệp và từng địa bàn dân c cụ
thể, không còn chung chung nữa. Đây chính là điều kiện để đẩy nhanh việc ra
đời và phát triển của các doanh nghiệp khoa học, công nghệ, trớc hết là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.2.2- Yêu cầu của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
nớc nhà trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Trong những năm tới cuộc cách mạng khoa học và công nghệ sẽ diễn ra
nhanh chóng hơn, mạnh mẽ hơn và từ đó làm cho xã hội loài ngời có những
biến đổi sâu sắc trên nhiều mặt. Điều dễ thấy nhất là nhờ những thành tựu của
khoa học và công nghệ mà con ngời nhận thức đợc đúng và chính xác hơn thế
giới tự nhiên, cũng nh
sự vận động, phát triển của xã hội, để rồi thay đổi, điều
chỉnh nhận thức và t duy cho phù hợp với thời đại. Mặt khác, cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ sẽ tạo ra một cách nhanh chóng cơ sở vật chất - kỹ thuật
cho nền kinh tế tri thức, nền kinh tế chủ yếu dựa trên nền tảng của công nghệ cao
và trí tuệ để sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ ngày càng đa dạng, phong phú,
nhằm thoả mãn ngày càng đầy đủ mọi nhu cầu vật chất và tinh thần của con
ngời và xã hội loài ngời.
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
17
Rõ ràng, trong điều kiện ấy, chỉ có quốc gia nào chuẩn bị tốt năng lực nội
sinh để tiếp nhận những thành tựu của khoa học và công nghệ phục vụ cho việc
phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc mình, thì quốc gia đó sẽ vợt lên theo kịp
sự phát triển của thời đại, còn ngợc lại sẽ rơi vào cảnh tụt hậu, chậm phát triển.
Vấn đề đặt ra ở đây là đã đến lúc cần phải tạo ra cho đợc những tổ chức thích
hợp để có thể tiếp cận và tiếp thu một cách nhanh nhất những thành tựu mới nhất
của khoa học - công nghệ thế giới để triển khai áp dụng rộng rãi trong nớc, từ
đó nâng cao tiềm lực của nền kinh tế nớc nhà.
Sự phát triển của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tất
yếu sẽ dẫn đến toàn cầu hoá. Trong những năm tới toàn cầu hoá sẽ diễn ra mạnh mẽ
hơn, đây là một xu thế tất yếu, khách quan không gì có thể ngăn cản đợc.
Mặt tích cực của toàn cầu hoá là nó tiến hành quốc tế hoá các hoạt động
sản xuất - kinh doanh và dịch vụ của mọi quốc gia, nhờ đó tạo điều kiện cho
từng nớc có cơ hội tiếp cận tốt hơn với các nguồn vốn từ bên ngoài, cũng nh
với công nghệ tiên tiến để phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của nớc
mình. Song mặt hạn chế của nó là cạnh tranh trong việc giành giật các nguồn

lực, trong sản xuất và thơng mại sẽ trở nên quyết liệt hơn giữa các quốc gia.
Cần phải thấy rằng toàn cầu hoá tác động và chi phối sự phát triển kinh tế
- xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới. Do vậy, muốn tồn tại và phát triển,
mỗi quốc gia phải chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hoá. Quốc gia nào
nhận thức đợc lợi thế so sánh cũng nh hạn chế của mình, từ đó phát huy nội
lực, chủ động tham gia hội nhập, quốc gia đó sẽ thu hút đợc các nguồn lực bên
ngoài, đặc biệt là vốn và công nghệ tiên tiến để phục vụ cho sự phát triển kinh tế
- xã hội của quốc gia mình, và chắc chắn quốc gia đó sẽ trở thành nớc có nền
kinh tế phát triển.
Trái lại, quốc gia nào không nhận thức đúng xu thế toàn cầu hoá, không
chủ động chuẩn bị tham gia hội nhập, thì chắc chắn quốc gia đó sẽ bị làn sóng
toàn cầu hoá đè bẹp, khó có thể phát triển đợc.
