Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Nghiên cứu chùm đổi mới tổng quan kinh nghiệm quốc tế và bài học cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.12 KB, 80 trang )

Bộ Khoa học và công nghệ

viện chiến lợc và chính sách khoa học và công nghệ
______________________________________

báo cáo tổng hợp
Đề tài cơ sở:

Nghiên cứu chùm đổi mới : tổng quan kinh nghiƯm
qc tÕ vµ bµi häc cho viƯt nam

Ng−êi thùc hiƯn:
NGUN LAN ANH
NGUYễN MINH HạNH
Phạm quang trí
HOàNG VĂN TUYêN
Nguyễn thị minh Nga

7091
13/02/2009

Hµ Néi – 12/2006

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................................................... 3
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG................................................................................... 5
I. Các khái niệm .......................................................................................................................... 5
1.1. Khái niệm chùm và các cách tiếp cận chùm ........................................................................ 5


1.2. Khái niệm về chùm đổi mới................................................................................................. 9
1.3. Các nhân tố trong chùm đổi mới........................................................................................ 13
1.4. Đổi mới và hợp tác trong chùm đổi mới ............................................................................ 15
1.5. Chùm đổi mới và hệ thống đổi mới quốc gia..................................................................... 17
1.5.1. Hệ thống đổi mới quốc gia.......................................................................................... 17
1.5.2. Chùm đổi mới trong hệ thống đổi mới quốc gia ......................................................... 19
II. Vai trò của chùm đổi mới và chính sách chùm đổi mới ....................................................... 21
2.1. Các lợi ích từ cách tiếp cận chùm đổi mới......................................................................... 21
2.1.1. Sự khác nhau giữa cách tiếp cận chùm đổi mới và ngành (truyền thống).................. 21
2.1.2. Phân tích chùm đổi mới như cơng cụ phân tích chính sách........................................ 23
2.1.3. Vai trị đang thay đổi của chính phủ: những nguyên lý chính sách............................ 24
2.1.4. Chùm đổi mới như cơ chế chính sách cho học hỏi tương tác ..................................... 26
2.1.5. Các lợi ích khác của chùm đổi mới............................................................................. 29
2.2. Chính sách chùm đổi mới và các cơng cụ của chính sách chùm đổi mới .......................... 30
2.3. Một số hạn chế của chính sách chùm đổi mới ................................................................... 32
Kết luận..................................................................................................................................... 34
CHƯƠNG II. KINH NGHIỆM CÁC NƯỚC CHÂU ÂU ........................................................ 36
2.1. Cách tiếp cận chùm đổi mới............................................................................................... 36
2.2. Phân tích chùm đổi mới ..................................................................................................... 36
2.3. Đổi mới và hợp tác trong chùm đổi mới ............................................................................ 38
2.3.1. NC&PT ở các doanh nghiệp đổi mới trung tâm ......................................................... 38
2.3.2. Nghiên cứu trong tổ chức NC&PT.............................................................................. 40
2.4. Lý do hình thành chính sách chùm đổi mới ....................................................................... 41
2.5. Chính sách chùm đổi mới .................................................................................................. 43
2.5.1. Mơ hình ưu thế quốc gia ............................................................................................. 44
2.5.2. Mơ hình mạng lưới bên trong doanh nghiệp (DNV&N) ............................................. 47
2.5.3. Mơ hình phát triển chùm đổi mới vùng....................................................................... 49
2.5.4. Mơ hình thúc đẩy mối quan hệ công nghiệp - nghiên cứu .......................................... 53
2.6. Kết luận.............................................................................................................................. 57
CHƯƠNG III. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHÙM ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM VÀ MỘT

SỐ ĐỀ XUẤT ............................................................................................................................... 59
3.1. Tình hình nghiên cứu về chùm đổi mới ở Việt Nam ......................................................... 59
3.1.1. Khái niệm chùm và chùm đổi mới............................................................................... 59
3.1.2. Các nhân tố trong chùm đổi mới................................................................................. 61
3.1.3. Mức độ và phân tích chùm đổi mới............................................................................. 63
3.1.4. Q trình hình thành chính sách phát triển vùng (chùm đổi mới).............................. 66
3.2. Một số đề xuất.................................................................................................................... 70
3.2.1. Khái niệm chùm đổi mới ............................................................................................. 70
3.2.2. Cơng cụ phân tích chùm đổi mới ................................................................................ 70
3.2.3. Hình thành chính sách chùm đổi mới phù hợp ở Việt Nam ........................................ 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................... 75
PHỤ LỤC ..................................................................................................................................... 79

2


MỞ ĐẦU
Đổi mới không chỉ là hoạt động của riêng một doanh nghiệp. Đổi mới còn là động lực thúc
đẩy doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tri thức và cơng nghệ mới, ứng dụng các nguồn tri
thức và công nghệ mới vào sản phẩm và quá trình sản xuất. Cách tiếp cận hệ thống đổi mới
chứng minh rằng, trong quá trình cạnh tranh các doanhnghiệp đang trở nên phụ thuộc nhiều
hơn vào các nguồn tri thức từ tổ chức nghiên cứu và các cơ chế khác.
Tại nhiều nước, chùm đổi mới đang giành được sự quan tâm cùng với việc tăng trưởng kinh
tế và việc làm. Chùm đổi mới trong hoạt động kinh tế trở thành lực hút lôi cuốn cơng nghệ
mới, nhân lực có kỹ năng và đầu tư nghiên cứu. Nhóm các doanh nghiệp đổi mới trong
chùm được hình thành và hoạt động ổn định thơng qua liên kết giữa khách hàng và nhà cung
cấp. Sự hợp tác trong chùm trở thành một nhân tố đảm bảo cho sự thành công của đổi mới,
trực tiếp thúc đẩy kinh tế phát triển. Hợp tác cũng tạo ra cơ hội học hỏi, chia sẻ rủi ro và chia
sẻ chi phí nghiên cứu và phát triển (NC&PT), tạo sự linh hoạt, rút ngắn thời gian sản xuất
sản phẩm hoặc quá trình theo yêu cầu của người tiêu dùng (OECD, 1999). Vấn đề đặt ra là

thế nào là chùm đổi mới? Phải chăng cách tiếp cận chùm đổi mới có thể đưa đến các tác
động tích cực trong q trình hoạch định chính sách, vai trị của Chính phủ trong q trình
này ? Liệu rằng Việt Nam có thể học hỏi được gì qua cách tiếp cận chùm đổi mới ở các
nước?. Đề tài “Nghiên cứu chùm đổi mới: tổng quan kinh nghiệm quốc tế và bài học cho
Việt Nam” được triển khai thực hiện, nhằm phần nào làm sáng tỏ vấn đề dặt ra trên đây.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm tìm hiểu bản chất của chùm đổi mới cũng như cách
tiếp cận chùm đổi mới trong phân tích chính sách để rút ra một số gợi suy cho Việt Nam.
Giới hạn nghiên cứu của đề tài: trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu cấp cơ sở, đề tài tập
trung chủ yếu vào nghiên cứu bản chất của chùm đổi mới, các lợi ích của cách tiếp cận chùm
đổi mới trong hoạch định chính sách, các mơ hình chính sách phát triển chùm đổi mới.
Nghiên cứu một số khía cạnh trong chính sách phát triển chùm đổi mới ở một số nước trên
thế giới, rút ra một số gợi suy như cách tiếp cận chùm đổi mới, xây dựng chính sách chùm
đổi mới trong hồn cảnh Việt Nam.

3


Các câu hỏi sẽ được làm rõ trong quá trình nghiên cứu:
-

Thế nào là chùm đổi mới?

-

Tại sao lại đặt vấn đề chùm đổi mới? hay vai trò của chùm đổi mới?

-

Các chính sách hỗ trợ phát triển chùm đổi mới?


Phương pháp nghiên cứu của đề tài: để đạt được mục tiêu mong muốn và trả lời các câu hỏi
nghiên cứu đặt ra, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
-

Tổng quan và phân tích các nghiên cứu đã có cũng như thực tế của một số nước;

-

Hội thảo, trao đổi tham khảo ý kiến các nhà khoa học để làm sáng tỏ các vấn đề đặt
ra của đề tài.

