Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Nghiên cứu đề xuất cơ chế huy động vốn đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ cho ngành cơ khí và phương án đầu tư cho việc nghiên cứu và phát triển (r&d) phù hợp với các quy định của WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.42 MB, 122 trang )


BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CƠ KHÍ






BÁO CÁO KẾT QUẢ
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
CẤP BỘ NĂM 2008



Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT CƠ CHẾ HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ
CHIỀU SÂU, ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ CHO NGÀNH CƠ KHÍ
VÀ PHƯƠNG ÁN ĐẦU TƯ
CHO VIỆC NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN (R & D)
PHÙ HỢP VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA WTO
Kí hiệu: 259- 08RD/HĐ-KHCN


Cơ quan chủ trì đề tài: Viện Nghiên cứu Cơ khí
Chủ nhiệm đề tài: TS. Đào Duy Trung









7329
04/5/2009

Hà Nội – 12/2008



BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CƠ KHÍ






BÁO CÁO KẾT QUẢ
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
CẤP BỘ NĂM 2008




Tên đề tài:

NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT CƠ CHẾ HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ
CHIỀU SÂU, ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ CHO NGÀNH CƠ KHÍ
VÀ PHƯƠNG ÁN ĐẦU TƯ

CHO VIỆC NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN (R & D)
PHÙ HỢP VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA WTO
Kí hiệu: 259- 08RD/HĐ-KHCN



Viện Nghiên cứu Cơ khí Chủ nhiệm Đề tài






TS. Đào Duy Trung






Hà Nội – 12/2008


MỤC LỤC

Thành viên tham gia đề tài
Mục lục 1
Mở đầu và phạm vi nghiên cứu

5

Chương 1 - Tổng quan và cơ sở các vấn đề nghiên cứu
9
1.1. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu 9
1.1.1. Ngoài nước về đầu tư khoa học công nghệ và đổi mới công nghệ 9
1.1.1.1. Nhật Bản 9
1.1.1.2. Hàn Quốc 10
1.1.1.3. Trung Quốc 17
1.1.1.4. Một số nước Châu Âu 21
1.1.2. Trong nướ
c về đầu tư khoa học công nghệ và đổi mới công nghệ 23
1.1.2.1. Khoa học công nghệ và nghiên cứu phát triển 23
1.1.2.2. Đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ ngành cơ khí 28
1.2. Kết luận Chương 1 31

Chương 2 - Thực trạng năng lực và đầu tư chiều sâu, đổi mới công
nghệ ngành công nghiệp cơ khí chế tạo đến 2007
32
2.1. Mục tiêu cần đạt được đến n
ăm 2010 và 2020 ngành cơ khí và thực
trạng cơ chế chính sách
32
2.1.1. Mục tiêu cần đạt được đến năm 2010 và 2020 của ngành cơ khí
trước khi gia nhập WTO
32
2.1.2. Thực trạng cơ chế chính sách 33
2.1.2.1. Đối với ngành cơ khí chế tạo trước khi gia nhập WTO 33
2.1.2.2. Đối với ngành cơ khí chế tạo sau khi gia nhập WTO 34
2.2. Thực trạng trình độ công nghệ ngành cơ khí chế tạo chung trước khi
gia nh
ập WTO

35
2.3. Thực trạng chung về đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp
lớn, vừa và nhỏ trước khi gia nhập WTO

36
2.4. Thực trạng huy động vốn đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ của
ngành cơ khí chế tạo trước và sau khi gia nhập WTO
38
2.4.1.Thực trạng huy động vốn đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ 39
2.4.2. Đánh giá và nhận xét chung 48
2.4.2.1. Đánh giá chung 48
2.4.2.2. Những nhân tố khách quan về cơ chế, chính sách tác động tới
hoạt động của ngành
52
2.4.2.3. Đánh giá tố
c độ tăng trưởng, hiệu quả tăng trưởng, hiệu quả sử
dụng vốn của ngành
53
2.4.2.4. Một số hạn chế và nguyên nhân 54
2.5. Kết luận Chương 2 54

Chương 3 - Thực trạng đầu tư cho nghiên cứu phát triển (R & D)
55
3.1. Thực trạng cơ chế chính sách hiện nay của nhà nước cho khoa học
công nghệ và nghiên cứu phát
triển
55
3.1.1. Cơ chế chính sách cho Doanh nghiệp Khoa học Công nghệ và các
Tổ chức nghiên cứu phát triển trước khi gia nhập WTO
55

3.1.1.1 Nguồn kinh phí 56
3.1.1.2.Chính sách ưu đãi 56
3.1.2. Cơ chế chính sách cho Doanh nghiệp Khoa học Công nghệ và các
Tổ chức nghiên cứu phát triển sau khi gia nhập WTO
56
3.2. Hiện trạng các hoạt động khoa học và nghiên cứu phát triển 58
3.2.1. Hiện trạng hoạt động khoa học công nghệ 58
3.2.2. Thực tr
ạng đầu tư nghiên cứu phát triển RD ngành cơ khí chế tạo
(vốn đầu tư trang thiết bị công nghệ, nhà xưởng, nhân lực, ) đến 2008
61
3.2.2.1. Thực trạng đầu tư cho Chưong trình Khoa học và phát triển Công
nghệ trọng điểm cấp Nhà nước về cơ khí chế tạo máy KC-05
61
3.2.2.2. Thực hiện các dự án KHCN quy mô lớn có liên quan đến ngành
Cơ khí chế tạo
63

3.2.2.3. Thực trạng đầu tư nghiên cứu phát triển cho các viện R-D về cơ
khí
64
3.2.2.3.1. Thực trạng đầu tư chung trước và sau khi gia nhập WTO 64
3.2.2.3.2. Nhận xét đánh giá chung hoạt động các Viện RD 71
3.3. Kết luận Chương 3 73

Chương 4 - Đề xuất cơ chế chính sách huy động vốn đầu tư chiều sâu,
đổi mới công nghệ ngành cơ khí và hướng, phương án đầu tư cho vi
ệc
nghiên cứu phát triển (R & D) phù hợp với quy định của WTO


74
4.1. Các nội dung chính và ảnh hưởng quy định của WTO đến phát triển
nền kinh tế (các thuận lợi, thách thức,… khi gia nhập)
74
4.1.1. Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập WTO 74
4.1.1.1. Cơ hội 74
4.1.1.2. Thách thức 77
4.1.2. Các nội dung chính của quy định WTO liên quan đến vấn đề
nghiên cứu
80
4.1.2.1. Những cam kết liên quan đến bảo hộ và trợ cấp 81
4.1.2.2. Những cam kết khác 89
4.2. Đề xuất định hướng đầu tư và cơ chế chính sách huy động vốn đầu
tư chiều sâu, đổi mới công nghệ ngành cơ khí chế tạo thời gian tới

95
4.2.1. Các định hướng đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ ngành cơ khí
chế tạo các thi
ết bị và dây chuyền thiết bị công nghiệp thời gian tới
95
4.2.1.1 Định hướng đầu tư về phát triển lực lượng tư vấn 95
4.2.1.2 Định hướng đầu tư phát triển cơ sở sản xuất nguyên liệu 96
4.2.1.3 Định hướng đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất các thiết bị tiêu
chuẩn
96
4.2.1.4 Định hướng đầ
u tư tự động hoá 97
4.2.1.5 Định hướng về đầu tư chung 97
4.2.2. Cơ chế và chính sách huy động vốn 98
4.2.2.1. Các vấn đề chung 98

4.2.2.2. Một số chính sách và cơ chế cụ thể 100

4.3 . Các phương án và hướng đầu tư cho nghiên cứu phát triển các tổ
chức R-D ngành cơ khí

102
4.3.1. Phương án và hướng đầu tư chung 102
4.3.2. Phương án và hướng đầu tư cụ thể, trước mắt 103

Kết luận chung 106
Tài liệu tham khảo 108

Các phụ lục:
Phụ lục 1:
(in cùng Báo cáo Tổng kết chung).
- Hợp đồng Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ;
- Biểu mẫu điều tra khảo sát các Viện nghiên cứu phát triển và các
doanh nghiệp chế tạo cơ khí


111
Phụ lục 2:
(in cùng Báo cáo Tổng kết chung)
- Phụ lục 2.1: Các số liệu về giá trị sản xuất, cơ cấu, chỉ số phát
triển, công nghiệp cơ khí cả nước từ năm 2002 đến 2007 và dự báo năm
2008
120

- Phụ lục 2.2: Trình độ công nghệ máy móc, thiết bị các doanh
nghiệp theo Ngành và theo Địa phương.

