BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH
NGUYỄN THỊ LIỄU
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC VỀ NGƯỜI BỆNH
TÂM THẦN PHÂN LIỆT CỦA NGƯỜI NHÀ NGƯỜI BỆNH
TẠI VIỆN SỨC KHOẺ TÂM THẦN
BỆNH VIỆN BẠCH MAI NĂM 2022
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
NAM ĐỊNH - 2022
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH
NGUYỄN THỊ LIỄU
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC VỀ NGƯỜI BỆNH
TÂM THẦN PHÂN LIỆT CỦA NGƯỜI NHÀ NGƯỜI BỆNH
TẠI VIỆN SỨC KHOẺ TÂM THẦN
BỆNH VIỆN BẠCH MAI NĂM 2022
Chuyên ngành: Điều dưỡng Tâm thần
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
Ths. Đỗ Thị Thu Hiền
NAM ĐỊNH – 2022
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .........................................................................................................i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................... iii
DANH MỤC BẢNG ............................................................................................. iv
DANH MỤC BIỂU, HÌNH ẢNH .......................................................................... v
ĐẶT VẤN ĐỀ ........................................................................................................ 1
Chương 1................................................................................................................ 3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .................................................................... 3
1. Cơ sở lý luận ................................................................................................... 3
1.2. Dịch tễ học bệnh TTPL................................................................................ 4
1.3. Các giả thuyết bệnh nguyên, bệnh sinh của TTPL .................................... 5
1.4. Biểu hiện lâm sàng của TTPL ..................................................................... 6
1.5. Tiêu chuẩn chẩn đoán Tâm thần phân liệt ................................................. 7
1.6. Tiến triển và tiên lượng TTPL .................................................................... 8
1.7. Điều trị tâm thần phân liệt ........................................................................ 11
2. Cơ sở thực tiễn .............................................................................................. 12
Chương 2............................................................................................................... 17
2.1.Khái quát Viện Sức Khỏe Tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai ..................... 17
2.2.1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu ................................................. 19
2,2.2. Kết quả nghiên cứu ................................................................................. 20
Chương 3.............................................................................................................. 27
BÀN LUẬN .......................................................................................................... 27
3.1. Thực trạng kết quả chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt ................. 27
3.1.1. Ưu điểm ................................................................................................... 27
3.1.2. Nhược điểm ............................................................................................. 28
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 30
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP .................................................................................... 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 32
i
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn đến q thầy cơ trong Ban giám hiệu,
Phịng đào tạo sau đại học, Bộ môn Tâm thần kinh trường Đại học Điều Dưỡng Nam
Định đã tạo điều kiện cho em được học tập tại trường Đại học Điều Dưỡng Nam Định để
em được rèn luyện, phấn đấu và hồn thành chun đề tốt nghiệp này.
Tơi xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban giám đốc Viện Sức khỏe Tâm
Thần, lãnh đạo các phịng cùng tồn thể các bác sỹ và điều dưỡng tại Viện Sức khỏe Tâm
Thần, nơi tôi công tác và làm việc đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong thời gian nghiên
cứu và thực hiện chuyên đề tốt nghiệp.
Đặc biệt, em xin gửi đến cô giáo Ths. Đỗ Thị Thu Hiền – Giảng viên bộ môn
Tâm thần kinh trường Đại học Điều Dưỡng Nam Định lời cảm ơn chân thành và sự tri ân
sâu sắc nhất. Người đã trực tiếp giảng dạy, tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo, cung cấp tài liệu
và những kiến thức quý báu giúp đỡ em trong suốt q trình học tập, nghiên cứu và hồn
thiện chun đề này.
Cuối cùng, tơi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn bên cạnh, ủng hộ,
động viên tôi.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 09 tháng 10 năm 2022
Nguyễn Thị Liễu
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Nguyễn Thị Liễu, học viên lớp Điều dưỡng chuyên khoa I khoá 9, Trường
Đại học Điều Dưỡng Nam Định, xin cam đoan:
1. Đây là chuyên đề do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của Ths.
Đỗ Thị Thu Hiền.
2. Cơng trình này không trùng lập với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã được công bố
tại Việt Nam.
3. Các thông tin trong chun đề là hồn tồn chính xác, trung thực và khách quan,
đã được xác nhận và chấp nhận của cơ sở nghiên cứu.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Nam Định, ngày
tháng
Học viên
Nguyễn Thị Liễu
năm 2022
iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
WHO, TCYTTG
ICD-10
Tố chức Y tế Thế giới
Bảng phân loại bệnh Quốc tế lần thử 10
BYT
Bộ Y tế
TTPL
♦ thần phân liệt
Tâm
ATK
An thẩn kinh
CTMTQG
Chương trình mục tiêu quồc gia
CSSKTT
Chăm sóc sức khỏe tâm thần
NCKHKT
Nghiên cứu khoa học kỹ thuật
NC
Nghiên cứu
NB
Người bệnh
iv
DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 1. Số lần vào viện...............................................................
24
Bảng 2. Thời gian bị bệnh...........................................................
24
Bảng 3. Nguyên nhân tái phát.....................................................
25
Bảng 4. Kiến thức về bệnh TTPL...............................................