Kết quả nghiên cứu được trình bày trong ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung. Chương này trình bày các cách hiểu khác nhau về chùm
và chùm đổi mới, các nhân tố hình thành chùm đổi mới, các vai trị của chùm đổi mới cũng
như các mơ hình chính sách phát triển chùm đổi mới.
Chương 2. Kinh nghiệm các nước châu Âu. Trên cơ sở khung phân tích ở chương 1, đề tài
nghiên cứu theo một số khía cạnh như cách tiếp cận chùm đổi mới, phân tích chính sách
chùm cũng như các mơ hình chính sách phát triển chùm ở các nước châu Âu.
Chương 3. Tình hình Việt Nam và một số đề xuất. Trên cơ sở nghiên cứu của chương 1 và
chương 2, đề tài phân tích tình hình Việt Nam theo một số khía cạnh như cách tiếp cận về
chùm đổi mới ở Việt Nam, phân tích chùm đổi mới trong hồn cảnh Việt Nam, các mơ hình
chính sách phát triển chùm có thể áp dụng ở Việt Nam.
Tập thể tác giả gồm: chủ nhiệm đề tài, cử nhân Nguyễn Lan Anh, cử nhân Nguyễn Minh
Hạnh, thạc sỹ Hoàng Văn Tuyên, thạc sỹ Phạm Quang Trí.

4


CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG


I. Các khái niệm
1.1. Khái niệm chùm và các cách tiếp cận chùm
Khái niệm chùm
Ngày nay, từ chùm (cluster) được sử dụng một cách rộng rãi trong các nền kinh tế. Sử dụng
chùm để nhấn mạnh một chuỗi đa dạng của các vấn đề. Trong từ điển tiếng anh, chùm là một
tập hợp các tác nhân liên kết lại với nhau trên một địa điểm bởi các mục tiêu cùng phát triển
(Collins Cobuild English Language Dictionary, 1987).
Khái niệm chùm trong kinh tế được đề cập trong nghiên cứu của Marshall (Peneder,1997).
Tác giả đã mô tả sự phát triển của những khu liên hợp công nghiệp như là sự song trùng tồn
tại của những nhân tố ngoại sinh và các nhân tố nội sinh. Nhân tố nội sinh là các doanh
nghiệp có quan hệ với nhau trong các ngành công nghiệp. Nhân tố ngoại sinh là kết quả của
ba nhân tố chính: (i) lan toả tri thức giữa các doanh nghiệp; (ii) các dịch vụ đặc biệt hỗ trợ
ngành công nghiệp; (iii) thị trường lao động với các kỹ năng đặc biệt.
Theo nghiên cứu của Andersson và đồng nghiệp (2004), thì chùm được xác định như một
quá trình liên kết của các doanh nghiệp và các tác nhân khác trên cùng một khu vực địa lý,
hợp tác để phát triển một sản phẩm, hình thành liên minh thúc đẩy cạnh tranh.
Nghiên cứu của OECD (1999) và EC (2003) cho rằng chùm tập trung vào một chuỗi các
cấu trúc kinh doanh khác nhau (chùm vượt ra khỏi ranh giới của vùng và quốc gia, chùm
năng lực, hệ thống công nghiệp hoặc sản xuất, hệ thống đổi mới) và sử dụng cho các mục
đích khác nhau (gia tăng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N), hỗ trợ hợp
tác nghiên cứu, …).
Porter (1990) xác định chùm là các nhóm doanh nghiệp gần nhau về mặt địa lý, có mối liên
hệ và thể chế liên kết đặc biệt trong cùng một lĩnh vực trên cơ sở kết hợp kỹ năng và cơng
nghệ chung. Chùm hình thành trên một khu vực địa lý có điều kiện thuận tiện về giao thông
và trao đổi các dịch vụ. Thông thường, chùm tập trung trên vùng lãnh thổ và đôi khi trong
địa phận một thành phố. Khái niệm chùm của Porter giành được nhiều sự quan tâm trong

5



hoạch định chính sách cơng nghiệp và trao đổi chính sách. Tuy vậy, các tranh luận này vẫn
chưa đi đến sự đồng thuận về định nghĩa và cách tiếp cận chùm.
Các cách tiếp cận chùm
Theo Jacobs và De Man (1995), rất khó để đưa ra cách tiếp cận chùm “chuẩn”. Tuy nhiên,
cách tiếp cận thoả đáng tuỳ thuộc vào từng mục tiêu. Tuỳ thuộc vào mục tiêu mà chúng ta
lựa chọn cách tiếp cận nào cho phù hợp với nghiên cứu hoặc hoạch định chính sách. Mỗi
cách tiếp cận tập hợp các xu hướng nhất định theo một mục tiêu nhất định.
Hộp 1. Các xu hướng về cách tiếp cận chùm (Jacobs và De Man, 1995).


Tiếp cận địa lý (sự tương tự nhau/phụ thuộc vào nhau): chùm không gian trong một mạng
lưới sản xuất hoặc trong một tập hợp các mạng lưới sản xuất;



Tiếp cận ngang (sự tương tự nhau): phân loại theo ngành ở một mức độ nào đó;



Tiếp cận dọc (sự phục thuộc vào nhau): tập hợp các chuỗi sản xuất (mạng lưới cung cấp
và mạng lưới sử dụng nguồn bên ngồi), câu hỏi quan trọng mang tính chiến lược là: ai
trong mạng lưới là nguyên nhân chính của đổi mới?



Tiếp cận một bên (sự tương tự nhau): các vùng có liên quan với năng lực được chia sẻ và
khả năng tập hợp;




Tiếp cận cơng nghệ (sự tương tự nhau): các cơng nghệ có liên quan và các đặc trưng cơng
nghệ mà có thể liên kết các ngành;



Tiếp cận tri thức (sự phụ thuộc vào nhau): quan hệ với cơ sở hạ tầng tri thức thích hợp
(giáo dục và nghiên cứu);



Chất lượng mạng lưới (sự phụ thuộc vào nhau): bản chất và chất lượng của sự hợp tác
giữa các doanh nghiệp.



Chùm địa phương/chùm vùng: Lợi thế chính của công nghiệp địa phương là các

tương tác đổi mới giữa con người: giữa các nhà cung cấp được chuyên môn hố và thị
trường lao động có kỹ năng. Vì vậy, việc hình thành chùm địa phương/chùm vùng dựa trên
các nhu cầu tương tự nhau của các tác nhân phù hợp với những điều kiện khung nhất định
của địa phương sẽ tạo ra tăng trưởng và phát triển cho địa phương/vùng.
Cách tiếp cận chùm vùng dựa vào sự tương tự nhau là một cách tiếp cận đã được Marshall
nghiên cứu từ thế kỷ 19 và được gọi là “quận công nghiệp” (Verbeek, 1999). Ngày nay,
“quận công nghiệp” vẫn được sử dụng rộng rãi, tuy nhiên cách tiếp cận này cũng thể hiện
một số điểm hạn chế: đó là sự trái ngược về quy mô giữa các chùm địa phương và các thị

6


trường tương ứng của chúng. Nó có thực sự là hữu dụng để xem xét một chùm từ quan điểm

vùng đặc biệt trong khi các nhà sử dụng có xu hướng quốc tế?


Chùm ngành: cách tiếp cận ngành dựa trên sự tương tự nhau của các nhóm ngành

cơng nghiệp, với nghĩa là hoạt động kinh tế của nhóm ngành này được quy định bởi các điều
kiện như nhau.
Khi nói đến chùm ngành, nhiều nước sử dụng khái niệm về chùm của Porter (1990, 1998)
xét theo mức độ lớn (mega-clusters). Porter đã nghiên cứu 16 chùm và chia thành 3 nhóm
cơng nghiệp (ngành công nghiệp chủ lực, các ngành chức năng và ngành cơng nghiệp hỗ trợ,
hàng hố và dịch vụ tiêu dùng) ở 4 mức độ khác nhau (hàng hoá, máy móc, nguyên vật liệu
và dịch vụ), mỗi nhóm và mức độ tuỳ thuộc vào các điều kiện khung tương tự nhau.
Sơ đồ chùm của Porter

Vật liệu

Sản phẩm
nghiệp

Kim loại
Kinh doanh

Giao
thông

Thực phẩm/đồ Dệt,may/
uống
quần áo

lâm Xăng dầu/hoá chất


Chất bán dẫn/máy Các ngành cơng
tính
nghiệp chủ lực

Năng lượng Văn phịng
(sản xuất và
phân phối

Viễn thơng

Quốc phịng

Các ngành chức
năng, và cơng
nghiệp hỗ trợ

Nhà ở, nơng Sức khoẻ
trại

Nhu cầu cá Giải trí, thư Hàng hố và dịch
nhân
giãn
vụ tiêu dùng.