- Phụ lục 2.3: Biên bản nghiệm thu cấp cơ sở
Đề tài
128
Phụ lục 3:
Các số liệu tình hình đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị các
doanh nghiệp chế tạo cơ khí chính ( 163 A4, in kèm Báo cáo Tổng kết
chung)

MỞ ĐẦU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

1. Sự cần thiết và xuất xứ đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, đầu
tư chiều sâu, đổi mới công nghệ đã và đang trở thành một trong những yếu tố
quan trọng quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mọi nước nói
chung, doanh nghiệp Việt Nam nói riêng.
Mặt khác việc đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ cho các ngành kinh
tế, cũng như ngành công nghiệp nói chung và cơ khí nói riêng cũng rất quan
trọng, mang lại ý nghĩa quyết định cho sự phát triển của nền kinh tế, đáp ứng
khả năng hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia có hiệu quả vào tổ chức thương
mại lớn nhất hành tinh WTO.
Trong những năm đổi mới vừa qua, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã
không ngừng vươn lên, mạnh dạn bỏ
vốn đầu tư đổi mới công nghệ, từng
bước làm chủ công nghệ nhập ngoại, từ đó đã tạo ra những sản phẩm có chất
lượng, có khả năng cạnh tranh cao cả ở thị trường trong nước và quốc tế. Tuy
nhiên, trình độ công nghệ của Việt Nam hiện nay nhìn chung vẫn rất thấp so
với mức trung bình của khu vực và quốc tế; nhiều doanh nghiệp vẫn ch
ưa
quan tâm tới đầu tư đổi mới công nghệ, dẫn đến đầu tư cho đổi mới công nghệ
của các doanh nghiệp trung bình chỉ ở mức 0,3% doanh thu so với mức 5%

của Ấn độ, 10% của Hàn Quốc.
Cùng với việc đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ cho các ngành kinh
tế, đầu tư cho nghiên cứu phát triển (R-D) hiện nay trên thế giới và tại Việt
Nam được xem là một biệ
n pháp rất quan trọng để phát triển kinh tế có hiệu
quả, có sức cạnh tranh lớn, là động lực phát triển của đất nước, được hầu hết
các quốc gia, kể cả các nước phát triển và đặc biệt là các đang nước phát triển
như Việt Nam lưu tâm và triển khai thực hiện theo những lộ trình hợp lý. Để
phát triển kinh tế thành công thì việc đầu tiên là cần đầu tư cho nghiên cứu
phát triể
n, từ khoa học xã hội, khoa học cơ bản đến khoa học công nghệ.
Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu rộng hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải là chủ thể chính
quyết định việc đầu tư đổi mới công nghệ. Tức là, quyết định đầu tư đổi mới
công nghệ phải được xuất phát từ nhu cầu tự thân của doanh nghiệp để nhằm
tồn tại và phát triển. Nhà n
ước không thể thay doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư
cũng như không thể hỗ trợ trực tiếp vốn cho doanh nghiệp cho mục đích này.

Tuy nhiên, vai trò của Nhà nước có thể được thể hiện thông qua việc ban hành
các chính sách, khung khổ pháp luật thuận lợi để doanh nghiệp có thể tự huy
động các nguồn vốn khác nhau trong nước hoặc nước ngoài. Bên cạnh đó,
Nhà nước có thể hỗ trợ gián tiếp các doanh nghiệp thông qua đầu tư vào cơ sở
hạ tầng (cả phần cứng và phần mềm) để tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ
dàng thự
c hiện các dự án đầu tư đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, chính sách của
Nhà nước cũng cần phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại Thế
giới liên quan tới các biện pháp tài trợ cho doanh nghiệp.
Việc cho nghiên cứu đề tài trên thực hiện trong ngành cơ khí là cần
thiết, có ý nghĩa định hướng chiến lược đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ

cho các doanh nghiệp, định hướng đầ
u tư của nhà nước cũng như của chính
các tổ chức khoa học công nghệ, các doanh nghiệp cho nghiên cứu phát triển
đối với các tổ chức này trong lĩnh vực cơ khí.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Cùng với các chính sách, cơ chế đồng bộ đã được Nhà nước, Bộ/Ngành
ban hành còn hiệu lực, mục đích chính của đề tài là nghiên cứu đề xuất hướng,
cơ chế huy động vốn đầu tư
chiều sâu, đổi mới công nghệ của nhà nước cho
ngành cơ khí, nghiên cứu đề xuất hướng và phương án đầu tư của nhà nước
cho việc nghiên cứu phát triển (R-D) phù hợp với các quy định của WTO.
Nội dung của đề tài là đưa ra cơ sở và tổng quan kinh nghiệm quốc tế và
trong nước các vấn đề có liên quan, thực trạng đầu tư đổi mới công nghệ
ngành cơ khí trong nước và thực trạng đầ
u tư cho các tổ chức nghiên cứu phát
triển. Xuất phát từ các quy định của WTO, từ thực trạng cơ chế chính sách
hiện thời và mục tiêu cần đạt được của ngành Cơ khí đã được Chính phủ phê
duyệt, đề tài trình bày các hình thức, cơ chế huy động vốn đầu tư chiều sâu,
đổi mới công nghệ cho ngành cơ khí, nghiên cứu đề xuất hướng và phương án
đầu tư cho việc nghiên cứu phát triể
n (R-D) phù hợp với các quy định của
WTO.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Do vấn đề đặt ra rộng, đó là việc “Nghiên cứu đề xuất cơ chế huy động
vốn đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ cho ngành cơ khí và phương án đầu tư
cho việc nghiên cứu và phát triển (R&D)
phù hợp với các quy định của WTO”,
do vậy việc đánh giá thực trạng đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ cho ngành
cơ khí chỉ tập trung thực hiện cho một số ngành cơ khí chế tạo thiết bị đồng bộ
đại diện chính, như: cơ khí chế tạo các thiết bị cho ngành xi măng, nhiệt điện,


thuỷ điện, khai khoáng, thiết bị điện, … cũng như thực trạng đầu tư cho nghiên
cứu phát triển chỉ được thực hiện cho một số tổ chức nghiên cứu phát triển chính
là một số Viện R-D chuyên ngành cơ khí và có liên quan trực tiếp đến cơ khí, vì
các Viện này đang có chính sách chuyển đổi mô hình hoạt động kinh tế theo Quy
định của Chính phủ.
Trên cơ sở đó, s
ẽ nghiên cứu đề xuất định hướng đầu tư
*)
, cơ chế chính
sách huy động vốn đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ chủ yếu
của Nhà nước
cho ngành cơ khí chế tạo và phương án đầu tư của Nhà nước
cho việc nghiên
cứu và phát triển của các Viện R-D nói chung và Cơ khí nói riêng phù hợp với
các quy định của WTO.
*)
Cho một số ngành cơ khí chế tạo thiết bị đồng bộ chính (không đề cập đến ngành máy công cụ,
ôtô, tàu thuỷ).

4. Nội dung nghiên cứu
Đặt vấn đề và phạm vi nghiên cứu
Chương 1 - Tổng quan và cơ sở chung các vấn đề nghiên cứu
Chương 2 - Thực trạng năng lực và đầu tư, đổi mới công nghệ ngành công
nghiệp cơ khí chế tạo đến 2007
Chương 3 - Thực trạng đầu tư cho nghiên cứu phát triển (R & D)
Chương 4 - Đề xuất định hướng, cơ chế chính sách huy động vố
n đầu tư chiều
sâu, đổi mới công nghệ ngành cơ khí và phương án đầu tư cho việc nghiên
cứu phát triển (R & D) phù hợp với quy định của WTO.


Kết luận chung
Trong quá trình triển khai thực hiện, ngoài các tài liệu tham khảo cần
thiết phải sử dụng như của Tổng cục Thống kê, Viện Nghiên cứu quản lý Kinh
tế Trung ương, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Viện Chiến lược Chính sách Công
nghiệp, Bộ Công Thương, trên cơ sở xây dựng các biểu mẫu lấy số liệu của
các Tập đoàn, Tổng Công ty, Công ty, nhà máy chế tạo và các Viện R-D thuộc
lĩnh vực cơ khí, đề tài đã gửi hồ sơ lấy số liệu tại khoảng 15 cơ sở chế tạo cơ
khí lớn và khoảng 10 Viện chuyên ngành cơ khí thuộc nhiều Bộ/Ngành, Tổng
cục, Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng s
ố liệu cập nhật năm 2007 lấy được

từ các cơ sở trên khi Viện Nghiên cứu Cơ khí thực hiện đề tài “Nghiên cứu
xây dựng Quy hoạch ngành chế tạo thiết bị đồng bộ đến năm 2025”.
Nhóm đề tài xin chân thành cám ơn Vụ Khoa học và Công nghệ - Bộ
Công Thương, Viện Nghiên cứu Cơ khí, các Tập đoàn, Tổng Công ty và một
số nhà máy chế tạo cơ khí trong cả nước, các Viện nghiên cứu phát triển về cơ
khí củ
a nhiều Bộ/Ngành, các cơ sở có liên quan, các cộng tác viên của đề tài
đã hợp tác đã cùng tham gia thực hiện, cung cấp các số liệu dữ liệu cần thiết,
giúp đỡ hoàn thành công việc.

