Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

“Tìm hiểu kỹ thuật nhân giống cây mẫu đơn đỏ (ixora coccinea) bằng phương pháp giâm hom tại vườn ươm trường đại học nông lâm thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.72 KB, 48 trang )

1

1

Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Lâm sản ngoài gỗ (LSNG) từ xưa đến nay vẫn luôn giữ vai trò quan
trọng trong đời sống hàng ngày của con người.
Hiện nay có nhiều khái niệm và LSNG khác nhau. Theo “ Đề án quốc
gia về bảo tồn và phát triển LSNG giai đoạn 2006 - 2020” có định nghĩa:
LSNG bao gồm tất cả những sản phẩm tái tọa được ngoài gỗ, củi và than,
LSNG được khai thác từ rừng đất rừng hoặc từ thân cây gỗ. LSNG bao gồm
các sản phẩm có sợi (gồm tre, nứa, mây, song…), các sản phẩm dùng làm
thực phẩm (gồm các sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật và các sản phẩm từ
động vật), các sản phẩm thuốc và mỹ phẩm, các sản phẩm triết xuất (gồm dầu
béo, tinh dầu, nhựa và tananh, thuốc nhuộm…), động vật và các sản phẩm
động vật không làm thực phẩm và làm thuốc (gồm động vất sống chim, côn
trùng sống, da, sừng, lông vũ và nhựa cánh kiến đỏ…), các sản phẩm khác…
(Đại học Lâm nghiệp, 10/2005) [1].
Vì vậy việc nghiên cứu, bảo tồn và phát triển LSNG góp phần bảo vệ
tính đa dạng sinh học, nguồn gen của hệ sinh thái rừng nhiệt đới, nâng cao giá
trị sử dụng và giá trị kinh tế của các loài LSNG chủ yếu là định hướng nghiên
cứu lâu dài của các nhà lâm nghiệp nói chung và các nhà khoa học nghiên cứu
về LSNG nói riêng. Việc nghiên cứu xây dựng quy trình trồng chăm sóc, chế
biến LSNG là hoạt động cấp thiết hiện nay. Trong đó công tác tạo giống đóng
vai trò quan trọng không thể thiếu trong quy trình này.
Hiện nay có 2 phương pháp tạo giống phổ biến: phương pháp nhân giống
vô tính và phương pháp nhân giống hữu tính. Nhân giống bằng hom là phương
thức đang được áp dụng phổ biến để nhân giống các dòng vô tính. Nhân giống
bằng hom có hệ số nhân giống cao, cây giữ được những đặc điểm di truyền quý từ


cây mẹ. Cây đồng đều thuận lợi cho việc chăm sóc, sớm ra hoa kết quả và có thể
sản xuất giống theo tính công nghiệp. Do những ưu việt của mình mà nhân giống
bằng hom đang được sử dụng hầu hết trong công tác chọn giống cây trồng (Mai
Quang Trường, Lương Thị Anh, 2007) [10].


2

2

Mẫu đơn đỏ (Ixora coccinea) là một trong những cây thuộc nhóm
LSNG thường trồng làm cảnh tuy nhiên Mẫu đơn còn là một loài thuốc có
nhiều tác dụng. Bộ phận dùng làm thuốc là rễ phơi khô hoặc sấy khô gọi là
mẫu đơn bì, được thu hoạch ở những cây trồng được từ 3 - 5 năm.
Trong y học cổ truyền Việt Nam, mẫu đơn bì được dùng làm thuốc chữa
trấn kinh, giảm đau, chữa nóng âm ỉ kéo dài, sốt về chiều và đêm, không có mồ
hôi, hoặc đơn sưng, huyết ứ phát sốt, nhức đầu, đau lưng, đau khớp, đau kinh, kinh
nguyệt không đều, bệnh phụ khoa sau khi đẻ (Đỗ Tất Lợi, 2006) [6].
Nhân giống cây Mẫu đơn bằng phương pháp giâm hom nhằm cung cấp
một lượng cây giống lớn mà vẫn đảm bảo chất lượng cây con.
Chính vì lí do nêu trên mà tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu kỹ
thuật nhân giống cây Mẫu đơn đỏ (Ixora coccinea) bằng phương pháp
giâm hom tại vườn ươm trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nắm bắt các yêu kỹ thuật nhân giống vô tính cây Mẫu đơn đỏ bằng
phương pháp giâm hom.
Thực hành phương pháp nhân giống vô tính cây Mẫu đơn đỏ bằng
phương pháp giâm hom.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Làm quen với công tác nghiên cứu khoa học trang bị một số kiến thức

trong thực tế.
Kết hợp việc làm đề tài tốt nghiệp với việc hệ thống, củng cố những
kiến thức đã học cả về kiến thức lẫn thực hành.
Góp phần tạo giống cây Mẫu đơn đỏ bằng phương pháp giâm hom.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
Giúp cho sinh viên nắm vững hơn kiến thức đã được học cũng như trải
nghiệm giữa lí thuyết với thực hành, đặc biệt những kiến thức trong lĩnh vực
giâm hom như: chọn hom giâm, xử lí hom giâm, kỹ thuật cắt hom, kỹ thuật
giâm hom…cách pha chế thuốc tìm hiểu quá trình sinh trưởng của cây từ đó
áp dụng vào thực tế sản xuất.
Tạo cơ hội để sinh viên làm quen, tìm hiểu kiến thức ngoài thực tế giúp
cho công việc sau này.
Cây Mẫu đơn đỏ là cây LSNG thường dùng làm cảnh và làm thuốc.


3

3

Phần 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Đặc điểm loài cây nghiên cứu
2.1.1. Đặc điểm hình thái
Mẫu đơn đỏ (Ixora coccinea) hay Đơn đỏ, Trang đỏ, Long thuyền hoa,
Nam mẫu đơn. Thuộc bộ Gentianales, họ Rubiaceae, chi Ixora (Đại học quốc
gia Hà Nội, 2001) [1].
Mẫu đơn là một cây sống lâu năm, có thể cao 1 - 1.5m có thể cao đến
3m phân cành nhánh nhiều, lá rộng bản, mọc đối thẳng đứng, hình trứng tròn,
đầu lá có từ 3 - 5 khía, cuống lá dài, bề mặt lá màu xanh lục, mặt trái màu tro
lục có phấn trắng, trơn nhẵn không lông hoặc lông mịn nhỏ. Hoa lưỡng tính,

mọc đơn trên đầu cành, đường kính từ 10 - 30cm, nhiều nhụy đực, toàn bộ bị
hoa bàn bao vây, cánh nụ 5 màu lục, cánh hoa nguyên bản có từ 5 - 6 cánh,
trải qua thời gian di thực trồng một bộ phận cánh nhụy đực biến thành cánh
hoa, hoa trở thành cánh kép, có 3 - 4 tầng. Số cánh hoa ít gọi là “đa điệp”, hoa có
màu sắc từ trắng, vàng, phấn, đỏ, tím, tím than...hoa kết thành trái chùm loại quả,
có bẹ chín nứt ra, gọi là loại cỏ “cốt đột” quả đầy lông mền mịn, quả màu đỏ tím
dài 5 - 6mm, rộng 6 - 7mm. Mỗi ơ có một hạt, dài 4 - 5mm, rộng 3 - 4mm, phía
lưng phồng lên, cịn phía bụng thì lõm vào (Đỗ Tất Lợi, 2006) [6].
2.1.2. Phân bố
Xuất xứ hoa từ cao nguyên Tây Bắc Trung Quốc, trong thung lũng Thiểm
Cam Ninh, Sơn cốc Ba quận thuộc dải Tần Linh. Hiên nay trong vùng núi các
tỉnhThiểm Tây, Cam Túc, Tứ xuyên, Hà Nam vẫn còn cây mọc hoang.
Đất thích hợp cho cây Mẫu đơn phải ở nơi có tầng đất sâu, dày, tơi xốp,
màu mỡ, loại đất mền thoát nước hặc đất cát rất tốt, tốt nhất tầng đất mền dẻo
bên trên, dày độ 1m, bên dưới tầng đất pha cát. Loại cây này không thích hợp
với đất mặn, muối hoặc đất nóng (Đỗ Tất Lợi, 2006) [6].
2.2. Cơ sở khoa học
Nhân giống là bước cuối cùng của một chương trình cải thiện giống để
cung cấp hạt giống hoặc hom cành cho trồng rừng trên quy mô lớn và cho các
bước cải thiện giống theo các phương thức sinh sản thích hợp.