Dệt, may/ quần áo
Hàng hố ban đầu
Máy móc cho sản xuất
Đầu vào
Dịch vụ tổng hợp


Cách phân loại về chùm vùng của Porter là dựa trên cơ sở lợi thế cạnh tranh của các ngành
công nghiệp. Sơ đồ chùm của mỗi quốc gia được xây dựng trên cơ sở xác định các ngành
công nghiệp thành công trong thương mại quốc tế, đánh giá cho sự thành công là dựa vào
việc xuất khẩu mạnh mẽ hoặc đầu tư trực tiếp nước ngồi. Mặt khác, cách tiếp cận này chỉ
thuần t mơ tả các mơ hình chun mơn hố các ngành cơng nghiệp của một quốc gia, mà
không chỉ rõ sự liên kết mạng lưới và bản chất các liên kết đó.

7




Chuỗi sản xuất: cho rằng các doanh nghiệp sẽ kém hiệu quả khi hoạt động riêng lẻ.

Cách tiếp cận này dựa trên sự phụ thuộc lẫn nhau. Trong chuỗi sản xuất, các hoạt động kinh
tế không giống nhau, nhưng cần các năng lực của nhau để đi đến thành công và đổi mới.
Cách tiếp cận theo chuỗi sản xuất đôi khi cịn được gọi là mạng lưới. Tồn bộ những khái
niệm về cách tiếp cận mạng lưới hoặc chuỗi có chung một nhận định rằng các doanh nghiệp
không nên hoạt động riêng lẻ. Các doanh nghiệp là một phần của tập hợp bao gồm người sử
dụng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh và các nhân tố kinh tế khác với các mối quan hệ
mạng lưới.
Ở Pháp, cách tiếp cận chuỗi sản xuất lần đầu xuất hiện trong nghiên cứu của Montfort và
Dutailly (1983) và được gọi là cách tiếp cận “chuỗi sản xuất filière” hoặc đơn giản là
“filière”. Theo cách tiếp cận này, tác giả đã tìm ra 19 “filière” ở Pháp (Hassel, 1999). Các
phân tích của Montfort đều dựa trên những yếu tố quan trọng với việc lập bảng đầu vào-đầu
ra. Montfort chia “filière” làm 3 mức độ là trên, giữa và dưới. Ví dụ nổi bật là “filière” thực
phẩm-nơng nghiệp của Pháp (hình 1).
Một số nghiên cứu ở Hà Lan cũng sử dụng cách tiếp cận “filière” của Montford. Ví dụ,
Roelandt (1986) tìm ra 6 “filière”, cịn Witteveen (1997) xác định 10 “filière”. Ưu điểm của

phương pháp này vừa xác định rõ các yếu tố chùm vừa chỉ ra các mối quan hệ giữa các nhân
tố trong chùm.
Nghiên cứu của Quatroro (2005) ở Italia nhấn mạnh mối liên kết của các doanh nghiệp trong
“filière” và các hoạt động đổi mới. Đặc biệt các doanh nghiệp trong “filière” có thể tiếp cận
nhiều hơn với tri thức để tích hợp lại trong q trình đổi mới. Ngồi ra, mối quan hệ giữa đổi
mới và quy mô của doanh nghiệp cũng là yếu tố quan trọng trong “filière”.
Vấn đề chủ yếu trong phương pháp chuỗi sản xuất hoặc “filière” là cách tiếp cận định lượng,
hay còn gọi là cách tiếp cận theo “điểm giới hạn” (cut-off point). Điểm giới hạn là điểm bắt
đầu cho các nhà cung cấp nguyên liệu trung gian: nếu việc cung cấp nguyên liệu ở phía trên
của điểm giới hạn thì liên kết đã hình thành, ngược lại nếu việc cung cấp nguyên liệu ở phía
dưới của điểm giới hạn thì liên kết chưa hình thành.
Ngồi ra, cách tiếp cận “filière” không chỉ là phương pháp mạng lưới hoặc chuỗi, ý nghĩa
đằng sau phương pháp này là nhằm kết hợp các dịng cơng nghệ, tương tác đổi mới.

8


Cơng cụ nơng nghiệp

Nghề đóng tàu

Nơng nghiệp

Chăn ni

Các loại hạt
giống

Thực phẩm
từ gia súc




Trên

Công nghiệp thực phẩm – nông
nghiệp: bảo quản, giống cây, chế
biến đồ khô, đồ uống, thức ăn đã
qua chế biến

Giữa

Buôn bán và dự trữ thực phẩm

Các nhà hàng, quán rượu

Dưới

Nguồn: Montfort, 1983; Verbeek, 1999.
Hình 1. “filière” thực phẩm – nông nghiệp của Pháp.
1.2. Khái niệm về chùm đổi mới
Thế nào là chùm đổi mới? Hiện nay khơng có một định nghĩa riêng về chùm đổi mới. Trên
thực tế, chùm đổi mới được sử dụng như các thuật ngữ là các cực công nghệ, thành phố
khoa học, vườn ươm, chùm công nghiệp, công viên khoa học, mạng lưới, hệ thống đổi mới
(Bortagaray và Tiffin, 2000). Do vậy, vấn đề quan trọng là làm sáng tỏ khái niệm cơ bản để
dẫn đến một khái niệm chung về chùm đổi mới. Hiện nay, để làm được điều đó, cần làm rõ
hai khái niệm sau: (i) sản xuất công nghiệp trong các nhóm tổ chức; (ii) tri thức, học hỏi và
trao đổi công nghệ.
9



Thứ nhất: Sản xuất cơng nghiệp trong các nhóm tổ chức.
Nhiều tài liệu đề cập đến thuật ngữ “quận công nghiệp”. Tổng hợp của Bortagaray và Tiffin
(2000) thì quận cơng nghiệp nhấn mạnh vào không gian địa lý mà ở đó các doanh nghiệp
hoạt động. Khái niệm quận cơng nghiệp nhấn mạnh vào “mơi trường văn hố của quận cơng
nghiệp”, dưới khía cạnh văn hố chung thì những mối quan hệ song phương và những “quy
tắc của việc trao đổi với nhau sẽ kết hợp với sự đồng thuận mang tính xã hội một cách phù
hợp”. Nói một cách khác, “quận công nghiệp” là mạng lưới kinh doanh địa phương trong đó
cơ cấu xã hội dựa trên việc chia sẻ những quy tắc văn hoá, giá trị và mạng lưới của những
thể chế tạo thuận lợi cho việc phổ biến tri thức và đổi mới”.
Cũng theo tổng hợp của Bortagaray và Tiffin (2000), “công viên công nghiệp” là một không
gian hình thành nên để hỗ trợ cơ sở hạ tầng với việc miễn giảm thuế để khuyến khích các
doanh nghiệp thiết lập trụ sở trong công viên. Thực tế cho thấy, công viên công nghiệp là sự
biến thái lại khái niệm gốc về “quận công nghiệp” với điểm nhấn về tầm quan trọng phải
thúc đẩy liên kết giữa các doanh nghiệp trong công viên.
Nghiên cứu của Saxenian (1994) nhấn mạnh vào giá trị những mối quan hệ mang sắc thái
của quận công nghiệp. Saxenina xem xét mối quan hệ này như “những hệ thống công nghiệp
dựa vào mạng lưới vùng”. Trong hệ thống đó, các mối quan hệ được thiết lập theo cả chiều
ngang lẫn chiều dọc giúp tăng cường năng lực cho các bên bằng chun mơn hố sản phẩm.
Một thuật ngữ khác thường được nhắc đến trong xu hướng thứ nhất này là “chùm công
nghiệp”. Chùm công nghiệp tạo ra sự phát triển quan trọng của “lan toả” đổi mới công nghệ.
Nghiên cứu của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI) đã xác định
chùm cơng nghiệp là sự quy tụ tồn bộ hoạt động của các nhóm cơng nghiệp (các doanh
nghiệp), các trường đại học và viện nghiên cứu, các tổ chức hỗ trợ công nghiệp, tổ chức điều
phối, tổ chức cấp phép công nghệ, các tổ chức NC&PT – cơng nghiệp, các nhóm chuyên gia
được liên kết với nhau trên cùng một địa điểm địa lý (METI, 2005).
Bortagaray và Tiffin (2000) đưa ra kết luận về sự đóng góp của chùm cơng nghiệp:


Ảnh hưởng tích cực mang tính hướng ngoại nhờ sử dụng lực lượng lao động có kỹ

năng của địa phương;



Liên kết kéo - đẩy, tương tác đa chiều giữa các doanh nghiệp bên trong chùm;
10




Trao đổi thông tin chuyên sâu giữa các doanh nghiệp, thể chế và các nhân tố trong
chùm nhằm thúc đẩy sáng tạo;



Hoạt động chung nhằm tạo ra sự phát triển ở địa phương;



Cơ sở hạ tầng thể chế đa dạng hỗ trợ cho các hoạt động đặc thù của chùm;



Sự đồng nhất văn hoá xã hội làm nên những giá trị chung và đặt vào trong hoàn cảnh
địa phương, tạo thuận lợi cho sự tin tưởng giữa các tác nhân trong chùm.

Như vậy, trong chùm công nghiệp, các giá trị trí tuệ được tích luỹ như cơng nghệ, bí quyết
kỹ thuật, tri thức và thông tin được truyền bá nhanh chóng, linh hoạt theo chiều ngang của
mạng lưới liên kết thông qua cơ chế cạnh tranh và hợp tác. Hai yếu tố này cho phép phản
ứng nhanh chóng đối với những thay đổi trong môi trường kinh doanh.

Thứ hai: Tri thức, học hỏi và trao đổi công nghệ
Baptista và Swann (1998) đưa ra khái niệm mới đối với chùm công nghiệp, hợp phần tri
thức chính thức “…các doanh nghiệp liên quan có trụ sở trong một khu vực địa lý, chịu ảnh
hưởng của nền khoa học quốc gia”. Nghiên cứu của Tavares (1998) nhấn mạnh vai trò của
tri thức khoa học và cơng nghệ (KH&CN) đối với loại hình tổ chức - gọi là cực công nghệ
(technopolis). Nghiên cứu của Gómos (1999) sử dụng thuật ngữ cơng viên khoa học với
nghĩa bao hàm cả cực công nghệ và chùm công nghiệp dựa vào KH&CN.
“Chùm đổi mới” là thuật ngữ được sử dụng phổ biến hiện nay và trong tương lai. Voyer
(1997) đưa ra định nghĩa về chùm đổi mới là “sự tập trung của các doanh nghiệp trong
vùng hoặc thành phố, bao gồm những nhà chế tạo, nhà cung cấp nguyên liệu và cung cấp
dịch vụ trong một hoặc nhiều khu vực cơng nghiệp. Các doanh nghiệp có sự hỗ trợ từ các
trường đại học, trường cao đẳng, viện nghiên cứu, thể chế tài chính, vườn ươm, dịch vụ kinh
doanh và hệ thống giao thông/viễn thông thuận lợi”. Voyer đưa ra một danh sách tám yếu tố
nhằm hỗ trợ cho các ngành công nghiệp khi ký kết với cơ quan chức năng địa phương về
khả năng hình thành chùm đổi mới trong cộng đồng địa phương. Những yếu tố này rất quan
trọng để nhấn mạnh những đặc trưng chính của chùm đổi mới.


Cơng nhận về tiềm năng của các ngành công nghiệp dựa vào tri thức của những nhà
lãnh đạo địa phương/vùng;



Nhận dạng tiềm năng và hỗ trợ về tri thức của vùng;
11




Ảnh hưởng lẫn nhau của thể chế địa phương;




Có định hướng kinh doanh và kinh nghiệm kinh doanh tốt;



Có sẵn nhiều nguồn vốn đầu tư;



Liên kết được đảm bảo bởi cả mạng lưới thơng tin chính thức và khơng chính thức;



Có các cơ cấu nghiên cứu và giáo dục (đây là yếu tố quan trọng nhất);



Cần có “năng lực kiên nhẫn” bền bỉ.

Bortagaray và Tiffin (2000) xác định: “chùm đổi mới là thể chế tổ chức tạo ra những doanh
nghiệp và những sản phẩm mới ở quy mô công nghiệp trong các lĩnh vực có lựa chọn, có
ranh giới địa lý xác định, là nơi tập trung cao tri thức, học hỏi lẫn nhau và chia sẻ các giá
trị xã hội”.
Các tài liệu về “hệ thống đổi mới quốc gia” đều coi tri thức và học hỏi trong bối cảnh đổi
mới đa dạng là mối quan tâm hàng đầu. Lý do quan trọng làm tăng sự quan tâm đối với hệ
thống đổi mới quốc gia là xu hướng kinh tế (thường được gọi là “khối chủ nghĩa tư bản”)
cùng với tồn cầu hố và tự do hố đã tạo nên sự xung đột giữa các quan hệ trong hệ thống
quốc tế và những liên minh chiến lược (Dunning, 1997). Đổi mới là một quá trình học hỏi

lẫn nhau, trao đổi tri thức là sự hợp tác và tương tác đã và đang diễn ra giữa các tác nhân
trong mạng lưới sản phẩm hoặc chuỗi giá trị (OECD, 1997). Dưới khía cạnh đổi mới, cách
tiếp cận chuỗi giá trị/mạng lưới sản phẩm là phù hợp với cách tiếp cận chùm (Verbeek,
1999).
Lunvall (1994) nhấn mạnh rằng chùm đổi mới đặc trưng bởi q trình học hỏi tương tác và
hoạt động có lựa chọn. Theo quan điểm này, Porter (1990) đã định nghĩa chùm đổi mới với
việc tập trung vào “sự sẵn sàng để hợp tác” và “những liên kết văn hoá xã hội ràng buộc
chặt chẽ”.
Những phân tích trên cho thấy có thể khái quát hoá về chùm đổi mới như một loại hình
đặc biệt của chùm, trong đó nhân tố nịng cốt là các doanh nghiệp sử dụng nhiều công nghệ
hoặc tri thức, đồng thời tri thức KH&CN quy định sự phát triển sản phẩm mới và doanh
nghiệp mới. Chùm đổi mới khá tương hợp với khái niệm về hệ thống đổi mới địa phương,
ngoại trừ việc nhấn mạnh vào doanh nghiệp hơn là công nghệ. Chùm đổi mới là các cấu trúc
địa phương tập trung vào những cộng đồng có thể xác định về mặt địa lý, tương phản với
12


khu vực hoặc mạng lưới, chùm đổi mới có thể trải rộng khắp quốc gia. Chùm đổi mới nên
được xem xét cùng với cơng viên khoa học, trong đó có những cấu trúc hành chính được hỗ
trợ để thúc đẩy sự phát triển.
Từ những kiến giải trên, đề tài đề xuất khái niệm về chùm đổi mới như sau: chùm đổi mới
được hiểu là mạng lưới các doanh nghiệp, các cơ quan tạo tri thức (trường đại học, viện
nghiên cứu và các công ty engineering), các cơ cấu cầu nối (môi giới, tư vấn) và khách
hàng liên kết với nhau. Chùm đổi mới tập trung vào những liên kết và sự độc lập giữa
các nhân tố trong mạng lưới sản phẩm khi sản xuất sản phẩm và dịch vụ cũng như tạo ra
những đổi mới. Nói một cách khác, chùm được xem xét như một phần quan trọng của hệ
thống đổi mới quốc gia.
1.3. Các nhân tố trong chùm đổi mới



Doanh nghiệp đổi mới ở trung tâm của chùm, đổi mới là một phần của chiến lược

hoạt động và chiến lược sản phẩm nói chung của doanh nghiệp. Doanh nghiệp đổi mới thực
hiện quá trình đổi mới và phân chia chức năng giữa các cơ cấu thành phần.