25
Bảng 5. Hiểu biết về nguyên nhân gây bệnh TTPL....................
26
Bảng 6. Kiến thức về sử dụng thuốc ATK..................................
26
Bảng 7. Nguyên nhân bỏ điều trị.................................................
26
Bảng 8. Kiến thức về thời gian điều trị.......................................
27
Bảng 9. Nhận thức về tiến triển của bệnh TTPL.........................
27
Bảng 10. Kiến thức về tái khám..................................................
28
v
DANH MỤC BIỂU, HÌNH ẢNH
Trang
Biểu đồ 1. Nhóm tuổi..................................................................
22
Biểu đồ 2. Trình độ học vấn........................................................
23
Biểu đồ 3. Nghề nghiệp...............................................................
23
Hình 1. Hình ảnh Viện Sức khỏe Tâm Thần...............................
19
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tâm thần phân liệt (TTPL) là một bệnh rối loạn tâm thần nặng, có khuynh hướng
tiến triển mạn tính, căn nguyên hiện nay chưa được làm rõ, làm cho người bệnh tách dần
khỏi cuộc sống thực tại bên ngoài, thu dần vào thế giới bên trong, cảm xúc khô lạnh, tư
duy nghèo nàn, lệch lạc trầm trọng về hình thức và nội dung, khả năng làm việc, học tập
ngày một sút kém, hành vi tác phong kỳ dị, khó hiểu.
Bệnh Tâm thần phân liệt là bệnh được biết đến từ sớm và khá phổ biến ở nước ta
cũng như trên Thế giới. Theo các số liệu thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, tỉ lệ người
bệnh tâm thần phân liệt chiếm 0,3 - 1,2% dân số. Theo H.Hafner thì TTPL ở Italia là
0,8%, ở Anh, Áo và Canada là 1 - 2%, ở Đan Mạch là 0,8%, ở Pháp 0,65 - 0,83% và Đức
0,85%.
Ở Việt Nam, theo báo cáo của Chương trình Quốc gia năm 2012 về Điều tra cơ
bản từ 63 tỉnh thành trong cả nước, tỷ lệ mắc bệnh TTPL là 0,3 - 1%. Bệnh TTPL thường
biểu hiện lâm sàng rất đa dạng và phức tạp, nguyên nhân gây bệnh chưa rõ ràng, bệnh có
xu hướng tiến triển mạn tính và thường có những đợt tái phát cấp. Điều trị bệnh TTPL
phải điều trị lâu dài. Phương pháp điều trị bệnh TTPL sẽ rất khả thi khi kết hợp đồng bộ
các liệu pháp sinh học, tâm lý liệu pháp và phục hồi chức năng. Tuy nhiên người bệnh chỉ
vào viện điều trị nội trú khi có diễn biến nặng trong những đợt cấp, cịn chủ yếu là điều trị
ngoại trú tại cộng đồng.
Điều tra nhận thức của người nhà người bệnh về bệnh tâm thần phân liệt giúp
chúng ta nhận biết được những sai lầm trong nhận thức của người nhà người bệnh về
bệnh này, từ đó có cách tiếp cận và hồ trợ, tư vấn cho người nhà hiểu biết rõ ràng hơn về
bệnh TTPL để có những chăm sóc, quản lý người bệnh đúng đắn hơn, giảm thiểu tối đa
các biến chứng và nguy cơ tái phát bệnh. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, các cơng trình
nghiên cứu về khía cạnh này cịn ít. Ở Bệnh viện Qn Y 103 năm 2015 có nhóm nghiên
cứu tại Khoa Tâm thần với đề tài nghiên cứu khoa học “Khảo sát nhận thức của bệnh
nhân và người chăm sóc bệnh nhân về bệnh Tâm thần phân liệt”, từ nghiên cứu cho thấy
những nhận thức về bệnh tâm thần phân liệt của người bệnh và người nhà người bệnh
còn hạn chế, đặc biệt là kiến thức về tuân thủ phác đồ điều trị. (Theo nghiên cứu của tác
giả Phạm Xuân Trường, Nguyễn Văn Doanh - Bộ môn Thần kinh - Bệnh viện Quân Y
103 năm 2015).
2
Để nâng cao nhận thức của người nhà người bệnh trong cơng tác chăm sóc người
bệnh TTPL tại Viện sức khỏe tâm thần – Bệnh viện Bạch Mai, tôi tiến hành nghiên cứu
Đề tài: “Thực trạng kiến thức về người bệnh tâm thần phân liệt của người nhà
người bệnh tại Viện Sức khoẻ tâm thần- Bệnh viện Bạch Mai năm 2022” với hai mục
tiêu sau:
1. Thực trạng kiến thức về người bệnh tâm thần phân liệt của người nhà người bệnh
tại Viện Sức khoẻ tâm thần- Bệnh viện Bạch Mai năm 2022
2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao kiến thức về người bệnh tâm thần phân liệt của
người nhà người bệnh tại Viện Sức khoẻ tâm thần- Bệnh viện Bạch Mai
3
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm và lịch sử nghiên cứu Tâm thần phân liệt
Thuật ngữ “schizophrenia” được gọi là “Tâm thần phân liệt” bắt nguồn từ chữ Hy
Lạp: “Schizo” có nghĩa là chia tách, phân rời và “Phrenia” có nghĩa là tâm thần. TTPL là
một bệnh hay chính xác hơn là một nhóm bệnh có bệnh sinh khác nhau. Bệnh tương đối
phổ biến, nguyên nhân chưa rõ ràng, tiến triển và tiên lượng rất khác nhau và thường hay
khởi phát ở lứa tuổi trẻ.
