Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Rèn luyện phương pháp học tự chủ và tư duy phản biện cho học sinh thpt thông qua hoạt động vận dụng trong môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1008.26 KB, 36 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN BÁI
TRƯỜNG PTDTNT THPT MIỀN TÂY

BÁO CÁO SÁNG KIẾN CẤP TỈNH
RÈN LUYỆN PHƯƠNG PHÁP HỌC CHỦ ĐỘNG VÀ TƯ DUY
PHẢN BIỆN CHO HỌC SINH THPT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG
VẬN DỤNG TRONG MÔN NGỮ VĂN

Họ và tên tác giả: NGUYỄN THỊ THẢO
Trình độ chun mơn: Thạc sĩ
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường PTDTNT THPT Miền Tây

Yên Bái, tháng 01 năm 2022


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12


Kí hiệu chữ viết tắt
PTDTNT
THPT

Chữ viết đầy đủ
Phổ thông dân tộc nội trú
Trung học phổ thơng

CT GDPT

Chương trình giáo dục phổ thơng

GV
HS
PP GD

Giáo viên
Học sinh
Phương pháp giảng dạy

GD&ĐT
GVPT
NCBH
SHCM
SGK
HTKT

GD&ĐT
Giáo viên phổ thông
Nghiên cứu bài học

Sinh hoạt chun mơn
Sách giáo khoa
Hình thành kiến thức

2


MỤC LỤC

Trang

I. Thông tin chung về sáng kiến

4

1. Tên sáng kiến

4

2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục và Đào tạo

4

3. Phạm vi áp dụng sáng kiến

4

4. Thời gian áp dụng sáng kiến

4


5. Tác giả

4

II. Mô tả giải pháp sáng kiến

4

1. Tình trạng giải pháp đã biết

4

2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến

11

3. Khả năng áp dụng của giải pháp

28

4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng giải pháp

28

5. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu

34


6. Các thông tin cần được bảo mật

34

7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến

34

8. Tài liệu kèm theo

34

III. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền

35

Tài liệu tham khảo

36

3


I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Rèn luyện phương pháp học chủ động và tư duy phản biện
cho học sinh THPT thông qua hoạt động Vận dụng trong môn Ngữ văn”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục và Đào tạo
3. Phạm vi áp dụng sáng kiến: Vì thời gian và khả năng có hạn, tôi chỉ tập
trung nghiên cứu và đưa ra nội dung cơ bản: Rèn luyện phương pháp học chủ động và
tư duy phản biện cho HS THPT thông qua hoạt động Vận dụng trong môn Ngữ văn.

Đối tượng mà đề tài hướng tới là các giải pháp để rèn luyện phương pháp học
chủ động và tư duy phản biện cho HS.
Đối tượng áp dụng là học sinh THPT.
4. Thời gian áp dụng sáng kiến: năm học 2020-2021 và học kì I năm học
2021-2022
5. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Thảo
Năm sinh: 05/01/1980
Trình độ chun mơn: Thạc sĩ
Chức vụ cơng tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Tổ Khoa học xã hội
Địa chỉ liên hệ: Trường phổ thơng DTNT-THPT Miền Tây
Điện thoại: 0917.117.294
II. MƠ TẢ SÁNG KIẾN
1. Tình trạng giải pháp đã biết
1.1. Giải pháp đã biết
1.1.1. Về đổi mới phương pháp dạy học và vận dụng các hoạt động học tích cực
trong dạy học Ngữ văn THPT ở trường PTDTNT THPT Miền Tây và các trường trên
địa bàn thị xã Nghĩa Lộ
- Ngày 26 tháng 12 năm 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã ban hành
Chương trình giáo dục phổ thơng (CT GDPT) tổng thể (Ban hành kèm theo Thông tư
số 32/2018/TT-BGDĐT). Chương trình đã thể hiện quan điểm đổi mới, hướng tới mục
tiêu "góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục
phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hịa đức, trí, thể, mĩ và phát huy
tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh”. Đồng thời, trong những năm qua, Sở GD&ĐT
tỉnh Yên Bái đã có những bước chuẩn bị tích cực tạo sự chuyển đổi ngay trong q
trình thực hiện CT GDPT hiện hành, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục theo hướng
phát triển năng lực và phẩm chất người học. Sở giáo dục và đào tạo đã mở các lớp bồi
dưỡng chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo định
4



hướng phát triển năng lực người học. Gần đây nhất là chương trình bồi dưỡng các
Modun cho GVPT của ETEP. Trên tinh thần đó, những năm qua nhóm chun mơn
Ngữ văn ở trường PTDTNT THPT Miền Tây và các trường trên địa bàn thị xã Nghĩa
Lộ đã nghiên cứu, sắp xếp và xây dựng kế hoạch giáo dục phù hợp với yêu cầu đổi
mới, tinh giản, tinh giảm những kiến thức trùng lặp, cấu trúc lại các bài học và đơn vị
kiến thức một cách khoa học. Đặc biệt trong mơn Ngữ văn, cấu trúc lại đảm bảo sự
tích hợp dựa trên 2 trục năng lực cơ bản là đọc hiểu (tiếp nhận văn bản) và tập làm văn
(tạo lập văn bản).
- Qua thực tế sinh hoạt chuyên môn theo hướng NCBH ở trường PTDTNT
THPT Miền Tây, nhóm chun mơn đã thảo luận, biên soạn theo tinh thần đổi mới, đó
là: tạo điều kiện để HS được chủ động học, tự đánh giá quá trình học của cá nhân; GV
tổ chức quá trình học tập của HS trên cơ sở trải nghiệm và kiến tạo, hướng tới dạy học
phân hóa, cá thể hóa; nội dung và kế hoạch học tập được thực hiện linh hoạt; HS là
chủ thể hoạt động trong môi trường học tập dân chủ và thân thiện; việc học tập của HS
có sự hỗ trợ tích cực từ nhiều phía. Bài học được tổ chức qua 4 hoạt động: khởi động hình thành kiến thức - luyện tập - vận dụng. Mạch nội dung bài học được cấu trúc dựa
trên trục thể loại và kiểu văn bản, các kiến thức tiếng Việt và Làm văn được dạy tích
hợp một phần với các bài đọc văn.
1.1.2. Về thực trạng giáo viên vận dụng thiết kế và tổ chức các hoạt động học
tích cực trong dạy học mơn Ngữ văn ở thị xã Nghĩa Lộ hiện nay
- Dạy văn trong trường THPT đang là một thử thách lớn đối với GV hiện nay.
Dạy như thế nào cho hay, hiệu quả cao, tạo sự hứng thú, say mê cho HS quả thực là cả
một vấn đề lớn. Việc HS không thích thú với mơn văn cũng có nhiều lí do, tuy nhiên
có một nguyên nhân khá quan trọng đó là: Thầy cô giáo chưa thực sự tạo ra sự cuốn
hút đối với HS bằng bài giảng của mình. Thầy cơ chưa thực sự có những bước ngoặt
đột phá trong việc đổi mới phương pháp, vẫn nặng về phương pháp truyền thống thế
nên việc dạy và học chưa thực sự hiệu quả. Việc tổ chức các hoạt động học tích cực
như Khởi động - Hình thành kiến thức - Luyện tập - Vận dụng được Sở GD&ĐT Yên
Bái chỉ đạo khuyến khích áp dụng vào dạy học mơn Ngữ văn từ năm học 2015-2016.

Tuy nhiên, trên thực tế GV vận dụng rất ít hoặc chỉ sử dụng vào giờ Hội giảng, có
đồn kiểm tra về dự giờ hoặc có lãnh đạo nhà trường, đồng nghiệp dự giờ thăm lớp,
hoặc là những tiết học được lựa chọn để SHCM theo hướng NCBH (sản phẩm của cả
nhóm CM đầu tư thiết kế, biên soạn và cử một GV dạy thực nghiệm mẫu).
- Trong q trình nghiên cứu đề tài này, tơi đã tham gia khảo sát và dự giờ
SHCM cụm, dự giờ thao giảng, dự giờ trong các hoạt động giúp đỡ trường bạn tại các
trường THPT thị xã Nghĩa Lộ (trường Trung cấp nghề DTNT, trường THPT thị xã
Nghĩa Lộ) nhận thấy một số đặc điểm chung: Hầu hết GV tập trung toàn bộ sự sáng
5


tạo, đổi mới và thời gian vào thiết kế, tổ chức, điều hành 2 hoạt động: Khởi động Hình thành kiến thức khá tốt, giờ học có sự lơi cuốn học sinh. Tuy nhiên hoạt động
Vận dụng hầu như bị GV bỏ quên vì hết thời gian tiết học hoặc nếu có thì rất nhiều
GV nhầm lẫn giữa hoạt động Luyện tập với hoạt động Vận dụng (bản chất hai HĐ này
rất khác nhau). Ví dụ trong SGK mơn Văn thường có bài tập nâng cao dành cho HS
khá giỏi và kí hiệu là *, nhiều GV lại xếp ngay vào là hoạt động Vận dụng và yêu cầu
cả lớp về nhà làm. Thực chất đây chỉ là phần Luyện tập nâng cao chứ khơng phải bài
tập Vận dụng.
Có GV chuẩn bị được hoạt động Vận dụng khá tốt nhưng lại không biết cách
chuyển giao nhiệm vụ thu hút HS mà chỉ dừng lại ở việc thầy/cô nhắc về nhà thực
hiện. Thậm chí có GV thực hiện vội vàng, qua loa, khơng hấp dẫn, khơng có sự liên
kết xâu chuỗi với vấn đề đã đặt ra ở hoạt động Khởi động hoặc trong hoạt động Hình
thành kiến thức để giải quyết vấn đề trong thực tiễn ở hoạt động Vận dụng một cách
thỏa đáng. Cuối giờ GV chỉ dành thời gian ít ỏi để hướng dẫn HS luyện tập cho có.
Chẳng hạn tại giờ dạy của GV Văn trường THPT Nghĩa Lộ, trong hoạt động
Khởi động bài Trao duyên (Tiết 1), sau khi một HS lên giới thiệu về đoạn trích, nội
dung và chính em HS này đặt ra 2 câu hỏi như sau:
1- Thúy Kiều không lấy được Kim Trọng thì thơi nhưng tại sao cứ nhất định
phải trao duyên cho em và thuyết phục bằng được em gái phải nhận lời nối duyên với
Kim Trọng? Thúy Vân không yêu Kim Trọng nhưng tạo sao lại đồng ý nối duyên ?