Nhà cung cấp nguyên vật liệu là các đối tác trong chùm rất quan trọng. Thông

thường việc đổi mới trong các doanh nghiệp cung cấp đòi hỏi đầu vào từ các doanh nghiệp
khác dưới hình thức nguyên vật liệu mới hoặc những thay đổi trong sản phẩm trung gian.
Đôi khi các doanh nghiệp này cũng thúc đẩy đổi mới. Chẳng hạn, việc cung cấp nguyên vật
liệu mới có thể dẫn đến sự thay đổi trong các bộ phận hợp thành của sản phẩm cuối cùng.


Tổ chức NC&PT chia thành 2 nhóm: (i) các viện nghiên cứu chuyên về lĩnh vực của

chùm; (ii) các viện nghiên cứu không liên quan đến lĩnh vực của chùm nhưng thực hiện một
số lĩnh vực cơng nghệ có liên quan. Các tổ chức thuộc nhóm thứ nhất đảm nhận toàn bộ tri
thức để xây dựng và hoàn thiện sản phẩm trong chùm. Các tổ chức này liên kết chặt chẽ với
các trường đại học thông qua hợp đồng NC&PT, sử dụng chung thiết bị, cán bộ với trường
đại học. Nhóm thứ hai, cung cấp tri thức thích hợp cho nhiều ngành công nghiệp khác nhau,
nhưng chỉ đáp ứng một phần tri thức theo nhu cầu của một ngành cơng nghiệp cụ thể trong
chùm. Nói một cách khác, nhóm thứ hai có vai trị quan trọng trong chuyển giao tri thức cho
nhiều lĩnh vực công nghiệp khác nhau.

13





Dịch vụ kinh doanh thâm dụng tri thức (DVKDTT) bao gồm các công ty thiết kế,

công ty tư vấn kỹ thuật, … các DVKDTT có ý nghĩa đối với các hoạt động NC&PT và hoạt
động đổi mới của doanh nghiệp đổi mới (Rentmeister, B., 1999).

tổ chức
NC&PT
(trường ĐH)
tổ chức
NC&PT

Các tổ chức
hỗ trợ

Chính quyền
địa phương

NC&PT/
DVKDTT

DN đổi
mới

Chính quyền
địa phương

DN đổi
mới

Các tổ

chức hỗ trợ

Dịch vụ
kinh doanh

Nhà cung
cấp
DVKDTT
Khách hàng

Hình 2. Hình ảnh chùm đổi mới (Preissl, 2000).



Dịch vụ kinh doanh: dịch vụ khơng có các nhân tố hỗ trợ trực tiếp mà chỉ có các

nhân tố hỗ trợ gián tiếp cho quá trình đổi mới (thuế, ngân hàng, luật pháp, tiếp thị, …).


Trường đại học: các nghiên cứu viên trong trường chuyên về một lĩnh vực nhỏ của

chùm hoặc các lĩnh vực khác có liên quan, họ liên kết với doanh nghiệp đổi mới thông qua
hợp đồng nghiên cứu giữa các nghiên cứu viên/giáo viên trong trường và các kỹ sư của
doanh nghiệp.


Chính quyền thực hiện chức năng như các nhà tài trợ cho thực hiện NC&PT, chuyển

giao công nghệ (CGCN) cũng như việc thúc đẩy hoạt động đổi mới. Hình thành các chương
14



trình NC&PT, chương trình cơng nghệ nhằm khuyến khích nghiên cứu và hỗ trợ thay đổi cơ
cấu và cơng nghệ.


Các tổ chức hỗ trợ (hiệp hội, uỷ ban, văn phòng quản lý dự án, tổ chức cấp phép

cơng nghệ,…). Có hai loại tổ chức hỗ trợ: (i) nếu các tổ chức hỗ trợ là các tổ chức nhà nước
thì chức năng chính sẽ là phổ biến thơng tin và đáp ứng những địi hỏi nhằm thực hiện mục
tiêu chính sách từ hệ thống chính trị đến hệ thống kinh tế; (i) nếu tổ chức hỗ trợ là tổ chức tư
nhân thì chức năng chính sẽ là phục vụ những quan tâm của doanh nghiệp về các các vấn đề
liên quan đến chính sách, mơi trường, v.v…


Khách hàng thường chia sẻ ý tưởng đổi mới với các doanh nghiệp đổi mới. Khách

hàng không chỉ đưa ra xu hướng của đổi mới mà cịn có một vai trị tích cực trong việc xác
định năng lực đổi mới của doanh nghiệp đổi mới.
1.4. Đổi mới và hợp tác trong chùm đổi mới
Trong nghiên cứu của mình, Baptisa và Swann (1998) chứng minh rằng các doanh nghiệp
hoạt động trong chùm sẽ đổi mới nhiều hơn các doanh nghiệp ở bên ngoài chùm.
Đổi mới trong chùm là kết quả của sự tương tác giữa các nhóm nhân tố. Sự thay đổi trong
mỗi một mơ hình sản xuất trong một ngành cơng nghiệp có tác động lớn tới cơ chế tương tác
trong chùm. Trong một số nhóm, nhân tố trong nước như các nhà cung cấp nguyên vật liệu
hoặc DVKDTT sẽ bị thay thế bởi các nhân tố nước ngoài (Preissl, 2000).
Các trường đại học khuyến khích phát triển doanh nghiệp spin-off nhờ việc sử dụng khơng
gian văn phịng và trang thiết bị th từ bên ngoài để tiến hành các hoạt động đổi mới, trên
cơ sở đó thắt chặt liên kết giữa hoạt động nghiên cứu và công nghiệp. Trong khi các doanh
nghiệp thiết kế thơng thường phải tiến hành tích hợp các hoạt động nghiên cứu và giảng dạy

để thích nghi với thực tế cơng nghiệp.
Hình ảnh chùm sẽ thay đổi với sự tiến triển của công nghệ: các công nghệ mới, vật liệu mới
và các thiết kế phức tạp hơn làm xuất hiện các nhân tố mới như tổ chức NC&PT và
DVKDTT đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin, chế tạo các vật liệu, hoặc các doanh
nghiệp, tổ chức NC&PT có kinh nghiệm trong phát triển và sản xuất các sản phẩm đạt chất
lượng đáp ứng đòi hỏi của các tác nhân trong chùm. Do vậy, chùm không phải là một tập
hợp các nhân tố ổn định nhưng chùm chính là một công cụ phản ánh động lực công nghệ và
sự thay đổi cấu trúc trong một ngành công nghiệp. Chùm có thể thay đổi theo bất kỳ quyết
15


định mang tính chiến lược do các tác nhân trong chùm tạo ra. Nói cách khác, hoạt động của
chùm phụ thuộc vào những mối quan hệ được thiết lập giữa các thành viên trong chùm và có
quá nhiều sự thay đổi bất thường có thể tạo ra sự sai lệch đối với chức năng của chùm.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hơn là những thay đổi trong sự tương tác giữa các nhân tố
trong chùm. Chùm là quá trình hình thành một sự phân cơng lao động mới, trong đó không
chỉ các hoạt động quen thuộc được giao cho các nhà cung cấp DVKDTT bên ngoài, các tổ
chức NC&PT hoặc các nhà cung cấp nguyên vật liệu mà còn các hoạt động bắt chước mẫu
mã/kiểu dáng và các NC&PT phức tạp hơn. Sự cạnh tranh giữa chính các tổ chức NC&PT,
giữa các tổ chức NC&PT và DVKDTT gia tăng theo sự suy giảm của các hỗ trợ từ chính
phủ đối với tổ chức NC&PT.
Có một số yếu tố củng cố cho lập luận rằng, sự hợp tác sẽ trở thành quan trọng hơn trong
chùm đổi mới. Vòng đời đổi mới nhanh chóng dẫn đến những khó khăn cho một nhân tố để
thiết lập nên toàn bộ năng lực cần thiết trong các dự án đổi mới. Thực tế, sự cần thiết đối với
hợp tác đã được xác nhận từ chính các nhà cung cấp nguyên vật liệu cũng như tổ chức
NC&PT và các nhân tố khác trong chùm.
Mặc dù vậy, cũng có sự miễn cưỡng đáng kể đối với hợp tác trong một số trường hợp và
hợp tác có thể đưa đến các hình thức khác so với các hình thức truyền thống tại một số nước.
Các doanh nghiệp nhỏ e ngại đối với hợp tác vì một số lý do như sau (i) họ có ít kinh
nghiệm trong hợp tác; (ii) họ lo ngại việc chảy máu trí tuệ vì các đối tác nhỏ hơn khơng thể