Từ những trình bày trên ta thấy, cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế
là một tất yếu, không thể tránh khỏi đối với các nớc trong những năm tới. Tuy
nhiên, nó sẽ diễn ra nh thế nào và trên những vấn đề gì là chủ yếu, là điều mỗi
quốc gia cần phải thấy để tìm ra cho mình một cách đi hợp lý, phù hợp với xu thế
chung của thời đại.
Cạnh tranh, nh PGS.TS Nguyễn Văn Nam, nguyên Viện trởng, Viện
Kinh tế Thơng mại, Bộ Thơng mại đa ra trong báo cáo tổng hợp "Lý luận
chung về cạnh tranh " năm 2003 là:
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
18
"Quá trình kinh tế mà trong đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau, tìm mọi
biện pháp( cả nghệ thuật kinh doanh lẫn thủ đoạn ) để đạt đợc mục tiêu kinh tế
chủ yếu của mình nh chiếm lĩnh thị trờng, giành lấy khách hàng cũng nh
đảm bảo tiêu thụ có lợi nhất nhằm nâng cao vị thế của mình".
Cạnh tranh có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền
kinh tế thị trờng. Trong quá trình cạnh tranh, các chủ thể kinh tế phải thờng
xuyên phấn đấu vơn lên, mọi sự cải tiến công nghệ, phơng pháp sản xuất hàng
hoá .v.v của một bên sẽ là đối tợng của bên thứ hai. Mọi sự thụt lùi, thậm chí

đứng yên chính là sự tự sát, là phá sản đối với doanh nghiệp. Cạnh tranh đơng
nhiên sẽ dẫn đến làm lợi cho ngời này, nhóm ngời này và làm hại cho ngời
khác, nhóm ngời khác, song nhìn toàn cục thì xã hội sẽ đợc lợi. Nói cách
khác, cạnh tranh vừa có sức huỷ diệt, vừa làm nên sự sáng tạo, với một ý nghĩa
nào đó cũng nh quy luật tiến hoá tự nhiên, là thải loại những thành viên yếu
kém trên thị trờng, duy trì và phát triển những thành viên tốt nhất, và qua đó hỗ
trợ đắc lực cho quá trình phát triển toàn xã hội. Với ý nghĩa nh vậy, cạnh tranh
là động lực của phát triển kinh tế. Điều này thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
- Trên bình diện toàn nền kinh tế, cạnh tranh có vai trò thúc đẩy phát triển
kinh tế, góp phần phân bổ nguồn lực hiệu quả nhất thông qua việc kích thích các
doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực tối u nhất, cũng nh hạn chế đợc các méo
mó của thị trờng, góp phần phân phối lại thu nhập một cách hiệu quả hơn và
đồng thời tạo điều kiện để nâng cao phúc lợi xã hội.
- Trên bình diện doanh nghiệp, bằng sự hấp dẫn của lợi nhuận từ việc đi
đầu về chất lợng, mẫu mã cũng nh áp lực phá sản nếu đứng lại, cạnh tranh
buộc các doanh nghiệp phải luôn cải tiến, nâng cao công nghệ, phơng pháp sản
xuất, quản lý, nhằm nâng cao năng suất, chất lợng, qua đó nâng cao tính cạnh
tranh của các sản phẩm do doanh nghiệp làm ra. Ngoài ra, cạnh tranh một mặt
gây sức ép buộc đội ngũ lao động phải luôn nâng cao chuyên môn, kỹ năng lao
động và quản lý, mặt khác đào thải các chủ thể kinh tế không thích ứng, không
theo kịp các yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trờng.