Nhóm đề tài





















Đề tài Cấp Bộ Công Thương năm 2008: “Nghiên cứu đề xuất cơ chế huy động vốn đầu tư chiều sâu
đổi mới công nghệ ngành Cơ khí phù hợp với quy định của WTO”

VIỆN NGHIÊN CỨU CƠ KHÍ

1
Chương 1
TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
Trong chương này, đề tài sẽ trình bày tổng quan các vấn đề nghiên cứu
trong và ngoài nước làm cơ sở chung cho các nghiên cứu, đánh giá được trình
bày ở các phần sau. Các tổng quan và cơ sở này được viết trên cơ sở các
thông tin, các nguồn tư liệu thu thập mới nhất trong và ngoài nước khi tiến
hành thực hiện đề tài.
1.1.1. Ngoài nước về đầu tư khoa học công nghệ và đổi mới công nghệ


1.1.1.1. Nhật Bản [13], [25], [26]
Hội đồng chính sách khoa học và công nghệ CSTP (Council for Sience
and Technology Policy) Nhật Bản được thành lập năm 2001 để thúc đầy điều
phối các chính sách của Chính phủ trong lĩnh vực này. Thủ tướng Chính phủ
là Chủ tịch Hội đồng cùng với sự hỗ trợ của một Ban Thư ký là các thành
viên trong văn phòng nội các. Hoạt động chính của Hội đồng chủ yếu là đánh
giá các đề
xuất về ngân sách cho các dự án khoa học công nghệ (KHCN).
Những dự án mới có ngân sách trên 100 triệu yên (0,8 triệu đô la Mỹ) và các
dự án đang thực hiện có ngân sách trên 1 tỷ yên (8,5 triệu đô la Mỹ) được
phân thành 4 nhóm theo thứ tự ưu tiên do Hội đồng đề ra.
Bất chấp tầm quan trọng của chính sách KH & CN trong việc thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, các hoạt động của Hội đồng CSTP Nhật Bản trước đây
chỉ gi
ới hạn hoàn toàn trong các vấn đề khoa học mà ít chú ý đến tác động
kinh tế của việc đổi mới công nghệ và điều kiện cần thiết để hỗ trợ các hoạt
động này, đặc biệt trong các lĩnh vực dịch vụ. Ví dụ, cho đến nay nhóm
chuyên gia được thành lập đã nhấn mạnh đến tác động toàn cảnh của việc đổi
mới công nghệ đến tăng trưởng kinh tế hoặc m
ối liên hệ với các chính sách
kinh tế phản ánh một phần sự thực là chỉ có một số ít các nhà kinh tế tham gia
vào nhóm chuyên gia của Hội đồng CSTP Nhật Bản. Thêm vào đó, Hội đồng
CSTP Nhật Bản cần có thêm quyền hạn để cải tiến điều kiện cơ cấu tổ chức
trong việc thực thi đổi mới. Ví dụ các Bộ Ngành đã không thực thi một cách
đầy đủ những đề
xuất cụ thể của Hội đồng để cải tiến hệ thống R & D, một
phần thông qua các biện pháp tăng số lượng các công ty R & D, các dự án và
huy động các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, gần đây Hội đồng CSTP Nhật Bản
đóng một vai trò tích cực hơn liên quan đến các chính sách kinh tế. Ví dụ,
trong chiến lược tổng thể sáng tạo đổi mới (tháng 6/2006) Hội đồng CSTP

Đề tài Cấp Bộ Công Thương năm 2008: “Nghiên cứu đề xuất cơ chế huy động vốn đầu tư chiều sâu
đổi mới công nghệ ngành Cơ khí phù hợp với quy định của WTO”

VIỆN NGHIÊN CỨU CƠ KHÍ

2
Nhật Bản đã có những đề xuất cụ thể để cải tiến hệ thống R & D bao gồm cả
các biện pháp khuyến khích hợp tác nghiên cứu KH & CN chặt chẽ.
Ở Nhật Bản những năm gần đây, chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ,
thúc đẩy đầu tư mạo hiểm được khuyến khích và thực thi rất mạnh mẽ và
cũng thu được nhiều kết qu
ả rất khả quan. Cụ thể như sau.
Ngành kinh doanh đầu tư mạo hiểm đóng một vai trò quan trọng và
ngày càng phát triển trong việc đẩy mạnh đổi mới ở nhiều nước OECD. Tuy
nhiên, ở Nhật Bản, đầu tư mạo hiểm trong thập kỷ qua rất im ắng, chỉ đạt mức
rất thấp khoảng 0,05 GDP. Tỷ lệ này phản ánh thực tế là: Thứ nhất, sự quan
tâm c
ủa người dân đối với đầu tư mạo hiểm là thấp, được chứng minh bằng
việc là số dư tiết kiệm trong tài khoản của người dân vẫn còn cao. Thứ hai,
các công ty chủ yếu dựa vào đầu tư tài chính gián tiếp. Thứ ba, đầu tư dài hạn
từ quỹ phúc lợi (quỹ lương) chỉ chiếm 4% trong tổng quỹ đầu tư so với 40% ở
Mỹ và ở Anh. Th
ứ tư, vai trò của trường đại học có liên quan đến lĩnh vực
đầu tư mạo hiểm đã bị hạn chế (OECD
*
, 2005 )
Ngoài ra, nhiều quỹ đầu tư mạo hiểm là chi nhánh của các tổ chức tài
chính mà họ lại thiếu kinh nghiệm trong việc quản lý và hỗ trợ các công ty
đầu tư mạo hiểm và không muốn chịu rủi ro (Takahashi, 2006 ). Điều này hạn
chế vai trò của ngành kinh doanh mạo hiểm trong giai đoạn phát triển công

nghệ gần đây. Trên thực tế, đầu tư mạo hiểm trong lĩnh vực công nghệ cao, kể

cả công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và y tế, chỉ chiếm 23% trong tổng
số, so với mức trung bình của OECD chiếm gần 50%; ngược lại, mạo hiểm
hơn (OECD, 2005). Thêm vào đó, đầu tư mạo hiểm ở Nhật Bản tập trung vào
công nghệ giai đoạn sau, mặc dù tỷ lệ các công ty trong giai đoạn đầu đã tăng
trong những năm gần đây. Thêm vào đó, các nhà đầu tư mạ
o hiểm của Nhật
Bản ít tham gia vào quản lý các công ty mà họ đầu tư.
1.1.1.2. Hàn Quốc [13], [24]
Hàn Quốc là một trong các con rồng và là các nước công nghiệp mới
(NICs) của Châu Á. Tuy nhiên, Hàn Quốc hiện nay là một nước công nghiệp
phát triển, có nhiều kinh nghiệm trong sự phát triển nền kinh tế, đặc biệt trong
sự phát triển khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn lực khoa học công nghệ
trình độ cao.
Dưới đ
ây, giới thiệu một số vấn đề: tổ chức và Luật KHCN; chính sách

*)
OECD – Organization for Economic Cooperation and Development

Đề tài Cấp Bộ Công Thương năm 2008: “Nghiên cứu đề xuất cơ chế huy động vốn đầu tư chiều sâu
đổi mới công nghệ ngành Cơ khí phù hợp với quy định của WTO”