2- Nếu bạn là Thúy Vân trong tình huống trên bạn có nhận lời lấy một người
mình khơng hề u khơng? Vì sao?
Quả thực vấn đề học trị đó đặt ra rất thú vị và khiến cả lớp cùng thầy cô giáo
dự giờ khá bất ngờ về câu hỏi rất CHỦ ĐỘNG và TƯ DUY PHẢN BIỆN của em. Tôi
nhận thấy HS trong lớp xôn xao, háo hức bàn luận và tất nhiên các trò đều mong chờ
câu trả lời của cô giáo. Tuy nhiên cho đến lúc kết thúc tiết học, chúng tôi không hề
thấy cô giáo nhắc gì vấn đề HS đặt ra trong hoạt động Khởi động, cũng không thấy
GV chuyển giao nhiệm vụ cho HS NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG trên để giải quyết
vấn đề HS đặt ra trong phần khởi động. Cả tiết học chúng tơi chỉ thấy cơ giáo say sưa
bình giảng về sự tinh tế, sắc sảo, vị tha của nàng Kiều khi thuyết phục Thúy Vân thay
mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
Chính bởi vậy việc dạy Văn vẫn cịn mang tính nặng về kiến thức lý thuyết và
những yêu cầu, mệnh lệnh của giáo viên như “về nhà học cái này, làm cái kia” mà
không phải là “em sẽ giải quyết vấn đề trên trong thực tiễn như thế nào nếu em trong
hồn cảnh đó, là người đó...”. Thành thử giờ Văn dù GV dạy hay đến mấy nhưng HS
sẽ chỉ lắng đọng lại là mình học gì chứ khơng phải là mình sẽ làm gì trong tình huống
đó.
6


- GV hầu như không chú trọng việc RÈN LUYỆN, THAY ĐỔI PP HỌC cho
HS mà chỉ tập trung TRAU DỒI, THAY ĐỔI PP DẠY của mình nhưng lại thay đổi
chưa đến đích.
1.1.3. Về thực trạng thái độ và phương pháp học tập môn Văn của HS hiện nay
- Thái độ của HS đối với môn Văn hiện nay:
+ HS chỉ hứng thú, sơi nổi với HĐ Khởi động. Cịn HĐ hình thành kiến thức
(HTKT) thì thờ ơ, chỉ ngồi chép bài.
+ Học sinh học thụ động, thiếu sáng tạo. Việc thụ động, thiếu sáng tạo của HS
thể hiện ở việc học đối phó, học thiếu hứng thú,khơng có sự say mê và về nhà chỉ còn
biết học thuộc để trả bài và làm bài. Cách học đó tất nhiên cũng khơng có điều kiện

vận dụng, tìm tịi, suy nghĩ, sáng tạo, cũng không phát huy được sự sáng tạo trong HS.
+ Học thiếu hứng thú, đam mê. Kết quả của việc học thụ động là học tập thiếu
cảm hứng, thiếu nhiệt huyết, thiếu niềm đam mê, mà thiếu những động cơ xuất phát từ
bản thân HS thì việc học tập thường là ít có kết quả.
- Tình trạng phương pháp học tập môn Văn của nhiều HS hiện nay:
Thực tế nhiều thầy cơ vẫn đang duy trì phương thức học thầy nói – trị nghe và
chép. Có thể thấy được rằng đây là phương pháp học tập rất thụ động, thiếu tính tương
tác, sáng tạo và kìm hãm khả năng tư duy phản diện của học sinh. Và hậu quả của nó
dễ dàng được nhận thấy thơng qua việc hầu như số đông các bạn thờ ơ, chán học Văn.
Vậy tình trạng phương pháp học tập của HS hiện nay CĨ CHỦ ĐỘNG khơng?
+ Đọc bài trước khi đến lớp ln là điều cần thiết nhưng lại KHƠNG ĐỌC
Các em đều nhận thức được việc đọc sách và chuẩn bị bài trước khi đến lớp là
một thói quen mà mỗi học sinh nên rèn luyện và duy trì để có thể thu được hiệu quả
học tập tốt nhất. Tuy vậy, thói quen soạn bài trước ngày học cũng chính là một trong
những kĩ năng mà hầu như HS hiện nay đều thiếu. Có lẽ lí do nằm ở việc GV chưa thật
sự đẩy mạnh phương pháp học tập này và xây dựng những mơ hình lớp học mang tính
chủ động nhiều hơn là chỉ nghe lời giảng từ giáo viên.
Chính sự thụ động trong phương pháp giảng dạy của nhiều GV Văn hiện nay đã
làm HS lười tham gia vào các hoạt động học và cuộc thảo luận, trả lời các câu hỏi liên
quan đến nội dung câu chuyện cùng giáo viên và các bạn cùng lớp khác một cách uể
oải, trả lời cho có hoặc trả lời đúng nhưng không hứng thú. Tức là HS không được
phát triển tư duy, khả năng phản biện. Trong giờ học hầu như HS hiếm khi đặt câu hỏi
tương tác với GV, kĩ năng làm việc nhóm cũng rất trì trệ.
Có thể thấy, đây là cách học yêu cầu sự chuẩn bị bài từ trước của học sinh để
lớp học có thể diễn ra thật sơi nổi và sinh động thay vì kiểu học mang đầu “rỗng” đến
lớp và chờ bài giảng từ giáo viên. Bằng cách này, không những học sinh có cơ hội
thoải mái trình bày ý kiến và câu hỏi cá nhân mà còn tiết kiệm được thời gian học lại
7



bài sau khi về nhà. Có thể thấy rằng nếu chúng ta được tham gia tranh luận về nội
dung bài học trong thời gian ở lớp thì lượng kiến thức ấy sẽ dễ dàng được hấp thu vào
trí óc nhanh và dễ dàng hơn là kiểu học phần lớn dựa vào ghi chép từ bài giảng của
giáo viên
+ Học sinh không biết tự học. Cách học thụ động chứng tỏ HS khơng có
phương pháp tự học, khơng có nhu cầu tự tìm hiểu, nghiên cứu, khơng biết cách chủ
động tự đọc SGK để tìm hiểu kiến thức, khơng biết cách phân biệt cái chính và cái
phụ, khơng biết tìm kiến thức trọng tâm để học, không biết từ cái đã biết mà suy ra cái
chưa biết. Lỗi lớn này thuộc về trách nhiệm của GV- chưa biết mở đường cho HS.
Nhiều học sinh vẫn giữ thói quen từ THCS, lên THPT là đến lớp cứ thầy cơ bảo gì là
chép ngay ra vở. Khi GV khuyến khích các em đứng lên phản biện lại thầy cô, nhưng
hầu hết các em vẫn ngần ngại vì một phần là sợ bạn bè chê cười, phần khác là do chưa
chuẩn bị bài trước khi lên lớp nên cũng khơng biết gì để phản biện. Có lẽ vì phải nhồi
nhét kiến thức trên trường mà khơng có sự chủ động tìm hiểu và dung nạp kiến thức
nên việc học đối với các em giống như chỉ để đối phó với các bài kiểm tra. Việc nào
có thể tự mình lựa chọn như việc chuẩn bị bài trước khi lên lớp thì học sinh gần như
khơng làm, có làm cũng chỉ mang tính chất đối phó với GV.
+ Học tập thiếu sự hợp tác giữa trò và thầy, giữa trò với trò. Mỗi học sinh
trong q trình học tập đều có hạn chế nhất định, các em thường chỉ chú ý vào một số
điểm, bỏ qua hoặc không đánh giá hết ý nghĩa của các kiến thức khác. Trong điều kiện
đó, nếu các em biết cách hợp tác trong học tập, giữa thầy giáo và HS, HS với HS thì có
thể nhắc nhở nhau, bổ sung cho nhau, làm cho kiến thức được toàn diện và sâu sắc.
- Có nhiều ngun nhân tạo nên tình trạng học sinh học tập thụ động, thiếu hào
hứng, không có kĩ năng tương tác phản biện. Tuy nhiên, ở đây tơi chỉ tập trung nghiên
cứu ngun nhân chính đó là ở phía “người thắp lửa và truyền lửa”, đó chính là dạy
học thiếu thực tiễn, thiếu hơi thở đời sống – nằm ở khâu hoạt động Vận dụng mà GV
lại thường chủ quan bỏ qua và thờ ơ:
+ Thứ nhất, do quan điểm dạy học của nhiều GV cho rằng dạy văn tập trung
những bài học chính, trọng tâm hay có trong đề thi của Bộ GD&ĐT để đảm bảo đầu ra
nên chỉ chú trọng khâu HTKT. Đó là một bộ phận GV cịn nặng về lí thuyết, dạy học