Bệnh TTPL được nhà tâm thần học người Đức Griesinger mô tả lần đầu tiên vào
thế kỷ XVII với tên gọi “Sa sút tiên phát ” (Primary dementia). Nhà tâm thần học người
Pháp Morel B.A. dùng thuật ngữ “Sa sút sớm” (Demence précoce) để chỉ những người
bệnh mắc bệnh ở tuổi trẻ và tiến triển đến sa sút tâm thần. Năm 1871 Hecker E. mô tả
một thể bệnh gọi là “Thanh xuân” (Hebephrenia). Năm 1874 Kalbaum K.L. gọi là “Căng
trương lực” (Catatonia). Năm 1882, nhà tâm thần học Nga Candinxki đưa ra khái niệm
bệnh tâm thần tư duy (Ideophrenia), được mô tả là một bệnh độc lập, mà triệu chứng học
dựa trên những nét cơ bản phù hợp với bệnh tâm thần phân liệt hiện nay.
Năm 1898 Kraepelin E, nhà tâm thần học người Đức đã thống nhất các thể bệnh
độc lập của các tác giả dưới tên gọi: Bệnh sa sút sớm (Demence précoce). Đến năm 1911
Bleuler D.E, nhà tâm thần học người Thụy Sỹ dựa trên cơ sở phân tích sa sút sớm về
bệnh học tâm thần, đã đi đến kết luận rằng, rối loạn chủ yếu nhất trong đó là sự chia cắt,
phân liệt, khơng thống nhất về các hoạt động tâm thần và đề xuất tên gọi mới là “tâm
thần phân liệt - schizophrenia”. Tên “Tâm thần phân liệt” được chấp nhận và sử dụng cho
đến ngày nay.
Trước đây, theo quan điểm của các tác giả Liên Xô cũ thường dựa vào các triệu
chứng âm tính để chẩn đốn bệnh tâm thần phân liệt: tự kỷ, thế năng tâm thần giảm sút.
Tuy nhiên đây là những triệu chứng rất dễ nhầm lẫn với các triệu chứng của hội chứng
trầm cảm, sa sút trí tuệ.
Theo Bảng Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (ICD-10), các triệu chứng dương
tính đặc trưng của bệnh là các rối loạn về tư duy như các hoang tưởng, rối loạn tri giác
như là các ảo thanh và các hiện tượng tâm thần tự động...và là triệu chứng quyết định
chẩn đốn, các triệu chứng âm tính như vơ cảm rõ rệt, ngôn ngữ nghèo nàn, các đáp ứng
4
cảm xúc cùn mịn hay khơng thích hợp... cũng đóng vai trò trong việc xác định bệnh.
Tâm thần phân liệt là một bệnh rối loạn tâm thần nặng, có khuynh hướng tiến triển
mạn tính, căn nguyên hiện nay chưa được làm rõ. Những biểu hiện của bệnh gồm các
triệu chứng rối loạn về tư duy, nhận thức, cảm xúc, tri giác...gây khó khăn trong việc giao
tiếp với mọi người xung quanh. Biểu hiện đặc trưng của bệnh là những triệu chứng loạn
thần như hoang tưởng nhất là hoang tưởng bị chi phối, ảo giác, nhất là ảo thanh bình
phẩm hoặc ảo thanh ra lệnh, hội chứng tâm thần tự động...Nếu khơng được điều trị sớm
và tích cực, bệnh sẽ làm biến đổi nhân cách người bệnh một cách sâu sắc, làm cho người
bệnh khó khăn trong học tập, giảm hoặc mất khả năng lao động và khả năng tự lập trong
cuộc sống.
1.2. Dịch tễ học bệnh TTPL
TTPL là một bệnh tương đối phổ biến trên Thế giới. Theo các thống kê của nhiều
nước, tỷ lệ bệnh chiếm 0,3 - 1,5% dân số. Tuy nhiên tỷ lệ này rất khác nhau ở những
quốc gia khác nhau và tùy từng nghiên cứu của các tác giả khác nhau. Theo H.Hher
(1998) thì TTPL ở Italia là 0,8 %, ở Anh, Áo và Canada là 1-2%, ở Đan Mạch là 0,8%, ở
Pháp 0,65 - 0,83% và Đức 0,85%. Ở Mỹ và Canada khi áp dụng tiêu chuẩn chẩn đốn
DSM - IV nghiên cứu thì cho thấy có 0,25 - 0,5% dân số được điều trị TTPL hàng năm,
trong đó có tới 2/3 các người bệnh được điều trị nội trú trong các bệnh viện chuyên khoa.