VIỆN NGHIÊN CỨU CƠ KHÍ

3
KHCN và chính sách KHCN thế kỷ 21, các chương trình RD quốc gia,
1.1.1.2.1. Tổ chức và luật KH&CN Hàn Quốc
Bộ KH&CN Hàn Quốc được thành lập từ năm 1967, có các chức năng

chính:
a/ Tạo dựng hệ thống chính sách phát triển KH&CN:
- Tạo dựng chính sách đầu tư CN&TK (R&D), phát triển các nguồn nhân
lực, thông tin KH&CN và hợp tác quốc tế về KH&CN;
- Trợ giúp nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng do Chính phủ lãnh
đạo với sự hỗ tr
ợ của các Viện, các trường Đại học và các Viện nghiên
cứu tư nhân;
- Làm kế hoạch, xúc tiến và hỗ trợ triển khai nòng cốt về khoa học và
công nghệ hướng tương lai và công nghệ có quy mô lớn và trình độ
cao;
- Đạt tới độ tin cậy kiểm soát tự động về an toàn công nghệ hạt nhân;
- Nâng cao trình độ nhận thức đại chúng về KH&CN.
b/ Thành lập Hội Đồng KH&CN quốc gia do Tổng thố
ng làm Chủ tịch, các
thành viên gồm các Bộ Trưởng liên quan KH&CN và các Uỷ viên.
c/ Luật xúc tiến KH&CN được ban hành năm 1960. Từ năm 1970 – 1980 có
các Luật thành lập các Viện nghiên cứu, Giáo dục - đào tạo và gia tốc phát
triển KH&CN. Năm 1997 có Luật đặc biệt về đổi mới KH&CN. Năm 2001 ra
đời luật khung mới thay thế cho luật khung KH&CN trước.
d/ Hàn Quốc đã ban hành 1023 luật thường trực hiệu dụng, trong đó có 29
luật áp dụng trực tiế
p cho Bộ KH&CN.
1.1.1.2.2. Chính sách KH&CN Hàn Quốc
- Từ năm 1960, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ
nhất, KH&CN ở giai đoạn nhập khẩu công nghiệp điện và công nghiệp sản
xuất hàng hoá tiêu dùng, hoạch định các chính sách KH&CN về cơ sở hạ
tầng, hệ thống đào tạo và luật tổ chức khung KH&CN. Đến năm 1966 thành
lập Viện KIST (Viện KH&CN Hàn Quốc). Năm 1967 thành lập B
ộ KH&CN.

Những năm 1970 tiêu biểu cho sự phát triển KH&CN Hàn Quốc vì công
nghiệp biến đổi về quy mô và trình độ, bước đầu nghiên cứu triển khai quốc
nội vào công nghiệp nặng, công nghiệp hoá chất, đào tạo các nhà khoa học và
kỹ sư có chất lượng, đáp ứng sự biến đổi lớn của công nghệ và quy mô
Đề tài Cấp Bộ Công Thương năm 2008: “Nghiên cứu đề xuất cơ chế huy động vốn đầu tư chiều sâu
đổi mới công nghệ ngành Cơ khí phù hợp với quy định của WTO”

VIỆN NGHIÊN CỨU CƠ KHÍ

4
công nghiệp, phát triển tiếp đến lĩnh vực cơ khí chế tạo, đóng tàu, khoa học
biển và điện tử.
Chính sách công nghiệp từ những năm 1980 hướng phát triển xa hơn và
bền vững, coi chính sách KH&CN là hàng đầu, tạo nền móng xây dựng năng
lực KH&CN nội sinh, đòi hỏi sự tăng trưởng tổng hợp về công nghiệp qua cải
tiến công nghiệp tạo năng suất và hệ th
ống chế tạo được nâng cấp tiền tiến,
đòi hỏi nguồn nhân lực lớn là các nhà khoa học và công nghệ trình độ cao với
sự giáo dục nâng cấp và mở rộng chương trình đào tạo cập nhật khoa học,
công nghệ từ nước ngoài. Mặt khác, chương trình R & D quốc gia từ năm
1982 hướng xây dựng đội ngũ nghiên cứu triển khai (RD) nội sinh hướng vào
các công nghệ có các đặc trưng chung nhất. Trong thời kỳ
này ra đời thành
phố khoa học, thành phố Taedeok với các việc nghiên cứu công và tư cùng
với sự hợp tác toàn diện và có sự hợp tác nhanh đặc biệt về số lượng và loại
hình các lab RD tư nhân.
Thành phố khoa học Taedeok trở thành cái nôi nghiên cứu khoa học
của Hàn Quốc đã thu hút 20.000 nhà nghiên cứu. Do đó, Hàn Quốc đã có 236
sáng chế được đăng ký vào Mỹ năm 1990 (xếp thứ 16 của các nước có sáng
chế vào Mỹ).

- Thập kỷ 90 (c
ủa thế kỷ 20) là kỷ nguyên biến đổi lớn và thách thức
lớn của Hàn Quốc. Hàn Quốc coi KH&CN là chìa khoá phát triển quốc gia,
việc quản lý nhà nước chuyển sang pha đặc biệt là pha xây dựng nhanh năng
lực KH&CN. Chính phủ có nhiều đổi mới với điều khoản đặc biệt về
KH&CN trong kế hoạch 5 năm (1997 - 2002) với dự án quốc gia thực hiện đủ
các tiêu chí trở thành quốc gia tiền tiến (từ n
ước công nghiệp mới, NICs, sang
nhóm các nước công nghiệp phát triển G7) và việc từ nghiên cứu triển khai
chuyển sang pha chủ động nghiên cứu sáng tạo (năm 2003 Hàn Quốc đã chế
tạo thành công Microchip có kích thước 90 nanomet, nhỏ nhất thế giới; Nhật
Bản cũng thành công kỷ lục này vào năm 2003, các nước Mỹ, Đức … còn ở
120 nanomet).
1.1.1.2.3. Chính sách KH&CN thế kỷ 21 của Hàn Quốc
Nhằm hướng tới các nhu cầu cao về môi tr
ường xã hội, đáp ứng cao
con người và môi trường tự nhiên, chính sách KH&CN phải tạo ra quá trình
chuyển dịch công nghiệp hoá lớn so với trước đây. Vì thế Hội đồng KH&CN
quốc gia và Bộ KH&CN phải tìm ra và thiết lập được hệ thống đổi mới cân
bằng cao hơn trên cơ sở khuyến khích sự cạnh tranh trong hợp tác của 3 đội
Đề tài Cấp Bộ Công Thương năm 2008: “Nghiên cứu đề xuất cơ chế huy động vốn đầu tư chiều sâu
đổi mới công nghệ ngành Cơ khí phù hợp với quy định của WTO”

VIỆN NGHIÊN CỨU CƠ KHÍ

5
ngũ con người trình độ cao thuộc các ngành công nghiệp, các Viện và trường
Đại học, các tổ chức RD nhà nước và tư nhân để thực hiện.
Viễn cảnh dài hạn KH&CN Hàn Quốc đến năm 2010. Hướng chủ đạo
gồm:

- Chuyển dịch hệ thống đổi mới quốc gia từ vai trò chính của Chính
phủ sang vai trò chính tư hữu;
- Cải thiện hiệu quả đầu tư NC&TK quốc gia;
- Tiến ngang hàng cùng hệ
thống NC&TK theo chuẩn tiên tiến đương
đại toàn cầu;
- Hội nhập thu lượm các kết quả công nghệ mới và thực hiện viễn cảnh
trên, Chính phủ Hàn Quốc thực hiện chương trình KH&CN tới giới hạn biên
của thế kỷ 21 (21st Frontier R&D Program) về KH&CN cùng với bản đồ
hướng dẫn con đường công nghệ quốc gia gồm: thiết lập khung quản lý
KH&CN kể cả giải pháp hoạt động đầu tư
KH&CN, nghiên cứu và phát triển
(R&D) quốc gia, nâng cao nhận thức rộng rãi về KH&CN, phát triển nguồn
nhân lực KH&CN, đẩy mạnh việc chuyển giao công nghệ và thương mại hoá
– toàn cầu hoá các hoạt động KH&CN, nhằm đưa Hàn Quốc vào hàng 10
cường quốc KH&CN của thế giới.
Mặt khác Hàn Quốc đẩy mạnh KH&CN vùng, từ đó dẫn đến triển khai
toàn quốc. Chính phủ tạo dựng KH&CN vùng toàn diện 5 năm và xúc tiến
công nghệ theo 6 chương trình: Triể
n khai các năng lực công nghệ vùng (địa
phương) theo công nghệ chiến lược; tạo ra các trung tâm trong các vùng hoạt
động đổi mới công nghệ; phát triển các nguồn nhân lực KH&CN địa phương;
thiết lập hệ thống thông tin KH&CN vùng; hình thành hướng dẫn văn hoá từ
thành tựu đổi mới KH&CN cho người dân, tránh lãng phí thời gian chơi game
và chuyển thành các trò chơi về đổi mới và ứng dụng công nghệ mới; tăng
đầu tư về KH&CN qua chính quyền vùng; năm 2003 t
ập trung vào công nghệ
then chốt cho sự phát triển công nghiệp vùng để đổi mới nhanh chóng toàn vùng.
1.1.1.2.4. Các chương trình nghiên cứu và phát triển quốc gia
Khởi thảo và tiến hành từ năm 1982, tạo ra sức mạnh và sức cạnh tranh

về công nghệ, đóng góp vào phát triển công nghiệp và kinh tế, cải thiện chất
lượng cuộc sống không ngừng, và nay chuyển dịch sang loại hình kinh tế có
nền tảng tri thức. Đến năm 2010, Chính phủ khuyến khích việ
c sử dụng có
hiệu quả các nguồn KH&CN trên cơ sở “chọn lọc và tập trung”.
Đề tài Cấp Bộ Công Thương năm 2008: “Nghiên cứu đề xuất cơ chế huy động vốn đầu tư chiều sâu
đổi mới công nghệ ngành Cơ khí phù hợp với quy định của WTO”

