Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Một vài kinh nghiệm liên hệ giữa lịch sử việt nam và lịch sử thế giới trong ôn thi học sinh giỏi thpt môn lịch sử giai đoạn 1919 1930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.27 KB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN BÁI
TRƯỜNG THPT CHU VĂN AN

BÁO CÁO SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ
(Lĩnh vực: Lịch sử)

TÊN SÁNG KIẾN

“MỘT VÀI KINH NGHIỆM LIÊN HỆ GIỮA LỊCH SỬ VIỆT
NAM VÀ LỊCH SỬ THẾ GIỚI TRONG ÔN THI HỌC SINH
GIỎI THPT MÔN LỊCH SỬ GIAI ĐOẠN 1919 – 1930”

Tác giả: Phạm Thị Hồng
Trình độ chun mơn: Cử nhân
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Chu Văn An

Yên Bái, ngày 06 tháng 01 năm 2022


I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN

1. Tên sáng kiến: “Một vài kinh nghiệm liên hệ giữa lịch sử Việt Nam và
lịch sử thế giới trong ôn thi học sinh giỏi THPT môn Lịch sử giai đoạn 19191930”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lịch sử.
3. Phạm vi áp dụng sáng kiến: Ôn thi học sinh giỏi tại trường THPT
Chu Văn An – Văn Yên – Yên Bái.
4. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Từ ngày 15 tháng 06 năm 2020 đến ngày 26 tháng 12 năm 2021.
5. Tác giả:
Họ và tên: Phạm Thị Hồng.


Năm sinh: 1975.
Trình độ chun mơn: Cử nhân.
Chức vụ công tác: Giáo viên.
Nơi làm việc: trường THPT Chu Văn An.
Địa chỉ liên hệ: Số nhà 32, Tổ 8, thị trấn Mậu A, huyện Văn Yên, tỉnh Yên
Bái.
Điện thoại: 0389239185
II. MƠ TẢ SÁNG KIẾN:
1. Tình trạng các giải pháp đã biết
- Trước khi áp dụng sáng kiến, trong q trình ơn thi học sinh giỏi mặc dù
đã dùng nhiều phương pháp để truyền tải kiến thức tới học sinh nhưng sau khi ôn
thi xong bắt tay vào kiểm tra vấn đáp, luyện đề, tơi gặp khó khăn đó là học sinh
chỉ nắm được những kiến thức nền, cơ bản theo chiều dọc của lịch sử Việt Nam
mà không trả lời được đầy đủ nhất về mối quan hệ giữa lịch sử Việt Nam với lịch
sử thế giới và ngược lại. Do đó kết quả kiểm tra ở những đề thi có câu hỏi phát
triển năng lực, cần liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam trong cùng
một bối cảnh thực tiễn thì học sinh chưa có một cái nhìn khái qt tổng hợp, cho
nên câu trả lời, độ tư duy, logic chưa cao.
1


- Nội dung về mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam giai
đoạn 1919 – 1930 hiện nay vẫn chưa được biên soạn thành một bài hay một
chương trình cụ thể mà nằm rải rác ở các bài, các mục khác nhau, trong khi đây
cũng là một nội dung quan trọng. Bởi lẽ muốn hiểu được lịch sử Việt Nam thì
phải hiểu được tình hình thế giới cụ thể trong giai đoạn đó. Do vậy, khi giảng dạy
và bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi, đòi hỏi giáo viên phải tập hợp và hệ thống
kiến thức từ những bài, những mục trong sách giáo khoa, sách tham khảo để chọn
lọc những nội dung liên quan giữa Lịch sử thế giới và Lịch sử Việt Nam ở từng
giai đoạn cụ thể để làm rõ cho học sinh.

2. Nội dung (các) giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:
- Mục đích của (các) giải pháp:
+ Đưa ra một số giải pháp thực hiện việc lựa chọn nội dung giảng dạy, xây
dựng hệ thống câu hỏi ôn tập trong dạy học lịch sử chuyên đề “Một vài kinh
nghiệm liên hệ giữa lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới trong ôn thi học sinh giỏi
THPT môn Lịch sử giai đoạn 1919-1930”. để nhằm cung cấp cho học sinh những
kiến thức chuẩn, chuyên sâu và có hệ thống về những tác động của tình hình thế
giới đến cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này.
+ Lựa chọn những nội dung nổi bật trong chương trình thuộc giai đoạn này
để học sinh nắm được mối liên hệ giữa lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam giai
đoạn 1919 – 1930.
+ Thông qua chuyên đề nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong học
tập của học sinh, nhằm góp phần nâng cao chất lượng ơn thi đội tuyển mơn lịch
sử, góp phần quan trọng trong việc trang bị kiến thức cần thiết cho học sinh. Hình
thành cho học sinh niềm yêu thích khi học Lịch sử từ đó có thể tự học tự tìm hiểu
một vấn đề lịch sử, qua đó phát huy tính năng động, sáng tạo của học sinh.
- Nội dung (các) giải pháp:
Những sự kiện lớn của thế giới có tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến
cách mạng Việt Nam giai đoạn 1919 – 1930 gồm: Thắng lợi của Cách mạng tháng
Mười Nga năm 1917 và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản năm 1919; Chiến tranh
thế giới thứ nhất (1914 – 1918) và cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực
2


dân Pháp (1919 – 1929); Ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ của Tôn Trung Sơn
đến khuynh hướng cách mạng Việt Nam; Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
(1929-1933) và phong trào cách mạng 1930 – 1931. Và hệ thống câu hỏi ôn luyện
học sinh giỏi chuyên đề “Một vài kinh nghiệm liên hệ giữa lịch sử Việt Nam và
lịch sử thế giới trong ôn thi học sinh giỏi THPT môn Lịch sử giai đoạn 19191930”.
+ Cách thức, các bước thực hiện sáng kiến:

Bước 1: Nghiên cứu tài liệu tham khảo, xây dựng nội dung sáng kiến.
Bước 2: Truyền đạt kiến thức nền của giai đoạn 1919 – 1930 cho học sinh.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh cách sâu chuỗi các sự kiện về mối liên hệ giữa lịch
sử thế giới và lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 – 1930.
Bước 4: Ra hệ thống câu hỏi vấn đáp và luyện đề liên quan đến nội dung đã học.
Bước 5: Ra một số đề kiểm tra yêu cầu học sinh giải quyết được mối liên hệ
giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam ở các giai đoạn trước và sau giai đoạn
1919 – 1930.
Bước 6: Phân tích điểm số của học sinh từ đó tìm ngun nhân tăng/ giảm điểm
số, tiếp tục tìm biện pháp giải quyết những vấn đề cịn yếu ở học sinh.
- Chỉ ra tính mới, sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ:
+ Trước khi áp dụng sáng kiến, trong q trình ơn thi học sinh giỏi giáo
viên chỉ soạn giảng theo từng thời kì, theo kiến thức dọc có liên hệ với thế giơi
hoặc giữa thế giới liên hệ với Việt Nam nhưng mới chỉ dừng ở việc nêu vấn đề
hoặc cho học sinh ghi một cách rất sơ lược, tóm tắt. Nhưng với chun đề này
khi ơn thi học sinh giỏi, giáo viên có đủ bằng chứng, kiến thức, tài liệu phục vụ
cho dạy ôn thi, ra đề thi, học sinh có nội dung ơn cụ thể để trả lời tốt những câu
hỏi liên quan trong đề thi.
+ Trước khi áp dụng sáng kiến, giáo viên chưa xây dựng được hệ thống câu
hỏi nhưng với sáng kiến này giáo viên đã xây dựng được một hệ thống câu hỏi
hay, bổ dọc, bổ ngang kiến thức, nhiều câu hỏi phát triển năng lực được ứng dụng
cụ thể trong các đề thi.
3


+ Trước khi áp dụng sáng kiến khả năng nói về mối liên hệ giữa lịch sử thế
giới và lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 – 1930 chưa được đầy đủ, các minh chứng
chưa nhiều. Nhưng sau khi áp dụng sáng kiến học sinh có thể đứng lên trả lời bất
cứ nội dung nào có câu hỏi liên quan. Khơng những thế học sinh cịn trả lời được
các câu hỏi về mối liên hệ giữa lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam giai đoạn

1919 – 1930 và ở các giai đoạn trước và sau chuyên đề.
Các minh chứng cụ thể:
+ Nội dung cơ bản đã được thể hiện trong sáng kiến.
+ Hệ thống câu hỏi đã được xây dựng và thể hiện trong sáng kiến.
+ Bảng so sánh điểm thi đã được thể hiện trong phụ lục 1.
3. Khả năng áp dụng của giải pháp
- Sáng kiến có tính khả thi đã được áp dụng trong q trình ơn thi học sinh
giỏi cấp trường, cấp tỉnh, cấp quốc gia.
- Sáng kiến là tài liệu rất hữu ích cho các đồng nghiệp giảng dạy môn lịch
sử trong quá trình ơn thi học sinh giỏi các cấp.
- Sáng kiến là tài liệu phục vụ cho học sinh trong quá trình ơn thi THPT
quốc gia đặc biệt là ơn thi học sinh giỏi các cấp.
4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
giải pháp
- Đăng ký thực hiện, phân công, giao nhiệm vụ, của tổ chuyên môn, của
nhà trường về việc áp dụng giải pháp của sáng kiến thể hiện trong kế hoạch
của TCM hoặc của nhà trường:
Kế hoạch ôn đội tuyển học sinh giỏi môn Lịch sử trường THPT Chu Văn
An. Tổng số 60 buổi (theo quy định), cụ thể:
STT

Thời gian

Nội dung

1

10 buổi

Việt Nam từ đầu đến thế kỉ XV


2

10 buổi

Việt Nam từ thế kỉ XV đến 1919 Lưu Thị Huệ

3

10 buổi

Việt Nam từ 1919 đến 1945

Phạm Thị Hồng

4

10 buổi

Việt Nam từ 1945 đến 1954

Phạm Thị Hồng

4

Người thực hiện
Hà Hữu Thành


5


10 buổi

Việt Nam từ 1954 đến 2000

Nguyễn Thanh Phương

6

10 buổi

Thế giới từ 1945 đến 2000

Nguyễn Thị Giang

- Đánh giá hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng, áp dụng thử sáng kiến mang
lại:
+ Bảng điểm của đội tuyển học sinh giỏi:
STT

Họ và tên

Bài
Bài
Bài
Bài
Bài
Bài
kiểm kiểm kiểm kiểm tra kiểm kiểm
tra số 1 tra số 2 tra số 3 số 4 tra số 5 tra số 6


1

Phạm Xuân Anh

6/20

6/20

9/20

10/20

2

Trần Thị Đào

6/20

8/20

10/20

10/20

3

Trần Diệu Linh

9/20


11/20

12/20

14/20

15/20

16/20

4

Nguyễn Bảo Linh

8/20

10/20

12/20

12/20

14/20

15/20

5

Nguyễn Thu Hiền


9/20

12/20

13/20

15/20

17/20

17/20

6

Bàn Kim Thư

10/20

15/20

16/20

16/20

17/20

17/20

7


Nguyễn Thị Nguyệt

8/20

10/20

12/20

13/20

14/20

+ Phân tích ngun nhân: Khi mới ơn tập, học sinh chỉ được học theo các
chuyên đề đã lập theo kế hoạch trên nên mới chỉ có cách nhìn một chiều riêng biệt
đó là phần lịch sử Việt Nam riêng, phần lịch sử thế giới riêng nhưng từ chuyên đề
Việt Nam 1919 – 1930 với việc áp dụng sáng kiến trên học sinh đã tiến bộ hơn rất
nhiều trong cách nắm bắt kiến thức, nắm kiến thức nền, liên hệ thực tiễn Việt Nam
với dòng chảy của lịch sử thế giới. Do đó, đã có sự hiểu biết khái quát, tổng hợp,
vận dụng kiến thức để giải quyết các câu hỏi trong đề thi liên quan. Từ chuyên đề
này học sinh đã biết vận dụng để học, ôn tập và giải quyết các dạng đề thi trong
các giai đoạn sau gồm Việt Nam từ 1945 đến 1954, Việt Nam từ 1954 đến 1975,
Việt Nam từ 1975 đến 2000. Do đó, từ bài kiểm tra số 3 trở đi, điểm kiểm tra của
học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt.