Ở Việt Nam tỷ lệ mắc bệnh TTPL là 0,7% dân số, Hà Bắc 1%, Biên Hòa 1,2% và
Đà Nẵng 0,52% (Điều tra 10.000 dân ở một khu phố Đà Nằng). Bệnh có xu hướng phát
triển kéo dài và hàng năm gia tăng thêm 1,5/10.000 dân. Năm 1981 Trần Văn Cường,
Nguyễn Khánh Hợi điều tra tâm thần ở xã Hịa Bình. Nguyễn Thị Mai và cộng sự điều tra
về các bệnh tâm thần tại phường Lê Đại Hành, Hà Nội. Nguyễn Văn Siêm và cộng sự
điều tra Handicap tâm thần ở 4 xã phường Hà Nội, năm 1994 được sự giúp đỡ của
TCYTTG khu vực Tây Thái Bình Dương, ngành Tâm thần Việt Nam đã tiến hành điều
tra tâm thần tại 3 điểm: Tự Nhiên, Quất Động, Tiên Kiên. Các nghiên cứu trên cho thấy
tỷ lệ mắc TTPL dao động từ 0,3 - 1% dân số.
Bệnh thường phát sinh ở lứa tuổi trẻ (Từ 20 - 40), trong đó có tới 48% khởi phát ở
lứa tuổi 20 - 29 tuổi. Theo số liệu thống kê của ngành tâm thần học Việt Nam (2002), tỷ
lệ mắc TTPL trên 67.380 dân được điều tra là 0,47% và 90% nười bệnh TTPL được điều
trị trong độ tuổi từ 15 - 54 tuổi.
Tỷ lệ mắc bệnh ở cả nam và nữ là tương đương nhau, song nữ có xu hướng khởi
5
phát muộn hơn nam (Ở nam từ 15 - 25 tuổi, ở nữ từ 25 - 35 tuổi).
1.3. Các giả thuyết bệnh nguyên, bệnh sinh của TTPL
1.3.1. Giả thuyết về di truyền học
Các cơng trình nghiên cứu về miễn dịch và di truyền học cho thấy TTPL là một
bệnh có bản chất sinh học. Người ta cho rằng yếu tố di truyền trong TTPL không phải
theo mẫu di truyền cổ điển của Mendel mà là đa gen gây ra một hậu quả.
Theo Kallman: nếu cha hoặc mẹ một người mắc bệnh TTPL thì 16,4% số con mắc
bệnh này; khi cả cha mẹ đều mắc thì tỷ lệ đó tăng tới 68,1%. 14,3 các anh chị em ruột của
người mắc bệnh TTPL bị mắc bệnh này. Nếu một đứa trẻ sinh đơi cùng trứng mắc bệnh
TTPL thì 86,2% trẻ kia cũng mắc bệnh. Ở những đứa trẻ sinh đôi hai trứng tỷ lệ này giảm
xuống 16,4%.
Trong khi tỷ lệ TTPL phổ biến ở cộng đồng là 1% thì nguy cơ bị bệnh ở những
người họ hàng cùng huyết thống mức độ I (Bố, mẹ, ông, bà, anh chị em ruột) của bệnh
nhân TTPL là từ 3% - 7%.
1.3.2. Giả thuyết các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển trong thời kỳ thai sản
Các yếu tố nguy cơ trong thời kỳ mang thai: Mẹ trong thời kỳ mang thai bị nhiễm
virus, thiếu dinh dưỡng. Suy thai là một trong những nguyên nhân gây ra các bệnh như
liệt hoặc chậm phát triển tâm thần. Những thai phụ bị tiền sản giật, con của họ có nguy cơ
bị bệnh TTPL cao hơn nhiều so với người bình thường. Cân nặng của trẻ sơ sinh thấp
cũng có liên quan tới sự gia tăng nguy cơ bị bệnh TTPL.
1.3.3. Giả thuyết về yếu tố môi trường văn hóa
- Mơi trường gia đình
Nhiều tác giả cho rằng tác động qua lại trong mơi trường gia đình là một yếu tố
bệnh sinh quan trọng của bệnh TTPL. Gia đình có bố mẹ ln cơng kích lẫn nhau, mối
quan hệ giữa các thành viên gia đình rất lạnh lùng, khơng khăng khít đóng vai trị quan
trọng trong bệnh sinh của TTPL.
- Mơi trường văn hóa
Mơi trường văn hóa trong việc phát sinh bệnh TTPL đã được nghiên cứu và giải
thích khác nhau giữa khu vực thành thị và nơng thơn, có ý kiến cho rằng người bệnh sinh
ở thành phố có nguy cơ mắc bệnh TTPL cao hơn ở nông thôn 2 lần. Một số tác giả cho
rằng, điều kiện kinh tế, yếu tố dinh dưỡng, vệ sinh và chăm sóc sức khỏe cho mọi người
là chính chứ khơng phải mơi trường văn hóa.
6
1.3.4. Các giả thuyết về sinh hóa
Giả thuyết Dopamine: Người ta nhận thấy có sự rối loạn của hệ thống
Dopaminergic (DA) ở trong não của các người bệnh TTPL bao gồm: Sự giải phóng quá
nhiều Dopamin ở màng trước sinap...các thuốc giảm hoạt tính thụ thể Dopamin như các
thuốc an thần kinh đều làm giảm triệu chứng của bệnh.