4

4

Sinh sản bằng hạt tạo được cây khỏe mạnh nhưng lâu có quả và khó giữ
được tính di truyền tốt của cây mẹ.
Nhân giống bằng hom là phương pháp dùng một phần lá, một đoạn
thân, đoạn cành hoặc đoạn rễ để tạo nên cây mới gọi là cây hom, cây hom có

đặc tính di truyền như cây mẹ. Nhân giống bằng hom là phương pháp nhân
giống có hệ số nhân giống cao nên được dùng phổ biến trong nhân giống cây
rừng, cây cảnh và cây ăn quả (Lê Đình Khả, Dương Mộng Hùng, 2003) [3].
2.2.1. Cơ sở tế bào học
Bất kỳ một loài sinh vật nào cũng có cấu tạo từ tế bào. Tế bào là đơn vị
cấu trúc nhỏ nhất, cơ bản nhất của sinh vật. Tế bào chứa bộ nhiễm sắc thể
mang đầy đủ thông tin di truyền cho quá trình phát triển của sinh vật, đồng
thời chất nguyên sinh của tế bào có khả năng thu nhận năng lượng và chất liệu
từ môi trường để phục vụ cho quá trình sinh sản, bản chất của cây con tạo bởi
quá trình dinh dưỡng có nguồn gốc từ bản sao của cây mẹ(Lê Đình Khả,
Dương Mộng Hùng, 2003) [3].
2.2.2. Cơ sở di truyền học
Sinh vật bậc cao được phát triển từ một tế bào hợp tử qua nhiều lần
phân bào liên tiếp cùng với quá trình phân hóa các cơ quan. Đặc trưng của
hình thức phân bào trên là số lượng NST của tế bào khởi đầu và tế bào mới
được phân chia như nhau nên được gọi là phân bào nguyên nhiễm hay nguyên
phân. Phân bào nguyên nhiễm là quá trình phân chia tế bào mà kết quả từ một
tế bào ban đầu cho 2 tế bào con có số lượng NST cũng như cấu trúc và thành
phần hóa học giống như tế bào ban đầu.
Nhờ có quá trình nguyên phân mà các NST được phân phối đồng đều
chính xác cho các tế bào con, ở thời kỳ đầu của nguyên phân, NST tự tái bản
trước tiên theo chiều dọc rồi tách theo chiều ngang để phân chia về các tế bào
con đảm bảo cho tế bào con có bộ NST như nhau. Nhờ có quá trình nguyên
phân mà khối lượng cơ thể tăng lên sau đó nhờ quá trình phân hóa các cơ
quan trong quá trình phát triển cá thể tạo thành một cây con hoàn chỉnh. Đây
là quá trình đảm bảo cho cây con tồn tại tính trạng cây mẹ.
Hom cành và hom thân là hom được cắt từ một phần cây non từ chồi
hoặc cành non của cây. Một số loài như tre, Luồng hom giâm có thể là một



5

5

đoạn thân gốc, đoạn cành hoặc đoạn gốc cành sát thân. Hom của các loài cây
gỗ đều được lấy từ thân cây non hoặc cành non của cây (bao gồm cả chồi
vượt). Các loại cành giâm thường là cành non, cành hóa gỗ ,chủ yếu là cành
nửa hóa gỗ và cành hóa gỗ. Tùy theo từng loài cây và điều kiện thời tiết lúc
giâm hom mà chọn cành có khả năng ra rễ cao nhất.
Hom rễ là loại hom được cắt từ rễ cây. Một số loài cây có thể dùng rễ
để giâm hom như: Xoan, Hồng…ngoài ra ở một số loài người ta có thể giâm
hom từ lá hoặc từ củ.
Khả năng ra rễ của hom cũng phụ thuộc vào xuất sứ của cây, có loài
hom có khả năng ra rễ cao, có loài hom khó ra rễ, chồi đỉnh có khả năng ra rễ
tốt hơn chồi nách, đặc biệt là cành chồi vượt khả năng ra rễ tốt hơn là cành lấy
từ tán cây. Tùy từng loài mà lấy hom ở tuổi và vị trí nào cho phù hơp (Lê
Đình Khả, Dương Mộng Hùng, 2003) [3].
2.2.3. Sự hình thành rễ bất định
Nhân giống bằng hom dựa trên khả năng tái sinh hình thanh rễ bất định
của một đoạn thân hoặc cành trong điều kiện thích hợp để hình thành cơ thể mới.
Rễ bất định là rễ được sinh ra ở bất kỳ bộ phận nào của cây ngoài hệ rễ
của nó, trong hom giâm và chiết đều quan trọng là hình thành rễ bất định.
Có hai loại rễ: rễ tiềm ẩn và rễ mới sinh.
- Rễ tiềm ẩn: Là rễ có nguồn gốc từ trong thân cây, cành cây nhưng chỉ
phát triển khi bộ phận của cây được phân tách ra khỏi cây mẹ.
- Rễ mới sinh: Là rễ được hình thành sau khi cắt hom và giâm hom.
Khi đó các tế bào chỗ bị cắt, bị phá hủy, bị tổn thương và các tế bào dẫn
truyền đã chết của mô gỗ được mở ra là giai đoạn các chu trình trao đổi và
vận chuyển các chất trong thân cây, dẫn đến dòng nhựa luyện được dẫn từ
phần lá xuống đây bị dồn lại khiến cho các tế bào phân chia hình thành nên

mô sẹo, đây là cơ sở hình thành rễ bất định (Lê Đình Khải, 2001).
Sự hình thành rễ bất định có thể được phân chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Các tế bào bị thương ở các vết cắt chết đi và hình thành lên
một lớp keo lấp đầy các mạch gỗ giúp hạn chế thoát hơi nước tại chỗ bị cắt.
Giai đoạn 2: Các tế bào sống ngay dưới lớp bảo vệ bắt đầu phân chia và
hình thành lớp mô mềm (callus) gọi là mô sẹo.


6

6

Giai đoạn 3: Các tế bào vùng tượng tầng hoặc lân cận và libe bắt đầu
hình thành rễ. Cây gỗ có một hoặc nhiều lớp mô gỗ thứ cấp và libe thì rễ thứ
cấp thường phát sinh ở tế bào nhu mô còn sống của hom, bắt nguồn từ libe
thứ cấp còn non. Tuy nhiên đôi khi rễ bất định cũng phát sinh từ mạch rây,
tượng tầng, libe, bì khổng và tủy.
Mô sẹo là khối tế bào nhu mô có mức độ ligin hóa khác nhau. Thông
thường trước khi xuất hiện rễ thấy xuất hiện một lớp mô sẹo nên thường tin
rằng sự xuất hiện của mô sẹo là sự cần thiết cho sự ra rễ của hom, nhưng ở
nhiều loại cây sự xuất hiện của mô sẹo là một dự báo tốt về khả năng ra rễ.
Nhìn chung, các rễ bất định thường được hình thành bên cạnh và sát
vào lõi trung tâm của mô mạch, ăn sâu và trong thân (cành) tới gần ống mạch,
sát bên ngoài tượng tầng. Thời gian hình thành rễ của hom giâm ở các loài
cây khác nhau biến động khá lớn từ vài ngày với các loài cây dễ hình thành rễ
và tới vài tháng với các loài khó ra rễ như chè, trà mi, sến…
Mức độ hóa gỗ cũng ảnh hưởng tới sự ra rễ của hom. Hom hóa gỗ
nhiều, hay phần gỗ chiếm nhiều thì khả năng ra rễ kém. Hiện tượng cực tính
là hiện tượng phổ biến trong giâm hom, do vậy khi giâm hom phải đặt hom
cho đúng chiều (Lê Đình Khả, Dương Mộng Hùng, 2003) [3].