văn như nhà nghiên cứu văn học. Một trong các hiện tượng thường thấy là cách GV
giảng văn trên lớp như cách nghiên cứu văn học của các học giả, như cách học của
sinh viên văn học. Đó là cách phân tích sâu về tâm lí, về kĩ thuật ngơn từ, về phương
pháp sáng tác… Bài học thiếu tính thực tế, thiếu sự gắn kết với đời sống thực tại
(ngoại trừ bài học Nghị luận xã hội). GV chưa sáng tạo đổi mới trong khâu thiết kế
hoạt động Luyện tập và hoạt động Vận dụng để lôi cuốn HS và đưa bài học môn Văn
gắn với đời sống cùng những biến động hiện nay. Nhiều GV vẫn thiên về phương pháp
8


dạy học cũ, cịn giảng, bình, diễn giảng nhiều ở giờ Đọc văn, coi bài học này không
phù hợp để thiết kế HĐ Vận dụng vì khơng có thời gian.
Đối với phân mơn Làm văn thì chỉ dạy lí thuyết rồi ra đề cho HS tập làm theo
những đề yêu cầu HS viết lại những điều đã học mà ít “dẫn đường” cho HS khám phá,
phát hiện những cái mới trên cơ sở những điều đã biết, khơng có những tình huống
thực tiễn để HS vận dụng giải quyết mà chủ yếu vẫn tập trung rèn cho HS kĩ năng giải
quyết trên giấy (HS viết- giải đề Đọc hiểu và Nghị luận xã hội trong các bài kiểm tra
và thi THPT Quốc gia). Với các bài học khác như đọc thêm, thực hành tiếng Việt hầu
như GV không thiết kế HĐ Vận dụng, chỉ cho HS tự học hoặc chia nhóm thực hành
làm bài tập trong SGK khiến bài học không tạo được sự hứng thú của HS.
+ Thứ hai là nhiều GV cịn hạn chế về cơng nghệ thơng tin nên từ đó cũng thiếu
tính sáng tạo, đổi mới trong khâu thiết kế hoạt động. Hơn nữa SGK môn Văn hiện
hành khơng có phần Vận dụng nên GV cũng ngại nghiên cứu, ngại thiết kế.
+ Thứ ba, cho rằng HS ở tỉnh Yên Bái đa phần là học sinh dân tộc thiểu số, khả
năng tương tác và phản biện của HS yếu, tư duy còn chậm, lười học nên không chú
trọng đầu tư thiết kế hoạt động, cũng không lưu tâm nhiều việc tìm ra phương pháp rèn
luyện HS thay đổi cách học ra sao.
+ Thứ tư, GV chưa chú trọng dạy HS cách đọc văn và cách phản biện. Trong
văn học người đọc chính là người phải tự kiến tạo bức tranh mà mình sẽ thưởng thức.
Đọc khơng hiểu văn bản văn học thì khơng thể cảm thụ được. Vì thế HS chủ yếu học

thuộc vở ghi cho nhanh, học thuộc dàn ý có sẵn để thi. Có người nói dạy văn là dạy
học sinh lặp lại, đi lại con đường của người sáng tạo văn, tức nhà văn đã đi. Đó là
nhầm lẫn giữa hoạt động sáng tạo ra tác phẩm văn học của nhà văn và q trình đồng
sáng tạo của người đọc. Thực ra đó là hai hoạt động khác nhau. HS trước hết phải tiếp
cận văn bản văn học với tư cách như một người đọc bình thường đã, sau đó, những ai
có năng khiếu sáng tác mới đi lại con đường của nghệ sĩ.
Hậu quả để lại vơ cùng nặng nề, nó khơng chỉ làm giảm sút hiệu quả giáo dục,
mà hơn thế, cịn làm cho trí óc học sinh trơ lì, chán học, làm mịn mỏi trí tuệ, tư duy
chậm chạp.
Và từ thực trạng và những nguyên nhân phân tích ở trên, tôi lựa chọn đề tài để
tập trung nghiên cứu hoạt động Vận dụng để rèn phương pháp học chủ động và tư duy
phản biện cho học sinh – gốc rễ nan giải của bài tốn để khắc phục tình trạng HS chán
học văn, lười học nhằm nâng cao chất lượng bộ môn; nâng cao kĩ năng giao tiếp cho
HS, đặc biệt là học sinh dân tộc ít người tại tỉnh Yên Bái.
1.2. Ưu khuyết điểm của giải pháp đã, đang được áp dụng tại cơ quan, đơn
vị

9


- Từ thực tế của đời sống xã hội hiện nay, ngành GD&ĐT đặt ra yêu cầu phải
đào tạo được thế hệ người học toàn diện, năng động, sáng tạo, chủ động trong công
việc. Đồng thời người học phải đạt được năng lực đặc thù trong môn Ngữ văn là năng
lực ngôn ngữ được thể hiện qua các hoạt động: đọc, viết, nói, nghe. Có ý thức chủ
động, tích cực bày tỏ quan điểm, lập trường trước những vấn đề nảy sinh trong đời
sống xã hội, hướng tới chân lí của mọi vấn đề. Trong dạy học môn Văn càng cần phải
rèn luyện cho học sinh biết tranh luận, phản biện vấn đề, tạo thói quen tốt trong nhìn
nhận,đánh giá các vấn đề trong cuộc sống. Yêu cầu mang tính cấp thiết ấy cũng góp
phần thực hiện mục tiêu kết hợp dạy “người” với dạy “chữ”, lí thuyết phải gắn với
thực hành. Khả năng phản biện của học sinh trong quá trình học tập sẽ giúp học sinh

phát huy được tính tích cực, tính chủ động, sáng tạo trong học tập, rèn luyện được khả
năng làm việc cá nhân, làm việc theo nhóm. Muốn thành cơng được nhiệm vụ đó, GV
phải thay đổi và sáng tạo khâu thiết kế kế hoạch dạy học, tổ chức HĐ Luyện tập và
hoạt động Vận dụng.
- Thực tế nhiều năm qua, GV đã tổ chức rất tốt 3 HĐ Khởi động- HTKT- Luyện
tập. Nếu như HĐ khởi động là dẫn vào bài học, nối liền bài cũ với bài mới, gợi ý cho
học sinh, kích thích hứng thú, tạo được khơng khí học tập tích cực, sơi nổi ở học sinh
thì HĐ Vận dụng lại giúp HS thấy môn học gần gũi hơn với thực tế, tăng cường kĩ
năng giải quyết vấn đề và xử lí tình huống trong cuộc sống. Từ đó sẽ tác động đến HS
thay đổi thái độ, hành vi và phương pháp học tập. Khổng Tử từng nói “Biết mà học,
khơng bằng thích mà học, thích mà học, khơng bằng vui mà học”. Rõ ràng, nếu giáo
viên không tạo được niềm vui và sự ham thích thì khơng thể tạo bệ phóng giúp HS tự
học, ham học và u thích mơn học. Nhưng chính bởi GV khơng đổi mới khâu tổ
chức, tìm tịi những bài tập vận dụng gần gũi với cuộc sống của các em để điều hành
HS hoạt động nên sẽ không thể thúc đẩy tư duy và hành động phản biện ở học sinh. Vì
học thụ động nên HS không biết phản biện - một kĩ năng vô cùng cần thiết để phát
triển tư duy của HS. Nhiều HS biết cách đặt vấn đề nhưng chưa được GV hướng dẫn
phát triển thành kĩ năng.
- GV tập trung nhiều vào HĐ Hình thành kiến thức nên HS khơng hứng thú vì
các bài học chưa có mạch liên kết thực tiễn, chưa cập nhật thay đổi của cuộc sống hiện
nay, trong khi đó HS phải ứng phó với vơ vàn những biến động của đời thường xã hội.
Chính vì thế các em phản ánh mơn Văn có phần hàn lâm, giờ học không hấp dẫn bằng
môn Giáo dục công dân ngày nay.
- Hoạt động Vận dụng không phải là trọng tâm chuẩn kiến thức kĩ năng nhưng
lại có tác dụng vơ cùng quan trọng bởi nó chính là cầu nối kiến thức lý thuyết với thực
tiễn đời sống, là hoạt động tích cực nhất giúp HS thay đổi phương pháp học: Học chủ
động và phát triển kĩ năng phản biện. Đây cũng chính là hoạt động giúp HS tăng
10



cường trải nghiệm và bồi dưỡng kĩ năng sống. Vậy nên, người dạy không nên bỏ qua
hoạt động này.
- 5% những gì họ học được
thơng qua giảng dạy.
- 10% những gì họ học được từ
văn bản.
- 20% những gì họ học được
thơng qua những hình ảnh
minh họa.
- 30% những gì họ học được
thông qua hiện vật trưng bày,
triển lãm.
- 50% những gì họ học được
thơng qua thảo luận nhóm.
- 75% những gì họ học được
thơng qua thực hành.
- 90% những gì họ học được
nếu áp dụng ngay lập tức kiến
thức đó.