Giả thuyết về hệ Serotonin: Hệ tiết Serotonin (5HT) trung ương có chức năng
kiểm soát sự tổng hợp DA ở thân tế bào...trong bệnh TTPL người ta nhận thấy sự mất cân
bằng giữa hệ tiết Dopamin và Serotonin trung ương.
Một số các giả thuyết về các chất dẫn truyền thần kinh khác như: Glutamate, hệ
thống GABA có liên quan đến phát sinh bệnh TTPL.
1.4. Biểu hiện lâm sàng của TTPL
1.4.1. Nhóm triệu chứng âm tính
Theo quan điểm của Blueler. P.E, triệu chứng âm tính là nền tảng của q trình
phân liệt. Đó là các triệu chứng thể hiện sự tiêu hao mất mát các hoạt động tâm thần, mất
tính tồn vẹn, tính thống nhất của hoạt động tâm thần. Những triệu chứng âm tính thường
gặp là:
Các rối loạn cảm xúc: Cảm xúc cùn mịn, cảm xúc khơng thích hợp, các biểu
hiện khác...
Các rối loạn tư duy: Ngôn ngữ nghèo nàn: Cứng nhắc, giảm vốn từ, lượng từ khi
giao tiếp, giảm sút các ý tưởng diễn đạt, nội dung sơ sài, đơn điệu, đôi khi vô nghĩa. Tư
duy chậm chạp, tư duy ngắt qng...
Rối loạn hoạt động có ý chí: Thiếu ý chí, thụ động, thiếu sáng tạo, giảm khả năng
duy trì và kiểm sốt hoạt động có ý chí, tác phong ngày càng trở lên tha hóa, giảm hoặc
mất hoạt động chăm sóc bản thân
1.4.2. Nhóm triệu chứng dương tính
Rối loạn hình thức tư duy: Tư duy phi tán, tư duy dồn dập quá trình liên tưởng
của người bệnh rất nhanh, các ý tưởng xuất hiện nổi tiếp nhau nhưng nội dung nơng cạn,
xuất hiện dồn dập đủ mọi ý nghĩ ngồi ý muốn của người bệnh.
Rối loạn nội dung tư duy: Hoang tưởng là triệu chứng thường gặp ở người bệnh
TTPL. Nội dung hoang tưởng rất đa dạng, phong phú. Hoang tưởng hay gặp là hoang
tưởng bị chi phối. Các loại khác như hoang tưởng bị hại, hoang tưởng liên hệ, hoang
tưởng ghen tuông, hoang tưởng tự cao, hoang tưởng phát minh, hoang tưởng được yêu,
7
hoang tưởng kỳ quái cũng thường gặp.
Các rối loạn tri giác: Ảo thanh: Người bệnh nghe thấy âm thanh phát ra từ các bộ
phận trên cơ thể... Đây là những ảo thanh khá điển hình trong bệnh TTPL; Ảo thị: Cũng
thường gặp và hay kết hợp với ảo thanh, ảo giác vị giác và ảo giác xúc giác hiếm gặp.
Các rối loạn hoạt động: Rối loạn hoạt động ở người bệnh TTPL rất đa dạng và
phong phú. Có thể có những hành vi thô bạo, hung hãn, đi lại không mục đích...,các rối
loạn này có thể là do hoang tưởng, ảo giác chi phối. Kích động: Là những động tác si dại,
lố bịch, vơ nghĩa, nhảy nhót, gào thét, đập phá, đánh người...Kích động căng trương lực:
Với những động tác dị thường, vơ nghĩa định hình, giữ ngun dáng, có khi là những
xung động bất thường xen lẫn bất động.
Các rối loạn hoạt động bản năng: Rối loạn giấc ngủ, rối loạn ăn uống, rối loạn
bản năng tình dục; những xung động bản năng như: Xung động đi lang thang, xung động
trộm cắp, xung động đốt nhà, xung động giết người.
1.5. Tiêu chuẩn chẩn đoán Tâm thần phân liệt
Hiện nay bệnh TTPL thường được chẩn đoán theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế
Thế giới hoặc Hội Tâm thần học Mỹ.
Ở Việt Nam hiện nay đang áp dụng tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh TTPL của Tổ chức
Y tế Thế giới.
Tiêu chuẩn chấn đoán bệnh TTPL của Tổ chức Y tế Thế giới.
Theo Báng Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (ICD-10) 1992 chẩn đoán bệnh
TTPL phải dựa vào 9 nhóm triệu chứng lâm sàng sau và thời gian tồn tại các triệu chứng
này ít nhất là một tháng:
- Tư duy vang thành tiếng, tư duy bị áp đặt hay bị đánh cắp và tư duy bị phát
thanh.
- Các hoang tưởng bị kiểm tra, bị chi phối hay bị động, có liên quan rõ rệt với vận
động thân thể hay các chi hoặc có liên quan với những ý nghĩ, hành vi hay cảm giác đặc
biệt, tri giác hoang tưởng.
- Các ảo thanh bình luận thường xuyên về hành vi của người bệnh hay thảo luận
với nhau về người bệnh hoặc các loại ảo thanh khác xuất phát từ một bộ phận nào đó của
thân thể.
