Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Bài thu hoạch, nha nuoc va pl một số vấn đề hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.05 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

A- LỜI NÓI ĐẦU.............................................................................................1
B- NỘI DUNG..................................................................................................2
I. Khái quát chung về nhà nước pháp quyền XHCN......................................2
1. Khái niệm chung...........................................................................................2
2. Những giá trị cơ bản phổ biến của Nhà nước pháp quyền:...........................2
3. Những giá trị đặc thù của Nhà nước pháp quyền..........................................3
II. Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam..............3
1.Tính tất yếu lịch sử.........................................................................................3
2.Tính tất yếu khách quan.................................................................................4
3. Sự khác nhau cơ bản giữa Nhà nước pháp quyền tư sản với Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa......................................................................................5
III. Vấn đề đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước theo yêu cầu của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam............................................................6
1. Những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam....................6
2. Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước theo yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.....................................................................7
2.1. Đối với cơ quan lập pháp...........................................................................8
2.2. Đối với cơ quan hành pháp........................................................................9
2.3. Đối với cơ quan tư pháp.............................................................................9
2.4. Đối với chính quyền cơ sở........................................................................10
2.5. Đối với đội ngũ cán bộ công chức nhà nước...........................................11
C- KẾT LUẬN................................................................................................12
D- TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................13


1

A- LỜI NÓI ĐẦU
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ khi ra đời đến


nay, Nhà nước ta ngày càng thể hiện rõ những phẩm chất và đặc trưng của
một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Đó là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp, được xây dựng, tổ
chức và hoạt động trên cơ sở những quy định của Hiến pháp, pháp luật và vận
hành trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Hiến pháp và hệ thống pháp luật
của chúng ta ngày càng được xây dựng, bổ sung và khơng ngừng hồn thiện
để không những đáp ứng kịp thời những yêu cầu phong phú và sinh động của
cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước mà còn để phù hợp với hệ thống công
ước, thông lệ và pháp luật quốc tế trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nước
Sự ra đời và phát triển của tư tưởng: “Nhà nước pháp quyền” gắn liền
với sự ra đời và phát triển của dân chủ, của tư tưởng nhằm loại trừ sự chun
quyền, độc đốn, vơ chính phủ, vô pháp luật. Nhà nước pháp quyền ra đời ở
một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Nhà nước pháp quyền địi hỏi
phải có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp luật với hình thức pháp lý
của tổ chức, thực hiện quyền lực Nhà nước. Đó là hai yếu tố khơng thể thiếu
được khi nói đến Nhà nước pháp quyền nói chung. Chính vì vậy em chọn
chuyên đề “Một số vấn đề hoàn thiện bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” để làm bài thu hoạch kết thúc môn học Nhà
nước và pháp luật.


2

B- NỘI DUNG
I. Khái quát chung về nhà nước pháp quyền XHCN
1. Khái niệm chung
- Về phương diện lý luận, các nhà khoa học đã đi tới một số khẳng định
quan trọng: Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mà là giá
trị phổ biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ.

- Nhà nước pháp quyền đã được nhìn nhận như một cách thức tổ chức
nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Các
giá trị phổ biến của nó được trình bày dưới các dạng thức khác nhau và phụ
thuộc vào lập trường chính trị - pháp lý, quan điểm học thuật của mỗi người
mà ngay cả cách trình bày cũng có thể khác nhau.
2. Những giá trị cơ bản phổ biến của Nhà nước pháp quyền:
- Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ. Theo
đó, dân chủ vừa là bản chất, vừa là điều kiện, là tiền đề để xây dựng nhà nước
pháp quyền.
- Bộ máy nhà nước pháp quyền được tổ chức và vận hành trên cơ sở các
nguyên tắc tổ chức quyền lực một cách dân chủ.
- Một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, cơ quan xét xử chỉ tuân theo pháp
luật với một chế độ tố tụng công khai, dân chủ.
Sự phủ nhận quan điểm xem nhà nước pháp quyền như một kiểu nhà nước
có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng trong việc nhìn nhận đúng bản chất của nhà
nước pháp quyền. Ý nghĩa nhận thức luận này bao hàm các khía cạnh sau:
- Chỉ từ khi dân chủ tư sản xuất hiện, mới có cơ hội và điều kiện để xây
dựng nhà nước pháp quyền. Do vậy, trên thực tế, nhà nước pháp quyền tư sản
đang được xây dựng ở hầu hết các nước tư bản phát triển và đang phát triển .


3

- Nhà nước pháp quyền với  tư cách cách thức tổ chức và vận hành của
một chế độ nhà nước và xã hội không những được xây dựng ở chế độ tư bản,
mà còn được xây dựng ở chế độ xã hội chủ nghĩa. Nh ư vậy, trong nhận thức
lý luận cũng như trong thực tiễn, có nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3. Những giá trị đặc thù của Nhà nước pháp quyền.
Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi nhiều yếu tố.