2.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng ra rễ của hom giâm
2.2.4.1. Các nhân tố nội sinh
* Đặc điểm di truyền loài
Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy không phải tất cả các loài đều có khả
năng ra rễ như nhau. Nanda (1970) đã dựa trên khả năng ra rễ để chia ra các
loài cây gỡ thành 3 nhóm chính là:
• Nhóm có khả năng ra rễ cao gồm 29 loài như số loài thuộc các chi Malus sp,
Prunus sp, Pyus sp...thuộc họ Rosaceae, một số chi khác như Aesculus sp,
Bauhinia sp...
• Nhóm có khả năng ra rễ trung bình gờm 65 loài trong đó có các chi
Eucaluptus sp, Quercus sp...
• Nhóm khó ra rễ gồm 26 loài như các chi Malus sp, Prunus sp, Pyrus sp thuộc
họ Rosaceae…


7

7

Tuy nhiên sự phân chia này cũng chỉ có ý nghĩa tương đối vì có một số
loài ở nhóm 2, nhóm 3 vẫn dễ ra rễ như gạo, liễu sam, vân sam. Do vậy, theo
khả năng giâm hom có thể chia thực vật thành 2 nhóm chính là:
• Nhóm sinh sản bằng hom cành chủ yếu là thuộc họ Dâu Tằm (Moraceae) như
Dâu Tằm, Sung, Dương... một số loài thuộc họ liễu (Salicaseae) và các loài
cây nông nghiệp như Sắn, Mía, Khoai lang, Rau muống... đối với những loài
cây này khi giâm hom không cần phải xử lý thuốc hom vẫn ra rễ bình thường.
• Nhóm sinh sản chủ yếu bằng hạt thì khả năng ra rễ của hom giâm bị hạn chế ở
các mức độ khác nhau. Những loài có khả năng ra rễ cao như Sở đến 35 tuổi
vẫn có khả năng ra rễ 70 - 90% (Komiasarov, 1964; Nguyễn Hoàng Nghĩa,
Đoàn Thị Bích, 1995). Những loài cây khó ra rễ như Mỡ (Manglietia glauca)

5 tuổi khả năng ra rễ chỉ có 14% (Lê Đình Khả, Hoàng Thanh Lộc, Phạm Văn
Tuấn, 1996). Đối với nhóm này nuốn có tỉ lệ ra rễ cao thì phải dùng cây non
và phải sử lí caccs chất kích thích ra rễ thích hợp (Lê Đình Khả, Dương Mộng
Hùng, 2003) [3].
* Đặc điểm di truyền của từng xuất xứ của từng cá thể
Do đặc điểm biến dị ma các xuất sứ và các cá thể khác nhau cũng có
những khả năng ra rễ khác nhau. Nghiên cứu cho bạch đàn trắng Caman
(E.camaldulensis) 4 tháng tuổi đã cho thấy rằng xuất sứ tại Katherine có tỉ lệ
ra rễ 95% thì xuất xứ Gilbert River có tỉ lệ ra rễ 50%, còn xuất xứ Nghĩa Bình
chỉ ra rễ 35% (Lê Đình Khả, Phạm Văn Tuấn, Đoàn Thị Bích, 1997).
* Tuổi cây mẹ lấy cành
Khả năng ra rễ của hom giâm không những do tính di truyền quy định
mà còn phụ thuộc rất lớn vào tuổi cây mẹ lấy cành. Thông thường cây chưa
sinh sản hạt dễ nhân giống bằng giâm hom hơn cây đã sinh sản bằng hạt, hom
lấy từ cây tuổi non có khả năng ra rễ cao hơn hom lấy từ những cây tuổi già.
Ở một số loài cây khả năng ra rễ của chỉ tồn tại ở những cây 1 - 2 tuổi. Ví dụ:
hom lấy từ cây Mỡ 1 tuổi, 3 tuổi, 20 tuổi có khả năng ra rễ tương ứng là 98%,
47%, 0% (Lê Đình Khả, Hoàng Thành Lộc, Phạm Văn Tuấn, 1990).
Cây non không những có tỉ lệ ra rễ cao mà thời gian ra rễ cũng ngắn hơn.
Ví dụ ở Vân san hom lấy từ cây 30 – 40 ngày tuổi phải sau 150 ngày mới ra rễ ,


8

8

trong khi hom lấy từ cây 6 – 7 tuổi thì chỉ 60 – 70 ngày đã ra rễ (Lê Đình Khả,
Dương Mộng Hùng, 2003) [3].
*Vị trí cành và t̉i cành
Hom lấy từ các bộ phận khác nhau trên thân sẽ có tỉ lệ ra rễ khác nhau.

Thông thường, hom lấy từ cành ở tầng dưới có tỉ lệ ra rễ cao hơn ở tầng trên,
cành cấp 1 cao hơn cành cấp 2, cấp 3, cành chồi vượt cao hơn cành lấy từ tán
cây, vì vậy đối với nhiều loài cây người ta thường xử lý cho cây ra chồi vượt
để lấy hom giâm. Tuy nhiên khả năng ra rễ của cành chồi vượt cũng thay đổi
theo vị trí lấy hom. Theo thực nghiệm thì đoạn ngọn có tỷ lệ ra rễ thấp nhất,
các đoạn giữa có tỷ lệ rễ tăng dần lên, đến đoạn gốc thì lại giảm xuống. Nhìn
chung cây non và cành nửa hóa gỗ cho tỉ lệ ra rễ cao nhất, song tùy loài cây
mà ảnh hưởng của tuổi cây và tuổi cành ảnh hưởng đến khả năng ra rễ của
hom giâm được thể hiện khác nhau. Qua nghiên cứu mới xác nhận được tuổi
cây và tuổi cành thích hợp cho giâm hom ở từng loài (Lê Đình Khả, Dương
Mộng Hùng, 2003) [3].
*Sự tờn tại của lá trên hom.
Lá là cơ quan quang hợp để tạo ra các chất hữu cơ cần thiết cho cây,
đồng thời là cơ quan thoát hơi nước để khuyếch tán tác dụng của các chất kích
thích ra rễ đến các bộ phận của hom. Lá là cơ quan điều tiết các chất điều hòa
sinh trưởng ở giâm hom, vì thế khi giâm hom nhất thiết phải để lại một diện
tích lá cần thiết. Không có là thì hom giâm không thể ra rễ, song để lại diện
tích quá lớn thì quá trình thoát hơi nước quá mạnh làm hom bị héo và chết
trước lúc có thể ra rễ. Khi chuẩn bị hom giâm, hom phải có 1 - 2 lá, và phải
cắt bớt một phần phiến lá, chỉ để lại 1/3 - 1/2 diện tích lá (Lê Đình Khả,
Dương Mộng Hùng, 2003) [3].
* Kích thước hom
Đường kính và chiều dài hom cũng ảnh hưởng tới tỷ lệ ra rễ của hom
giâm. Các trung tâm Nghiên cứu giống cây rừng cho thấy chiều dài hom Bạch
đàn, keo từ 7 - 10cm, Phi lao 10 - 12cm là thích hợp. Tuy nhiên, để xác định
kích thước hom thích hợp cho mỗi loài cây cần phải xác định bằng thực
nghiệm (Lê Đình Khả, Dương Mộng Hùng, 2003) [3].