- Trên bình diện ngời tiêu dùng, cạnh tranh tạo ra áp lực liên tục do nhu
cầu xã hội ngày càng gia tăng có hàng hoá rẻ, đẹp hơn, đa dạng hơn về mẫu mã,
về chủng loại. Cạnh tranh tạo ra sự lựa chọn rộng rãi hơn, đảm bảo cả về ngời
sản xuất lẫn ngời tiêu dùng không thể áp đặt giá cả tuỳ tiện. Với khía cạnh đó,
cạnh tranh là yếu tố điều tiết thị trờng, quan hệ cung - cầu, góp phần hạn chế sự
méo mó của giá cả và làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
19
- Trên bình diện quốc tế, chính cạnh tranh đã thúc ép các doanh nghiệp

mở rộng, tìm kiếm thị trờng với mục đích tiêu thụ, đầu t, huy động nguồn vốn,
lao động, công nghệ, kỹ năng lao động, quản lý trên thị trờng quốc tế. Thông
qua cạnh tranh quốc tế, các doanh nghiệp thấy đợc lợi thế so sánh, cũng nh
các điểm yếu kém của mình để hoàn thiện, xây dựng các chiến lợc kinh doanh
hợp lý hơn, bảo đảm cho họ tiếp tục cạnh tranh thắng lợi trên thị trờng quốc tế.
Nh vậy là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập là
hợp thành khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp, từng sản phẩm, từng
ngành hàng của quốc gia trên thị trờng quốc tế. Năng lực đó thể hiện ở mẫu mã
sản phẩm, chủng loại sản phẩm, chất lợng sản phẩm, độ an toàn của sản phẩm
và giá cả của sản phẩm đó ( kể cả dịch vụ ).
Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam nh phần trên chúng tôi đã trình
bày, đạt tốc độ rất cao, bình quân liên tục trong suốt 20 năm đổi mới vừa qua.
Tuy nhiên, nghiêm túc mà xem xét, sự phát triển vẫn mới thiên về bề rộng, nặng
về mặt số lợng. Phát triểt theo chiều sâu và chất lợng của sự phát triển vẫn
cha đợc quan tâm. Chính vì thế sức cạnh tranh của sản phẩm và của cả nền
kinh tế còn hạn chế và yếu kém. Cùng một loại gạo xuất khẩu, song giá của Việt
Nam bao giờ cũng thấp hơn của Thái Lan từ 20-50 USD/tấn. Doanh nghiệp Việt
Nam đợc xếp 62/75 nớc, nền kinh tế đợc xếp 60/75 nớc về sức cạnh tranh.
Theo xếp hạng về hoạt động và chiến lợc kinh doanh cũng nh xếp hạng về môi
trờng kinh doanh quốc gia, Việt Nam đứng sau các nớc trong khu vực nh:
Trung Quốc, Philipine, Indonexia, Malaixia, Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore.
Do đó, tập trung nâng cao nhanh năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nớc
ta trong hội nhập kinh tế quốc tế là đòi hỏi bức xúc, cần đ
ợc đặc biệt lu tâm
trong những năm tới. Con đờng nhanh nhất, hiệu quả nhất để làm việc đó là
phải tìm cách đa các thành tựu khoa học - công nghệ mà nhân loại cũng nh
Việt Nam đã đạt đợc vào mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ của nền
kinh tế . Đây là cơ hội thuận lợi để cho các doanh nghiệp khoa học - công nghệ,
trớc hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời và phát triển.
1.2.3. Sự phát triển của thị trờng khoa học - công nghệ

Thị trờng có thể hiểu là phạm trù của sản xuất và lu thông hàng hoá, nó
phản ánh toàn bộ mối quan hệ trao đổi giữa ngời mua và ngời bán đã đợc thể
chế hoá nhằm xác định giá cả và sản lợng hàng hoá. Nh vậy, thị trờng chứa
đựng tổng cung, tổng cầu, mối quan hệ cung cầu, mức giá và những yếu tố
không gian, thời gian, xã hội đối với mỗi loại sản phẩm nào đó của nền sản xuất
hàng hoá.
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
20
Thị trờng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của toàn bộ
nền kinh tế nói chung, của từng doanh nghiệp nói riêng. Trong đề tài cấp Nhà
nớc KX01.07, do GS.TS. Nguyễn Đình Hơng làm chủ nhiệm, đã xác định thị
trờng có các vai trò chủ yếu sau đây:
- Một là, thực hiện giá trị của hàng hoá và dịch vụ.