- Các loại hoang tưởng dai dẳng khác khơng thích hợp về mặt văn hóa và hồn
tồn khơng thể có được như tính đồng nhất về tơn giáo hay chính trị hoặc những khả
8
năng về quyền lực siêu nhân (Ví dụ: Có khả năng điều khiển thời tiết, hoặc đang tiếp xúc
với những người của thế giới khác).
- Ảo giác dai dẳng bất cứ loại nào, có khi kèm theo hoang tưởng thống qua hay
chưa hồn chỉnh, khơng có nội dung cảm xúc rõ ràng hoặc kèm theo ý tưởng quá dai
dẳng, hoặc xuất hiện hàng ngày trong nhiều tuần hay nhiều tháng.
- Tư duy gián đoạn hay thêm từ khi nói, đưa đến tư duy khơng liên quan, lời nói
khơng thích hợp hay ngôn ngữ bịa đặt.
- Tác phong căng trương lực như kích động, giữ nguyên dáng hay uốn sáp, phủ
định, khơng nói, sững sờ.
- Các triệu chứng âm tính như vô cảm rõ rệt, ngôn ngữ nghèo nàn, các đáp ứng
cảm xúc cùn mịn hay khơng thích hợp thường đưa đến cách ly xã hội, hay giảm sút hiệu
suất lao động xã hội, phải rõ ràng là các triệu chứng trên không do trầm cảm hay do thuốc
an thần kinh gây ra.
- Biến đổi thường xuyên và có ý nghĩa tồn diện của tập tính cá nhân biểu hiện
như là mất thích thú, thiếu mục đích, lười nhác, thái độ mê mải suy nghĩ về bản thân và
cách ly xã hội.
- Khơng chẩn đốn bệnh TTPL nếu có triệu chứng trầm cảm hay hưng cảm mở
rộng tổn thương thực thể, động kinh hay trạng thái nhiễm độc rượu, chất ma túy.
* Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán
Yêu cầu của một chẩn đốn người bệnh TTPL là ít nhất phải có một triệu chứng
rất rõ (Nếu ít rõ thường phải hai triệu chứng hay nhiều hơn nữa) thuộc vào các nhóm các
triệu chứng liệt kê từ (a) đến (d) ở trên hoặc có ít nhất là hai trong các nhóm triệu chứng
liệt kê từ (e) đến (h). Các triệu chứng ở trên phải tồn tại rõ ràng trong phần lớn khoảng
thời gian một tháng hay lâu hơn.
1.6. Tiến triển và tiên lượng TTPL
1.6.1. Tiến triển TTPL
Người bệnh TTPL nếu không được phát hiện sớm và điều trị hợp lý, bệnh tiến
triển mạn tính với sự mất mát tăng dần, có những giai đoạn cấp có những triệu chứng
dương tính rầm rộ. Trong quá trình tiến triển, các triệu chứng dương tính nghèo dần đi,
các triệu chứng âm tính ngày càng sâu sắc hơn.
Có tác giả cho rằng, nếu được điều trị sớm bằng an thần kinh thì bệnh tiến triển
thuận lợi, ít dẫn đến sa sút tâm thần. Theo M.Bleuler (1941) nghiên cứu 500 người bệnh
9
TTPL theo dõi trong 15 năm thấy 25% số người bệnh khỏi bệnh, 25% số người bệnh
thiếu sót nhẹ trong bệnh tâm thần, 25% số người bệnh có thiếu sót rõ rệt, 25% người
bệnh cịn lại có tiến triển nặng, có thiếu sót rõ rệt.
Theo ICD-10, để đánh giá tiến triển TTPL cần theo dõi tối thiểu là một năm sau
cơn khởi phát bệnh. Mỗi thể bệnh có 7 thể tiến triển:
1. Tiến triển liên tục
2. Từng giai đoạn thiếu sót tăng dần
3. Từng giai đoạn thiếu sót ổn định
4. Từng giai đoạn thiếu sót thun giảm
5. Thun giảm khơng hoàn toàn
6. Thuyên giảm hoàn toàn
7. Thời kỳ theo dõi dưới một năm
Tuy nhiên thường gặp thì bệnh TTPL có đặc điểm là tiến triển mạn tính và hay tái phát.
1.6.1.1. Đặc điểm tiến triển mạn tính
Nếu thời gian mắc bệnh ngắn từ lúc khởi phát đến hiện tại là dưới 6 tháng thì gọi
là trạng thái bệnh cấp tính; từ 6 tháng đến 2 năm thì gọi là bán cấp tính; trên 2 năm gọi là
mạn tính. Khoảng 90% số người bệnh TTPL phát triển mạn tính. Tuy nhiên ở một vài đợt
cấp tính, thậm chí sau 2 – 3 năm với nhiều đợt tái phát. Sau mỗi đợt cấp tính, bệnh TTPL
có thể tiến triển theo các kiểu sau đây:
Thuyên giảm hoàn toàn: Tức là người bệnh trở lại bình thường về lời nói, ứng xử,
học tập, lao động như trước khi mắc bệnh.
Thuyên giảm một phần: Tức là các biểu hiện bệnh (Kích động, hoang tưởng, ảo
giác...) tan biến hết, song vẫn cịn một số thiếu sót như thiếu linh hoạt, thiếu chủ động
trong giao tiếp với người xung quanh.