9


9

*Các chất điều hòa sinh trưởng
Trong các chất điều hòa sinh trưởng thì Auxin được coi là quan trọng
nhất trong quá trình ra rễ của cây hom. Song nhiều chất tác động cùng Auxin
cũng tồn tại một cách tự nhiên trong các mô của hom giâm và tác động đến
quá trình ra rễ của chúng, trong đó quan trọng nhất là : Rhizocalin, đồng nhân
tố ra rễ và các chất kích thích là kìm hãm ra (Turesskaia, 1993) [13].
- Rhizocalin năm 1993 Builenne và Went đã tổng hợp được các chất có
bản chất axit, phân tử lượng thấp và chụi nhiệt từ Diastaza (enzyme biến đổi
tinh bột thành đường) không thuần khiết cũng như từ mầm lá và chối hoa của
một số loài cây, chất đặc biệt được coi là cần thiết cho sự hình thành rễ của
nhiều loài cây.
- Đồng nhân tố ra rễ (Rooting - factors), theo Hess (1996) cho rằng một
số chất nội sinh điều tiết phân phối hoạt tính của IAA gây nên khởi động ra rễ
và gọi là đồng nhân tố, một số chất loại này được xác định là axit Chorogenic
và axit Isochlogenic.
Các chất kích thích ra rễ và kìm hãm ra rễ. Nhiều nghiên cứu đã nêu lên
sự tồn tại của các chất kích thích ra rễ trong các mô của các loài cây có khả
năng ra rễ cao. Ví dụ, serquiterpnic lactone được triết tách từ lá cây Hướng
Dương, dicylicterpenic được triết tách từ cây rau sam đều là những chất kích
thích ra rễ cho đậu xanh. Một số tác giả còn nêu lên sự tồn tại của một số chất
kìm hãm Nhaxanthoxin, axit Abscisic (ABA) và một số chất khác được tách
triết từ hom khó ra rễ. Các chất kích thích khó ra rễ và kìm hãm ra rễ của hom
giâm được xác định bằng nồng độ tương đối các chất này. Các loài cây dễ ra
rễ chứa nồng độ cao các chất kích thích ra rễ lại chứa nồng độ cao các chất
kìm hãm ra rễ (Lê Đình Khả, Dương Mộng Hùng, 2003) [3].
2.2.4.2. Các nhân tố ngoại sinh
* Điều kiện sinh sống của cây mẹ lấy cành

Điều kiện sinh sống của cây mẹ lấy cành có ảnh hưởng rõ rệt đến khả
năng ra rễ của hom giâm, nhất là hom là từ những cây non. Theo Enrght
(1959) thì hom lấy từ cây 3 tuổi của các loài Picea abies, Pinusresinosa,
P.strobus có bón phân hữu cơ và phân vô cơ đã có tỉ lệ ra rễ cao hơn so với
hom lấy từ cây không được bón phân.


10

10

Điều kiện chiếu sáng cho cây mẹ lấy cành cũng ảnh hưởng đến khả
năng ra rễ của hom giâm. Và điều kiện lấy hom ở xa nơi giâm hom cũng ảnh
hưởng đến khả năng ra rễ và sinh trưởng của hom giâm (Lê Đình Khả, Dương
Mộng Hùng, 2003) [3].
* Thời vụ giâm hom
Thời vụ giâm hom là một nhân tố ảnh hưởng tới sự ra rễ của hom giâm.
Tỷ lệ ra rễ của hom giâm phụ thuộc vào thời vụ lấy cành và thời vụ giâm
hom. Một số loài cây có thể giâm hom quanh năm, song nhiều loài cây có tính
thời vụ rõ rệt. Theo Frison (1967) và Nesterov (1967) thì mùa mưa là mùa
giâm hom có tỉ lệ ra rễ nhiều nhất ở các loài cây, trong khi một số loài khác
lại có tỉ lệ ra rễ nhiều hơn và mùa xuân. Hom được lấy trong các thời kỳ cây
mẹ hoạt động sinh trưởng mạnh có tỉ lệ ra rễ cao hơn các thời kỳ khác (Lê
Đình Khả, Dương Mộng Hùng, 2003) [3].
Thời vụ giâm hom đạt kết quả thấp hay cao thường gắn liền với yếu tố
cơ bản là diễn biến khí hậu trong năm, mùa sinh trưởng của cây và trạng thái
sinh lý của cành. Hầu hết các loài cây đều sinh trưởng mạnh trong mùa xuân hè (mùa mưa) và sinh trưởng chậm vào thời kỳ cuối thu và mùa đông. Vì thế,
thời kỳ giâm hom tốt nhất cho các loài cây là các tháng xuân - hè và đầu thu.
* Ánh sáng
Ánh sáng cung cấp năng lượng cho mọi hoạt động sống của mọi sinh

vật. Ánh sáng đóng vai trò sống còn trong việc ra rễ của hom giâm (Tewari,
1994). Không có ánh sáng và không có lá thì hom giâm không có hoạt động
quang hợp, quá trình trao đổi chất khó xảy ra, do đó không thể có hoạt động
ra rễ
Trong điều kiện nhiệt đới, ánh sáng tự nhiên mạnh thường kèm theo
nhiệt độ cao nên thường làm giảm đáng kể tỷ lệ ra rễ. Chất lượng ánh sáng
cũng ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ ra rễ của hom giâm. Theo Kiomiasov
(1964) thì ánh sáng tự nhiên là cần thiết cho ra rễ, còn ánh sáng đỏ và ánh
sáng xanh là giảm tỷ lệ ra rễ của hom giâm ở một số loài cây ưa sáng.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của ánh sáng đến khả năng ra rễ của hom giâm
thường mang tính chất tổng hợp theo kiểu phức hệ ánh sáng - nhiệt - ẩm mà
không phải là từng yếu tố riêng lẻ. Vì thế khi giâm hom phải chú ý tới tất cả


11

11

các yếu tố trên. Mặt khác ánh sáng chỉ tác động đến khả năng ra rễ của hom
với sự có mặt của lá cây, hom không có lá thì không chụi ảnh hưởng của ánh
sáng và không có sự hoạt đợng ra rễ (Lê Đình Khả, Dương Mộng Hùng,
2003) [3].
*Nhiệt độ
Nhiệt độ là nhân tố ảnh hưởng đến mọi hoạt động sống của sinh vật.
Cùng với ánh sáng, nhiệt độ là một trong những yếu tố quyết định tốc độ ra rễ
của hom giâm (Pravdin, 1938). Ở nhiệt độ quá thấp hom nằm ở trạng thái
tiềm ẩn và không ra rễ, còn nhiệt độ quá cao lại tăng cường hô hấp và bị
hỏng, từ đó làm giảm tỷ lệ ra rễ. Các loài cây nhiệt đới nhiệt độ thích hợp
trong nhà giâm hom thích hợp cho ra rễ là 25 - 33ºC và nhiệt độ giá thể là 25 30ºC (Long man, 1993), nhiệt độ không khí trên 35ºC làm tăng tỷ lệ héo của
lá (Nguyễn Ngọc Tân và cộng sự, 1994). Nói chung thì nhiệt độ không khí

trong nhà giâm hom nên cao hơn nhiệt độ giá thể 2 - 3ºC (Mai Quang Trường,
Lương Thị Anh, 2007) [10]
*Độ ẩm
Độ ẩm không khí và độ ẩm giá thể là nhân tố hết sức quan trọng trong
giâm hom. Các hoạt động quang hợp, hô hấp, phân chia tế bào và chuyển hóa
vật chất trong cây đều cần nước. Thiếu nước thì hom bị héo, nhiều nước thì
hoạt động của men thủy giải tăng lên, quá trình quang hợp bị ngừng trệ. Khi giâm
hom mỗi loài cây đều có độ ẩm thích hợp, làm mất độ ẩm của hom khoảng 15 20% thì hom hoàn toàn mất khả năng ra rễ. Đối với nhiều lồi cây, độ ẩm thích
hợp cho giâm hom là 50 - 70%. Nếu tăng lên 100% thì hầu hết hom giảm khả
năng ra rễ (Mai Quang Trường, Lương Thị Anh, 2007) [10].
Yêu cầu độ ẩm của hom giâm thay đổi tùy theo loài, theo mức độ hóa
gỗ của hom. Phun sương là yêu cầu bắt buộc khi tiến hành giâm hom, giúp
làm tăng độ ẩm, giảm nhiệt độ không khí và giảm sự thoát hơi nước ở lá.
Trong mùa lạnh thời gian phun và thời gian ngắt quãng có thể kéo dài, trong
mùa nắng thì ngược lại. Nên áp dụng các tiến bộ kỹ thuật hiện đại để xây
dựng vườn ươm giâm hom kỹ thuật cao có thể điều tiết các yếu tố cần thiết
cho giâm hom hợp lý (Lê Đình Khả, Dương Mộng Hùng, 2003) [3].