Xuất phát từ những lí do mang tính thiết thực đó, trong phạm vi một sáng kiến,
tơi xin đề cập đến một đề tài đã áp dụng đem lại hiệu quả cao tại đơn vị tôi công tác:
“Rèn luyện phương pháp học chủ động và tư duy phản biện cho HS THPT thông qua
hoạt động Vận dụng trong môn Ngữ văn”
2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
2.1. Mục đích của giải pháp:
Giải pháp được tơi thực hiện dựa trên một số mục đích cơ bản sau:
- Hoạt động vận dụng có mục đích giúp HS vận dụng được các KT, KN để giải
quyết các tình huống/vấn đề mới, khơng giống với những tình huống/vấn đề đã được
hướng dẫn hay đưa ra những phản hồi hợp lí trước một tình huống/vấn đề mới trong

hiện thực hoặc trong cuộc sống. GV sẽ hướng dẫn HS kết nối và sắp xếp lại các KT,
KN đã học giải quyết thành cơng tình huống/vấn đề tương tự tình huống/vấn đề đã
học. Đây có thể là những HĐ mang tính nghiên cứu, sáng tạo, vì thế giúp HS gần gũi
với gia đình, địa phương, tranh thủ sự hướng dẫn của gia đình, địa phương để hồn
thành nhiệm vụ học tập. Trước một vấn đề, HS có thể có nhiều cách giải quyết khác
nhau.
- Tổ chức hoạt động Vận dụng trong dạy học Văn giúp HS thay đổi phương
pháp học từ học thụ động chuyển sang học chủ động. Học chủ động (Active Learning)
là hình thức mà mỗi cá nhân phải tự đặt ra mục tiêu cho bản thân, hoạch định lộ trình
đạt mục tiêu đó dưới sự hướng dẫn, trợ giúp của giáo viên. Đây là phương pháp học
11


tập có rất nhiều ưu điểm tích cực, khoa học, hiệu quả và ngày càng được các nhà giáo
dục hàng đầu thế giới, cũng như học sinh ở quốc gia có nền giáo dục tiên tiến như Mỹ,
Hà Lan, Phần Lan, Đức... áp dụng. Với lượng thông tin và kiến thức khổng lồ ở
trường, cách học truyền thống khơng cịn phù hợp, không thể trang bị cho học sinh
những kỹ năng tư duy cần thiết. Vì thế, giải pháp sẽ giúp HS rèn luyện phương pháp
tiếp cận kiến thức chủ động và khoa học hơn đặc biệt là trong thời đại bùng nổ công
nghệ thông tin hiện nay. Học chủ động sẽ kích thích học sinh tư duy độc lập, khoa học
hơn. Nó vượt trội so với phương pháp truyền thống bởi không chỉ cung cấp kiến thức
chuyên môn mà còn bổ sung kiến thức về bề rộng, nền tảng qua hình thức phản biện
trong giờ học.
- Tổ chức hoạt động Vận dụng trong dạy học Văn giúp HS phát triển tư duy, kĩ
năng phản biện. Tư duy phản biện là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích
và đánh giá một thơng tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm
làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Muốn có phản biện trước hết
phải có tư duy phản biện. Tư duy phản biện thể hiện tính tích cực, chủ động của chủ
thể. Phản biện trong dạy học là phản biện diễn ra trong quá trình dạy học, giữa học
sinh với học sinh, học sinh với giáo viên và ngược lại. Phản biện trong dạy học thể

hiện tinh thần chủ động, tích cực, sáng tạo của người học và tính dân chủ của giờ học.
Kết quả của phản biện có thể đúng, có thể khơng đúng. Nếu đúng chân lí sẽ được rút
ra. Nếu chưa đúng sẽ là tiền đề cho những phản biện tiếp theo. Cấu trúc một phản biện
khá gần gũi, bám sát với cấu trúc quá trình dạy học. Điều này sẽ giúp cho quá trình
dạy học đạt được mục tiêu ở mức độ cao nhất. Đây là điều mà bất kể người giáo viên
nào cũng muốn và phải hướng tới. Hình thức phản biện nào cũng có khả năng phát huy
được tính tích cực, tính chủ động và sáng tạo của học sinh trong học tập. Đặc biệt nó
đề cao được tính dân chủ trong một giờ học –vấn đề mà nền giáo dục tiên tiến nào
cũng hướng tới. Điều đó cịn góp phần rèn luyện kỹ năng sống, hình thành và hồn
thiện nhân cách con người – một mục tiêu quan trọng trong giáo dục phổ thông.
- Đáp ứng nhu cầu của học sinh: cùng với những nhu cầu học tập nâng cao kiến
thức, học sinh cũng có nhu cầu tự học và được bộc lộ bản thân. Nhất là trong giai đoạn
mà quyền cá nhân con người, tính dân chủ trong giờ học được đề cao như lúc này. Đó
là mong muốn được thể hiện mình trước thầy cơ và bạn bè trong lớp, muốn chứng
minh khả năng, sự tiến bộ của mình. Nhu cầu được bộc lộ bản thân làm tiền đề cho
khát vọng khẳng định bản thân và thực tế nhiều HS đã khẳng định được mình thơng
qua nhu cầu này. Nhu cầu được bộc lộ bản thân của học sinh là một trong những cơ sở
quan trọng để phát huy tiềm năng học tập, khả năng phản biện vấn đề.
Thực tế cho thấy, khả năng phản biện vấn đề ở học sinh THPT còn đang tồn tại
dưới dạng tiềm năng, chưa được khai thác và phát huy triệt để. Nhiều học sinh muốn
12


phản biện, hoặc đã phản biện nhưng chưa được giáo viên tạo điều kiện để thể hiện,
chưa được các bạn trong lớp hưởng ứng tích cực. Có nhiều lí do khiến cho khả năng
này chưa trở thành thói quen và kỹ năng. Điều đó dẫn đến việc dạy học mơn Ngữ văn
ở trường THPT trở nên nhàm chán hơn, hình thức truyền thụ một chiều. Học sinh
nghe, hiểu và làm theo một cách máy móc. Khơng phản hồi. Nếu phát huy được khả
năng phản biện vấn đề của học sinh thì chất lượng dạy và học sẽ được nâng.
- Xu hướng chung của những nền giáo dục tiến bộ trên thế giới là xây dựng một

nền giáo dục thực sự dân chủ. Học chủ động và phản biện của học sinh trong quá trình
dạy học là một trong những biểu hiện tích cực của một giờ học dân chủ và một nền
giáo dục dân chủ. Phát huy khả năng phản biện của học sinh là một trong những cách
góp phần xây dựng những giờ học dân chủ và tạo ra một nền giáo dục dân chủ, tiến bộ.
Đặt trong bối cảnh chung của ngành GD hiện nay, phát huy khả năng phản
biện của học sinh trong dạy học nói chung, dạy học Văn nói riêng cũng góp phần quan
trọng vào việc xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực.
2.2. Nội dung của giải pháp
2.2.1. Sáng kiến “Rèn luyện phương pháp học chủ động và tư duy phản biện
cho HS THPT thông qua hoạt động Vận dụng trong môn Ngữ văn” đã đề cập đến một
số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như: Khái niệm và vai trị của hoạt động vận
dụng trong mơn Ngữ văn; khái niệm phương pháp học tập chủ động và tư duy
phản biện.
2.2.2. Thiết kế hoạt động “Vận dụng”
Quy trình thiết kế hoạt động Vận dụng:
1. Mục tiêu
2. Nội dung
3. Sản phẩm
4. Tổ chức thực hiện:
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ học tập
Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập
Bước 3: Báo cáo kết quả thảo luận
Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ
Trong quá trình nghiên cứu và áp dụng, tôi đã thiết lập hai loại bài tập Vận
dụng tương ứng với hai mức độ như sau:
- Vận dụng: Bài tập được thiết kế dựa trên nguyên tắc: HS vận dụng kiến thức
vừa học để giải quyết bài tập với ngữ liệu có trong bài học hoặc ngữ liệu khơng có
trong chương trình. Với mức này tơi thường áp dụng rèn cho HS kĩ năng làm đề đọc
hiểu với mục tiêu vừa củng cố luyện tập kiến thức vừa học xong vừa rèn kĩ năng đọc
hiểu:

13


Ví dụ 1: Trong bài học Đọc văn Tun ngơn độc lập (Ngữ văn 12), tôi sử dụng
phiếu đọc hiểu:
Đọc đoạn văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Hỡi đồng bào cả nước,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng
ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791
cũng nói:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải ln được tự do và
bình đẳng về quyền lợi”.
Đó là những lẽ phải khơng ai chối cãi được.
(Trích Tun ngơn Độc lập – Hồ Chí Minh)
Câu 1. Nêu nội dung chính của đoạn văn?
Câu 2. Trong đoạn văn tác giả đã sử dụng những thao tác lập luận nào?
Câu 3. Việc chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn Tun ngơn Độc lập (1776) của
Mĩ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp (1791) có ý nghĩa
gì?
Câu 4. Chỉ ra những nét đặc sắc về nghệ thuật viết văn chính luận của Hồ Chí
Minh được thể hiện trong đoạn văn.
Ví dụ 2: Trong bài học đọc văn đoạn trích Hồi trống Cổ Thành (trích Tam quốc
diễn nghĩa, Ngữ văn 10), tơi thiết kế phiếu đọc hiểu như sau:
Đọc đoạn văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Hôm ấy, Tôn Càn theo lệnh Quan Công vào thành ra mắt Trương Phi. Thi lễ

xong, nói chuyện Huyền Đức đã bỏ Viên Thiệu sang Nhữ Nam, Vân Trường thì ở Hứa
Đơ, vừa đưa hai phu nhân đến đây. Rồi mời Trương Phi ra đón. Phi nghe xong, chẳng
nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân, đi tắt ra
cửa bắc. Tôn Càn thấy lạ, nhưng không dám hỏi cũng phải theo ra thành.
Quan Công trông thấy Trương Phi ra, mừng rỡ vô cùng, giao long đao cho
Châu Thương cầm, tế ngựa lại đón. Trương Phi mắt trợn trịn xoe, râu hùm vểnh
ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Cơng.
Quan Cơng giật mình, vội tránh mũi mâu, hỏi:
- Hiền đệ cớ sao như thế, há quên nghĩa vườn đào ru?
Trương Phi hầm hầm quát:
14