có khả năng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của họ; (iii) họ có q ít NC&PT có thể tạo thuận
lợi cho việc hấp thu tri thức bên ngoài, do vậy, họ không nhận thức được những thuận lợi
trong hợp tác (Rocha, F., 1999).
Tổng hợp của Preissl (2000) dựa trên nghiên cứu của Perter và Becker (1999) cho thấy có
năm hình thức hợp tác trong đổi mới. Cách phân loại ở đây chỉ mang tính tương đối, các
kiểu hợp tác khơng loại trừ nhau, một số doanh nghiệp sử dụng cả năm kiểu hợp tác, còn
một số doanh nghiệp lại tập trung vào một hoặc hai kiểu hợp tác.

16


Hộp 2. Các hình thức hợp tác trong đổi mới.

Kiểu 1: Các nhà sản xuất đặt làm các dự án NC&PT cho tổ chức NC&PT, tổ chức NC&PT tiến
hành nghiên cứu như một nhà thầu khoán.
Tri thức được “bán” và “trả giá”. Do vậy nền tảng tri thức được tăng cường cho cả 2 bên.
Kiểu 2: Các nhà sản xuất liên kết với nhau để trở thành một nhà cung cấp có hệ thống.
Cùng nghiên cứu đã phản ánh hầu hết những vấn đề chung giữa các bên.
Học hỏi thông qua việc xác định chính xác những vấn đề và thông qua phát triển sản phẩm trong mỗi
nhà sản xuất.
Pa-tăng được chia sẻ đến toàn bộ các đối tác.
Hợp tác phải là chủ đạo.
Kiểu 3: Các nhà sản xuất hợp tác với chính những người cung cấp vật liệu cho họ trong việc phát
triển những sản phẩm mới, trong đó các sản phẩm mới đòi hỏi mức độ nhất định của vật liệu hoặc
các hợp phần cấu thành sản phẩm có sự đổi mới.
Tri thức tạo ra cho cả hai bên. Học hỏi thơng qua việc xác định chính xác những địi hỏi sản phẩm và
thơng qua phát triển sản phẩm trong mỗi đối tác (công ty/hãng/doanh nghiệp)
Pa tăng được chia sẻ đến toàn bộ các đối tác.
Hợp tác phải là chủ đạo.
Kiểu 4: Các nhà sản xuất và tổ chức NC&PT làm việc trong cùng một dự án (có thể với NC&PT

công hoặc hỗ trợ đổi mới.
Chuyển giao tri thức cho cả hai bên đối tác.
Các quyền trong nghiên cứu phải được đàm phám.
Kiểu 5: Những thoả thuận hợp tác chặt chẽ giữa các nhà sản xuất và trường đại học
Chuyển giao tri thức trên nhiều phương diện giữa các đối tác.
Các nhà sản xuất sử dụng sự hợp tác để tuyển dụng những người có chất lượng và là người tin cậy
đối với công việc.
Di chuyển cán bộ giữa các doanh nghiệp các trường đại học.

1.5. Chùm đổi mới và hệ thống đổi mới quốc gia
1.5.1. Hệ thống đổi mới quốc gia
Mạng lưới và sự phụ thuộc lẫn nhau
Lý thuyết và thực tế chứng minh rằng, sự tương tác giữa các nhân tố khác nhau trong quá
trình đổi mới là quan trọng cho đổi mới thành công (Morgan, 1997; Lagendjik và Charles,
1999). Thực tế đổi mới chứng minh rằng, hầu hết các doanh nghiệp chưa bao giờ đổi mới
đơn lẻ (DeBresson, 1996). Để đổi mới thành công, các doanh nghiệp buộc phải phụ thuộc
17


vào tri thức và kỹ năng bổ sung từ các doanh nghiệp và các tổ chức khác hơn là của chính
mình. Đổi mới khơng phải là hoạt động của một doanh nghiệp, đúng hơn hoạt động đổi mới
đòi hỏi một quá trình tìm kiếm hợp tác để tiếp cận với những nguồn mới về tri thức, công
nghệ và áp dụng nguồn tri thức mới này vào sản phẩm và quá trình sản xuất. Cạnh tranh của
một doanh nghiệp trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào chính khả năng của doanh nghiệp để áp
dụng tri thức và công nghệ mới vào sản phẩm và quá trình sản xuất. Doanh nghiệp phát triển
chiến lược phù hợp với sự phụ thuộc đang gia tăng của doanh nghiệp vào môi trường (cấu
trúc tổ chức linh hoạt hơn), sự kết hợp của nhiều liên kết trong chuỗi sản phẩm thông qua
các liên minh chiến lược, đầu tư mạo hiểm và tổ hợp (consortia). Mục tiêu chính của hầu hết
các liên minh chiến lược là giành được tri thức mới, tri thức bổ sung và đẩy mạnh q trình
học hỏi.

Đặc trưng hệ thống
Nhân tố chính thứ hai của cách tiếp cận hệ thống đổi mới quốc gia là đặc trưng hệ thống của
hệ thống đổi mới quốc gia. Đổi mới là kết quả của sự tương tác phức tạp giữa các nhân tố và
các thể chế. Các nhân tố, thể chế và các mối quan hệ kết hợp lại tạo thành hệ thống các nhân
tố độc lập. Điều này chứng minh rằng, không chỉ các nhân tố mà cả các thể chế có vai trị
quan trọng trong đổi mới. Các thể chế có thể được giải thích như các trường đại học, viện
nghiên cứu, tổ chức tài chính hoặc tất cả các tổ chức mơi giới trong q trình đổi mới. Các
thể chế cũng có thể được giải thích gồm các “hành vi” mà đã phản ánh trong các quy phạm,
quy tắc, luật pháp, v.v…
Đặc trưng hệ thống của khái niệm hệ thống đổi mới quốc gia được hiểu như cơng cụ sử dụng
hữu ích đối với việc hiểu biết về các động lực đổi mới. Cách tiếp cận hệ thống đổi mới quốc
gia ngày càng được các nhà hoạch định chính sách sử dụng như một khn khổ chung đối
với việc hoạch định chính sách đổi mới, chính sách cơng nghiệp. Tuy nhiên, các doanh
nghiệp, tổ chức và thể chế cũng như sự tương tác giữa các nhân tố này là khác nhau ở các
nước.
Quá trình tồn cầu hố làm gia tăng mức độ của sự chun mơn hố bên trong các ngành,
thậm chí các ngành trong các nước khác nhau có sự chun mơn hoá xung quanh nền tảng
tri thức và các lợi thế cạnh tranh quốc gia. Quốc tế hố có vai trị đối với việc tăng cường sự
chun mơn hố bên trong quốc gia và làm cho sự phân chia lao động quốc tế sâu sắc hơn.
Các nhân tố đặc biệt quốc gia về cạnh tranh dựa vào đổi mới trở thành quan trọng hơn, mang
18


tầm quốc tế đối với các mạng lưới sản xuất. Sự khác nhau trong tập hợp thể chế mang tính
lịch sử giải thích cho những con đường phát triển và sự cần thiết đổi mới của mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, hệ thống đổi mới và mạng lưới hoạt động ở các mức độ địa lý khác nhau (quốc
gia, vùng, địa phương) hoặc phù hợp với các ngành công nghiệp, công nghệ hoặc các chùm
nhất định.
Hệ thống đổi mới quốc gia có thể mơ tả như là tập hợp các thể chế (bao gồm cả chùm) với
cơ cấu của nền kinh tế quốc gia mà xác định các hoạt động đổi mới của nền kinh tế đó. Lý

thuyết này tập trung vào sự phổ biến công nghệ, tri thức và các kỹ năng thông qua sự tương
tác giữa các nhân tố trong hệ thống (Freeman, 1987). Với cách hiểu như trên, khi sự tương
tác đổi mới vượt ra ngoài biên giới của chùm thì khái niệm chùm đổi mới sẽ trở thành khái
niệm hệ thống đổi mới quốc gia.
Điều cần nhấn mạnh ở đây đó là mối quan hệ giữa khái niệm hệ thống đổi mới quốc gia và
chùm đổi mới xuất phát từ lý thuyết đổi mới tương tác và được gọi là “giả thuyết sự phụ
thuộc vào nhau của đổi mới”. Khái niệm này do Roelandt và Den Hertog (1998) khởi xướng
và sử dụng, tác giả cho rằng các đổi mới có xu hướng chùm lại trong các mạng lưới kinh tế
ở một mức độ cao của liên kết cụng ngh v kinh t qua li.
Tính đổi mới

Số các liên kết qua lại

Hỡnh 3. Gi thuyt s phc thuc lẫn nhau của đổi mới (Verbeek, 1999).