Thuyên giảm ít: Tức là các biểu hiện tồn tại liên tục, không thấy rõ sự thuyên
giảm. Kiểu thuyên giảm ít thường gặp ở những trường hợp khởi phát âm ỉ (Sau nhiều
tháng bệnh mới biểu hiện rõ, khởi phát sớm ở lứa tuổi trẻ dưới 20), các triệu chứng âm
tính nổi trội (Như xa lánh, khơng tiếp xúc với mọi người, cảm xúc thờ ơ...) bệnh ít đáp
ứng với thuốc an thần kinh.
1.6.1.2. Đặc điểm tái phát: Bệnh TTPL rất hay tái phát (95% – 98% trường hợp)
Sau một đợt bệnh cấp diễn, rầm rộ được điều trị sớm, hợp lý, bệnh nhanh chóng
thuyên giảm đến mức gần như bình thường hoặc cịn một số thiếu sót (Như lì xì, ít nói, cơ
10
đơn...). Trong giai đoạn bệnh thuyên giảm và ổn định như vậy, lại xuất hiện một đợt cấp
diễn khác. Đó là đợt tái phát của bệnh TTPL. Tái phát mau sẽ làm cho trạng thái tâm thần
của người bệnh xấu đi (Như suy nghĩ trở lên nghèo nàn, giảm ý chí, thu mình, cảm xúc
thờ ơ, lao động giảm...). Vì vậy, cần tìm hiểu các nhân tố dễ duy trì sự ổn định, dễ thích
ứng xã hội.
1.6.1.3. Những nhân tố dẫn đến tái phát:
Hiện nay căn nguyên của bệnh TTPL chưa rõ nên chưa có biện pháp phịng bệnh
tuyệt đối và điều trị tiệt căn. Song nắm được các nhân tố dẫn đến tái phát thì có thể áp
dụng các biện pháp đề phòng tái phát.
Dùng thuốc an thần kinh không đều đặn theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa tâm
thần. Những người bệnh không dùng thuốc an thần kinh dễ bị sang chấn căng thẳng hơn
và dễ bị tái phát hơn những người bệnh có dùng thuốc an thần kinh.
Yếu tố nâng đỡ kém: Người bệnh TTPL sống trong mơi trường nâng đỡ tốt thì ít bị
tái phát. Nếu có thường là những đợt tái phát nhẹ và ngắn. Yếu tố nâng đỡ bao gồm hệ
thống nâng đỡ của gia đình và xã hội về các mặt: Sinh hoạt, nhà ở, việc làm, chăm sóc
sức khỏe tại cộng đồng, thái độ tơn trọng, tình cảm ấm áp, khơng bỏ mặc, hắt hủi, hành
hạ.
Muốn thúc đẩy các nhân tố này, cộng đồng cần chuyển biến về các mặt sau đây:
- Cộng đồng hiểu rõ bản chất và nguyên nhân của bệnh tâm thần và thay đổi thái
độ từ tiêu cực trở thành tích cực, từ chán nản, bỏ mặc thơ bạo trở thành quan tâm giúp đỡ,
tình cảm ấm áp, đối xử dịu dàng.
- Cộng đồng (Bao gồm gia đình người bệnh, xóm làng, chính quyền, đồn thế, xã,
phường, trạm y tế cơ sở...) xác định việc chăm sóc người bệnh tâm thần khơng phải chỉ
có thuốc là đủ mà phải toàn diện đặc biệt là các yếu tố tâm lý xã hội, phục hồi chức năng
từ đó phải xác định đây là trách nhiệm của cả cộng đồng chứ không phải chỉ riêng của
chuyên khoa Tâm thần hay của ngành Y tế.
1.6.1.4. Các dấu hiệu báo hiệu bệnh tái phát:
- Thấy căng thẳng ngày một tăng
- Thấy lo lắng viển vông không thể thư giãn
- Rối loạn giấc ngủ (Mất ngủ, rối loạn nhịp thức ngủ...)
- Mệt mỏi
- Dễ kích thích cáu bẳn
11
- Hoảng sợ khơng có lý do
- Thu mình, từ chối giao tiếp, ăn uống.
- Thờ ơ với mọi người và với bản thân, khơng tự chăm sóc.
1.6.2. Tiên lượng tâm thần phân liệt:
1.6.2.1.Các yếu tố tiên lượng tốt:
Khởi phát muộn; có nhân tố thúc đẩy rõ rệt; khởi phát cấp diễn; thể paranoid hoặc
có rối loạn cảm xúc, có nhiều triệu chứng dương tính, ít có yếu tố di truyền, tiến triển
không liên tục, được điều trị sớm.
1.6.2.2. Các yếu tố tiên lượng xẩu:
Khởi phát sớm, khởi phát âm ỉ, khơng có nhân tố thúc đẩy, trước khi mắc bệnh có
tính cách cơ độc, khép kín, khơng có nhân tố thúc đẩy, tiền sử gia đình có bệnh tâm thần
phân liệt, có triệu chứng âm tính chiếm ưu thế.