- Hai là, thực hiện sự cung cấp thông tin cho các bên tham gia thị trờng.
- Ba là, thông qua cạnh tranh, thực hiện việc sàng lọc, đào thải các phần tử
yếu kém, làm cho thị trờng luôn phát triển ngày một cao, ngày một hoàn thiện.
- Bốn là, huy động và phân bố các nguồn lực trong nền kinh tế, bảo đảm
mọi nguồn lực đều đợc huy động và đợc sử dụng có hiệu quả nhằm phục vụ
cho sự phát triển.
Vấn đề đặt ra là, một nền kinh tế muốn phát triển với tốc độ cao và phát
triển bền vững, thì các yếu tố phục vụ đầu vào và đầu ra của nó phải đợc bảo
đảm một cách vững chắc. Nói cách khác muốn có nền kinh tế thị trờng thực thụ
và hiện đại, điều cơ bản, có tính quyết định là phải hình thành đồng bộ các loại
thị trờng, cả đầu vào lẫn đầu ra, trong đó thị trờng khoa học - công nghệ là rất
quan trọng.
Thị trờng khoa học - công nghệ có thể hiểu một cách đơn giản đó là việc
mua - bán các sản phẩm khoa học - công nghệ giữa ngời (đơn vị) nghiên cứu,
sáng tạo và ngời (đơn vị) cần sử dụng các sản phẩm đó. Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế tri thức, thì thị trờng khoa học - công
nghệ ngày càng trở nên quan trọng.

ở nớc ta, nền kinh tế thị trờng đã đợc hình thành và phát triển 20 năm
rồi, song điều đáng tiếc là thị trờng khoa học - công nghệ vẫn cha có, đúng
hơn là mới bắt đầu manh nha.
Cho đến nay, chúng ta mới có ý t
ởng về tạo lập và phát triển thị trờng
khoa học - công nghệ. Đây là vấn đề hết sức mới mẻ, thậm chí một bộ phận
không nhỏ cán bộ nghiên cứu và cán bộ quản lý ở cấp Trung ơng lẫn địa
phơng vẫn cha hiểu và không hình dung đầy đủ về thị trờng này. Trong thực
tế, khái niện thị trờng khoa học - công nghệ mới đợc nêu lên lần đầu tiên trong
nghị quyết Trung ơng 2 (khoá VIII) năm 1996. Luật Khoa học và Công nghệ
năm 2000 cũng mới chỉ nêu lên một số giải pháp tổng quát để phát triển thị
trờng khoa học - công nghệ. Nghị định của Chính phủ về hớng dẫn thi hành
một số điều của luật khoa học và công nghệ và chiến lợc phát triển khoa học và
công nghệ. Các văn bản của Đảng và Nhà nớc gần đây nhất cũng mới chỉ nêu ra
yêu cầu phải tạo lập và phát triển thị trờng khoa học - công nghệ. Đề án xây
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
21
dựng thị trờng khoa học và công nghệ đang trong quá trình hình thành. Thực tế
là chúng ta cha đề ra đợc những giải pháp cụ thể với một lộ trình, bớc đi
thích hợp để phát triển thị trờng này.
Đó là phía Nhà nớc, ngời tạo ra môi trờng cho việc hình thành và phát
triển thị trờng khoa học và công nghệ, còn về phía các nhà khoa học, các tổ
chức nghiên cứu và sáng tạo, những ngời làm ra và bán các sản phẩm trên
thị trờng khoa học và công nghệ chúng ta thấy vẫn cha có ý thức và cũng
cha sẵn sàng tham gia vào thị trờng. Do cơ chế bao cấp đối với các tổ chức
nghiên cứu và triển khai tồn tại quá lâu, nên dờng nh các nhà khoa học, các cơ
sở nghiên cứu khoa học không chú tâm mấy đến việc tạo ra các sản phẩm khoa
học - công nghệ để đa ra thị trờng, các nghiên cứu đa phần nặng về lý thuyết
và phơng pháp luận, rất ít những nghiên cứu tạo ra kỹ thuật và công nghệ mới. Vì
thế các sản phẩm khoa học, công nghệ nghèo nàn, vừa thiếu về số lợng, vừa kém

về chất lợng, không có đóng góp đáng kể vào thị trờng khoa học và công nghệ.