5


+ Kết quả đạt được: Trong q trình ơn luyện từ việc áp dụng sáng kiến,
ngoài các bài kiểm tra, thi thử - luyện đề điểm của các em học sinh ngày một tiến

bộ thì các em đã khẳng định được mình qua các kì thi: Tại kì thi Học sinh giỏi cấp
tỉnh năm học 2019-2020 Trường Chu Văn An đã có 09 em đạt giải, trong đó có
01 giải Nhất, 02 giải Nhì, 02 giải Ba và 04 học sinh đạt giải Khuyến khích, 01
học sinh đạt giải Ba cấp Quốc Gia. Năm học 2020-2021 Trường Chu Văn An đã
có 08 em đạt giải, trong đó 02 giải Nhì, 03 giải Ba và 03 học sinh đạt giải Khuyến
khích.
5. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có)
6. Các thơng tin cần được bảo mật (nếu có)
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
+ Có năng lực chun mơn tốt.
+ Là thành viên tham gia dạy đội tuyển các cấp.
+ Thành lập đội tuyển cấp trường, cấp tỉnh, cấp quốc gia.
+ Học sinh đã được học kiến thức ở các giai đoạn trước.
+ Học sinh có đủ tài liệu nghiên cứu, học tập và tham khảo.
+ Giáo viên phải có kế hoạch dạy học cụ thể.
8. Tài liệu gửi kèm (nếu có)
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“MỘT VÀI KINH NGHIỆM LIÊN HỆ GIỮA LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀ
LỊCH SỬ THẾ GIỚI TRONG ÔN THI HỌC SINH GIỎI THPT MÔN
LỊCH SỬ GIAI ĐOẠN 1919 – 1930”
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn sáng kiến
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của các trường THPT là công tác phát
hiện, tuyển chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi. Có thể nói đây là cơng việc thường
xun và cũng là nhiệm vụ đầy khó khăn của khối các trường THPT; ngược lại, số
lượng và chất lượng giải học sinh giỏi là tiêu chí hàng đầu đánh giá năng lực của
các cá nhân và tập thể (các trường), các địa phương, các vùng, miền… Bởi vậy, bồi
6



dưỡng học sinh giỏi nói chung, bồi dưỡng học sinh giỏi mơn Lịch sử nói riêng cho
các kì thi chọn học sinh giỏi là vấn đề luôn được các cấp quản lí, các giáo viên trực
tiếp giảng dạy quan tâm và trăn trở.… Đối với bộ môn Lịch sử, do mang tính đặc
thù bộ mơn và do các yếu tố khách quan mà nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi càng
trở nên khó khăn và phức tạp. Để hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả
thì phải tự đánh giá những thuận lợi và khó khăn, ưu điểm và hạn chế; phải tìm
được giải pháp, phải coi trọng yếu tố con người (thầy – trò), trên cơ sở đó lựa chọn
các phương pháp phù hợp.
Lịch sử Việt Nam là một bộ phận của lịch sử thế giới, vì vậy các sự kiện lịch
sử thế giới thường có tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến lịch sử Việt Nam. Vì vậy
cách mạng Việt Nam ln có mối quan hệ mật thiết với cách mạng thế giới. Trong
giai đoạn lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930, có rất nhiều sự kiện to lớn
của thế giới có tác động đến cách mạng Việt Nam. Ở mỗi thời kì khác nhau trong
giai đoạn 1919 – 1930, khi tình hình thế giới có sự thay đổi, cách mạng Việt Nam
cũng phải thay đổi để thích ứng với bối cảnh lịch sử thế giới.
Tuy nhiên nội dung về mối liên hệ giữa Lịch sử thế giới với Lịch sử Việt
Nam giai đoạn 1919 – 1930 hiện nay vẫn chưa được biên soạn thành một bài hay
một chương trình cụ thể mà nằm rải rác ở các bài, các mục khác nhau, trong khi
đây cũng là một nội dung quan trọng. Bởi lẽ muốn hiểu được lịch sử Việt Nam
thì phải hiểu được tình hình thế giới cụ thể trong giai đoạn đó. Do vậy, khi giảng
dạy và bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi, đòi hỏi giáo viên phải tập hợp và hệ
thống kiến thức từ những bài, những mục trong sách giáo khoa, sách tham khảo
để chọn lọc những nội dung liên quan giữa Lịch sử thế giới và Lịch sử Việt Nam
ở từng giai đoạn cụ thể để làm rõ cho học sinh. Từ những lí do trên tơi xin đưa ra :
“Một vài kinh nghiệm liên hệ giữa lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới trong ôn
thi học sinh giỏi THPT môn Lịch sử giai đoạn 1919-1930” làm nội dung sáng kiến
kinh nghiệm của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đưa ra một số giải pháp thực hiện việc lựa chọn nội dung giảng dạy, xây dựng
hệ thống câu hỏi ôn tập trong dạy học lịch sử chuyên đề “Một vài kinh nghiệm liên