- Mày đã bội nghĩa, còn mặt nào đến gặp tao nữa?
Quan Cơng nói:
- Ta thế nào là bội nghĩa?
Trương Phi nói:
- Mày bỏ anh, hàng Tào Tháo được phong hầu phong tước, nay lại đến đây
đánh lừa tao! Phen này tao quyết liều sống chết với mày.
(Trích Hồi trống Cổ Thành, SGK Ngữ văn 10,Trang 76,Tập II, NXBGD 2006)
Câu 1. Nêu phương thức biểu đạt chính của đoạn trích ?
Câu 2. Xác định các động từ liên quan đến nhân vật Trương Phi trong đoạn: Phi
nghe xong…chạy lại đâm Quan Công. Nêu hiệu quả nghệ thuật của những động từ đó.
Câu 3. Chỉ ra và nêu hiệu quả nghệ thuật biện pháp tu từ trong câu văn: Trương
Phi mắt tròn xoe râu vểnh ngược, hò thét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan
Công.
Câu 4. Qua văn bản, anh (chị) thấy Trương Phi có tính cách như thế nào ?
Với dạng bài tập này, HS vận dụng kiến thức đã học giải quyết các nhiệm vụ
học tập mà giáo viên đặt ra, từ đó góp phần hình thành kĩ năng làm bài đọc hiểu.
Ví dụ 3: Với bài học đọc văn Tây Tiến (Ngữ văn 12), tôi sử dụng ngữ liệu

khơng có trong chương trình là bài Nhớ của Hồng Nguyên để thiết kế bài tập Vận
dụng vừa có tác dụng vận dụng kiến thức đã học, vừa rèn kĩ năng vừa giúp HS bổ sung
thêm kiến thức về tác phẩm cùng đề tài nhưng khơng có trong chương trình:
Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu:
Lũ chúng tôi
Chúng tôi đi
Bọn người tứ xứ,
Nắng mưa sờn mép ba lô,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Tháng năm bạn cùng thơn xóm.
Quen nhau từ buổi “một hai”
Nghỉ lại lưng đèo
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến.
Lột sắt đường tàu,
Rèn thêm dao kiếm,
Áo vải chân không,
Đi lùng giặc đánh.
Ba năm rồi gửi lại quê hương…

Nằm trên dốc nắng.
Kì hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng.
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa.
- Đằng nớ vợ chưa?
- Đằng nớ?
- Tớ còn chờ độc lập.
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thơn nữ cuối nương dâu


(Trích Nhớ - Hồng Nguyên, 1948)
Câu 1. Xác định thể thơ của đoạn thơ trên ?
Câu 2. Sự khó khăn, vất vả của người lính thời kì đầu cuộc kháng chiến chống
Pháp được tác giả miêu tả qua những hình ảnh nào?
15


Câu 3. Theo em, giữa hình tượng người lính trong đoạn thơ trên với người lính
trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng có những điểm gì tương đồng và khác biệt?
Câu 4. Từ hình tượng người lính trong thời chiến, em hãy liên hệ đến trách
nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc?
Với câu hỏi 4 ở ví dụ này, HS đã có nhiều ý kiến khác nhau về trách nhiệm của
thế hệ trẻ hôm nay với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tập trung vào 3 luồng ý kiến sau:
- Ý kiến 1: Tham gia nghĩa vụ quân sự khi đủ tuổi.
- Ý kiến 2: Học tập giỏi, làm kinh tế giỏi.
- Ý kiến 3: Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.
Các em đều chủ động dùng lí lẽ để phản biện lại ý kiến của bạn và đề xuất ý
kiến của mình. Sau khi HS trình bày, GV phân tích cho HS thấy cả 3 ý kiến đều đúng
nhưng nếu tách ra đứng riêng lẻ thì chưa đủ. Muốn bảo vệ được Tổ quốc trong thời
bình thì phải thực hiện tốt tất cả các ý kiến trên.
Ví dụ 4:
Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, để cho HS nhìn rõ hơn, thấu hiểu hồn
cảnh và số phận, tính cách của nhân vật người đàn bà hàng chài, tôi thiết kế hoạt động
với phương pháp đóng vai như sau:
(1) - Giả sử em là Chánh án Đẩu, em có tiếp tục giúp đỡ người đàn bà hàng
chài ly hôn chồng để thốt khỏi bi kịch gia đình khơng? Vì sao?
(2) - Giả sử em là bé Phác, sống trong một gia đình mà bố mẹ thường xuyên
bạo hành như thế em có cảm nhận như thế nào? Theo em, từ góc nhìn của một người
con, em có giải pháp gì để gia đình khơng cịn bi kịch như thế nữa?
(3) – Giả sử em là nghệ sĩ Phùng, vì lịng nhân ái thương xót cho nỗi khổ của

gia đình hàng chài, em quyết định ở lại giúp đỡ người đàn ông vũ phu kia thay đổi
hành vi để không còn bạo hành vợ nữa. Vậy em sẽ làm như thế nào?
Qua hoạt động, HS đã chủ động bày tỏ suy nghĩ của mình trước mỗi tình huống
GV đưa ra. Ở tình huống nào các em cũng vận dụng được những hiểu biết từ thực tế
cuộc sống. Điều này góp phần rất lớn trong việc xây dựng cuộc sống sau này của HS.
- Vận dụng cao: Bài tập được thiết kế dựa trên nguyên tắc: HS vận dụng kiến
thức đã học để giải quyết bài tập tình huống gần gũi với đời sống hoặc bài tập mở rộng
nâng cao là hệ thống kiến thức xâu chuỗi hoặc xử lí tình huống hồn tồn mới.
Ví dụ 1: Bài tập mở rộng nâng cao dành cho HS khá giỏi thực hiện về nhà sau
khi học xong bài Tuyên ngôn độc lập (Ngữ văn 12):
So sánh điểm giống nhau và khác nhau về phần tuyên bố độc lập chủ quyền dân
tộc giữa bài thơ Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt), Bình Ngơ Đại cáo (Nguyễn Trãi)
và Tun ngơn độc lập (Hồ Chí Minh)

16


Với dạng bài tập này tôi rèn cho HS khá giỏi khả năng chủ động xâu chuỗi kiến
thức và sử dụng thao tác lập luận so sánh để trình bày báo cáo kết quả vào tiết học sau.
Ví dụ 2: Khi dạy bài Vợ chồng A Phủ trong giờ Tự chọn, tôi đã đặt ra một vấn
đề: Tại sao cùng chịu nỗi cùng cực, khổ đau mà cô gái Thái (Tiễn dặn người yêu, Ngữ
văn 10) lại cam chịu chứ khơng hề có ý định tự tử như Mị trong “Vợ chồng A Phủ”?
Để giải quyết bài tập này HS phải có sự tương tác, tư duy liên hệ đến kiến thức văn
hóa của dân tộc Mơng và dân tộc Thái; giữa kiến thức các em đã học lớp 10 với kiến
thức trong bài các em đang học, từ đó các em tự tìm ra được câu trả lời cho mình. Mặc
dù các câu trả lời theo nhiều ý khác nhau nhưng đa số các em đều hướng tới đó là: Mị
ý thức được nỗi khổ của mình, ý thức được giá trị bản thân mình nên Mị khơng muốn
chịu đựng mà muốn “ăn cho chết ngay”.
Quả thực nếu GV chịu khó đặt ra những câu hỏi/bài tập Vận dụng có tính vấn
đề chắc chắn tiết học ngữ văn sẽ trở nên sinh động, thu hút HS tranh luận hơn rất

nhiều.
2.2.3. Chuyển giao nhiệm vụ hấp dẫn
Nhiệm vụ này rất quan trọng nhưng hình như giáo viên chúng ta chưa quán triệt
rõ tư tưởng của hoạt động này. Đa số giáo viên mải dạy đến lúc trống kết thúc giờ học
mới giật mình giao nhiệm vụ về nhà và kết thúc lớp học bằng cách yêu cầu học sinh
học thuộc cái này và làm bài tập kia trong sách giáo khoa.
Theo tôi, trong giờ dạy, người giáo viên cần chủ động kết thúc và chuyển sang
hoạt động Vận dụng để HS đỡ nhàm chán, mệt mỏi với tiết học, kể cả nhiệm vụ thực
hiện trên lớp hay giao về nhà cho học sinh. Thơng thường ít nhất 3 đến 5 phút trước
khi kết thúc tiết dạy (nếu không tiếp tục dạy ở tiết sau), tôi cho các em dừng việc học
tập ở trên lớp lại, có thể lúc đó cơng việc trên lớp vẫn còn dang dở. Vấn đề là ở chỗ
cần xử lý tình huống sư phạm như thế nào cho từng nhóm, từng em ở trong lớp để giao
nhiệm vụ thu hút được hứng thú của học sinh.
- Nhiệm vụ của HĐ Vận dụng khi chuyển giao cần đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Có sự xâu chuỗi, liên kết với bài học, đảm bảo tính thực tiễn
+ Ngắn gọn, rõ ràng, sinh động, có sức gợi tư duy phản biện của HS
+ Tình huống đưa ra phải có vấn đề cần giải quyết
- Cách thức chuyển giao nhiệm vụ:
+ Đối với nhiệm vụ thực hiện ngay trên lớp: Tơi kết thúc bài học ít nhất trước
10 phút, dành thời gian 2 phút chuyển giao nhiệm vụ theo cá nhân/nhóm; trong đó tơi
nêu rõ thời gian hoạt động cá nhân/nhóm, thời gian hồn thành báo cáo, tương tác,
chia sẻ và thời gian GV kết luận, đánh giá.