Về phía các doanh nghiệp, những ngời mua các sản phẩm khoa học-
công nghệ, chúng ta thấy họ cũng cha mặn mà lắm. Các doanh nghiệp Nhà
nớc đang còn chiếm tỷ trọng lớn về tài sản và đang nắm giữ vị trí độc quyền
trong nhiều ngành sản xuất - kinh doanh và dịch vụ, song họ đang đợc u đãi
nhiều thứ và nó là của công, nên nó không có động lực trong cải tiến, đổi mới
công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Khu vực kinh tế t nhân tuy có số
lợng lớn, song mới đợc hình thành trong những năm gần đây, đặc biệt là từ
năm 2000 sau khi có Luật Doanh nghiệp. Do đó đa phần các doanh nghiệp t
nhân là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cha đủ năng lực tài chính để đổi mới
công nghệ, sòng phẳng mà nói, buổi ban đầu nhu cầu đổi mới công nghệ của họ
cũng cha mạnh và cha nhiều.
Nh vậy là cả ba yếu tố cơ bản tạo ra thị trờng khoa học và công nghệ là
Nhà nớc - nhà khoa học và nhà doanh nghiệp đều cha sẵn sàng, do đó thị
trờng khoa học và công nghệ ở nớc ta cha ra đời đợc là một tất yếu, chẳng
có gì phải ngạc nhiên.
Có nhiều nguyên nhân đa đến thực trạng đáng buồn trên, song nguyên
nhân cơ bản nhất, quyết định nhất theo chúng tôi đó là nhận thức sản phẩm khoa
học không phải là hàng hoá tồn tại quá lâu, ảnh hởng quá lớn đến chúng ta,
trớc hết là những ngời có trách nhiệm trong việc định ra chủ trơng, chính
sách phát triển của đất nớc.
Muốn thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
chúng ta không còn con đờng nào tốt hơn, nhanh hơn và hiệu quả hơn bằng việc
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
22
hình thành và phát triển thị trờng khoa học và công nghệ. Bởi lẽ, chỉ có thị
trờng khoa học và công nghệ mới giúp chúng ta tiếp cận đợc sớm với các
thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới, cũng nh của Việt Nam để triển
khai vào việc phát triển nền kinh tế. Đây là yếu tố quan trọng thứ ba giúp nhanh
chóng hình thành và phát triển các doanh nghiệp khoa học công nghệ, trớc hết

là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.2.4. Năng lực của các trờng đại học, các viện nghiên cứu, cũng nh
của bản thân các nhà khoa học
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, nh
phần trớc chúng tôi đã trình bày, chủ yếu là do các trờng đại học, các viện
nghiên cứu và các nhà khoa học đứng ra thành lập.
Muốn tạo lập một doanh nghiệp, cho dù doanh nghiệp đó có quy mô nh
thế nào, đều cần có những điều kiện vật chất hết sức cơ bản, đó là :
- Phải có đất đai để làm nhà xởng, phòng làm việc, phòng thí nghiệm,
kho, bãi, v.v
- Phải có lực lợng lao động có chuyên môn ( kể cả kỹ thuật, quản lý và
công nhân) phù hợp với mục tiêu sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
- Phải có vốn để mua sắm các máy móc, thiết bị, các nguyên vật liệu và
nhiên liệu phục vụ cho các hoạt động của doanh nghiệp, cũng nh trả lơng cho
đội ngũ cán bộ làm việc cho doanh nghiệp.