12

12

* Giá thể và môi trường giâm hom
Giá thể cũng góp phần vào thành công của giâm hom, các giá thể được
dùng hiện nay chủ yếu là cát tinh mùn cưa, xơ dừa băm nhỏ, đất tầng B hoặc
có sự trộn lẫn giữa chúng với cát tinh.
Một giá thể giâm hom tốt là một giá thể có độ thoáng không khí tốt và
duy trì được độ ẩm trong thời gian dài mà không ứ nước (trừ trường hợp giá
thể là môi trường nước), không bị nhiễm nấm bệnh. Độ pH khoảng 6 - 7.

Những nghiên cứu về ảnh hưởng của giá thể giâm hom cây Bạch đàn
trắng trong các loại ruột bầu khác nhau tại Đông Nam Bộ của GS. TS Lê Đình
Khả, Kỹ sư Đoàn Thị Bích, Trần Cự cho thấy:
- Nếu ruột bầu là 50% cát vàng + 50% sơ dừa, tỷ lệ ra rễ của hom là 74.1%.
- Nếu ruột bầu là 50% cát vàng + 50% than trấu, tỷ lệ ra rễ của hom
giâm là 72.1%.
- Nếu ruột bầu là 50% cát vàng + 50% xơ dừa, tỷ lệ ra rễ của hom là 74.1%.
- Nếu ruột bầu là 50% xơ dừa + 50% than trấu, tỷ lệ ra rễ của hom là 63.9%.
- Nếu ruột bầu là 100% cát vàng thì tỷ lệ ra rễ của hom giâm là 67.3%
- Nếu ruột bầu 100% sơ dừa thì tỷ lệ ra rễ của hom là 48.3%.
- Nếu ruột bầu là 100% than trấu thì tỷ lệ ra rễ của hom là 62.5%.
* Các nhân tố của chất kích thích
- Loại thuốc
Các loại chất điều hòa sinh trưởng có vai trò đặc biệt quan trọng trong
quá trình hình thành rễ của hom giâm. Trong đó các Auxin được sử dụng
nhiều nhất. Các Auxin này thường được chia làm 2 nhóm là Auxin tự nhiên
và Auxin nhân tạo. Một số Auxin là IAA (Axit Indol Axetic), IBA (Axit Indol
Butylic), IPA (Axit Indol Propionic), NAA (Axit Napthlen Axetic). Các chất
kích thích được dùng chủ yếu hiện nay là các chất trên hoăc dẫn xuất của
chúng, ngoài ra còn có 2.4.5T.
Tuy vậy, trong từng trường hợp cụ thể thì auxin có tác động đến tỷ lệ ra
rễ khác nhau đối với từng loài cây khác nhau. Thí nghiệm giâm hom cho các
loài Bạch đàn trắng, Mỡ, Sở tại trung tâm nghiên cứu giống cây rừng đã cho
thấy rằng IBA là chất có hiệu quả ra rễ cao nhất đối với Bạch đàn trắng
(93.8%), IAA và 2.4D là chất có hiệu quả cao nhất đối với cây Mỡ (85%), còn
đối với cây Sở thì hiệu quả cao nhất với chất kích thích NAA (75%).


13


-

-

13

Kết quả nghiên cứu cho thấy các chất có tác dụng tốt đến tỷ lệ hom của
thực vật là IAA, IBA và NAA. Tuy nhiên ở mỗi loài cây khác nhau thì chất
kích thích có tác dụng khác nhau, vì vậy để nâng cao tỷ lệ ra rễ cần phải chọn
các chất cho từng loài qua thực nghiệm (Lê Đình Khả, Dương Mộng Hùng,
2003) [3].
Nồng độ
Cùng loại thuốc kích thích nhưng nồng độ khác nhau có tác dụng khác
nhau. Tùy từng lồi cây mà chúng thích ứng với một loại nồng độ thích hợp
nhất định. Nờng đợ th́c kích thích quá thấp sẽ không có tác dụng phân hóa
tế bào để hình thành rễ, nồng độ quá cao hom sẽ thối giữa trước khi hình
thành rễ. Nồng độ chất kích thích còn phụ thuộc vào nhiệt độ không khí và
mật độ hóa gỗ của hom. Nếu nhiệt độ không khí cao cần phải xử lý thuốc có
nồng độ thấp hơn và ngược lại. Nếu hom chưa hóa gỗ hoặc hóa gỗ yếu cần
phải xử lý nồng độ thấp hơn hom già và ngược lại.
Khi lựa chọn nồng độ chất kích thích ra rễ cần chú ý đến nhiệt độ
không khí và mức độ hóa gỗ của hom để điều chỉnh cho phù hợp (Lê Đình
Khả, Dương Mộng Hùng, 2003) [3].
Thời gian xử lý:
Cùng loại thuốc cùng nồng độ nhưng thời gian xử lý khác nhau sẽ cho
tỷ lệ ra rễ khác nhau
Giữa nồng độ, thời gian, nhiệt độ không khí có mối quan hệ nhất định:
nồng độ thấp thời gian xử lý lâu hơn và ngược lại, nhiệt độ không khí cao cần
xử lý nồng độ thấp và thời gian ngắn hơn và ngược lại (Lê Đình Khả, Dương
Mộng Hùng, 2003) [3].

Phương pháp xử lý
Hom thường được xử lý bằng 2 phương pháp: ngâm phần gốc vào dung
dịch chất kích thích ra rễ. Nếu nồng độ thấp ngâm từ 3 – 6 giờ, nếu nồng độ cao
ngâm từ 5 – 10 giây.Chấm phần gốc của hom vào hóa chất kích thích dạng bột từ
0.5 – 1 cm (Mai Quang Trường, Lương Thị Anh, 2007) [10].
Tóm lại, để giâm hom thành công thì phải thực hiện đầy đủ đồng bộ các
biện pháp kỹ thuật cần thiết từ chăm sóc cây mẹ, đến cấy hom giâm, tạo điều
kiện thích hợp nhất cho hom giâm ra rễ.


14

14

2.3. Những nghiên cứu về kỹ thuật gây trồng và phát triển cây Mẫu đơn
đỏ trên thế giới và ở Việt Nam
2.3.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Rừng là nguồn tài ngun vơ cùng q giá, đóng vai trị vô cùng to lớn
đối với sự sống trên trái đất. Rừng là lá phổi xanh của nhân loại tuy nhiên
hiện nay với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế đã làm suy giảm nghiêm
trọng nguồn tài nguyên quý giá này ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con
người. Với tình hình trên con người ngày càng trú trọng và đầu tư vào trồng
rừng, để trồng rừng có hiệu quả thì cơng tác nhân giống vơ cùng quan trọng.
Với sự đóng góp của các nhà khoa học nghành lâm nghiệp đã và đang nỗ lực
tìm ra những phương pháp tạo giống cây mới đóng góp vào cải thiện giống
cây rừng.
Tốc độ phát triển nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu và khu vực đã
làm cho môi trường sống ô nhiễm, rừng suy giảm về diện tích và chất lượng,
đặc biệt ảnh hưởng trực tiế đến sức khỏe con người. Đứng trước tình hình đó
các nhà khoa học và lĩnh vực nông lâm nghiệp đặc biệt sự đóng góp của các

nhà khoa học Lâm nghiệp đã và đang nỗ lực để tìm ra những phương pháp tạo
giống cây mới đóng góp vao ngân hàng hạt giống ngày càng chất lượng.
Trong những năm 1950 có hàng loạt cuốn sách về chọn giống cây rừng
đã được xuất bản ở nhiều nước trên thế giới. Bắt đầu từ năm 1964 Girodano
đã giâm hom Bạch đàn E.Camalodulensis một năm tuổi, đạt tỷ lệ ra rễ 60%.
Tới năm 1963, nhà nghiên cứu người Pháp là Franclet đã đưa ra một danh
sách gồm 58 loài Bạch đàn đã thử nghiệm giâm hom và đã đạt thành công.
Bắt đầu từ năm 1984, nhà nghiên cứu người Đức R.Kleins Chrmit đã tiến
hành nhân giống cây Vân san ở CHLB Đức. Ruden cũng bắt đầu tại Nauy.
Và từ đầu thập kỷ 80 đến nay thì công tác nghiên cứu đã đạt được nhiều
thành công như loài cây lá kim, lá rộng. Ở Đông Nam Á những năm gần đây
việc nghiên cứu và sản xuất cây hom đã được tiến hành ở nhiều nước. Trung
tâm giống cây rừng Asean - Canada (ACLTSC) đã tổ chức thử nghiệm nghiên
cứu giống hom từ những năm 1988 và đã thu được nhiều kết quả với các loài
cây họ đậu.