7


hệ giữa lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới trong ôn thi học sinh giỏi THPT môn
Lịch sử giai đoạn 1919-1930” để nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức
chuẩn, chuyên sâu và có hệ thống về những tác động của tình hình thế giới đến cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn này.
Lựa chọn những nội dung nổi bật trong chương trình thuộc giai đoạn này
để học sinh nắm được mối liên hệ giữa lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam giai
đoạn 1919 – 1930.
Thông qua chuyên đề nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập
của học sinh, nhằm góp phần nâng cao chất lượng ơn thi đội tuyển mơn lịch sử,
góp phần quan trọng trong việc trang bị kiến thức cần thiết cho học sinh. Hình
thành cho học sinh niềm yêu thích khi học Lịch sử từ đó có thể tự học tự tìm hiểu
một vấn đề lịch sử, qua đó phát huy tính năng động, sáng tạo của học sinh.
3. Tính mới và tính khả thi của sáng kiến
3.1. Tính mới
Trước khi áp dụng sáng kiến, trong q trình ơn thi học sinh giỏi giáo viên
chỉ soạn giảng theo từng thời kì, theo kiến thức dọc có liên hệ với thế giơi hoặc
giữa thế giới liên hệ với Việt Nam nhưng mới chỉ dừng ở việc nêu vấn đề hoặc
cho học sinh ghi một cách rất sơ lược, tóm tắt. Nhưng với chuyên đề này khi ôn
thi học sinh giỏi, giáo viên có đủ bằng chứng, kiến thức, tài liệu phục vụ cho dạy
ôn thi, ra đề thi, học sinh có nội dung ơn cụ thể để trả lời tốt những câu hỏi liên
quan trong đề thi.
Trước khi áp dụng sáng kiến, giáo viên chưa xây dựng được hệ thống câu
hỏi nhưng với sáng kiến này giáo viên đã xây dựng được một hệ thống câu hỏi
hay, bổ dọc, bổ ngang kiến thức, nhiều câu hỏi phát triển năng lực được ứng dụng
cụ thể trong các đề thi.
Trước khi áp dụng sáng kiến khả năng nói về mối liên hệ giữa lịch sử thế
giới và lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 – 1930 chưa được đầy đủ, các minh chứng

chưa nhiều. Nhưng sau khi áp dụng sáng kiến học sinh có thể đứng lên trả lời bất
cứ nội dung nào có câu hỏi liên quan. Khơng những thế học sinh còn trả lời được
8


các câu hỏi về mối liên hệ giữa lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam giai đoạn
1919 – 1930 và ở các giai đoạn trước và sau chuyên đề.
3.2. Tính khả thi
Sáng kiến có tính khả thi đã được áp dụng trong q trình ơn thi học sinh
giỏi cấp trường, cấp tỉnh, cấp quốc gia.
Sáng kiến là tài liệu rất hữu ích cho các đồng nghiệp giảng dạy mơn lịch
sử trong q trình ơn thi học sinh giỏi các cấp.
Sáng kiến là tài liệu phục vụ cho học sinh trong q trình ơn thi THPT
quốc gia đặc biệt là ôn thi học sinh giỏi các cấp.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Giáo viên nắm được kiến thức xung quanh chuyên đề từ đó có phương pháp
truyền đạt kiến thức tối ưu đến học sinh. Sử dụng đa dạng các phương pháp ơn
luyện. Hình thành cho các em kĩ năng giải bài dành cho đối tượng học sinh giỏi.
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng: học sinh giỏi môn Lịch sử ở trường THPT.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Phân tích và làm rõ mối liên hệ, tác động của của những sự kiện lịch sử
thế giới tới cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1919 - 1930.
- Đưa ra hệ thống các câu hỏi liên quan đến chuyên đề.
7. Cấu trúc sáng kiến
Sáng kiến “Một vài kinh nghiệm liên hệ giữa lịch sử Việt Nam và lịch
sử thế giới trong ôn thi học sinh giỏi THPT môn Lịch sử giai đoạn 1919-1930”.
được triển khai thành hai chương:
Chương 1. Những sự kiện lớn của thế giới có tác động, ảnh hưởng trực tiếp
đến cách mạng Việt Nam giai đoạn 1919 – 1930.

Chương 2. Một số câu hỏi ôn luyện học sinh giỏi chuyên đề “Một vài
kinh nghiệm liên hệ giữa lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới trong ôn thi học sinh
giỏi THPT môn Lịch sử giai đoạn 1919-1930”.
II. NỘI DUNG
Chương 1:
9


NHỮNG SỰ KIỆN LỚN CỦA THẾ GIỚI CÓ TÁC ĐỘNG, ẢNH HƯỞNG
TRỰC TIẾP ĐẾN CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1919 – 1930
1. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và sự ra đời
của Quốc tế Cộng sản năm 1919
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917
Năm 1917, cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga thắng lợi, đã
xóa bỏ ách thống trị của phong kiến và tư sản Nga, thành lập chính quyền Xơ Viết,
đưa nhân dân lao động lên làm chủ đất nước. Cuộc Cách mạng tháng Mười Nga
không chỉ là cuộc cách mạng vơ sản mà cịn là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Thắng lợi đó đã mở ra con đường giải phóng cho giai cấp cơng nhân và các dân tộc
thuộc địa. Cách mạng tháng Mười Nga làm cho phong trào cách mạng ở phương
Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở phương Đơng có mối quan hệ mật thiết với
nhau vì cùng chống một kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Cách mạng tháng Mười Nga có ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam:
+ Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười đã tác động sâu sắc đến những người
yêu nước Việt Nam trên con đường tìm chân lí cứu nước, mà trước hết là đối với
Nguyễn Ái Quốc. Nhờ ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười mà Nguyễn Ái
Quốc đã tìm đến với chủ nghĩa Mác và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn –
con đường cách mạng vô sản.
+ Dưới tác động của Cách mạng tháng Mười Nga, cuộc đấu tranh của cách
mạng Pháp và phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa của Pháp
(trong đó có Việt Nam) có mối liên hệ mật thiết với nhau vì cùng chống kẻ thù

chung là đế quốc Pháp.
Sự thành lập Quốc tế Cộng sản
Do sự phát triển của phong trào cách mạng ở các nước tư bản chủ nghĩa,
nhiều tổ chức cộng sản lần lượt thành lập ở các nước châu Âu. Trước yêu cầu mới
của sự nghiệp cách mạng, tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập ở
Mátxcơva.
Tại Đại hội II của Quốc tế Cộng sản (1920) đã thông qua một loạt cương lĩnh
và văn kiện quan trọng nhằm xác định đường lối chiến lược và sách lược của
10