Tất nhiên, nhu cầu về những yếu tố trên có sự khác nhau giữa các loại
hình doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau. Các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công nghệ có nhu cầu lao động có trình độ
cao với mức độ lớn hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp ở các lĩnh vực khác.
Các trờng đại học, các viện nghiên cứu của nớc ta, đặc biệt là các
trờng, các cơ sở nghiên cứu công lập, nhìn chung đã có từ 30 năm trở lên đợc
hình thành và phát triển, do đó các điều kiện để xây dựng các doanh nghiệp vừa
và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công nghệ đối với họ, hiện tại không có gì khó
khăn. Cái khó có lẽ là cơ chế chính sách của Nhà nớc đối với việc lập và hoạt
động của các doanh nghiệp mà thôi. Không kể các tr
ờng đại học và các viện
nghiên cứu mới thành lập từ năm 2001 đến nay ( vì mới ra đời năng lực mọi mặt
của họ còn hạn chế ), thì đến năm 2000 cả nớc ta đã có 148 trờng đại học và
cao đẳng, với đội ngũ giáo viên lên tới 27.891 ngời, trong đó khoảng 40% là có
trình độ từ thạc sỹ trở lên. Có 55 viện nghiên cứu trực thuộc các bộ, ban ngành ở

Trung ơng. Có 2 viện khoa học cấp quốc gia là Viện khoa học và công nghệ
Việt Nam và Viện khoa học - xã hội Việt Nam. Hiện cũng có hàng vạn cán bộ
khoa học có trình độ cao đang làm việc tại các viện này.
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
23
Điều rất đáng nói là sau 20 năm đổi mới, đội ngũ cán bộ khoa học và quản
lý của các trờng đại học, các viện nghiên cứu đã đợc thử thách và trởng thành
lên rất nhiều. Một bộ phận trong số họ đã đợc thờng xuyên làm việc với các
trờng đại học và các viện nghiên cứu nổi tiếng trên thế giới, nhờ đó có điều kiện
tiếp cận vơí các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến nhất của thế giới. Một bộ phận
khác nhờ lăn lộn với thực tiễn phát triển kinh tế của đất nớc, cũng đã bớc đầu
làm quen với nền kinh tế thị trờng, với các hoạt động kinh doanh trên thị trờng
trong nớc và quốc tế. Đó là những điều kiện thuận lợi giúp cho việc có thể xây
dựng các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa học - công nghệ trong
các trờng đại học và các viện nghiên cứu.
Một điều nữa cũng rất đáng quan tâm, đó là không ít các nhà khoa học,
nhà quản lý đang làm việc ở các lĩnh vực khác nhau, hoặc đã về hu, song có
tâm huyết, vừa có kiến thức khoa học, vừa có năng lực tổ chức sản xuất kinh
doanh, và trong một chừng mực nào đó cũng có khả năng về tài chính, hiện cũng
rất sẵn sàng đứng ra thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa
học - công nghệ, phải nói rằng đây là điều rất đáng mừng đối với sự phát triển
của đất nớc ta trong những năm tơí.
1.2.5. Hình thức tổ chức hợp lý và tiên tiến.
Hình thức tổ chức phù hợp và tiên tiến có tác động quan trọng đối với sự
phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
Trong thế giới hiện đại, hình thức này rất phong phú, đa dạng, nhng đang nổi
trội ở các nớc là Vờn ơm doanh nghiệp công nghệ
1.2.5.1. Vờn ơm doanh nghiệp công nghệ là gì?
Có khá nhiều cách định nghĩa về vờn ơm doanh nghiệp công nghệ đang
tồn tại trên thế giới.

- Theo tổ chức UNIDO thì vờn
ơm doanh nghiệp công nghệ là một tổ
chức tiến hành một cách có hệ thống qúa trình tạo dựng các doanh nghiệp mới,
cung cấp cho các doanh nghiệp này một hệ thống toàn diện và thích hợp các dịch
vụ để hoạt động thành công nh:
+ Cho thuê diện tích với hình thức linh hoạt có thời hạn và giá cả chấp
nhận đợc.