17


Ví dụ 1: Khi học xong bài thơ Từ ấy của Tố Hữu, tôi đặt ra một vấn đề: Tố Hữu
từng nói: “Từ ấy là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám đơi mươi đi theo lí
tưởng cao đẹp, dám sống, dám đấu tranh”
Từ câu nói trên em hãy chia sẻ về những ước mơ của tuổi trẻ và lí tưởng của

bản thân cũng như những hành động để thực hiện lí tưởng đó?
Tơi đã áp dụng thành công hoạt động Vận dụng bài Từ ấy (Ngữ văn 11), HS rất
sôi nổi, hứng thú chia sẻ ước mơ của mình, qua đó tơi đã định hướng mục tiêu tốt đẹp
và những hành động tích cực cho các em ngay trong phần kết luận. Nhờ thế bài đọc
văn của tôi trở nên thân thiết, gần gũi với các em hơn.
Ví dụ 2: Trong bài Truyền thuyết Truyện An Dương Vương và Mị ChâuTrọng Thủy (Ngữ văn 10), tôi hướng dẫn HS tranh luận bài tập: Nếu là An Dương
Vương, em sẽ suy nghĩ gì về trách nhiệm của bản thân khi làm mất nước?
Các em đã bày tỏ nhiều ý kiến khác nhau về bài tập GV đưa ra. Có em cho rằng
An Dương Vương chịu trách nhiệm chính trong việc làm mất nước, có em cho rằng
An Dương Vương chỉ gián tiếp làm mất nước. Em nào cũng có những lý lẽ xác đáng,
thuyết phục để bác bỏ ý kiến của bạn và bảo vệ ý kiến của mình. Qua đó bài học về
dựng nước và giữ nước được khắc sâu hơn. Tự các em rút ra bài học cho chính mình
trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Đối với nhiệm vụ thực hiện về nhà: Tơi kết thúc bài học ít nhất trước 3-5
phút, dành thời gian 2 phút chuyển giao nhiệm vụ theo cá nhân/nhóm, 3 phút hướng
dẫn cụ thể về cách thức thực hiện, thời gian hồn thành, tiêu chí đánh giá và yêu cầu
về sản phẩm.
Ví dụ 1: Khi dạy Chủ đề Phong cách ngơn ngữ báo chí (Ngữ văn 11) tơi chuyển
giao nhiệm vụ cho 3 nhóm để chuẩn bị cho bài học như sau: Nhóm 1- Quay 01 clip về
sản phẩm rau sạch của lớp; nhóm 2 - Đóng vai và phỏng vấn tác giả Nam Cao; nhóm
3 - Phóng sự về hoạt động của thư viện nhà trường. Thời gian hoàn thành sản phẩm là
1 tuần và các em thực hành báo cáo sản phẩm ngay trong tiết học Chủ đề Phong cách
ngơn ngữ báo chí.
Ví dụ 2: Khi dạy bài Vợ chồng A Phủ tôi chuyển giao nhiệm vụ sau khi kết
thúc bài học cho HS như sau: viết kịch bản và quay một đoạn phim ngắn được chuyển
thể từ tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tơ Hồi.
Ví dụ 3: Khi dạy về Văn thuyết minh (Ngữ văn 10) tôi giao nhiệm vụ cho 3
nhóm: Nhóm 1 - Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh ở địa phương; nhóm 2 Thuyết minh về một món ăn truyền thống của dân tộc mình; nhóm 3 - Thuyết minh về
một di tích lịch sử. Các nhóm thực hiện và trình bày trên PowerPoint. Các nhóm trình
bày sản phẩm trong giờ tự chọn.


18


Ví dụ 4: Khi dạy bài Hai đứa trẻ tơi giao nhiệm vụ chung cho 3 nhóm: Mỗi
nhóm vẽ một bức tranh tái hiện lại cảnh mà em tâm đắc nhất trong tác phẩm. Các
nhóm sẽ thuyết trình trong giờ tự chọn.
Q trình HS thực hiện tơi thấy HS rất chủ động trong việc tìm hiểu, huy động
các kiến thức liên quan phục vụ cho nhiệm vụ được giao. Chủ động phân công nhiệm
vụ cho các thành viên phù hợp năng lực và sở thích của từng người.
Từ những bài được áp dụng như trên tôi rút ra bài học là tuyệt đối không nên
giao nhiệm vụ về nhà cho học sinh bằng những câu hỏi, bài tập có tính chất học thuộc
lịng máy móc, mà nên lựa chọn những tình huống, nhiệm vụ học tập bổ ích liên quan
đến thực tiễn đòi hỏi các em phải hợp tác với nhau để tìm tịi, khám phá.
2.2.4. Tổ chức, điều hành hoạt động thu hút
Khi nghiên cứu các video học trực tuyến của HS ở các nước tiên tiến trên thế
giới do Bộ GD&ĐT đăng trên không gian Trường học kết nối, tôi nhận thấy cách dạy
và học của nền giáo dục các nước tiên tiến so với Việt Nam có nhiều khác biệt, khác
biệt lớn nhất là văn hóa thảo luận học tập trong lớp học. Trong mỗi buổi học hoặc một
buổi thảo luận của học sinh nước ngoài họ có thể chỉ cần bàn về một cuốn sách đã
được giáo viên giao về đọc trước ở nhà. Mỗi HS phát biểu ít nhất 3 lần về mọi vấn đề
mình đọc hiểu trong cuốn sách ấy thì mới được cho điểm. Từ cách hướng HS học chủ
động học tập mà ta thấy HS nước ngồi có tính độc lập và chủ động trong việc học tập
và tiếp cận kiến thức. Từ việc học tập và nghiên cứu ấy bản thân tôi thấy muốn HS
phát huy được sự chủ động và khả năng phản biện của học sinh THPT trong các giờ
học, đặc biệt là giờ của bộ môn Văn chúng ta cần có những điều kiện sau:
- Cả GV và HS phải có tư duy phản biện
- GV chân thành, cởi mở, lắng nghe và tương tác với HS một cách vui vẻ, thân
thiện. Cần tôn trọng ý kiến HS, biết khích lệ, động viên và mở đường cho HS bày tỏ
suy nghĩ của mình thay vì chỉ trích, phê phán hoặc cáu giận, nóng nảy, HS sẽ khơng có

hứng thú tham gia tranh biện thậm chí khơng dám bày tỏ suy nghĩ.
- Học sinh phải có hiểu biết vấn đề và được GV trao quyền chủ động
- Giờ học Văn phải có khơng khí dân chủ. Thầy cơ và HS có thể là diễn viên
của câu chuyện hoặc vở kịch.
- Tình huống phản biện phải là tình huống có vấn đề cần giải quyết
- Đảm bảo về thời gian và chất lượng sản phẩm
Các bước tổ chức, điều hành hoạt động như sau:
- Với nhiệm vụ thực hiện ngay trên lớp (ngay sau khi kết thúc bài học), tôi tiến
hành như sau:
Bước 1: HS hoạt động cá nhân/nhóm
Bước 2: HS báo cáo, chia sẻ kết quả
19


Bước 3: HS tương tác, phản biện
Bước 4: GV kết luận và đánh giá
Với dạng bài tập đọc hiểu, tôi thường phát phiếu cho HS hoạt động cặp đôi
trong 3-5 phút, sau khi HS hồn thành phiếu học tập, tơi sẽ gọi 2-4 nhóm báo cáo kết
quả, nếu trùng nhau đáp án thì nhóm sau khơng nhắc lại, nếu ý kiến khác thì bổ sung.
Sau đó tơi kết luận đáp án và đánh giá hoạt động của HS
Ví dụ: Sau khi học xong bài Tác giả Tố Hữu, tôi giao nhiệm vụ HS hoàn thành
bài tập vận dụng sau:
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
Tố Hữu là nhà thơ có vị trí rất quan trọng trong nền văn học cách mạng Việt
Nam. Trong thơ Tố Hữu, cái Tơi trữ tình, trẻ trung, sơi nổi và đầy nhiệt huyết là cái
Tôi gắn với cách mạng, cái Tôi mang trong mình lí tưởng cộng sản. Với tập thơ Từ ấy,
Tố Hữu đã bắc chiếc cầu nối giữa hình thức thơ mới với thơ ca yêu nước và cách
mạng. Giữa lúc các nhà thơ mới còn băn khoăn, còn đắm mình trong nỗi buồn đau, cơ
đơn tuyệt vọng, thì Tố Hữu với Từ ấy đã cất lên khúc hát ngợi ca lí tưởng cách mạng
và tự tin khẳng định sự đúng đắn của con đường mình đã chọn. Từ ấy thể hiện tâm

trạng háo hức, tràn đầy niềm tin và hi vọng của người cộng sản trẻ tuổi.
Đặt bài thơ vào hồn cảnh xã hội, chính trị, văn hố thời điểm nó ra đời mới
hiểu và lí giải được những cung bậc cảm xúc mãnh liệt của nhân vật trữ tình. Bài thơ
ra đời vào thời kì cách mạng Dân tộc dân chủ 1936- 1939. Năm 1930, Đảng Cộng sản
ra đời, lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Tố Hữu
thuộc lớp thanh niên sớm được giác ngộ cách mạng. Và người thanh niên với trái tim
tuổi hai mươi đang căng đầy sự sống đã đến với cách mạng bằng niềm phấn khích của
người vừa tìm thấy con đường lí tưởng của đời mình. Nhân vật trữ tình của bài thơ là
người cộng sản trẻ tuổi với quan niệm cao đẹp về lí tưởng sống, lí tưởng cộng sản.
(Trích Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 11- Nguyễn Trọng Hồn)
Câu 1. Nêu nội dung chính của văn bản trên ?
Câu 2. Xác định biện pháp tu từ về từ trong câu văn Với tập thơ Từ ấy, Tố Hữu
đã bắc chiếc cầu nối giữa hình thức thơ mới với thơ ca yêu nước và cách mạng. Hiệu
quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó là gì?
Câu 3. Theo tác giả, cái Tơi trữ tình trong thơ Tố Hữu được biểu hiện như thế
nào?
Câu 4. Em có suy nghĩ gì về lí tưởng sống của tuổi trẻ trong cuộc sống hôm
nay?
Với câu hỏi 4 ở ví dụ này, HS đã có nhiều ý kiến khác nhau về lí tưởng sống
của tuổi trẻ trong cuộc sống hơm nay. Các em đều chủ động dùng lí lẽ để phản biện lại