phong trào cách mạng thế giới, trong đó đặc biệt là bản Luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Bản Luận cương này được Nguyễn Ái Quốc
đọc và Người đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc là con đường
cách mạng vô sản.
Tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội XVIII của Đảng xã
hội Pháp ở Tua, Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba, tham gia sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Sự kiện này
đã đánh dấu bước ngoặt trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập
trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Nó mở ra cho cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam một giai đoạn mới – giai đoạn gắn phong trào cách mạng
Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con
đường Cách mạng tháng Mười Nga đó là con đường cách mạng vô sản.
2. Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) và cuộc khai thác thuộc
địa lần thứ hai của thực dân Pháp (1919 – 1929)
Là một nước thắng trận, nhưng Pháp bước ra khỏi cuộc chiến tranh thế giới
thứ nhất với những tổn thất nặng nề trên nhiều lĩnh vực. Hơn 1,4 triệu người chết
và thiệt hại về vật chất đã lên tới 200 tỉ phơrăng. Những vùng giàu có nhất nước
Pháp, đặc biệt các vùng công nghiệp phát triển bị tàn phá nặng nề, nhiều ngành
cơng nghiệp bị đình trệ. Đồng thời nước Pháp trở thành con nợ lớn, tính đến năm

1920 tổng số nợ của nước Pháp đã lên tới 300 tỷ phơrăng.
Tình hình trên đã thơi thúc chính quyền Pháp tìm biện pháp vừa thúc đẩy
nhanh nền sản xuất trong nước đồng thời đẩy mạnh khai thác thuộc địa, nhất là
ở Đông Dương, nhằm nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi nền
kinh tế và khơi phục vị thế chính trị của nước Pháp trên trường quốc tế. Chương
trình khai thác thuộc địa lần thứ hai thực hiện ở Đông Dương do viên Tồn quyền
Đơng Dương Anbe Xarơ vạch ra.
Về mục tiêu, giống như cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, cuộc khai thác
thuộc địa lần này vẫn theo đuổi một ý đồ nham hiểm: bòn rút thuộc địa để làm
giàu cho chính quốc nhưng khơng cho thuộc địa có cơ hội cạnh tranh với chính
quốc.
11


Về thời gian, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai được bắt đầu từ năm 1919
đến năm 1929.
Về cơ cấu vốn đầu tư, đã có sự thay đổi căn bản, nếu như trước Chiến tranh
thế giới thứ nhất chủ yếu là vốn tư bản nhà nước thì trong cuộc khai thác thuộc
địa lần này vốn đầu tư của tư bản tư nhân đứng vị trí hàng đầu.
Về cường độ, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai diễn ra với cường độ
mạnh. Chỉ tính riêng trong 6 năm (1924-1929), tổng số vốn đầu tư của tư bản
Pháp vào Đông Dương đã tăng gấp 6 lần so với 20 năm trước chiến tranh, chủ
yếu là Việt Nam lên đến 4 tỉ phơrăng.
Về lĩnh vực đầu tư, có sự thay đổi vị trí rất lớn. Nếu như trong khai thác
thuộc địa lần thứ nhất, khai khống chiếm vị trí hàng đầu thì trong cuộc khai thác
thuộc địa lần này vị trí đó thuộc về nơng nghiệp.
- Về kinh tế
+ Nơng nghiệp là ngành được thực dân Pháp chú trọng đầu tư lớn nhất.
Năm 1924, tổng số vốn đầu tư vào nông nghiệp là 52 triệu phơrăng, đến năm 1927
đã lên đến 400 triệu phơrăng. Diện tích các đồn điền trồng lúa, cao su, cà phê…

được mở rộng. Nhiều công ty trồng cao su ra đời như Công ty Đất đỏ, Công ty
Mi-sơ-lanh…
+ Công nghiệp: Pháp chú trọng đầu tư vào khai thác mỏ, trước hết là mỏ
than. Nhiều công ty than mới được thành lập như công ty than Hạ Long – Đồng
Đăng, Cơng ty than và kim khí Đơng Dương, Cơng ty than Tun Quang…Ngồi
than, các cơ sở khai thác mỏ thiếc, kẽm, sắt đều được bổ sung thêm vốn, tăng
thêm nhân công và đẩy mạnh tiến độ khai thác. Các nhà máy tơ sợi Hải phòng,
nam Định, nhà máy rượu Hà Nội, Nam Định…được mở rộng quy mô.
+ Thương nghiêp, trước hết là ngoại thương có sự phát triển hơn trước.
Trước chiến tranh, hàng hóa Pháp nhập vào Đơng Dương mới chiếm 37% đến
những năm 1929 – 1930 đã lên đến 63% tổng số hàng nhập. Giao lưu buôn bán
nội địa được đẩy mạnh.
+ Giao thông vận tải phát triển nhằm phục vụ công cuộc khai thác và vận
chuyển vật liệu, lưu thơng hàng hóa trong và ngồi nước.
12


+ Bao trùm và chi phối toàn bộ đời sống kinh tế Đông Dương là hệ thống
ngân hàng, đứng đầu là Ngân hàng Đông Dương. Ngân hàng Đông Dươngnắm
trọn quyền chỉ huy kinh tế Đông Dương, phát hành tiền giấy và cho vay lãi, góp
vốn thành lập các cơng ty, các đồn điền, các nhà máy.
+ Cùng với chính sách khai thác nơng, cơng, thương nghiệp…thực dân
Pháp cịn thi hành biện pháp tăng thu thuế nên ngân sách Đông Dương thu năm
1930 tăng gấp 3 lần so với 1912.
- Chính sách chính trị, văn hố, giáo dục của thực dân Pháp
- Sau chiến tranh chính sách thống trị của Pháp ở Đơng Dương vẫn khơng
thay đổi mà cịn được tăng cường hơn. Bộ máy quân sự, cảnh sát, mật thám, nhà
tù được tăng cường và hoạt độn ráo riết.
Thực dân Pháp cho thi hành một vài cải cách chính trị - hành chính để đối
phó với những biến động đang diễn ra ở Đông Dương như tăng thêm số người