Các yếu tố này, về thực chất, là hết sức đa dạng, phong phú và rất phức tạp,
được xác định bởi các điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hố, tâm lý xã hội và mơi
trường địa lý của mỗi quốc gia dân tộc. Chúng không chỉ tạo ra cái đặc sắc,
tính riêng biệt của mỗi dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước và phát
triển, mà còn quyết định mức độ tiếp thu và dung nạp các giá trị phổ biến của
nhà nước pháp quyền. Việc thừa nhận tính đặc thù của nhà nước pháp quyền
có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng. Với ý nghĩa này, nhà nước pháp quyền
là một phạm trù vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù; vừa là giá trị
chung của nhân loại, vừa là giá trị riêng của mỗi dân tộc, quốc gia. Do vậy,
không thể có một nhà nước pháp quyền như một mơ hình chung thống nhất
cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi quốc gia, dân tộc, tuỳ thuộc vào các đặc điểm
lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình
một mơ hình nhà nước pháp quyền thích hợp.
II. Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một Nhà nước vừa
phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, vừa khẳng
định được bản sắc đặc thù của riêng mình.
1.Tính tất yếu lịch sử
Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ


4

khi thành lập và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hồ đã và ln là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức
và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, pháp luật và luôn vận
hành trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các đạo luật tổ chức Quốc hội,
Chính phủ, Tồ án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các đạo luật về chính
quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp năm 1946, năm 1959,

năm 1980, năm 1992 và năm 2013. Những lần Hiến pháp được sửa đổi và
thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động
của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, q trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ
Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946, được định hướng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước. Q trình này đã trải qua
hơn nửa thế kỷ và ngày nay, quá trình này đang được tiếp tục đẩy mạnh trong
thời kỳ đổi mới tồn diện đất nước.
2.Tính tất yếu khách quan.
Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu "độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng một chế độ xã hội dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Chúng ta ý thức sâu sắc
rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy thì cơng
cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm
của thời đại với xu thế tồn cầu hố. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sau khi
nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi
chúng ta tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính Nhà nước, cải cách pháp luật,
đảm bảo cho Nhà nước khơng ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có


5

hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hành dân chủ, giữ vững
độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
3. Sự khác nhau cơ bản giữa Nhà nước pháp quyền tư sản với Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Sự khác nhau cơ bản giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam nói riêng, có thể khái quát trên các nét chính sau:
Một là, cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã
hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật khách
quan của thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị
trường trong chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội. Do
vậy, đặc tính của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tạo ra sự khác nhau
giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
đồng thời tạo ra nét đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hai là, cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khối
đại đoàn kết dân tộc. Với khối đại đoàn kết tồn dân tộc, nhà nước pháp
quyền có được cơ sở xã hội rộng lớn và khả năng to lớn trong việc tập hợp, tổ
chức các tầng lớp nhân dân thực hành và phát huy dân chủ.
Ba là, Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy không
loại bỏ được sự phân tầng xã hội theo hướng phân hố giàu nghèo, nhưng có
khả năng xử lý tốt hơn công bằng xã hội. Những mâu thuẫn xã hội phát sinh
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường do được điều tiết thơng qua
pháp luật, chính sách và các cơng cụ khác của nhà nước nên ít có nguy cơ trở
thành các mâu thuẫn đối kháng và tạo ra các xung đột có tính chất chia rẽ xã
hội. Đây là một trong những điều kiện đảm bảo ổn định chính trị, đồn kết các
lực lượng xã hội vì các mục tiêu chung của sự phát triển.


6

Bốn là, Tính nhất nguyên chính trị và sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất
cầm quyền tạo khả năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác và giúp
đỡ lẫn nhau giữa các giai tầng, các cộng đồng dân cư và các dân tộc. Nhờ vậy, nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã hội,
nguồn sức mạnh từ sự đoàn kết toàn dân, phát huy được sức sáng tạo của các tầng
lớp dân cư trong việc nâng cao quyền làm chủ của nhân dân.
III. Vấn đề đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước theo yêu cầu của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1. Những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Dựa trên các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt nam và Hiến pháp Nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản
của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam như sau:
Một là, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đây là đặc trưng cơ bản, được ghi nhận
trong Hiến pháp của nước ta và được thể hiện trong các quy định về nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương
của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch
và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện việc
cải cách bộ máy nhà nước.
Ba là, nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở hiến pháp và pháp
luật. Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan
hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật thể hiện
đầy đủ, đúng đắn ý chí của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc


7

đẩy tiến bộ xã hội. Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật là của tất cả công
dân, không loại trừ ai.
Bốn là, nhà nước tôn trọng, bảo đảm quyền con người, nâng cao trách

nhiệm pháp lý của Nhà nước, thi hành dân chủ đồng thời tăng cường kỷ
cương, kỷ luật. Mục tiêu cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh về bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân được thể chế hố
thành luật và được Nhà nước ta tổ chức thực hiện có kết quả.
Năm là, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản biện của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 
Sáu là, quản lý xã hội bằng pháp luật và đề cao vai trò tối thượng của
pháp luật.
Bảy là, tôn trọng và tự nguyện thực hiện các cam kết quốc tế.
Qua những nội dung trình bày trên đây, chúng ta thấy rằng, trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta đã
tiếp thu được những tinh hoa, những giá trị tồn nhân loại. Đó là các chế định
pháp lý, nh ư tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, sự tôn trọng và
bảo vệ các quyền và tự do của con người như những giá trị xã hội cao quý
nhất, sự ngự trị của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của xã hội, tính tối
cao của pháp luật trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước và trong việc
điều chỉnh các quan hệ xã hội.
2. Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước theo yêu cầu của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cần được tiến hành
đồng bộ, từ việc xác định vị trí trụ cột của Nhà nước trong hệ thống chính trị,
cơ cấu lại chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực


8

hành và phát huy dân chủ đến việc đổi mới từng bộ phận cấu thành bộ máy
nhà nước: Quốc hội, Chính phủ, cơ quan tư pháp và chính quyền địa phương.

2.1. Đối với cơ quan lập pháp
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng nâng cao chất
lượng, thực hiện tốt chức năng lập pháp và giám sát tối cao.
Hiến pháp năm 2013 đã xác định Quốc hội nước ta là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất với 3 chức năng: lập
hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao.
Cần đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của Quốc hội trong tổng thể bộ
máy nhà nước, theo đó Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất,
nhưng khơng phải tồn bộ quyền lực nhà nước đều thuộc về Quốc hội. Vấn đề
đặt ra là, cần phải xây dựng được một Quốc hội thực quyền chứ khơng phải là
Quốc hội tồn quyền.
Đối với chức năng lập hiến và lập pháp, cần quán triệt nguyên tắc hiến
định: Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Để đảm
bảo quyền này của Quốc hội, cần nghiên cứu để hạn chế quyền ban hành pháp
lệnh của Uỷ ban

Thường vụ Quốc hội, tiến tới quy định Uỷ ban Thường

vụ Quốc hội không ban hành pháp lệnh, đồng thời phân định rõ thẩm quyền
lập pháp của Quốc hội với thẩm quyền lập quy của Chính phủ, từng bước hạn
chế uỷ quyền lập pháp.
Đối với việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, vấn đề
thiết thực và quan trọng nhất là hiệu quả của sự giám sát thông qua cơ chế xử
lý kết quả giám sát của Quốc hội, bảo đảm các kết luận giám sát của Quốc hội
phải được tôn trọng và thực hiện nghiêm túc bởi các cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan.
Để tạo lập được cơ chế giám sát tối cao một cách thực tế đối với hoạt
động của nhà nước, cần tổ chức nghiên cứu để tiến tới thành lập một cơ quan



9

bảo hiến, đảm bảo địa vị tối cao, thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Hiến
pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân của nước ta.
Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam đã trở thành
thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), bảo đảm sự t ương thích
của pháp luật quốc gia với các khơng gian pháp lý có tính quốc tế đang đòi
hỏi chúng ta phải đẩy mạnh việc đổi mới công tác lập pháp. Chúng ta không
những phải soạn thảo và thơng qua nhiều đạo luật mới, mà cịn phải rà sốt,
sửa đổi tồn bộ những đạo luật đã có sao cho đáp ứng được yêu cầu của tình
hình và nhiệm vụ mới. Do vậy, công tác lập pháp của nước ta trong nhiệm kỳ
Quốc hội khoá XII trở nên cấp bách hơn bất cứ thời kỳ nào trước đây.
2.2. Đối với cơ quan hành pháp
Xây dựng một Chính phủ gọn về tổ chức, rõ về chức năng, hiệu lực, hiệu
quả trong hoạt động. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chức
năng quản lý nhà nước của Chính phủ gồm hai nhóm cơ bản sau đây:
- Nghiên cứu chính sách thể chế.
- Điều hành mang tính chất hành chính cơng quyền.
Để thực hiện tốt chức năng hành pháp của Chính phủ, đẩy mạnh cải
cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây
dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại. Luật hố
cơ cấu, tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo
đảm tinh gọn và hợp lý. Phân cấp mạnh, giao quyền chủ động hơn nữa cho
chính quyền địa phương, nhất là trong việc quyết định về ngân sách, tài chính,
đầu tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Trung ương.
2.3. Đối với cơ quan tư pháp