20


ý kiến của bạn và đề xuất ý kiến của mình. Từ đó các em điều chỉnh lại suy nghĩ, lối
sống của mình cho phù hợp.
Với các dạng bài tập cịn lại tơi thường sử dụng phương pháp dạy học tích cực
như sau:
(1) Pháp hương pháp Đóng vai và Nghiên cứu tình huống
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho HS thực hành, “làm thử” một số cách ứng

xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp giúp HS suy nghĩ sâu
sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể mà các em vừa thực hiện
hoặc quan sát được. Việc “diễn” khơng phải là phần chính của phương pháp này mà
điều quan trọng là sự thảo luận phía sau phần diễn ấy.
Có thể tiến hành đóng vai theo các bước sau: Giáo viên nêu chủ đề, chia nhóm
và giao tình huống, yêu cầu đóng vai cho từng nhóm. Trong đó có quy định rõ thời
gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi nhóm. Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng
vai. Các nhóm lên đóng vai. Lớp thảo luận, nhận xét về cách ứng xử và cảm xúc của
các vai diễn; về ý nghĩa của các cách ứng xử. GV kết luận, định hướng cho HS về cách
ứng xử tích cực trong tình huống đã cho.
Một số yêu cầu khi đóng vai: Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề bài
học, phù hợp với lứa tuổi, trình độ HS và điều kiện, hồn cảnh lớp học. Tình huống
khơng nên quá dài và phức tạp, vượt quá thời gian cho phép. Tình huống phải có nhiều
cách giải quyết. Tình huống cần để mở để HS tự tìm cách giải quyết, cách ứng xử phù
hợp; không cho trước “kịch bản”, lời thoại. Mỗi tình huống có thể phân cơng một hoặc
nhiều nhóm cùng đóng vai. Phải dành thời gian phù hợp cho HS thảo luận xây dựng
kịch bản và chuẩn bị đóng vai cần quy định rõ thời gian thảo luận và đóng vai của các
nhóm. Trong khi HS thảo luận và chuẩn bị đóng vai, GV nên đi đến từng nhóm lắng
nghe và gợi ý, giúp đỡ HS khi cần thiết. Các vai diễn nên để HS xung phong hoặc tự
phân cơng nhau đảm nhận. Nên khích lệ cả những HS nhút nhát cùng tham gia.
- Khi dạy bài Tôi yêu em của Puskin, phần kết thúc bài học, tơi tích hợp giáo
dục kỹ năng sống cho HS bằng cách dùng phương pháp đóng vai. Câu hỏi đưa ra như
sau: Giả sử em là nhân vật trữ tình trong bài thơ, có một tình u tha thiết, nồng nàn,
mãnh liệt nhưng đó chỉ là một tình u đơn phương từ phía em mà khơng được bạn nữ
đáp lại. Vậy khi tình cảm khơng được đáp lại như thế, em sẽ có thái độ ra sao và có
cách ứng xử như thế nào?
Như vậy, khi vào một “vai giả định” như trên học sinh có điều kiện được trình
bày, bộc lộ những suy nghĩ, cảm nhận và cách ứng xử của bản thân. Nhằm giúp các
em có một suy nghĩ sâu sắc, một cách ứng xử đúng đắn về một vấn đề bằng cách đứng
từ chỗ đứng, góc nhìn của người trong cuộc. Từ đó nhìn nhận lại kinh nghiệm sống

của mình trước đây theo một cách nhìn khác.
21


- Khi dạy xong bài Hoạt động giao tiếp bằng ngơn ngữ (Ngữ văn 10), tơi sử
dụng PP đóng vai với bài tập sau:
- Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím,
Em có chồng rồi trả yếm cho anh.
- Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh,
Yếm em em mặc, yếm gì anh anh địi (Ca dao)
(1)- Hãy phân tích các nhân tố giao tiếp trong hoạt động giao tiếp trên? (HS
luyện tập)
(2) - Giả định em là nhân vật em/anh trong bài ca dao đó, em thấy cách ứng xử
của nhân vật với người mình từng yêu như thế nào? (HS tư duy phản biện để lí giải).
(3) - Bài ca dao có đề cập đến một hiện tượng ngày nay vẫn cịn, theo em đó là
hiện tượng gì và hãy bày tỏ quan điểm của bản thân về hiện tượng đó? (HS vận dụng
hiểu biết đời sống để liên hệ- hiện tượng khơng u nữa thì địi q của một bộ phận
giới trẻ hiện nay; HS bày tỏ quan điểm và chia sẻ cách ứng xử)
Khi tôi đưa bài tập này, HS rất hào hứng, sôi nổi. Với câu hỏi đầu tiên các em
được củng cố luyện tập kiến thức vừa học xong. Câu hỏi thứ hai sẽ tương tác phản
biện và bảo vệ quan điểm của bản thân đồng thời nhận được những ý kiến chia sẻ rộng
mở của các bạn khác. Câu hỏi thứ ba HS buộc phải tư duy liên hệ đến kiến thức đời
sống và thao tác bình luận để đánh giá, bày tỏ quan điểm cá nhân. Rõ ràng hoạt động
này khiến cho giờ học tiếng Việt khơng cịn khơ khan, nhàm chán, HS rất mạnh dạn
chia sẻ suy nghĩ cá nhân đồng thời lơi cuốn được cả lớp tham gia. Qua đó tôi cũng
định hướng cho HS một số kĩ năng ứng xử nhân văn trong tình yêu và nhờ thế giờ học
tiếng Việt của tôi trở nên vui vẻ, ý nghĩa vì đã mang đến cho các em một bài học sống
thiết thực.
- Khi dạy xong bài Tấm Cám (Ngữ văn 10) tơi sử dụng PP đóng vai với bài tập
sau: Nếu em là nhân vật Tấm trong tác phẩm, sau khi được vua đón về cung và trở

thành hồng hậu em sẽ có cách ứng xử như thế nào với mẹ con Cám?
Với câu hỏi giả định này, học sinh có cơ cội bày tỏ suy nghĩ, chính kiến, thái độ
của mình. Từ đó HS sẽ tự rút ra cho mình bài học về đối nhân xử thế trong cuộc sống.
Những phản biện/cách giải quyết của HS có thể đúng, đủ thuyết phục, có thể sai
và khơng thuyết phục nhưng điều đó khơng quan trọng. Quan trọng là qua phản biện,
HS thể hiện tinh thần chủ động, tích cực, sáng tạo của mình. Khoảng cách giữa GV và
HS được rút ngắn. Giờ học sôi nổi và điều cốt lõi thiết yếu là GV hiểu “khoảng trống”
trong HS như thế nào để có phương pháp “làm đầy” nó. Với tơi, GV như thế là thành
công về dạy học.

22


(2) Phương pháp thảo luận nhóm
Trong q trình thực hiện đề tài, tôi rút kinh nghiệm là nên thảo luận nhóm cặp
đơi sẽ hiệu quả hơn cả
Ví dụ khi dạy tác phẩm“Vợ chồng A Phủ” (Tơ Hồi) trong giờ ơn thi THPT
Quốc gia, tôi đặt ra vấn đề: chọn chi tiết được lặp lại nhiều lần trong tác phẩm mà em
cho là đặc sắc, tập trung thể hiện chủ đề tác phẩm, số phận và tính cách nhân vật
chính? Thực tế học sinh tìm được nhiều chi tiết nhưng một số không tập trung theo
yêu cầu. Giờ học, tôi thống nhất chọn ba chi tiết: Mị bị so sánh với thân trâu ngựa (tập
trung thể hiện số phận bất hạnh, bi thương), tiếng sáo gọi bạn (sức sống tiềm tàng trỗi
dậy mãnh liệt), ngọn lửa (niềm khao khát tự do cháy bỏng thổi bùng thành hành động
phản kháng). Sau đó chia ba nhóm trình bày, cuối cùng tơi chốt lại các vấn đề.
Hoặc tơi đặt vấn đề: Có hay khơng chuyện đám cưới và hôn nhân trong tác
phẩm “Vợ nhặt” (Kim Lân). Kết quả là 100% học sinh sau khi làm việc nhóm đã
thống nhất khơng có chuyện đám cưới nhưng có một cuộc hơn nhân thực sự. Sau đó
đại diện của một nhóm học sinh lên trình bày, bảo vệ quan điểm. Các nhóm khác phản
biện, bổ sung. Tơi đã chốt lại ba vấn đề:
(1)- Khơng có chuyện đám cưới để khái quát hiện thực cuộc sống và thân phận