Việt trong các phịng thương mại và canh nơng ở các thành phố lớn, lập viện Dân
biểu Trung Kì (1926), Viện Dân biểu Bắc Kì (1926).
Văn hóa giáo dục cũng có những thay đổi. Hệ thống giáo dục Pháp – Việt
được mở rộng gồm các cấp tiểu học, trung học, cao đẳng và đại học. Các cơ sở
xuất bản, in ấn xuất hiện ngày càng nhiều với hàng chục tờ báo, tạp chí Pháp và
chữ Quốc ngữ. Pháp sử dụng báo chí, văn hóa…để phục vụ cơng cuộc khai thác
và thống trị của chúng.
=> Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp làm cho
kinh tế và xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến, cụ thể:
- Những chuyển biến mới về kinh tế
Với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, nền kinh tế của tư bản Pháp ở Đơng
Dương có bước phát triển mới. Nền kinh tế tư bản Pháp tiếp tục được mở rộng và
bao trùm lên nền kinh tế phong kiến Việt Nam. Trong quá trình đầu tư vốn và mở
rộng khai thác thuộc địa, thực dân Pháp có đầu tư kĩ thuật và nhân lực song rất
hạn chế. Cơ cấu kinh tế Việt Nam có chuyển biến ít nhiều, song chỉ có tính chất
cục bộ ở một số vùng, cịn phổ biến vẫn trong tình trạng lạc hậu, nghèo nàn. Kinh
13


tế Đông Dương ngày càng bị cột chặt vào kinh tế Pháp và Đông Dương vẫn là
thị trường độc chiếm của tư bản Pháp.
- Sự chuyển biến mới về giai cấp xã hội ở Việt Nam
+ Do tác động của chính sách khai thác thuộc địa trên quy mơ lớn và chính
sách thống trị của thực dân Pháp, cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam có những
chuyển biến mới:
+ Giai cấp địa chủ tiếp tục bị phân hóa thành ba bộ phận khá rõ rệt là tiểu
địa chủ, trung địa chủ và đại địa chủ. Một bộ phận không nhỏ tiểu và trung địa
chủ tham gia phong trào dân tộc dân chủ chống thực dân Pháp và thế lực phản
động tay sai.
+ Giai cấp nông dân bị đế quốc, phong kiến thống trị, tước đoạt ruộng đất,

bị bần cùng, khơng có lối thốt. Mâu thuẫn giữa nơng dân Việt Nam với đế quốc
phong kiến tay sai hết sức gay gắt. Nông dân là một lực lượng cách mạng to lớn
của dân tộc.
+ Giai cấp tiểu tư sản phát triển nhanh về số lượng, họ có tinh thần dân tộc
chống thực dân Pháp và tay sai. Đặc biệt bộ phận học sinh, sinh viên, trí thức là
tầng lớp thường nhạy cảm với thời cuộc và tha thiết canh tân đất nước, nên hăng
hái đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.
+Giai cấp tư sản ra đời sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Phần đông họ là
những người trung gian làm thầu khoán, cung cấp nguyên liệu hay hàng hóa…cho
tư bản Pháp. Khi kiếm được số vốn khá, họ đứng ra kinh doanh riêng và trở thành
những nhà tư sản như Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Hữu Thu… Giai cấp tư sản Việt
Nam mới ra đời đã bị tư bản Pháp chèn ép, kìm hãm nên số lượng ít, thế lực kinh
tế yếu, không thể đương đầu với sự canh tranh của tư bản Pháp. Dần dần họ phân
hóa thành hai bộ phận: tầng lớp tư sản mại bản có quyền lợi gắn chặt với đế quốc
nên câu nên cấu kết chặt chẽ với chúng và tầng lớp tư sản dân tộc có xu hướng
kinh doanh độc lập, ít nhiều có khuynh hướng dân tộc và dân chủ.
+ Giai cấp công nhân ngày càng phát triển, số lượng tăng lên nhanh chóng
đến 1929 có trên 22 vạn người. Giai cấp công nhân Việt Nam bị giới tư sản, nhất
là bọn đế quốc thực dân, áp bức bóc lột nặng nề, có quan hệ gắn bó với nơng dân,
14


được thừa hưởng truyền thống yêu nước dân tộc, sớm chịu ảnh hưởng của trào
lưu cách mạng vô sản, trở thành động lực của phong trào dân tộc dân chủ theo
khuynh hướng cách mạng tiên tiến của thời đại.
Như vậy, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, ở Việt Nam có những biến đổi
quan trọng về kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục. Mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam
ngày càng sâu sắc, trong đó chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt
Nam với thực dân Pháp và bọn phản động tay sai. Cuộc đấu tranh dân tộc chống
đế quốc và tay sai tiếp tục diễn ra phong phú về nội dung và hình thức.

3. Ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ của Tôn Trung Sơn đến khuynh
hướng cách mạng Việt Nam
- Tôn Trung Sơn (1866-1925) cịn có tên là Tơn Văn, Tơn Dật Tiên, người
huyện Hương Sơn (nay là Trung Sơn) tỉnh Quảng Đơng. Ơng là nhà cách mạng
dân chủ vĩ đại của Trung Quốc. Sớm giác ngộ tư tưởng dân tộc – dân chủ, nên sau
khi tốt nghiệp trường Y khoa Bác Tế (Quảng Châu), ông đã dấn thân vào con
đường hoạt động cứu dân cứu nước. Năm 1894, ông thành lập Hưng Trung Hội ở
Hônôlulu (Mĩ), đây là tổ chức cách mạng đầu tiên của giai cấp tư sản Trung Quốc
đề ra Cương lĩnh hoạt độn: “Phú quốc cường binh”, “Chấn hưng Trung Hoa”,
“Duy trì quốc thể”. Mục tiêu đấu tranh là đánh đổ chính quyền Mãn Thanh và
thiết lập chính thể dân chủ. Hội đã thu hút nhiều nhân sĩ và thanh niên Trung Quốc
u nước tham gia, qun góp kinh phí, mua sắm vũ khí chuẩn bị các cuộc khởi
nghĩa Quảng Châu (1895), Huệ Châu (1898) dự định kết hợp với phong trào phản
đế của Nghĩa Hịa Đồn ở miền Bắc, nhưng đã không thành công, ông lại phải lưu
vong ra nước ngồi.
- Ngày 10/8/1905, Hưng Trung Hội của Tơn Trung Sơn, Hoa Hưng Hội của
Hoàng Hưng (tức Hoàng Khắc Cường) cùng với các Hội đảng khác họp tại Tokyo
(Nhật Bản) lập ra một tổ chức cách mạng thống nhất lấy tên “Trung Quốc Đồng
Minh Hội” gọi tắt là Đồng Minh Hội. Cương lĩnh chính trị của Đồng Minh Hội
được xây dựng theo học thuyết tam dân của Tôn Trung Sơn “dân tộc độc lập, dân
quyền tự do,dân sinh hạnh phúc”.
15