10

Đổi mới các cơ quan tư pháp và thủ tục tư pháp theo các yêu cầu của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trọng tâm của cải cách tư pháp chính là cải cách tổ chức và hoạt động
của Tồ án với quan điểm Toà án là trung tâm của hệ thống tư pháp và sự độc
lập của Toà án trong xét xử là điều kiện cơ bản bảo đảm cho Tồ án thực hiện
vai trị của mình với tư cách cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người.
Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người… Cải cách tư pháp khẩn
trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ
chế công tố gắn với hoạt động điều tra. Xây dựng cơ chế phán quyết về những
vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Cần đổi mới mạnh mẽ pháp luật thủ tục về hoạt động tư pháp trong tất
cả các lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính… theo hướng chuyển các hoạt
động xét xử của Toà án sang chế độ tranh tụng để thật sự bảo đảm quyền bình
đẳng của các bên trong q trình tranh tụng tại Tồ án.
2.4. Đối với chính quyền cơ sở
Đổi mới chính quyền địa phương đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Một là, Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ
ban nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền
địa phương trong phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của hội
đồng nhân dân. Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm
quyền đối với chính quyền ở nơng thơn, đơ thị, hải đảo".
Hai là, Mơ hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các
cấp cần bảo đảm sự thống nhất không gian kinh tế và không gian pháp lý.
Quyền tự chủ của chính quyền địa phương phải đặt trong sự quản lý của
Trung ương về thể chế và chính sách vĩ mơ. Mỗi cấp chính quyền là một bộ



11

phận cấu thành của hệ thống hành chính nhà nước thống nhất. Do đó, khơng
thể coi việc đảm bảo quyền tự chủ của chính quyền địa phương như là sự
thốt ly, tách rời khỏi Nhà nước Trung ương và không thể làm phát sinh tình
trạng cát cứ, cục bộ địa phương, khơng để tạo ra sự đối lập lợi ích giữa địa
phương và Trung ương. Đổi mới, cải cách tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương phải gắn liền với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tổ
chức đảng ở các cấp địa phương.
2.5. Đối với đội ngũ cán bộ công chức nhà nước
Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức theo yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ, công chức của nước ta đã có sự
phát triển cả về số lượng và chất lượng. Bên cạnh những mặt trư ởng thành,
đội ngũ cán bộ cơng chức cịn nhiều mặt yếu kém, điều có tính phổ biến là
cịn thiếu tính chun nghiệp. Do vậy, nhiệm vụ hiện nay cần quan tâm trước
hết là xây dựng và áp dụng chức danh, tiêu chuẩn của các loại cán bộ công
chức trong bộ máy hành chính, các tổ chức sự nghiệp. Tiến hành phân cấp
quản lý biên chế hành chính, biên chế sự nghiệp nhà nước và thực hiện cơ chế
quản lý mới đối với biên chế sự nghiệp, thực hiện cơ chế hợp đồng đối với
biên chế sự nghiệp để tạo quyền tự chủ về nguồn nhân lực và thay đổi cơ cấu
công chức, viên chức cho các đơn vị sự nghiệp. Đổi mới công tác tuyển dụng
cán bộ, công chức, chuyển từ phương thức xét tuyển sang phương thức thi
tuyển để lấy người có trình độ vào làm việc trong các cơ quan quản lý nhà
nước; đồng thời chú ý đến các vùng sâu, vùng xa, đối với đội ngũ cán bộ, giáo
viên cần có những vận dụng phù hợp trong tuyển dụng.


12


C- KẾT LUẬN
Ngày nay, khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển như vũ bão,
bùng nổ thông tin, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước diễn ra
trong tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp. Trong điều kiện đó,
việc tiếp tục xây dựng và hồn thiện nhà nước pháp quyền là địi hỏi tất yếu
khách quan và phù hợp với xu hướng chung của thời đại.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá
trình lâu dài. Với quyết tâm chính trị cao của Đảng trong những năm qua, việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã có những thành tựu nhất
định, song trong quá trình xây dựng cũng nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi chúng
ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, tìm kiếm, thử nghiệm. Do vậy, xây
dựng và hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang là nhiệm vụ
cấp bách đặt ra trước chúng ta.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội; trong đường lối lãnh đạo của mình, Đảng ta đặc biệt coi trọng
việc đề ra đường lối xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước - yếu tố trung
tâm của hệ thống chính trị. Để thực hiện mục tiêu đó, phải tăng cường hiệu
lực của bộ máy nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước, đồng thời tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực.


13

D- TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tập bài giảng lớp hoàn chính kiến thức Cao cấp lý luận chính trị
mơn Nhà nước và pháp luật Viện Nhà nước và pháp luật- Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.

2. Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, mơn Nhà nước và pháp luật Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
3. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI, XII
4. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013.



×