1.5.2. Chùm đổi mới trong hệ thống đổi mới quốc gia
Chùm đổi mới có thể được xem xét như hệ thống đổi mới ở mức độ nhỏ (OECD, 1999). Các
động lực, các đặc trưng hệ thống và sự phụ thuộc lẫn nhau trong chùm đổi mới là tương tự
đối với những động lực, đặc trưng hệ thống và sự phụ lẫn nhau của hệ thống đổi mới quốc
19


gia. Cách tiếp cận chùm đổi mới đưa đến một số thuận lợi hơn so với viễn cảnh ngành
truyền thống trong phân tích đổi mới và mạng lưới đổi mới. Những thuận lợi này không bị
hạn chế đối với phân tích q trình đổi mới, mà cịn mở rộng hoạch định chính sách đổi mới.
Chính sách dựa vào chùm nhằm để khắc phục sự khơng hồn hảo của hệ thống đổi mới
(khơng hồn hảo hệ thống) bằng việc tạo thuận lợi cho các chức năng hoạt động một cách có
hiệu quả của hệ thống đổi mới (Roelandt và Den Hertog, 1999).
Chùm đổi mới có vai trị nhất định trong hệ thống đổi mới quốc gia. Chùm đổi mới có thể
được xác định như mạng lưới liên kết của các doanh nghiệp độc lập, thể chế sản xuất tri thức

(trường đại học, viện nghiên cứu, các doanh nghiệp cung cấp công nghệ), thể chế cầu nối
(dịch vụ mở rộng công nghệ) và các khách hàng được liên kết theo chiều ngang và dọc trong
chuỗi sản phẩm có giá trị, cùng hợp tác trong phát triển và sử dụng các hàng hoá nhà nước
đặc biệt dựa vào cơ sở hạ tầng tri thức, cơ sở hạ tầng vật chất chung (OECD, 2004). Hình
dưới đây thể hiện vai trị của chùm đổi mới trong hệ thống đổi mới quốc gia.

20


Khung thể chế và
kinh tế vĩ mô
Hệ thống giáo dục
và đào tạo

Cơ sở hạ tầng
thơng tin
Mạng đổi mới tồn cầu

D/nghiệp & mạng
lưới các d/nghiệp
Các tổ chức
nghiên cứu

Hệ thống
khoa học
Các thể chế
hỗ trợ

Chùmđổi mới


Hệ thống đổi mới vùng

Tạo ra, truyền bá và sử dụng tri thức

Hệ thống đổi mới quốc gia

Thị trường sản
phẩm

Năng lực đổi mới quốc gia

Các nhân tố thị
trường

Tác động kinh tế
Tăng trưởng, tạo việc làm, cạnh tranh

Hình 4. Chùm đổi mới và hệ thống đổi mới quốc gia (OECD, 2004).

II. Vai trị của chùm đổi mới và chính sách chùm đổi mới
2.1. Các lợi ích từ cách tiếp cận chùm đổi mới
2.1.1. Sự khác nhau giữa cách tiếp cận chùm đổi mới và ngành (truyền thống)
Tiếp cận chùm đổi mới tập trung vào các liên kết và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nhân tố
trong chuỗi giá trị khi sản xuất sản phẩm, dịch vụ và quy trình. Khái niệm chùm đổi mới
vượt ra ngồi phạm vi khái niệm mạng lưới theo chiều ngang “đơn giản” của doanh nghiệp
hoạt động trên cùng một thị trường sản phẩm, một nhóm ngành cơng nghiệp, hợp tác trên
nhiều phương diện khác nhau (NC&PT, chương trình trình diễn kỹ thuật, tiếp thị, …). Chùm
21



đổi mới là mạng lưới giữa các ngành (theo chiều dọc và ngang) và các doanh nghiệp hỗ trợ,
các doanh nghiệp chun mơn hố xung quanh một liên kết đặc thù hay dựa vào cơ sở tri
thức trong chuỗi giá trị.
Với việc chuyên sâu vào ngành hoặc lĩnh vực, cách tiếp cận ngành không xem xét đến tầm
quan trọng của sự gắn kết và các luồng tri thức trong một mạng lưới sản xuất. So sánh với
cách tiếp cận ngành (tập trung vào các nhóm doanh nghiệp giống nhau với vị trí mạng lưới
giống nhau), cách tiếp cận chùm đưa ra phương pháp mới khi xem xét nền kinh tế phù hợp
với lý thuyết đổi mới và sự phát triển của thị trường.
Cách tiếp cận ngành tập trung vào những mối quan hệ theo chiều ngang và sự phụ thuộc lẫn
nhau mang tính cạnh tranh (quan hệ giữa các đối thủ cạnh tranh trực tiếp với các hoạt động
tương tự và hoạt động trong các thị trường sản phẩm như nhau), trong khi đó cách tiếp cận
chùm tập trung nhiều hơn ở tầm quan trọng của các liên kết dọc giữa các doanh nghiệp
không giống nhau và phụ thuộc lẫn nhau có tính “cộng sinh” trong chuỗi giá trị. Mặc dù đổi
mới nhằm khuyến khích sự cạnh tranh theo chiều ngang giữa các đối thủ cạnh tranh hoạt
động trong thị trường sản phẩm như nhau thì các quan hệ theo chiều dọc giữa các nhà cung
cấp, nhà sản xuất và nhà sử dụng chính cũng là quan trọng cho tạo ra đổi mới.
Bảng 1. So sánh sự khác nhau giữa cách tiếp cận ngành và cách tiếp cận chùm.
Cách tiếp cận ngành

Cách tiếp cận chùm

Các nhóm với vị trí mạng lưới giống nhau

Các nhóm chiến lược với hầu hết các vị trí mạng lưới
khơng giống nhau và bổ sung cho nhau

Tập trung vào sản phẩm cuối cùng

Bao gồm khách hàng, nhà cung cấp, dịch vụ và các
thể chế đặc biệt


Tập trung vào đối tác cạnh tranh trực tiếp Hợp nhất sự dàn trải của các ngành liên quan đến
và gián tiếp
nhau, chia sẻ công nghệ, kỹ năng, thông tin, đầu vào,
khách hàng và kênh phân phối
Không nhất quyết để hợp tác với các đối Hầu hết các đối tác không phải là đối thủ cạnh tranh
thủ cạnh tranh
trực tiếp mà là những người chia sẻ những hạn chế và
nhu cầu chung
Đối thoại với nhà nước thường hướng về - Có phạm vi rộng trong việc thúc đẩy các khu vực
sự tài trợ, bảo vệ quyền lợi và hạn chế liên quan chung nhằm tăng năng suất và khả năng
cạnh tranh
cạnh tranh
- Có diễn đàn cho sự đối thoại giữa doanh nghiệp và
nhà nước một cách hiệu quả và mang tính chất xây
dựng hơn
Tìm kiến sự đa dạng trong quỹ đạo đang Tìm kiếm sự hiệp lực và hợp tác mới
tồn tại
22


Trong thực tế việc khuyến khích hình thành chùm là khác nhau. Về mặt nguyên lý, các
khuyến khích cho việc thiết lập chùm như sau: (i) giành được sự tiếp nhận đối với công nghệ
mới và công nghệ hỗ trợ; (ii) giành được lợi ích của sự hợp lực hoặc lợi ích của các hoạt
động phụ thuộc lẫn nhau; (iii) chia sẻ rủi ro; (iv) thúc đẩy nỗ lực hợp tác NC&PT với các
nhà cung cấp và người sử dụng; (v) chiến lược bảo vệ để giảm cạnh tranh; (vi) giành được
lợi nhuận từ việc sử dụng tổng hợp các tài sản và tri thức bổ sung; (vii) khắc phục những rào
cản đầu vào thị trường.
2.1.2. Phân tích chùm đổi mới như cơng cụ phân tích chính sách


C
A
Mức độ lớn (mega-level)

B

Á
A
Mức độ trung bình (meso-level)

Á

Mức độ nhỏ (micro-level)

Nguồn: Boekholt, P. và Thuriaux, B., 1999.
Hình 5. Mức độ tích hợp của chùm.