- Từ đó, phong trào cách mạng tiến mạnh hơn trước. Các cuộc khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền ở các tỉnh miền Nam Trung Quốc ngày càng lan rộng và
đến ngày 10-10-1911, khởi nghĩa Vũ Xương thắng lợi. Cách mạng Tân Hợi thành
công đã lật đổ chế độ phong kiến hàng nghìn năm thống trị Trung Quốc. Chính
phủ Dân quốc lâm thời ra đời do Tôn Trung Sơn làm Tổng thống, thủ đô đặt tại
Nam Kinh.

- Nhưng chẳng bao lâu sau, mọi thành quả cách mạng lại bị rơi vào tay bọn
thế lực quân phiệt phản động Viên Thế Khải. Tôn Trung Sơn lại phải trải qua một
chặng đường đấu tranh mới đầy gian lao khổ ải. Năm 1912, ông cải tổ Đồng Minh
Hội thành Quốc dân Đảng, đề ra cương lĩnh mới, hướng Trung Quốc phát triển
theo con đường dân chủ tư sản phương Tây.
- Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi (1917) đã ảnh hưởng lớn đến Tôn
Trung Sơn, rồi Đảng Cộng Sản Trung Quốc thành lập (1921) tạo nên bước ngoặt
trong tư tưởng và hành động của ông. Tôn Trung Sơn đã kết hợp với Đảng Cộng
Sản Trung Quốc, chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất cách mạng, đề ra “ba
chính sách lớn: Liên Nga, Liên Cộng, Phù trợ Nông Công”. Tháng 1 năm 1924,
được sự giúp đỡ của Quốc tế cộng sản và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đại hội
lần thứ nhất của Quốc dân Đảng được triệu tập ở Quảng Châu. Đại hội thông qua
cương lĩnh mới, điều lệ mới và nhiều biện pháp cụ thể nhằm cải tổ Quốc dân
Đảng. Chủ nghĩa Tam dân được giải thích lại bằng chủ nghĩa Tam dân mới. Chủ
nghĩa Tam dân mới về nguyên tắc cơ bản giống với cương lĩnh thời kì cách mạng
dân chủ tư sản của Đảng Cộng sản Trung Quốc và trở thành cơ sở chính trị cho
việc hợp tác giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản. Đại hội I của Quốc dân
Đảng đã đánh dấu sự hình thành liên minh hợp tác giữa Đảng Cộng Sản và Quốc
dân đảng cùng nhau đấu tranh tiêu diệt các tập đoàn quân phiệt phương Bắc Trung
Quốc. Sau Đại hội, với sự ủng hộ của Liên Xô và những người cộng sản Trung
Quốc, Tôn Trung Sơn đã xây dựng chính quyền ở Quảng Châu và vùng phụ cận,
tiếp tục phát triển lực lượng. Trường Quân sự Hoàng Phố được thành lập nhằm
đào tạo những lớp sĩ quan đầu tiên để xây dựng quân đội cách mạng, lực lượng
16


trấn áp những cuộc phiến loạn phản cách mạng và củng cố chính quyền cách mạng
ở Quảng Châu.
- Ngày 12/3/1925, trong chuyến đi công cán, Tôn Trung Sơn lâm bệnh và từ
trần tại Bắc Kinh. Nhân dân Trung Quốc và những người cộng sản đánh giá rất

cao những đóng góp của Tôn Trung Sơn đối với phong trào cách mạng Trung
Quốc.
=>Tôn Trung Sơn và những tư tưởng dân chủ tiến bộ của ơng có ảnh hưởng
sâu sắc dến nhiều nhà yêu nước ở Châu Á, trong đó có Việt Nam. Cụ thể:
- Trong những năm đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu – một nhà chí sĩ yêu nước
tiêu biểu của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam đã chịu ảnh hưởng
sâu sắc đường lối cách mạng và tư tưởng của Tơn Trung Sơn. Mơ hình “Trung
Hoa dân quốc”, đảng cách mạng đã lôi cuốn ông và ơng đã hồn tồn vứt bỏ những
gì cịn là tư tưởng phong kiến, chuyển hướng sang theo tư tưởng dân chủ tư sản
và trở thành người cộng hòa. Năm 1912, ông về Quảng Đông, tập hợp lực lượng
cách mạng và tháng 2 năm đó, tại nhà Lưu Vĩnh Phúc ơng đã tuyên bố thành
lập Việt Nam Quang phục hội, đề ra tôn chỉ duy nhất là “Đánh đuổi giặc Pháp,
khôi phục Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa Dân quốc Việt Nam”. Phan Bội
Châu được bầu làm Tổng lý, cơ cấu tổ chức và chức viên của Hội cũng gần giống
như Đồng Minh Hội của Tơn Trung Sơn, cũng có ba bộ: Bộ Tổng vụ, Bộ Bình
nghi và Bộ Chấp hành”. Hội cũng có “đội quân Quang phục”, đề ra “phương lược”
chế định quốc kỳ, quân kỳ, phát hành quân dụng phiếu… Trong “Lời phi lộ của
Việt Nam Quang phục hội” nhấn mạnh ý nghĩa:
“Gần thì bắt chước theo Tàu (tức theo Tơn Trung Sơn),
Xa thì người Mỹ người Âu làm thầy”.
- Đến năm 1924, trước sự kiện hợp tác giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng
sản ở Trung Quốc, Phan Bội Châu đã bàn bạc với các đồng chí của mình cải tổ
cải tổ Quang Phục hội thành Việt Nam Quốc dân Đảng phỏng theo tổ chức Quốc
dân Đảng của Tơn Trung Sơn.
- Điều đó, đã góp phần khiến cho cách mạng Việt Nam từ sau chiến tranh thế
giới thứ nhất đến năm 1930 xuất hiện hai khuynh hướng chính trị cùng song song
17