15

15

Tại Trung Quốc đã xây dựng được một quy trình công nghệ về sản xuất
cây con bằng cây mô hom cho hàng chục loài cây gỗ, cây ăn quả và cây cảnh.
Qua quá trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã tạo ra những cây
con đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn đã mở ra hướng mới triển vọng
trong công tác tạo giống cây trồng.
2.3.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Việt Nam đã và đang ứng dụng những thành tựu trong nghiên cứu tạo
giống cây trồng bằng giâm hom. Các nhà khoa học đã và đang không ngừng
nỗ lực tìm tòi sáng tạo, tạo ra những quy trình phương pháp riêng cho giâm

hom cây rừng nói chung và những cảnh quan nói riêng. Năm 1976, lần đầu
tiên Việt Nam đã thử nghiệm nhân giống hom với một số loài cây như Bạch
đàn, Thông được tiến hành tại Phù Ninh, Phú Thọ.
Năm 1984, Nguyễn Ngọc Tâm đã giâm hom thành công loài cây Mỡ từ
cây non hoặc gốc trưởng thành. Ông cho biết tỷ lệ ra rễ là 40% ở hom chưa
hóa gỗ ở cây Mỡ khi các hom này chưa được xử lý với thuốc 2.4D nồng độ
50ppm trong 3 giây .
Năm 1990, Nguyễn Hoàng Nghĩa nhân giống cây Sở bằng hom cành xử lý
thuốc NAA ở một công thức thích hợp cho tỷ lệ ra rễ ở hom giâm là 80%
(Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2001) [8]. Lê Đình Khả và Đoàn Thị Bích giâm hom
Bạch đàn trắng bằng thuốc xử lý IBA nồng độ 75ppm cho tỷ lệ ra rễ cao hơn
27.5% so với công thức đối chứng (Lê Đình Khả và các cộng sự,1997) [5].
Từ năm 1990 trở lại đây, các nhà khoa học Lê Đình Khả, Phạm Văn
Tuấn và Nguyễn Hoàng Nghĩa đã tiến hành giâm hom các loài Bạch đàn
(1990 - 1991), cây Sở (Lạng Sơn, 1990), Keo lá chàm và Keo lai (1995),
Bách xanh (1999), Pơ mu (Lâm Đồng, 1997), Thông đỏ (Ba vì, 1995).
Trung tâm nghiên cứu cây rừng viện khoa học Việt Nam sau một thời
gian nghiên cứu đã thực hiện thành công việc sản xuất cây hom Bạch đàn
trắng và Keo lai theo kế hoạch của bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
phê duyệt trong 3 năm 1996 - 1998.
Theo bản tin dự án trồng mới 5 triệu ha rừng số 4 - 2005 nhân giống
một số loài cây rừng bằng phương pháp giâm hom đã có nhiều triển vọng:


16

-

-


-

-

16

Đối với Pơ mu có độ tuổi từ 2 - 8 tuổi lấy cành của cây trưởng thành hoặc đã
qua tạo chồi. Hom ra rễ đạt 85 - 95% khi xử lý bằng NAA 1.5% với giá thể
làm bằng cát hay trực tiếp trong túi bầu.
Đối với cây Bách xanh ở độ tuổi từ 2 - 10 tuổi lấy cành của cây trưởng thành
hoặc đã qua tạo chồi. Hom ra rễ đạt 85 - 95% khi xử lý IBA 1% với giá thể
bằng cát.
Với cây Hồng tùng giâm hom thành công ở giai đoạn có độ tuổi khác nhau
bằng chồi vượt của cây trưởng thành hoặc đã qua tạo chồi. Hom ra rễ đạt 80 85% khi xử lý bằng hóa chất IBA 1.5% trên giá thể bằng cát.
Hiện nay nhân giống hom đã được thử nghiệm ở nước ta từ những
năm 1960 song với mục đích áp dụng ở quy mô sản xuất trong khoảng
10 năm gần đây, khi các giống cây có năng xuất cao như Keo lai, Phi lao
601, 701 và một số cao sản (chọn trong nước và được nhập từ Trung
Quốc) được đưa vào sản xuất. Ngồi ra kỹ thuật nhân giống vơ tính bằng
giâm hom cho một số loài cây như: Luồng và các giống tre măng đang
được áp dụng trên quy mô sản xuất (Nguyễn Hồng Nghĩa, 2001) [8].
Nhìn chung phương pháp giâm hom này ra đời đã đem lại nhiều thành
tựu cho cơng tác tạo giống cây trồng vì mang lại nhiều ưu điểm khắc phục
cho các phương pháp nhân giống truyền thống khác.
2.4. Khái quát khu vực nghiên cứu
Đề tài được thực hiện vườm ươm của trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên
2.4.1. Đặc điểm - vị trí địa lý
Vườn ươm của trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên thuộc tổ 10 xã Quyết Thắng - Thành phố Thái Nguyên:
Phía Bắc giáp với phường Quán Triều

Phía Nam giáp với phường Thịnh Đán
Phía Tây giáp với xã Phúc Hà
Phía Đông giáp với khu dân cư trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
Vườn có quy mô khá rộng. Cây ươm chủ yếu là: Keo úc, Lát hoa, Mỡ,
Trám và giâm hom một số loài cây cảnh như: Tràm liễu, Cô tòng... vườn có
hệ thống tưới tiêu chủ động, giao thông thuận tiện [11].


17

17

2.4.2. Địa hình
Địa hình của xã chủ yếu là đồi bát úp khơng có núi cao. Độ dốc trung
bình10-150, độ cao trung bình 50-70m, địa hình thấp dần từ Tây bắc xuống
Đông Nam.
Vườn ươm khoa lâm nghiệp thuộc trung tâm thực hành thực nghiệm
của trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Nằm ở khu vực chân đồi, hầu
hết đất ở đây là loại đất Feralit phát triển trên đá Sa thạch. Do vườn ươm mới
chuyển đến về đây nên đất lấy để hoạt động đóng bầu gieo cây là đất mặt ở
đồi tương đối tốt.
Bảng 2.1: Kết quả phân tích mẫu đất
Độ sâu
tầng đất

Chỉ tiêu
Mùn

N


Chỉ tiêu dễ tiêu/100g đất
P205

K2O

N

P2O5

K2O

PH

(cm)
1-10
1.776 0.024 0.241
0.035
3.64
456
0.90 3.5
10-30
0.670 0.058 0.211
0.060
3.06
12
0.44 3.9
30-60
0.711 0.034 0.131
0.107
0.107 3.04 3.05 3.7

(Nguồn: Theo số liệu phân tích đất của trường ĐHNL Thái Nguyên)
Theo kết quả phân tích mẫu đất của trường Đại học Nơng Lâm Thái
Ngun tại vườm ươm thì chúng ta có thể nhận thấy:

Độ PH của đất thấp chứng tỏ đất ở đây chua.