+ Cung cấp các dịch vụ thông dụng: th ký, sử dụng chung các thiết bị
văn phòng.
+ Cung cấp các t vấn kinh doanh cụ thể và hỗ trợ chuyên ngành
(nghiên cứu triển khai) quỹ đầu t mạo hiểm.
+ Cung cấp các thông tin về các hoạt động bên trong vờn ơm giữa các
doanh nghiệp và bền ngoài cộng đồng.
D:\Tep KQNC-New\6553\6553.doc
24
Các vờn ơm doanh nghiệp công nghệ không nhất thiết phải có tất cả các
thiết bị và dịch vụ. Các vờn ơm thông qua việc kết hợp các nguồn lực của các
nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài để đảm bảo cho các doanh nghiệp đợc ơm tạo
có điều kiện hoạt động.
UNIDO cho rằng vờn ơm doanh nghiệp công nghệ là công cụ hữu hiệu
giúp chuyển giao công nghệ và hợp tác giữa lĩnh vực khoa học với lĩnh vực công
nghiệp. Nó giúp giải quyết các vấn đề có liên quan đến phát triển kinh tế địa
phơng thông qua việc cải thiện kinh doanh. Vờn ơm doanh nghiệp công nghệ
là công cụ cơ bản để thúc đẩy các hoạt động của doanh nghiệp mới thành lập,
thúc đẩy phát triển công ăn việc làm và chuyển giao công nghệ.
Tổ chức này cũng cho rằng vờn ơm doanh nghiệp công nghệ là công cụ
hay đợc sử dụng để phát triển vùng và địa phơng, vì vậy nguồn tài trợ của Nhà
nớc luôn đợc coi là một phần quan trọng, nguồn tài trợ sẽ giảm đi khi vờn
ơm đã phát triển.
- Còn Uỷ ban Châu Âu thì cho rằng : vờn ơm doanh nghiệp công nghệ

là một khu vực có cơ sở hạ tầng, mà trong đó các doanh nghiệp mới khởi nghiệp
hoạt động tại một diện tích hạn chế, nhng có thể cải tạo đợc theo kiểu các Mô-
đun, sử dụng chung các dịch vụ hạ tầng cơ sở, quản lý, ban th ký và các nhân
viên giúp việc.
- Có ý kiến khác cho rằng vờn ơm doanh nghiệp công nghệ một mặt là
tập hợp các hạ tầng cơ sở cần thiết, không thể thiếu đợc cho các hoạt động sản
xuất nh năng lợng, nớc sạch, bu chính - viễn thông, internet, xử lý nớc
thải, giao thông , mặt khác cung cấp các dịch vụ t
vấn giúp cho các doanh
nghiệp, mà các dịch vụ t vấn này ngày nay là yếu tố không thể thiếu đợc cho
hoạt động thành công của một doanh nghiệp nh tổ chức công việc, giải quyết
các vấn đề kế toán, tài chính, sở hữu trí tuệ, tiếp thị, hậu cần, ngoại thơng, vay
vốn, đầu t, phát triển, luật pháp.
1.2.5.2. Cơ sở nh thế nào đợc gọi là một vờn ơm ?
Một cơ sở, về nguyên tắc là có thể tự trang trải chi phí hoạt đông, bằng bất
động sản và các dịch vụ của mình trên một diện tích đợc xác định cụ thể, bảo
đảm các điều kiện u đãi cho các doanh nghiệp vào đó lập nghiệp.
Các doanh nghiệp đợc nhận vào vờn ơm phải là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, có số lợng ngời lao động vào loại trung bình, đang thực hiện các hoạt
động sản xuất và / hoặc dịch vụ hiện đại và có hớng phát triển rõ ràng.
Các doanh nghiệp phải chứng minh đợc khả năng của mình rằng trong
trờng hợp có sự đầu t vốn từ trong nớc, nớc ngoài sẽ thực hiện đợc các đổi

×