1.7. Điều trị tâm thần phân liệt
Tâm thần phân liệt là một bệnh chưa rõ nguyên nhân, điều trị triệu chứng là chủ
yếu: Hóa dược liệu pháp có vai trị quan trọng, đặc biệt với các triệu chứng dương tính,
cần phối hợp nhiều liệu pháp điều trị (Thuốc, tâm lý, lao động, và tái thích ứng xã hội...).
1.7.1. Nguyên tắc điều trị
Cần phát hiện sớm, điều trị tích cực sẽ đem lại hiệu quả tốt; Điều trị duy trì sau
cơn loạn thần đầu tiên, quản lý và theo dõi về tái phát; Phục hồi chức năng cho người
bệnh, đặc biệt đối với các triệu chứng âm tính; Phối hợp chặt chẽ giữa thầy thuốc và gia
đình, với cộng đồng trong việc chăm sóc người bệnh; Phát hiện và giải quyết kịp thời các
yếu tố thúc đẩy bệnh tái phát; Tư vấn, giáo dục gia đình và cộng đồng thay đổi thái độ
đối với người bệnh tâm thần phân liệt (Tránh mặc cảm, xa lánh, sỉ nhục người bệnh);
Chăm sóc người bệnh lâu dài đảm bảo cơ thể khỏe mạnh nhằm đáp ứng tốt các phương
pháp điều trị.
1.7.2. Các liệu pháp điều trị
* Liệu pháp hóa dược: Liệu pháp hố dược đóng vai trò quan trọng hàng đầu
trong điều trị tâm thần phân liệt nói chung, mà chủ yếu là điều trị bằng các thuốc chống
loạn thần, với vai trò là thuốc điều trị các triệu chứng như các hoang tưởng, áo giác, các
rối loạn cảm xúc. Các thuốc chống loạn thần thường làm giảm hoặc thanh tốn các triệu
chứng dương tính. Các triệu chứng âm tính thường ít đáp ứng với các thuốc chống loạn
thần điển hình. Các thuốc chống loạn thần khơng điển hình (Thế hệ mới) mới cải thiện tốt
12
triệu chứng âm tính và ít nguy cơ gây tác dụng ngoại tháp.
* Liệu pháp sốc điện: Sốc điện làm giảm hoạt hoá cấu trúc lưới, tức là làm giảm
ngưỡng hoạt hoá của hệ Acctlcholiergic, đồng thời giảm hoạt động hệ Dopamin trung
não - hồi viền, tức là làm giảm hoặc mất các triệu chứng dương tính (Hoang tưởng, ảo
giác, kích động).
Các tác giả cho rằng, một đợt sốc điện đã tạo nên sự cân bằng dẫn truyền của các
hệ Noradrcnergic - Serotoningic - Cholinergic, sau một đợt sốc điện đã làm thay đôi các
chất dẫn truyền thần kinh (Ncurotransmittcrs), làm giảm các reccptor bcta-adrencrgic sau
synap, làm giảm các rcccptor muscarin ở hồi cá ngựa cua acetylcholin thuộc hệ
cholinergic. sốc điện làm giảm tổng hợp GABA (Gama – amino - butiric acid) và làm
tăng hoạt động Opioid nội sinh (Endorphin, Phenyletylamin và Bctacarbolin).
Sốc điện có thể có hiệu quả trong điều trị bệnh tâm thần phân liệt (Vd: Căng
trương lực, ý tưởng và hành vi tự sát do trầm cảm, hoang tưởng, ảo giác chi phối các cơn
kích động v.v... mà điều trị bằng thuốc lâu ngày vẫn không hiệu quả.
* Liệu pháp tâm lý: Liệu pháp tâm lý rất quan trọng vì trong hệ thống triệu chứng
của bệnh có những triệu chứng có tính chất nội sinh, nhưng cũng có triệu chứng do xã
hội, do bệnh viện, gia đình gây nên.
Có nhiều phương pháp tâm lý nhưng liệu pháp hành vi rất quan trọng đối với
người bệnh tâm thần phân liệt, liệu pháp này có hiệu quả phịng ngừa chức năng do ảo
tưởng, ảo giác dai dẳng và các triệu chứng âm tính gây nên.
* Liệu pháp lao động và phục hồi chức năng: Nguyên lý then chốt là do người
bệnh bẳt đầu hoạt động với cường độ và chức năng của họ cho phép đoạt được để xây
dựng lại lòng tin.
Lao động làm cho người bệnh quên đi những cảm giác khó chịu do hoang tưởng,
ảo tưởng gây ra, bớt lo lắng về bệnh tật, làm mất những ý nghĩ đen tối khi rỗi rãi khơng
có việc làm, gắn liền với tập thể, tăng tính tổ chức và kỷ luật, làm cho bệnh nhân khoan
khoái trước sản phẩm của mình. Vui vẻ, lạc quan, tin vào khả năng có ích xã hội của
mình, ăn ngon hơn, ngủ n hơn, đặc biệt là khơi phục và duy trì thói quen nghề nghiệp
để sau khi ra viện bệnh nhân có thể tiếp tục công tác, lao động sản xuất được. Kết quả lao
động có thể giúp bệnh nhân tự túc về kinh tế, đỡ gánh nặng cho gia đình và xã hội.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1 Tình hình nghiên cứu về tâm thần phân liệt trên thế giới