Đất nghèo mùn, hàm lượng N, P2O5 ở mức thấp. Chứng tỏ đất nghèo
dinh dưỡng.
2.4.3. Đặc điểm khí hậu thời tiết
Do vườn ươm nằm trong khu vực thành phố Thái Nguyên nên nó mang
đầy đủ tính chất khí hậu chung của Thành phố
Thuận lợi: khí hậu nóng ẩm mưa nhiều, lượng mưa lớn độ ẩm cao,
nhiệt độ thích hợp tạo điều kiện cho cây hom sinh trưởng, phát triển nhanh.
Khó khăn: do mùa đông lạnh kéo dài nên khó tiến hành giâm hom
trong mùa đông. Khí hậu nóng ẩm mưa nhiều nên có nhiều sâu, bệnh hại. Vào
mùa mưa, lượng mưa lớn gây ra hiện tượng rửa trôi chất dinh dưỡng gây ảnh
hưởng đến chất lượng cây hom.


18

18

Bảng 2.2: Một số yếu tố khí hậu 5 tháng đầu năm 2012 tại tỉnh Thái nguyên
Tháng

Nhiệt độ trung
bình (ºC)

Ẩm độ không khí

trung bình (%)

Lượng mưa
(mm)

1

11.9

73

4.4

2

17.3

80

10.8

3

16.7

82

9.3

4


23.4

83

30.1

5

27.8

84

20.6

(Nguồn: Trạm khí tượng thủy văn cầu Gia Bẩy)
Qua bảng 2.2 ta thấy rằng, khí hậu khu vực vườn ươm Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên từ tháng 2 – 5 có nhiệt độ, độ ẩm khơng khí trung bình
thích hợp cho việc giâm hom.


19

19

Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là hom Mẫu đơn đỏ lấy tại trường
Đại học Nông Lâm

3.2. Thời gian tiến hành nghiên cứu
Chuẩn bị hom, theo dõi và thu thập thông tin từ ngày 23/2/2012 đến
ngày 20/5/2012
3.3. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đề ra, đề tài nghiên cứu những nội dung sau:
-

Xác định thời gian ra rễ của hom theo định kỳ 10 ngày một lần

-

Xác định tỷ lệ ra rễ của hom cây Mẫu đơn đỏ cuối đợt thí nghiệm

-

Xác định chất kích thích và nồng độ phù hợp cho giâm hom cây Mẫu đơn đỏ
Các chỉ tiêu theo dõi:

-

Số hom sống

-

Số hom ra rễ

-

Số rễ/ hom (cái)


-

Chiều dài rễ
3.4. Phương pháp nghiên cứu và các bước tiến hành
3.4.1. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp bố trí thí nghiệm
- Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu điều tra: từ những số liệu
thu thập được trong quá trình điều tra ngoại nghiệp, tôi tiến hành tổng hợp và
phân tích kết quả thí nghiệm.
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm và kế thừa có chọn lọc
các kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài: Những tài liệu có sẵn về đặc
điểm nghiên cứu (điều kiện tự nhiên, đất đai, khí hậu...), một số đặc điểm về
đối tượng nghiên cứu và những nghiên cứu có liên quan đến đề tài.


20

-

20

3.4.2. Các bước tiến hành
3.4.2.1. Công tác điều tra ngoại nghiệp
Bước 1: Chuẩn bị giâm hom
* Trước khi giâm hom
- Tiến hành dọn vệ sinh quanh luống chuẩn bị giâm hom.
- Chuẩn bị giá thể: Đất tầng B, bầu polyetylen
- Làm vòm che: làm khung vòm che để phủ nilon
* Vật tư phục vụ cho công tác nghiên cứu
- Kéo cắt hom, xô nhựa, thuốc xử lý giá thể, thuốc xử lý nấm, hom

thuốc kích thích, bình phun sương, dao và một số dụng cụ làm vòm che, giàn
che khác.
- Các hóa chất để xử lý
+ KMnO4 0.3% để xử lý giá thể
+Thuốc Viben C50 0.15% xử lý nấm cho hom sau khi cắt.
+ Th́c kích thích NAA có nờng độ 150ppm, 200ppm, 250ppm,
300ppm.
Bước 2: Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của chất kích thích NAA có nồng độ
150ppm, 200ppm, 250ppm, 300ppm lên giâm hom cây Mẫu đơn đỏ.
Mỗi công thức thí nghiệm có 30 hom. Tiến hành thí nghiệm với 3 lần
lặp lại và thí nghiệm được bố trí theo công thức:
Công thức I: nồng độ NAA là 150ppm.
Công thức II: nồng độ NAA là 200ppm.
Công thức III: nồng độ NAA là 250ppm.
Công thức IV: nồng độ NAA là 300ppm.
Công thức V: công thức không dùng thuốc (công thức đối chứng).
Giữa các công thức được ngăn cách với nhau bởi những khoảng đất.
Mỗi công thức sử dụng 30 hom thí nghiệm và đều nhắc lại 3 lần. Mỗi
lần nhắc lại có một ô đối chứng, mỗi ô đối chứng có 30 hom. Như vậy tổng số
hom của toàn thí nghiệm là 450 hom giâm. Ta có sơ đồ bố trí thí nghiệm cho
các công thức như sau:


21

21

Bảng 3.1: Sơ đồ bố trí các công thức thực nghiệm
Lần nhắc lại


Cơng thức thí nghiệm
I (150ppm)

1

II (200ppm)
III (250ppm)

Đối chứng

IV (300ppm)
I (150ppm)
2

II (200ppm)
III(250ppm)

Đối chứng

IV (300ppm)
I (150ppm)
3

II (200ppm)
III (250ppm)

Đối chứng

IV (300ppm)

Bước 3 Các bước thực hiện
* Chuẩn bị giá thể
Đất tầng B được sàng qua lưới loại bỏ những tạp chất và đóng vào túi
bầu có kích thước 7*12.
* Chuẩn bị luống xếp bầu
Luống được sử dụng là luống có sẵn trong vườn ươm, nền đất trong
luống được san phẳng đều và được dọn sạch cỏ dại. Bầu đóng xong được xếp
vào luống mỗi hàng 30 bầu để tiện cho việc đếm, chăm sóc và theo dõi sự
biến đổi của hom theo công thức sau khi giâm. Rãnh giữa các luống bầu đủ
rộng để đi lại chăm sóc dễ dàng không gây tổn thương đến cây trong bầu và
không làm hỏng bầu.
* Chuẩn bị làm giàn che:
Giàn che được làm cao hơn đầu người cho tiện đi lại chăm sóc, không
bị vướng và được phủ bằng đen để che nắng và giữ ẩm cho đất bảo vệ hom


22

22

khỏi tác động của nhiệt vào những ngày nắng gắt. Tạo ra môi trường có ánh
sáng tán xạ 40 - 50% ánh sáng toàn phần có khả năng ra rễ của hom được tạo
ra thuận lợi.
* Làm vòm che
Trên luống cắm hom làm vòm che uốn theo hình vòm cung cao 1m,
dài 2m, cách nhau 1m, chạy dài hết luống, vòm che được làm bằng tre và
phủ bằng nilon trắng để ánh sáng dễ lọt qua đảm bảo đủ ánh sáng để quang
hợp, tổng hợp chất hữu cơ để nuôi cây. Vòm che che kín cả luống bầu để
giữ ẩm cho bầu, hạn chế thoát hơi nước của hom tránh hom bị khô héo.
Vòm che vừa đủ rộng để nilon không chạm vào hom gây ảnh hưởng đến

khả năng ra rễ của hom.
* Xử lý giá thể
Đất đóng vào bầu và xếp vào luống, tiến hành xử lý bằng dung dịch thuốc
tím (KMnO4) 0.3% trước khi căm hom 24h và được tưới thấm ướt cả bầu đất.
Trước khi giâm hom 1h tưới rửa bằng nước sạch rồi tiến hành cắm hom.
* Tiêu chuẩn của giâm hom
Hom ngọn cây Mẫu đơn đỏ ở trạng thái bánh tẻ, khỏe mạnh không sâu
bệnh, không bị tổn thương cơ giới, có chiều dài từ 10 -15cm có thể có một
ngọn hoặc một số nhánh nhỏ, có lá tồn tại trên hom.
* Cắt hom
Đầu hom cắt vát nghiêng 1 góc 45º. Dùng dao sắc để tránh dập nát và
tạo bề mặt nghiêng tiếp xúc với thuốc dễ hơn khi xử lý, thuận lợi cho việc
hình thành mô sẹo thúc đẩy hom ra rễ. Tỉa bớt lá ở gần gốc để cắm hom dễ
dàng bơm hơn.
Hom cắt để theo một chiều từ gốc đến ngọn để khi cắm thao tác nhanh.
Toàn độ hom cắt xong cho vào chậu nước. Sau đó ta tiến hành ngâm các hom
đã cắt vào thuốc xử lý nấm cho hom giâm. Sau đó ta bỏ hom đã xử lý nấm ra,
chờ cho hom ráo nước thì tiến hành xử lý bằng thuôc kích thích ra rễ.
* Cắm hom
Trước khi cắm hom ta tiến hành tưới qua luống giâm bằng nước lã sạch
vừa rửa sạch phần thuốc tím đọng lại vừa bổ sung thêm độ ẩm cho giá thể
trước khi giâm hom.