VIỆN NGHIÊN CỨU CƠ KHÍ

6
Các chương trình R&D quốc gia hiện thời đầu thế kỷ 21 là sự khởi đầu
của sáng tạo từ các Lab nghiên cứu quốc gia, các chương trình công nghệ sinh
học, chương trình khoảng không và vũ trụ, chương trình phát triển công nghệ
Nano, … Có thể dẫn ra một số chương trình sau:
1) Chương trình RD biên thế kỷ 21, từ năm 1999, tạo ra sức cạnh tranh
mới về KH&CN diện rộng. Riêng Chính phủ đầu tư 3,5 tỷ USD trong thời k

10 năm, gồm 23 dự án mới thực hiện từ năm 2003. Nét nổi bật của dự án là
Giám đốc dự án được toàn quyền quản lý chương trình, các trách nhiệm triển
khai chi tiết dự án , giám sát các dự án bổ trợ và ngân sách trợ cấp. Các chính
sách đối với các cơ sở liên kết với chương trình là: độc lập trong quản lý dự
án, đánh giá các tiến độ của dự án theo chu kỳ 3-4 năm có chuẩn định rõ ràng
và định lượng được, coi hợp tác quốc tế rất quan trọng để ứng dụng các nguồn
nghiên cứu và phát triển từ nước ngoài.
Có hàng chục các dự án của chương trình biên thế kỷ 21 được cho
triển khai thực hiện.
2) Mỗi dự án khởi đầu sáng tạo có kinh phí từ 0,5 đến 1,0 triệu
USD/năm nhằm thực hiện “từ bắt chước đến đổi mới” đã xuất hiệ
n các nhà

nghiên cứu chính, có khả năng tổ chức, có kinh nghiệm nghiên cứu, có tính
độc lập và trách nhiệm trong quản lý dự án, có 57 sáng tạo đạt trình độ quốc
gia tính từ năm 1997-2002.
3) Lab nghiên cứu quốc gia có từ năm 1999, tạo thành trung tâm nghiên
cứu lớn, đóng trò trong chủ động sáng tạo công nghệ, ngân sách riêng của
Chính phủ trợ giúp cho mỗi dự án của Lab 500.000 USD/ 5 năm, và cho tới
444 lab (278 thuộc các cơ sở Hàn Lâm, 114 thuộc các Viện Nghiên cứu và 52
thuộc ngành công nghiệp). Đặ
c biệt số Lab công nghiệp tư hữu là 2610 (năm
1996) tạo ra bước khởi động RD từ năm 1980 đưa ra các doanh nghiệp công
nghiệp tư hữu Hàn Quốc tăng sức cạnh tranh lớn của sản phẩm công nghiệp
Hàn Quốc trên thị trường quốc tế. Vì thế các tập đoàn công nghiệp Điện tử -
Viễn thông, ô tô, tàu thuỷ, thép … đều trở thành những công ty hàng đầu
trong vùng Châu Á – Thái Bình Dương và thế giới. Hàn Quố
c phát triển công
nghệ nano 10 năm đầu thế kỷ 21 dưới chương trình khung nghiên cứu và phát
triển quốc gia với trung tâm chế tạo-nano (nano – Fabrication center).
4) Riêng về phát triển nguồn nhân lực hàng đầu trình độ cao, Hàn Quốc
phải đào tạo đến năm 2007 khoảng 10.000 cán bộ khoa học có trình độ từ tiến
sĩ trở lên nhằm đáp ứng với các chương trình trên, yêu cầu cần đạt chất lượng
đỉnh trong sự phát triể
n GD và ĐT để chuẩn mực hướng nuôi dưỡng sự sáng
Đề tài Cấp Bộ Công Thương năm 2008: “Nghiên cứu đề xuất cơ chế huy động vốn đầu tư chiều sâu
đổi mới công nghệ ngành Cơ khí phù hợp với quy định của WTO”

VIỆN NGHIÊN CỨU CƠ KHÍ

7
tạo cho thế hệ trẻ. Do đó nhiệm vụ và chính sách hàng đầu của Hàn Quốc là
biến đổi các Viện và trường đại học sang hướng nghiên cứu có sự trợ giúp tài

chính của Nhà nước với đào tạo các loại hình nhân lực nghiên cứu đặc biệt.
Viện Korean Advanced Institute of Science and Technology là mẫu hình tốt
về đại học định hướng nghiên cứu. Viện này thành lập năm 1971, đã đào tạo
26.707 người tố
t nghiệp, 5380 Tiến sĩ (Ph.D), trong đó có 121 nhận học vị
Tiến sĩ.
5) Chính sách hạt nhân Hàn Quốc: ứng dụng cho hoà bình và an toàn
hạt nhân vào cung cấp điện hạt nhân ổn định; hoàn thành tự lực công nghệ
trong lò phản ứng hạt nhân; xúc tiến xuất khẩu công nghệ hạt nhân trong điện
năng; xúc tiến ứng dụng hạt nhân trong ngành y, trong nông nghiệp và các
lĩnh vực công nghiệp. Các dự án chủ đạo: phát triển hệ th
ống mô phỏng tích
hợp lò phản ứng tiên tiến; phát triển các thử nghiệm thuỷ nhiệt hạt nhân và
định lượng công nghệ; nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm sự cố hạt nhân
trong các nhà máy điện nguyên tử; nghiên cứu hướng sử dụng nhiên liệu tiêu
thụ ở lò phản ứng CANDU; Hàn Quốc có 18 nhà máy điện nguyên tử sản
xuất điện thương mại và từ năm 1978 năng lượng đ
iện hạt nhân đã là nguồn
chủ đạo ở Hàn Quốc, tới năm 2015 tăng tỷ lệ năng lượng điện hạt nhân lên 45%.
6) Hợp tác KH&CN quốc tế gồm: chương trình nghiên cứu ghép nối
thực hiện từ 1985, đã thực hiện năm 1986 dự án Nhật, Mỹ, Đức, Nga, Trung
Quốc và đặc biệt đã thành lập Uỷ ban Hợp tác KH&CN Mỹ - Hàn Quốc từ
năm 1993 chuyên về
công nghệ nano; với Nhật có hoạt động các chuyên đề
KH&CN hàng năm, từ năm 1999; với Đức có các bộ phận tư nhân đóng vai
trò chính và hai bên thành lập uỷ ban phi chính phủ. Với Canada hợp tác
trong lĩnh vực công nghệ sinh học – công nghệ nano và công nghệ khoảng
không, với APEC có các nhóm hoạt động Khoa học-Công nghệ công nghiệp
và phát triển nguồn nhân lực từ năm 1996 ; hợp tác song phương với 43 nước
(12 nước châu Á, 11 nước châu Mỹ, 17 nước châu Âu, 3 nướ

c châu Phi và
Trung cận Đông).
7) Chính sách triển khai công nghệ sản xuất công nghiệp: chú ý đặc
biệt việc đổi mới trong lĩnh vực công nghiệp tư hữu, coi là yếu tố then chốt
cho phát triển kinh tế vững và ổn định. Từ năm 1970, chính phủ có rất nhiều
giải pháp, nhiều hệ thống xúc tiến nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực
công nghiệp tư hữu, thí dụ như luật xúc tiến triể
n khai công nghệ đổi mới
trong công nghiệp và các giải pháp khác nhau rất linh hoạt. Các doanh nghiệp
tư hữu được giảm thuế và được trợ giúp tài chính vào đầu tư các trung tâm
nghiên cứu của họ, giảm thuế nhập khẩu và các trang bị, vật tư, phụ kiện
Đề tài Cấp Bộ Công Thương năm 2008: “Nghiên cứu đề xuất cơ chế huy động vốn đầu tư chiều sâu
đổi mới công nghệ ngành Cơ khí phù hợp với quy định của WTO”