tồn tại: phong trào yêu nước của tư sản và tiểu tư sản phát triển theo khuynh hướng

dân chủ tư sản và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các tầng lớp
nhân dân khác phát triển theo khuynh hướng vô sản. Đây là nội dung lớn nhất của
phong trào yêu nước Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930. Hai khuynh hướng
chính trị nói trên đã diễn ra cuộc đấu tranh nhằm giành quyền lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. Kết quả đến năm 1930, khuynh hướng tư sản đã thất bại với sự tan rã
của Việt Nam Quốc dân Đảng (cùng với thất bại của Khởi nghĩa Yên Bái tháng
2/1930). Khuynh hướng vô sản đã giành quyền lãnh đạo cách mạng sau khi Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời (đầu năm 1930).
- Bên cạnh đó những tư tưởng dân chủ của Tôn Trung Sơn không chỉ ảnh
hưởng đến Phan Bội Châu mà cịn có cả Nguyễn Ái Quốc. Cuối năm 1924, khi
Nguyễn Ái Quốc, phái viên của Quốc tế Cộng sản từ Liên Xô về hoạt động ở
Trung Quốc, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người đã từng tìm
hiểu cách mạng Trung Quốc, nên nhân dịp kỷ niệm ngày sinh Tôn Trung Sơn
(13/11/1926) Người đã viết những dòng về các sự kiện ở Trung Quốc đầy xúc
động với lịng tơn phục như sau: “Chúng tơi khơng thể khơng nêu nhiệt tình của
dân chúng Quảng Châu và cả tỉnh Quảng Đông khi họ kỷ niệm ngày sinh của Tôn
Dật Tiên. Sự nồng nhiệt của nhân dân chứng tỏ người Trung Quốc biết ơn dường
nào vị lãnh tụ vĩ đại quá cố khơi dậy nơi họ ý chí tự giải phóng khỏi ách áp bức
về ngoại giao mà bây giờ khơng có thể biện hộ được”. Chính Nguyễn Ái Quốc
lúc bấy giờ hoạt động ở Quảng Châu cũng đã giới thiệu nhiều thanh niên yêu nước
Việt Nam vào học trường quân sự Hoàng Phố để học tập quân sự và có học cả lý
luận chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn .
- Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi, nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường ca ngợi tình
hữu nghị lâu đời giữa hai nước Việt - Trung và không quên tôn vinh chủ nghĩa
Tam dân của Tôn Trung Sơn. Ngày 12/10/1945, nhân danh chủ tịch nước, Người
đã ký sắc lệnh số 49 về việc ghi rõ quốc hiệu Việt Nam Dân chủ cộng hịa trên
các cơng văn, điện văn, cơng điện, trát, đơn từ, báo chí, chúc từ…và sau đó chúng
ta lại thấy phía dưới dịng tiêu đề: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xuất hiện trang
18



trọng ba cặp tiêu ngữ: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc phản ánh niềm khát vọng
muôn đời của biết bao thế hệ con dân nước Việt Nam yêu quý. Ba tiêu ngữ này
hẳn là “tác phẩm” của chủ tịch Hồ Chí Minh vốn có nguồn gốc từ ba chủ
nghĩa “Dân” của Tôn Trung Sơn được Người tiếp thu và vận dụng một cách sáng
tạo ở Việt Nam trong cả q trình đấu tranh giải phóng giành dân tộc độc lập, dân
quyền tự do và dân sinh hạnh phúc.
Chương 2:
MỘT SỐ CÂU HỎI ÔN LUYỆN HỌC SINH GIỎI CHUYÊN ĐỀ
“MỘT VÀI KINH NGHIỆM LIÊN HỆ GIỮA LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀ
LỊCH SỬ THẾ GIỚI TRONG ÔN THI HỌC SINH GIỎI THPT MÔN
LỊCH SỬ GIAI ĐOẠN 1919 – 1930”
Câu 1. Ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917
- Năm 1917, cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga thắng lợi,
đã xóa bỏ ách thống trị của phong kiến và tư sản Nga, thành lập Chính quyền Xô
Viết, đưa nhân dân lao động lên làm chủ đất nước. Cuộc Cách mạng tháng Mười
Nga không chỉ là cuộc cách mạng vơ sản mà cịn là cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc. Thắng lợi đó đã mở ra con đường giải phóng cho giai cấp cơng nhân và
các dân tộc thuộc địa. Cách mạng tháng Mười Nga làm cho phong trào cách mạng
ở phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở phương Đơng có mối quan hệ
mật thiết với nhau vì cùng chống một kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
=> Cách mạng tháng Mười Nga có ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam
+ Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười đã tác động sâu sắc đến những người
yêu nước Việt Nam trên con đường tìm chân lí cứu nước, mà trước hết là đối với
Nguyễn Ái Quốc. Nhờ ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười mà Nguyễn Ái
Quốc đã tìm đến với chủ nghĩa Mác và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn –
con đường cách mạng vô sản.
+ Dưới tác động của Cách mạng tháng Mười Nga, cuộc đấu tranh của cách
mạng Pháp và phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa của Pháp

(trong đó có Việt Nam) có mối liên hệ mật thiết với nhau vì cùng chống kẻ thù
chung là đế quốc Pháp.
19



×