con người bị rẻ rúng đến thảm hại
(2)- Có một cuộc hôn nhân thực sự để khái quát giá trị nhân đạo sâu sắc của tác
phẩm: tình yêu thương chia sẻ, cưu mang của những người cùng cảnh ngộ, niềm khao
khát hạnh phúc gia đình, ý thức vươn lên trên cái đói, cái chết để vui và hi vọng
(3)- Câu hỏi thảo luận có hay khơng chuyện đám cưới và hơn nhân trong tác
phẩm chính là tình huống truyện đặc sắc thể hiện tài năng sáng tạo của Kim Lân khiến
tác phẩm sống mãi trong lòng bạn đọc.
(3) Phương pháp dạy học theo dự án
Hiện nay, có rất nhiều PPDH và kỹ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng để
tổ chức dạy học như: dạy học giải quyết vấn đề, dạy học hợp tác, dạy học dự án, dạy
học tình huống… trong đó theo quan điểm của tơi, dạy học theo Dự án phát huy nhiều
ưu điểm hơn cả. Dạy học theo Dự án là một hình thức dạy học, trong đó người học
thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành,
có tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được học sinh thực hiện với
tính tự lực cao trong tồn bộ q trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch
dự án đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả
thực hiện dự án. Làm việc theo nhóm là hình thức cơ bản của Dạy học theo Dự án.
Có thể tóm tắt những ưu điểm cơ bản của dạy học theo dự án như sau: gắn lý
thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội; kích thích động cơ,
hứng thú học tập của người học; phát huy tính tự lực, tính trách nhiệm; phát triển khả
23


năng sáng tạo; rèn luyện năng lực giải quyết những vấn đề phức hợp; rèn luyện tính
bền bỉ, kiên nhẫn; rèn luyện năng lực cộng tác làm việc; phát triển năng lực đánh giá.
Tổ chức dạy học theo chuyên đề với phương pháp Dự án có nhiều ưu điểm, vừa
góp phần thực hiện được mục tiêu giáo dục - đào tạo những con người tích cực, năng
động, vừa thực hiện được chủ trương giảm tải, tránh được sự trùng lặp gây nhàm chán
cho người học, giúp HS có khả năng tổng hợp lượng kiến thức đã học, đảm bảo được
thời gian tổ chức dạy học của GV... Cách thức, phương pháp nào cũng có thế mạnh, có

điểm yếu, tuy nhiên, đây có thể xem là cách hiệu quả trong việc tạo hứng thú với môn
học cho HS, là cách để GV rèn cho HS khả năng tự học, có được năng lực khái quát
kiến thức, thói quen học tiếp cận những phương pháp, mơ hình dạy học mới, đáp ứng
u cầu đổi mới căn bản, toàn diện trong dạy học.
Các vấn đề quen thuộc về tìm hiểu tác giả, tác phẩm, tóm tắt cốt truyện là
những nhiệm vụ đơn giản, học sinh hầu như khơng có khó khăn. Nên khi giao nhiệm
vụ này chủ yếu là rèn kỹ năng thuyết trình và cung cấp thơng tin bằng nhiều hình thức:
vẽ tranh, dùng phim minh họa, đóng kịch, làm thơ, trình chiếu tư liệu hay tạo hình ảnh,
phơng chữ đẹp trên powerpoint... Vấn đề quan trọng nhất của việc dạy học theo dự án
là vai trò của giáo viên trong việc xác định bản chất bài học, đưa ra tình huống có vấn
đề, phán đốn khó khăn của học sinh, tổ chức các hoạt động trong giờ học chú trọng
việc tương tác giữa người học sinh với nhau và giữa học sinh với giáo viên để có biện
pháp tháo gỡ khó khăn, giải quyết vấn đề đã đặt ra trong dự án.
Ví dụ: Để dạy học bài Tóm tắt văn bản tự sự (Ngữ văn 10) lôi cuốn được HS,
tôi đã photo câu chuyện “Con mèo dạy hải âu bay” và phát cho tất cả HS với yêu cầu:
1- Chuyển thể câu chuyện thành truyện tranh theo tưởng tượng của em và tóm
lược nội dung câu chuyện bằng một đoạn văn 15-20 dòng.
2- Bài học sâu sắc nhất em rút ra từ câu chuyện là gì?
Bài tập này tơi giao cho HS chuẩn bị trong 1 tuần, sản phẩm vẽ tranh tơi chia
theo nhóm 6 HS cùng thực hiện. Vào giờ học chính, tơi hướng dẫn lý thuyết về Tóm
tắt văn bản tự sự trong thời gian 10 phút. Thời gian cịn lại tơi tổ chức cho HS trình
bày sản phẩm bằng phương pháp Phịng tranh. Các nhóm sẽ trưng bày truyện tranh của
nhóm mình, có phiếu chấm điểm sản phẩm theo tiêu chí tơi đã thống nhất với HS khi
chuyển giao nhiệm vụ, bố trí chấm chéo trong thời gian 10 phút, 20 phút cịn lại các
nhóm sẽ chia sẻ sản phẩm cá nhân là bản tóm tắt, sau đó là các em phản biện cho nhau
về Bài học mà mỗi cá nhân đã chiêm nghiệm ra sau khi đọc câu chuyện. Như vậy với
nhiệm vụ này tôi vừa rèn HS chủ động chuẩn bị bài ở nhà, vừa là câu chuyện mới mẻ
kích thích trí tị mị của HS vừa buộc các em phải đọc để hoàn thành 2 sản phẩm cá
nhân và nhóm. Đồng thời khi báo cáo sản phẩm tôi cũng rèn cho HS tư duy phản biện,


24


trong đó có những câu hỏi mà các em đặt ra với GV, đối thoại với tôi về những chỗ
không hiểu.
Thực tế, phương pháp dạy học theo dự án đã thực sự giúp giờ học văn sơi nổi,
học sinh tích cực tự học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Kế
hoạch dạy học theo dự án yêu cầu cả giáo viên và học sinh đều phải chủ động, sáng
tạo, phát hiện, tìm tịi những vấn đề hay, những biện pháp phù hợp, tích cực tương tác
để trao đổi, phản biện từ đó tìm ra chân lý và cũng là cách hữu hiệu để phát triển năng
lực tư duy, tạo sự hấp dẫn và thú vị và quan trọng là lấy lại vị trí của môn văn học
trong trái tim học sinh.
(4) Tổ chức cho HS làm hồ sơ cá nhân về bài học
Hồ sơ cá nhân bài học của HS là một bộ sưu tập tổng thể các kết quả tìm kiếm,
nghiên cứu, chắt lọc, đánh giá của HS từ nhiều nguồn tài liệu xoay quanh một chủ đề
bài học theo yêu cầu của GV. Hồ sơ thể hiện năng lực tìm kiếm và xử lý thông tin,
năng lực nghiên cứu tổng hợp khái quát vấn đề, sự cố gắng, sự tiến bộ và kết quả đạt
được của HS trong một khoảng thời gian nhất định. Hồ sơ có ý nghĩa đặc biệt bởi vì nó
có một mục đích được xác định rõ ràng và có đối tượng phục vụ cụ thể. Hồ sơ thể hiện
sự đầu tư cá nhân từ phía người học thơng qua việc HS tham gia vào q trình lựa
chọn nội dung, các tiêu chí lựa chọn nội dung, cách trình bày, các tiêu chí đánh giá…
Đối với GV, hồ sơ học tập của HS bổ sung thêm vào công cụ đánh giá năng
lực và thái độ học tập của HS. Hồ sơ thể hiện rõ nhất cách tư duy của HS, sự mô tả sâu
hoạt động học của HS, sự vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các vấn đề thực tế
của HS.
Đối với HS, hồ sơ học tập là một tài liệu học tập và là công cụ tự đánh giá.
Những minh chứng được tập hợp trong hồ sơ không những cho thấy khối lượng và
chất lượng kiến thức của HS thể hiện qua quá trình nghiên cứu, tự học mà cịn cho
thấy q trình học tập và sự tiến bộ về kỹ năng của HS. Mỗi hồ sơ học tập là một sản
phẩm cá nhân HS nên nó thể hiện sự sáng tạo, sự kiên trì, sự phát triển các kỹ năng

của HS. Hồ sơ còn được coi là cơ sở giúp HS hệ thống hóa một cách cơ bản tri thức,
nội dung mơn học, củng cố kỹ năng trên cơ sở tính logic và hệ thống của các hoạt
động học tập. Qua đó, HS có thể tự đánh giá q trình và kết quả học tập của mình
cũng như của bạn. Hồ sơ học tập có ý nghĩa quan trọng đối với người học, là khơng
gian cho sự sáng tạo và tìm hiểu về bản thân, khuyến khích niềm say mê trong học tập,
ni dưỡng hứng thú với môn học. Người học không chỉ tập trung vào hoạt động học
tập mà còn tạo hứng thú cho hoạt động đánh giá, đặc biệt ở đây là sự tự đánh giá… Có
thể chỉ ra rất nhiều lợi ích từ cách làm này, như: nếu đánh giá một năng lực nào đó của
HS dựa trên hồ sơ học tập cụ thể, GV có thể nhìn thấy được cả q trình phấn đấu
trưởng thành của HS, sự hồn thiện năng lực của các em được thể hiện cụ thể qua sản
25


×