VIỆN NGHIÊN CỨU CƠ KHÍ

8
trong nghiên cứu và phát triển. Các doanh nghiệp nhỏ và trung bình không thể
thành lập các trung tâm nghiên cứu riêng, được luật và chính sách khuyến
khích liên kết nghiên cứu với các trung tâm khác.
Từ nguồn thống kê, trong khoảng 8 năm (1990 – 1998) đầu tư cho
KH&CN của nhà nước Hàn Quốc tăng 10,5%, của doanh nghiệp tăng 20,4%.
Tỷ lệ chi phí của chính phủ cho RD/GDP từ 2,31 – 2,81% nhưng chỉ khoảng
70 tổng chi phí này dành cho công nghiệp hoá, chiếm khoảng 20% chi phí
R&D cho công nghiệp hoá, còn khoảng 80% là kinh phí do khu vực tư nhân
đầu tư cho R&D. Như v
ậy tính riêng tỷ lệ đầu tư cho R&D trong lĩnh vực
công nghiệp hoá của nhà nước và tư nhân gộp chung có thể tương ứng
khoảng 8,5% GDP. Năm 1999 GDP Hàn Quốc đạt 406,9 tỷ USD (xếp thứ 13
trên thế giới) thì kinh phí cho R&D tổng lên tới 34.58 tỷ USD là rất lớn! Mỹ

và Nhật còn đầu tư cho R&D với tỷ lệ cao hơn Hàn Quốc. Thử đối chiếu với
Việt Nam năm 2000 với GDP khoảng 30 tỷ USD và tổng chi phí cho phát
triển KH&CN nói chung là 0,47% - riêng cho R&D là 0,23% ước khoảng
13.000 người có trình độ R&D tương đương 70 triệu USD và bằng 1/500 của
Hàn Quốc (cần chú ý thêm là gần như không có phần kinh phí của khối doanh
nghiệp tư nhân góp vào, mà kinh phí R&D của nhà nước cũng phân bố đến
doanh nghiệp tư hữu). Chính vì vậy công việc R&D ở Việt Nam trong công
nghiệp hoá chỉ có các đề tài hoặc dự án có trình độ thấp – đơn giản (kiểu bắt
chước ở mức độ đơ
n giản hoá các mẫu hình được chuyển giao công nghệ từ
nước ngoài, mà chính các mẫu hình này đã bị hao mòn hữu hình do lạc hậu ít
nhất hai thế hệ so với mức tiên tiến đương đại). Có nghĩa là nghiên cứu để
thấy (chưa đủ để biết), còn chưa thể đạt đến trình độ nghiên cứu để làm.
8) Vài số liệu đáng kể về công nghiệp hoá và hiện đại hoá (CNH &
HĐH) củ
a Hàn Quốc. Hiện dân số của Hàn Quốc là 47,5 triệu người, diện
tích lãnh thổ 99.000km
2
, 80% là đồi núi. Đó là một nước nghèo nàn và lạc
hậu sau chiến tranh. Để phát triển kinh tế thành công thì việc đầu tiên là phát
triển công nghệ. Mô hình kinh tế của Hàn Quốc được tiếp thu kinh nghiệm
của Nhật và chuyển giao công nghệ cùng với đào tạo nguồn nhân lực CNH &
HĐH từ Mỹ, Nhật… thực hiện CNH & HĐH sau 40 năm đã dẫn đầu các nước
kinh tế công nghiệp mới (NIC
s
) của thế giới và đang trở thành top 10 nước
công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới. Mô hình của Hàn Quốc đặc biệt ở chỗ:
- CNH & HĐH với vốn tích tụ ngày càng khổng lồ, chuyển giao công
nghệ tiên tiến cơ bản từ công nghiệp nặng gốc là chế tạo cơ khí lớn – chính
xác - chuyển dịch nhanh sang sản xuất công nghệ cao trong công nghiệp điện

tử viễn thông – công nghệ nano mechatronics và vươ
n tới các công nghệ điện
Đề tài Cấp Bộ Công Thương năm 2008: “Nghiên cứu đề xuất cơ chế huy động vốn đầu tư chiều sâu
đổi mới công nghệ ngành Cơ khí phù hợp với quy định của WTO”

VIỆN NGHIÊN CỨU CƠ KHÍ

9
hạt nhân, công nghệ gen – vi sinh,… ngang trình độ đương đại của thế giới.
Có thể qua vài kết quả định lượng sau:
- Trong ngành thép: Hàn Quốc sản xuất khoảng 46,3% triệu tấn
thép/năm (nguồn IISI 2004) từ khâu sản xuất phôi (Hàn Quốc gần như không
có mỏ quặng) đến sản xuất đủ các chủng loại thép xây dựng, thép kết cấu,
thép hợp kim… cung cấp mọi ngành công nghiệp và xuất khẩu;
- Trong công nghiệp đóng tàu: Hàn Quố
c hiện là nước đóng tàu lớn
nhất thế giới, chế tạo gốc từ động cơ Diesel công suất lớn nhất trên 4000CV –
10.000CV, vật liệu làm vỏ tàu, các hệ thiết bị cơ khí cho lái, bốc xếp hàng, hệ
điện tử viễn thông đến trang bị nội thất hiện đại và sang trọng…
- Trong công nghiệp ô tô: Hàn Quốc có tới 5 đại gia Daewoo,
Hyundai, KIA Motor, Woori Auto Sales Co…, xếp trong bảng 1.000 công ty
hàng đầu thế giới và xếp th
ứ 5 về công nghiệp ô tô thế giới.
- Trong công nghiệp điện tử - viễn thông: Hàn Quốc có phát triển nổi
bật từ chế tạo được vi chíp nhỏ nhất thế giới (90 nanomet) giúp cho việc sản
xuất điện thoại di động đa chức năng mới nhất, đến phóng nhiều vệ tinh
truyền thông, sản xuất mạch in trên 20 lớp, TV màn hình phẳng tinh thể lỏng
kỹ thuật số, thi
ết bị chủ trong công nghệ thông tin…
- Thành phố khoa học Daedok có diện tích 27,8 km

2
, tổ chức kiểu
thung lũng Silicon Hàn Quốc bao phủ 93 công viên khoa học xuất khẩu
chiếm diện tích 0,6km
2
; vùng nghiên cứu giáo dục và các phương tiện liên
quan chiếm 13,2km
2
; vùng xanh môi trường chiếm 11,8km
2
; diện tích cư trú
chiếm 2,2km
2
. Có 232 cơ quan trong thung lũng, gồm 9 cơ quan quản trị, 18
viện nghiên cứu được trợ giúp của chính phủ, 8 viện nghiên cứu được đầu tư
của chính phủ, 4 trường đại học đào tạo theo định hướng nghiên cứu, 6 viện
dịch vụ NC&PT, 29 trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghiệp và 158
công ty (đầu tư nghiên cứu và phát triển) và công ty mạo hiểm (venture
Companies). Trong thành phố khoa học này có phân vùng thuận lợi cho việc
nghiên cứu công nghệ
cao, tin học, sinh học.
1.1.1.3. Trung Quốc [16], [26]
Theo báo cáo mới công bố của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD), từ 2006 Trung Quốc đã nổi lên, vượt qua Nhật Bản, đứng thứ 2 sau
Mỹ về đầu tư cho nghiên cứu phát triển. Trung Quốc đã đầu tư nhiều tỷ USD
để đầu tư cho nghiên cứu phát triển, từ vị thế “công xưởng của thế giới” thành
“nguồn tri thức của thế giới”. Khoản tiền đầu tư này vượt Nhật Bản và chỉ
đứng sau Mỹ. Trong năm 2006, ba nước giành vốn nhiều nhất cho R & D là
Đề tài Cấp Bộ Công Thương năm 2008: “Nghiên cứu đề xuất cơ chế huy động vốn đầu tư chiều sâu
đổi mới công nghệ ngành Cơ khí phù hợp với quy định của WTO”


VIỆN NGHIÊN CỨU CƠ KHÍ

10
Mỹ (với 330 tỷ đô la), Trung Quốc (136 tỷ đô la) và Nhật Bản (với 130 tỷ đô
la)
1
. Hình 1.1 và 1.2 nêu ra một số hình ảnh về đầu tư cho nghiên cứu phát
triển của Trung Quốc thời gian gần đây.