23

23

Hom sau khi được cắt rửa sạch bằng nước lã ngâm vào dung dịch thuốc
Viven C50 0.15% trong vòng 10 phút để diệt nấm bệnh, sau đó vớt ra rửa lại

bằng lã sạch để ráo nước rồi chấm vào dung dịch thuốc kích thích ra rễ sau đó
tiến hành cắm hom. Hom được cắm vào giữa bầu đất, sâu khoảng 1 - 2cm
(tùy thuộc vào chiều dài của hom mà cắm sao cho khác nhau) sao cho hom
chắc và thẳng đảm bảo cho hom không bị đổ, mặt cắt hoàn toàn tiếp xúc với
đất.
Sau khi cắm hom phủ kín nilon vào vòm che sao cho nilon không chạm vào
hom tránh gió thổi chạm vào hom làm ảnh hưởng đến khả năng ra rễ của hom
Bước 4: Chăm sóc và thu thập số liệu
* Chăm sóc luống bầu giâm
Trong chăm sóc vấn đề quan trọng nhất là làm sao duy trì được độ ẩm
thích hợp cho luống bầu cũng như cho toàn bộ hom giâm. Không được để
khô, mất nước, giúp cho hom giâm có độ ẩm cần thiết cho việc hình thành mô
sẹo trong giai đoạn đầu và hình thành rễ trong giai đoạn tiếp theo. Do hom
giâm của chúng ta nằm phía trong vòm che nilon nên việc mở vòm che trong
giai đoạn đầu cần hạn chế mà vẫn luôn đảm bảo nhiệt độ trong đó không quá
nóng so với nhiệt độ bên ngoài. Hàng ngày dùng bình phun sương tưới ở dạng
sương mù nhằm bổ sung lượng nước đồng thời làm giảm nhiệt độ phía trong
của vòm che tạo ra một nhiệt độ khoảng 28 - 30ºC là khoảng nhiệt độ thích
hợp cho nhiều loại cây trồng sinh trưởng và phát triển một cách tự nhiên.
Trong quá trình tiến hành thí nghiệm tôi đã có chế độ phun tưới cụ thể
như sau:
Giai đoạn 15 ngày đầu kể từ ngày cắm hom: lúc này hom vừa tách khỏi
cây mẹ, sống độc lập cần độ ẩm cao từ không khí. Ta cần tưới đủ làm giảm
bớt sự thoát hơi nước qua mặt lá. Do vậy cần tưới nước 2 lần/ngày, lượng
nước tưới từ 1 lít/2m2 bầu. Dùng bình phun sương để tưới cho hom.
Giai đoạn 15 - 25 ngày tuổi: vết cắt của hom đã liền và hình thành mô
sẹo, hom hút nước mạnh, mặt lá có sức căng lớn, lượng nước tưới vừa phải.
Tuy nhiên do hom Mẫu đơn đỏ được để lại nhiều là trên hom nên vẫn cần



24

-

-

-

24

phải tưới 2 lần/ngày, lượng nước tưới khoảng 1 - 1.5 lít/2m 2 bầu, có thể phun
ở dạng sương hoặc dạng hạt to hơn.
Giai đoạn sau 25 – 35 ngày tuổi: lúc này rễ đã hình thành cây hút được chất
dinh dưỡng và nước từ đất. Do vậy phải tưới nước thường xuyên 1 lần/ ngày,
lượng nước tưới 2 - 2.5 lít/2m2 bầu. Có thể dùng ô doa để tưới cho hom giâm, khi
thời tiết thay đổi thì lượng nước tưới cũng như số lượng tưới tăng hoặc giảm.
Giai đoạn 35 ngày tuổi trở đi thì bộ rễ phát triển mạnh cây con đã hoàn
chỉnh và khỏe mạnh vì vậy có thể tưới 1 - 2 ngày tưới 1 lần.
Điều chỉnh ánh sáng
Đa số các loài cây giâm hom đều cần ánh sáng tán xạ khoảng 40 - 50%
trong quá trình thí nghiệm tôi đã điều chỉnh ánh sáng cụ thể như sau:
Giai đoạn từ khi cắm hom đến 15 ngày tuổi: phủ kín vòm che bằng
nilon trắng nhằm đảm bảo hom có đủ ánh sáng để quang hợp, tổng hợp chất
dinh dưỡng để nuôi hom. Giàn che phủ bằng lưới đen có chiều cao phù hợp
cho đi lại chăm sóc thuận tiện.
Giai đoạn từ 15 - 35 ngày tuổi: lúc này hom đã ra rễ có thể sống độc lập
ngoài môi trường. Tôi tiến hành bỏ dần nilon ở vòm che ra vào buổi tối và
những lúc trời mát, vào những lúc trời nắng to lại đậy lại. Làm như vậy nhằm
giúp cây dần thích nghi được với điều kiện môi trường.
Giai đoạn sau 35 ngày tuổi: bỏ hẳn vòm che nhưng vẫn để lại lưới đen

trên mái che. Đây là thời kỳ huấn luyện cây hiệu quả giúp cây có khả năng
thích ứng cao với môi trường khi đem ra trồng.
Thu thập số liệu
Sau khi giâm hom tôi tiến hành chăm sóc và bắt đầu theo dõi về dấu
hiệu và sự hình thành mô sẹo của hom giâm và từ hình thành mô sẹo là cơ sở
cho sự hình thành rễ. Do cây có thời gian ra rễ khá sớm nên khoảng cách theo
dõi cũng như thời gian theo dõi đều ngắn. 15 ngày sau khi giâm hom có thể
tiến hành theo dõi sự hình thành mô sẹo và rễ.
Cuối đợt thí nghiệm tiến hành thu thập số liêu:
Số hom sống.
Tỷ lệ ra rễ.
Tỷ lệ rễ/hom.


25

-

25

Chiều dài TB rễ/hom.
Các số liệu thu thập được ghi vào các mẫu biểu ở phần phụ lục
3.4.2.2. Công tác nội nghiệp
* Xử lý số liệu
Từ những số liệu thu thập được, tiến hành tính toán các chỉ tiêu theo
công thức sau:
Σ số hom sống
Tỷ lệ hom sống =
x 100% (công thức 1)
Σ số hom thí nghiệm

Tỷ lệ hom ra rễ =

Σ số hom ra rễ
Σ số hom thí nghiệm

x 100%

Chiều dài rễ TB =

Σ chiều dài rễ
Σ số rễ

(công thức 3)

Số rễ trung bình =

Σ số rễ
Σ số hom ra rễ

(công thức 2)

(công thức 4)

Chỉ số ra rễ =

Số rễ TB/hom

x chiều dài rễ TB

(công thức 5)


Để kiểm tra mức độ ảnh hưởng nồng độ tại mỗi công thức có thể ảnh
hưởng tới khả năng ra rễ hay khơng tơi dùng phương pháp phân tích phương
sai một nhân tố để kiểm tra. Ta coi mỗi nồng độ của các công thức là một
nhân tố.
Số liệu thu thập được sẽ được hệ thống tính tốn thơng qua các quy
trình tốn học trong tốn học Lâm nghiệp và sẽ được trình bày ở phần phụ lục
(Nguyễn Hải Tuất, Ngô Kim Khôi, 1996) [5].


×