Chính sách chùm đổi mới sẽ tập trung vào mức độ tích hợp của chùm: mức độ lớn, mức độ
trung bình hoặc mức độ nhỏ. Mỗi mức độ địi hỏi cách tiếp cận khác nhau và sử dụng các
công cụ chính sách khác nhau. Hình thức trung gian của cơng cụ chính sách hỗ trợ hoạt động
ở mức độ nhỏ, sự phát triển của các điều kiện đặc biệt như việc hình thành các trung tâm
23


cơng nghệ sẽ tập trung ở mức độ trung bình, cịn những quy định đang thay đổi đối với các
nhóm sản phẩm nhất định sẽ ảnh hưởng ở mức độ lớn.
Do vậy, phân tích chùm cũng dựa vào các mức độ tích hợp chùm. Ở mức độ nhỏ sẽ tập
trung vào những liên kết giữa các doanh nghiệp, ở mức độ trung bình sẽ tập trung vào những
liên kết ngành công nghiệp trong chuỗi sản xuất và ở mức độ lớn sẽ tập trung vào trả lời câu
hỏi làm thể nào để các nhóm cơng nghiệp xây dựng cấu trúc kinh tế rộng hơn. Việc phân

tích chùm vùng thường dựa trên sức mạnh của địa phương như cơ sở hạ tầng tri thức, điều
kiện địa lý thuận lợi cho giao thơng hoặc có doanh nghiệp đổi mới nịng cốt.
Các kỹ thuật phân tích chùm thường được sử dụng: bảng đầu vào - đầu ra, ma trận tương tác
đổi mới, biểu đồ, nghiên cứu trường hợp, v.v… tuỳ thuộc vào phương pháp điều tra và thiết
kế phiếu hỏi cũng như các câu trả lời nhận được sau quá trình điều tra. Với việc phân tích
chùm cho phép chúng ta tìm ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp.
Theo Porter (1990), phân tích chùm giúp chúng ta hiểu biết tốt hơn về các tương tác giữa
các hợp phần khác nhau của nền kinh tế, thấy rõ sự khơng hồn hảo của thị trường và thất
bại hệ thống, đồng thời giúp chúng ta xác định các khu vực chính sách của chính phủ tác
động đến.
2.1.3. Vai trị đang thay đổi của chính phủ: những nguyên lý chính sách
Năng lực của doanh nghiệp để đổi mới thành công phụ thuộc nhiều vào khả năng của doanh
nghiệp trong việc tiếp nhận tri thức bổ sung thông qua sự tham gia trong các mạng lưới sản
xuất. Các doanh nghiệp mong muốn đổi mới phải tương tác và trao đổi tri thức với khách
hàng, đối thủ cạnh tranh và nhà cung cấp vật liệu, dịch vụ và các yếu tố khác. Sự xuất hiện
của chùm hướng đến quá trình “thuyết phục thị trường” với sự can thiệp của chính phủ ít
hơn. Tại sao chính phủ nên có vai trị trong việc tăng cường hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho
sự xuất hiện của các chùm đổi mới? Thực tế cho thấy có bốn lý do giải thích cho vai trị của
chính phủ như sau:
Thứ nhất, việc hình thành các liên minh và sự kết hợp của nhiều loại kỹ năng trong chuỗi
sản xuất đã diễn ra trên thị trường. Với lý do này, nhiệm vụ cơ bản của chính phủ là tạo
thuận lợi cho sự vận hành một cách năng động của thị trường và đảm bảo rằng sự hợp tác
không dẫn đến hành vi thông đồng làm cản trở sự cạnh tranh.

24


Lý do thứ hai về việc can thiệp của chính phủ là những vấn đề bên ngoài phù hợp với đầu tư
cho NC&PT và tạo ra tri thức. Vấn đề tranh luận ở đây là chừng nào tỷ lệ đầu tư của xã hội
vào NC&PT và tạo ra tri thức lớn hơn tỷ lệ tư nhân đầu tư cho NC&PT, thì đầu tư nên được

tạo điều kiện thuận lợi bởi vì nó đã đầu tư đủ cho những địi hỏi của NC&PT. Trong trường
hợp ngược lại, nếu tỷ lệ đầu tư của xã hội cho NC&PT nhỏ hơn tỷ lệ đầu tư của tư nhân cho
NC&PT thì tỷ lệ đầu tư của xã hội cho NC&PT khơng đạt ngưỡng địi hỏi của NC&PT.
Khuyến khích hợp tác giữa các doanh nghiệp và cơ sở hạ tầng NC&PT nhà nước (trường đại
học, viện nghiên cứu) có thể gia tăng tỷ lệ xã hội đầu tư vào NC&PT. Nhiều doanh nghiệp
có thể được lợi từ các nỗ lực NC&PT nhà nước như tăng tiềm năng trong phổ biến tri thức,
đặc biệt DNV&N. Trong hầu hết các nước, DNV&N khơng có khả năng giữ được các lợi
ích của những liên kết bên ngồi và chia sẻ tri thức. Nhiều DNV&N không nhận thức được
các cơ hội phát sinh từ hợp tác với doanh nghiệp và các thể chế tri thức khác.
Lý do thứ ba về sự can thiệp của chính phủ trong lĩnh vực đổi mới và tổ chức công nghiệp là
một lý do mang tính truyền thống. Thực tế, chính phủ có vai trị quan trọng trong thị trường.
Trong nhiều nước, chính sách công nghệ đã được xem xét trong tập hợp các chính sách khác
nhau của chính phủ với quan điểm để tăng cường đổi mới, với ý tưởng rằng nhu cầu của
khách hàng có khả năng để “thúc đẩy thơng qua” đổi mới và nếu khơng có nhu cầu của
khách hàng thì đổi mới sẽ khơng xẩy ra. Do vậy, mục tiêu của chính sách đổi mới của chính
phủ khơng phải để hỗ trợ các ngành công nghiệp quốc gia mà đúng hơn là để tạo động lực
cho các doanh nghiệp/nhóm doanh nghiệp tiến hành và thực hiện các giải pháp đổi mới.
Sự cạnh tranh trong hệ thống đổi mới của một quốc gia phụ thuộc vào sự kết hợp của các
tương tác giữa các nhân tố trong quá trình đổi mới. Lý do đối với chính sách kinh tế xuất
phát trực tiếp từ cách tiếp cận hệ thống đổi mới, xem xét đến việc khắc phục sự khơng hồn
hảo của hệ thống mà gây cản trở việc thực hiện cho các kết hợp. Sự khơng hồn hảo của hệ
thống có thể là kết quả từ việc thiếu thông tin mang tính chiến lược (phát triển thị trường
cũng như sự cần thiết hỗ trợ của chính phủ), sự trì trệ trong thảo luận và hợp tác giữa rất
nhiều loại nhân tố, hoặc là những vấn đề bên ngồi mơi trường và tri thức. Trách nhiệm
chính sách đối với sự khơng hồn hảo hệ thống bao gồm những vấn đề như sau:
-

Thiết lập mơi trường chính trị và kinh tế có thể dự báo và ổn định.

-


Tạo ra các điều kiện khung ủng hộ đối với sự vận hành năng động và hiệu quả của
các thị trường tự do, khắc phục sự khơng hồn hảo của thị trường.
25


×