Hình 1.1- Năm 2004 Trung Quốc phóng
thành công “Thần Châu”
Hình 1.2 - Một góc của công viên khoa học
Zonguancun (Bắc Kinh)

Theo ước tính, trong giai đoạn 1995 đến 2006 tỷ trọng ngân sách của
Trung Quốc dành cho lĩnh vực nghiên cứu phát triển đã tăng gấp đôi, từ 0,6%
lên đến 1,23% tổng quốc nội. Số chuyên gia nghiên cứu của Trung Quốc cũng
tăng lên 77%. Trong một thông cáo báo chí, Trưởng phòng chính sách KHCN

của OECD cho biết: “Có thể nói việc sử dụng ngân quỹ vào thực hiện công
việc nghiên cứu phát triển và số lượng các nhà nghiên cứu khoa học cho lĩnh
v
ực này của Trung Quốc tăng nhảy vọt thần kỳ trong những năm qua”.
Từ những năm đầu thập niên 1990, Trung Quốc đã đầu tư vào khoa học
công nghệ nano. Họ có mạng lưới gồm hơn 20 viện nghiên cứu, 50 trường
Đại học và hơn 300 công ty thương mại hoạt động trong lĩnh vực KHCN
nano. Với đội ngũ giỏi hùng hậu, ước tính khoảng hơn 3000 nhà khoa học,
trong đó nhi
ều người được đào tạo Châu Âu, Nhật Bản và Mỹ, Trung Quốc


1
Http:// www. Businessweek.com/ap/finacialnews/D8LQ0OI00.htm.
Đề tài Cấp Bộ Công Thương năm 2008: “Nghiên cứu đề xuất cơ chế huy động vốn đầu tư chiều sâu
đổi mới công nghệ ngành Cơ khí phù hợp với quy định của WTO”

VIỆN NGHIÊN CỨU CƠ KHÍ

11
được xếp vào một trong năm quốc gia đứng đầu thế giới về lĩnh vực đang
phát triển rất nhanh này.
Từ 1995 đến nay, họ còn tập trung cho nghiên cứu lĩnh vực điện hạt
nhân, điện nguyên tử và nghiên cứu không gian vũ trụ. Có thể nói việc đầu tư
cho nghiên cứu phát triển đã làm cho nền kinh tế của Trung Quốc phát triển
rất cao và hiệu quả rất lớ
n.
Một trong những thay đổi quan trọng nhất trong quá trình cải cách hệ
thống KH&CN ở Trung Quốc trong thời gian qua là các biện pháp thúc đẩy
thương mại hóa công nghệ, khuyến khích việc chuyển giao công nghệ và phổ

biến công nghệ. Các nhà làm chính sách Trung Quốc nhận thức được tầm
quan trọng trong việc nâng cao năng lực công nghệ của các doanh nghiệp, đặc
biệt là nâng cao nhu cầu về công nghệ của các doanh nghiệp đối với các
nguồn công nghệ trong nướ
c, từ đó hạn chế những công nghệ nhập khẩu
không phù hợp. Các chính sách tiêu biểu mà Chính phủ Trung Quốc thực
hiện, cụ thể như: Miễn thuế thu nhập công ty cho doanh thu từ chuyển giao
công nghệ, phát triển công nghệ, tư vấn hoặc các dịch vụ kỹ thuật liên quan:
Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp thiết lập các trung tâm nghiên cứu và
triển khai; sử dụng các biện pháp giá cả, tín dụng, khấu hao nhanh để khuyến
khích doanh nghi
ệp và khu vực nông thôn áp dụng công nghệ mới.
Hiện nay, Trung Quốc cũng rất chú trọng gửi sinh viên ra nước ngoài
học tập, trong đó có khoảng 36.000 sinh viên đang theo học tại các trường Đại
học ở Mỹ, nhà nước hàng năm cũng chi nhiều tỷ USD cho công tác này.
Trung Quốc đang thực thi “chiến lược cường quốc nhân tài và đạt trình độ
KHCN ngang tầm thế giới” . Kể từ năm 1978, khi Trung Quốc chủ trương
đường lối cải cách và mở cửa, đến nay đã có trên 700.000 sinh viên Trung
Quốc du học nước ngoài tại 100 nước khác nhau, con số này sẽ còn tăng lên
cao hơn nữa trong thời gian tới. Phần lớn trong số này đã là Tiến sĩ, Thạc sĩ,
đóng vai trò tích cực trong các cơ sở sản xuất và kinh doanh. Trong khi đó,
350.000 sinh viên khác đang tiếp tục việc học lên cao, hay đang nghiên cứu ở
nước ngoài. Số sinh viên còn lại (khoảng 180.000 người) đã chọ
n con đường
ở lại nước ngoài để làm việc sau khi tốt nghiệp. Một số người dù cư trú ở
nước ngoài song vẫn thường xuyên về nước để tham gia hợp tác nghiên cứu
khoa học, giảng dạy và xây dựng cơ sở trong các Công viên lập nghiệp. Trong
khi đó, vào cuối năm 2003, đã có 77% các vị lãnh đạo và 80% các nhà Hàn
lâm tại Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc (viết tắt là CAS - Chinese
Academy of Sciences) và Viện Hàn lâm Kỹ thuật (CAE- Chinese Academy of

Enginering) đi tu nghi
ệp ở nước ngoài.
Đề tài Cấp Bộ Công Thương năm 2008: “Nghiên cứu đề xuất cơ chế huy động vốn đầu tư chiều sâu
đổi mới công nghệ ngành Cơ khí phù hợp với quy định của WTO”

VIỆN NGHIÊN CỨU CƠ KHÍ

12
Về việc cải cách công tác quản lý nhân tài và chuyên gia, Trung Quốc
thực hiện công việc cải cách công tác quản lý nhân tài và chuyên gia mà một
trong những nhiệm vụ cấp bách này, Trung Quốc sẽ hình thành một hệ thống
đánh giá mới và một cơ chế tuyển dụng mang định hướng thị trường - như
Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã đề nghị phải: "kiên trì cải cách theo hướng thị
trường đ
iều phối nguồn nhân tài".
Trung Quốc đã thành lập nhiều công viên khoa học. Tới nay, chính phủ
Trung Quốc đã hình thành trên 70 Công viên (Khoa học - Kỹ nghệ) lập
nghiệp để dành cho các sinh viên hải ngoại trở về và khởi nghiệp trong ấy, với
những hỗ trợ về vốn vay để lập nghiệp, kể cả hỗ trợ cho họ và người thân
trong chế độ thường trú ở Trung Quốc .
Đặc trưng n
ổi bật của hệ thống KHCN Trung Quốc là có quá nhiều cán
bộ dôi dư, không có trình độ cộng với việc thiếu kinh phí dành cho nghiên
cứu. Ví dụ theo ước tính tại thời điểm năm 1999 trong tổng số 130.000 cán bộ
nghiên cứu trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn chỉ có khoảng
70.000 cán bộ được xếp vào nhóm cán bộ có hoạt động nghiên cứu. Con số
này cao gấp 3 lần của Mỹ và Liên Xô trong cùng ngành. Điều này thể hiện số
lượ
ng đông đảo cán bộ dôi dư và cán bộ không đủ trình độ của hệ thống
nghiên cứu. Hệ số cán bộ nghiên cứu/triệu USD GDP nông nghiệp của Trung

Quốc là 0.40 cao hơn nhiều lần so với hệ số này của Mỹ (0.14), Nhật Bản
(0.13) và Ấn Độ (0,16) và tương đương với hệ số này của Liên Xô cũ (0.46).
Có thể nói đây là vướng mắc cơ bản mà cả Trung Quốc và Việt Nam chư
a
giải quyết triệt để được.
Bên cạnh chính sách kích thích nghiên cứu gắn với kết quả thương mại
hoá như trên, Trung Quốc cũng ban hành nhiều chính sách quan trọng để thu
hút nhân tài về làm việc tại các tổ chức KHCN. Trung Quốc cho phép mời các
chuyên gia, các nhà quản lý tài ba trên thế giới (bao gồm Hoa kiều, chuyên
gia nước ngoài) về làm cấp phó (Viện phó, Phó Giám đốc trung tâm) ở các tổ
chức KHCN. Ngoài ra Trung Quốc còn có chính sách trợ cấp nhà ở cho các
cán bộ KHCN, chính sách ưu đãi cho con em cán b
ộ KHCN được đi học tại
các trường chuẩn. Bên cạnh đó, các tổ chức KHCN cũng được yêu cầu thiết
lập các Quỹ nghiên cứu khởi động để dành cho các nhà khoa học trẻ, tài năng
bắt đầu cho sự nghiệp nghiên cứu của mình.
Về vấn đề đầu tư mạo hiểm (ĐTMH), năm 1985 Chính phủ thành lập
Tổng Công ty Quỹ ĐTMH nhằm mục tiêu phát triển công nghê (với v
ốn khởi
đầu 40 triệu nhân dân tệ, khoảng 5 triệu USD). ĐTMH chính thức xuất hiện
vào năm 1986 khi Bộ tài chính và Ủy ban Khoa học Công nghệ Trung Hoa
Đề tài Cấp Bộ Công Thương năm 2008: “Nghiên cứu đề xuất cơ chế huy động vốn đầu tư chiều sâu
đổi mới công nghệ ngành Cơ khí phù hợp với quy định của WTO”

VIỆN NGHIÊN CỨU CƠ KHÍ

13
thành lập Công ty ĐTMH chuyên đầu tư vào các doanh nghiệp dựa vào công
nghệ mới, hoạt động như một DNNN nhưng được sử dụng như một công cụ
nhằm mục tiêu của chính sách phát triển ngành công nghiệp mạo hiểm hơn là

hướng vào lợi nhuận như một doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, trong thời
gian đó, ĐTMH vẫn được coi là hoạt động tài trợ của Nhà nước cho những
công nghệ mới và ý t
ưởng sáng tạo hơn là một ngành công nghiệp. Chỉ sau
năm 1998, khi chính sách cho phép thành lập các công ty ĐTMH được ban
hành và kéo theo sự ra đời của hàng loạt các công ty hoạt động như một
doanh nghiệp hướng vào lợi nhuận thì ĐTMH mới thực sự phát triển. Đến
năm 2002, Trung Quốc có khoảng 210 doanh nghiệp ĐTMH, trong đó 160
doanh nghiệp trong nước có 50 doanh nghiệp nước ngoài là một trong những
kênh cung cấp nguồn vốn cho các ý tưởng sáng tạo và doanh nghiệp công
nghệ m
ới thành lập.
1.1.1.4. Một số nước Châu Âu [16], [26]
Với sức lan tỏa và sự ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của quá trình toàn
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các nước trên thế giới hiện nay đều có xu
hướng tiếp tục xây dựng kế hoạch/chiến lược quốc gia về phát triển KH&CN
và đổi mới công nghệ hoặc sửa đổi Chiến lược phù hợp với
điều kiện hiện tại
(xem Bảng 1.1).
Bảng 1.1 - Kế hoạch của một số nước về phát triển khoa học, công nghệ
*)
Nước
Kế hoạch
hành động
Thời gian
thực hiện
Mục tiêu kế hoạch
Phần Lan Khoa học,
công nghệ
và đổi mới

công nghệ.
2007 – 2011 Tăng tỷ lệ chi cho KH&CN từ 3,5% lên 4% GDP vào
cuối năm 2010; xúc tiến hệ thống đổi mới công nghệ,
nâng cao chất lượng các nghiên cứu; tăng trưởng
nguồn nhân lực.
Italia Chương
trình quốc
gia về
KH&CN
2005 – 2007 Hỗ trợ vào nghiên cứu cơ bản, tăng cường mối quan
hệ giữa các trường đại học và doanh nghiệp.
Thụy Điển Đổi mới hệ
thống công
nghệ
Từ năm 2005 Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia bằng cách
đẩy mạnh phổ biến tri thức. Thúc đẩy đổi mới công
nghệ và đầu tư công
*)
Nguồn: OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ) 2005.
Đề tài Cấp Bộ Công Thương năm 2008: “Nghiên cứu đề xuất cơ chế huy động vốn đầu tư chiều sâu
đổi mới công nghệ ngành Cơ khí phù hợp với quy định của WTO”

VIỆN NGHIÊN CỨU CƠ KHÍ

14
Nhìn chung, thông qua các chiến lược này kế hoạch hành động, các
nước đều đưa ra chính sách để tăng tỷ lệ chi phí đầu tư cho R&D ( ví dụ, mục
tiêu các nước EU tăng tỷ lệ chi này lên đến 3% GDP vào năm 2010) và đưa
ra nhiều biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn vào R&D cũng như
hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ. Trong đó, các

biện pháp hỗ trợ chính là tài trợ qua d
ự án và hỗ trợ gián tiếp thông qua thuế.
* Tài trợ (hỗ trợ) trực tiếp
Hỗ trợ trực tiếp cho đổi mới của doanh nghiệp bằng các hình thức tài
trợ hoặc bao cấp hoặc cho vay tín chấp là những hình thức hỗ trợ doanh
nghiệp có xu hướng tăng lên trong thời gian gần đây nếu so với các hình thức
hỗ trợ gián tiếp khác (như thuế) ở các nước Áo, Phần Lan, Hà Lan, Nauy và
Anh.

m 2005, chính phủ Áo đã ban hành Chiến lược 2010, theo đó sẽ
nhấn mạnh giữa những chủ thể trong hệ thống đổi mới. Một trong ba cột trụ
là tăng cường hệ thống và hợp tác giữa khoa học và công nghiệp. Để tăng
cường quá trình đổi mới công nghệ, Hội đồng nghiên cứu và phát triển công
nghệ Áo (RTD) đã đề nghị tăng cường hơn nữa giữa hợp tác R&D. Hai vấn
đề còn lại là nâng cao chất lượng nghiên cứu trong lĩnh vực R&D và cải thiện
hiệu quả của hệ thống hỗ trợ tài chính. Chiến lược này cũng bổ sung thêm Kế
hoạch hành động quốc gia về nghiên cứu và đổi mới công nghệ được sử dụng
thông qua của RTD, một cơ quan tư vấn cho Chính phủ.
Chính phủ mới Phần Lan cũng nhấn mạnh tăng cường và duy trì khả
năng c
ạnh tranh quốc gia thông qua thúc đẩy R&D, nâng cao năng suất,
Hội đồng chính sách KH&CN cũng nhấn mạnh thành công trong đổi mới
công nghệ là nhân tố quan trọng để cho doanh nghiệp và xã hội phát triển. Do
vậy, năm 2005 Chính phủ Phần Lan đã quyết định tăng ngân sách cho Tekes
(cơ quan chịu trách nhiệm hỗ trợ đổi mới công nghệ Phần Lan) một khoản
tiền 30 triệu EUR và cho Học viện Phần Lan 20 triệu EUR trong năm 2006-2007.
Dự thảo Luậ
t đổi mới công nghệ ở Hà Lan dự kiến sẽ thay đổi các
chính sách về nghiên cứu vào năm 2007 – 2008. Hiện tại các biện pháp hỗ trợ
đổi mới công nghệ đang chỉ phù hợp hỗ trợ tài chính cho các chương trình và

dự án mà không có hỗ trợ lẫn nhau giữa các chương trình và dự án. Một
khung khổ chính sách thống nhất sẽ cho phép linh động và hiệu quả đối với
các chương trình. Dự thảo Luật đổi mới công ngh
ệ đảm bảo hỗ trợ tài chính
khung khổ này. Điều này cũng cho phép loại bỏ những phân biệt giữa các
Đề tài Cấp Bộ Công Thương năm 2008: “Nghiên cứu đề xuất cơ chế huy động vốn đầu tư chiều sâu
đổi mới công nghệ ngành Cơ khí phù hợp với quy định của WTO”

VIỆN NGHIÊN CỨU CƠ KHÍ

15
chương trình với nhau được sự tài trợ bởi các tổ chức nghiên cứu và các tập
đoàn lớn.
Trong khung khổ chiến lược phát triển, Chính phủ Anh đưa ra nhiều
chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực KH&CN, với mục
tiêu tăng đầu tư từ khu vực này từ 1,25% GDP lên 1,7% GDP vào cuối thập
kỷ này. Chiến lược này nhằm mục tiêu thu hẹp khoảng cách tỷ lệ đầu tư vào
KH&CN và đổi m
ới công nghệ ở khu vực doanh nghiệp của các nước hàng
đầu EU và Hoa Kỳ trong khu vực công nghiệp. Khung khổ chiến lược 10 năm
đã phác thảo các biện pháp hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp về đổi mới công nghệ
để đạt được mục tiêu trên. Cùng với chiến lược phát triển công nghệ trên,
Cộng Hoà Anh còn có các chương trình nghiên cứu hợp tác và phát triển,
chương trình hệ thống chuyển giao tri thức, diễn đàn khoa học Anh cũ
ng hỗ
trợ cho các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp trong lĩnh vực KH&CN và đổi mới
công nghệ.
1.1.2. Trong nước về đầu tư khoa học công nghệ và đổi mới công nghệ
1.1.2.1. Khoa học công nghệ và nghiên cứu phát triển [2], [10], [12], [26]
1.1.2.1.1. Thực trạng chung

Cho đến nay, chúng ta có Luật Khoa học Công nghệ, ban hành ngày
09/6/2000, Luật sở hữu trí tuệ ban hành ngày 29/11/2005, Luật chuyển giao
công nghệ ban hành ngày 29/11/2006,.v.v…. Các luật này cùng với các nghị
định, quy định dưới luật của Chính phủ và các B
ộ/Ngành có liên quan đã bắt
đầu phát huy tốt hiệu quả trong nền kinh tế.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (xem Bảng 1.2), từ năm 2002 đến
2007 tốc độ tăng GDP hàng năm từ 7,08 (năm 2002) đến 8,48 % (năm 2007)
và đầu tư của Nhà nước hàng năm cho khoa học công nghệ và môi trường
biến động từ 0,82% đến cao nhất 1,25% tổng chi ngân sách nhà nước (từ
0,279 đến 0,337% GDP).

×