Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Đánh giá thực trạng xây dựng nông thôn mới theo tiêu chí của bộ NN&PTNT tại xã tân sơn huyện kim bảng tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.87 KB, 85 trang )

1
DANH MỤC CÁC BẢNG
1
1
2
DANH MỤC CÁC HÌNH
2
Bảng 2.1. Tình hình sử dụng đất tại xã Tân Sơn 21
Bảng 2.2. Tình hình dân số và lao động của xã Tân Sơn 23
Bảng 2.3. Tình hình sản xuất nông nghiệp 26
Bảng 2.4. Tình hình cơ sở hạ tầng 27
Bảng 3.1. Mẫu bảng SWOT 33
Bảng 4.1. Hệ thống giao thông của xã Tân Sơn 34
Bảng 4.2. Chi tiết hiện trạng hệ thống điện trên địa bàn xã 36
Bảng 4.3. Tình hình nghèo đói của các xóm trong xã năm 2011 41
Bảng 4.4. So sánh tình hình thực hiện các tiêu chí xây dựng NTM tại xã Tân
Sơn với Bộ tiêu chí 48
Bảng 4.5. Bảng SWOT trong xây dựng NTM tại xã 60
2
3
MỤC LỤC
3
3
4
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BCĐ Ban chỉ đạo
CN – TTCN Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp.
CNH- HĐH Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
LĐ Lao động
LĐNN Lao động nông nghiệp
MTQG Mục tiêu quốc gia


NKNN Nhân khẩu nông nghiệp
NN Nông nghiệp
NTM Nông thôn mới
TD-TT Thể dục- Thể thao
THCS Trung hoc cơ sở
THPT Trung học phổ thông
VH-TT-DL Văn hóa - truyền thông - Du lịch
V-A-C Vườn – Ao – Chuồng
4
4
5
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Hiện nay và trong tương lai, nông nghiệp vẫn đóng vai trò vô cùng quan
trọng trong đời sống quốc gia và trong kinh tế nông thôn. Bất kỳ một quốc gia
nào xuất phát điểm của nền kinh tế ban đầu cũng là nông nghiệp, sau quá trình
công nghiệp hoá mới trở thành các nước công nghiệp phát triển. Không thể có
một nước công nghiệp nếu nông nghiệp, nông thôn lạc hậu,và nông dân có đời
sống văn hóa và vật chất thấp[12]. Vì vậy, phát triển nông thôn có vai trò hết sức
quan trọng và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển kinh tế xã hội nói
chung của đất nước. [5]
Việc phát triển nông thôn toàn diện đang là vấn đề cấp bách hiện nay trên
phạm vi cả nước; nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát
triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh,
quốc phòng, giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.
Với mục tiêu xây dựng nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội từng
bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông
nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô

thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân
tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật
chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ chương chính sách nhằm
phát triển nông thôn trong quá trình phát triển đặc biệt là trong giai đoạn hiện
nay. Ngày 5/8/2008 tại hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành trung ương Đảng
khóa X đã ra nghị quyết 26 – NQ/TW về Nông nghiệp, Nông dân, Nông
thôn[9]. Sau 20 năm đổi mới đất nước đây là lần đầu tiên Đảng ta có một nghị
5
5
6
quyết toàn diện nhất về Nông nghiệp, Nông dân, Nông thôn trong điều kiện kinh
tế thị trường hội nhập[4]. Đồng thời, nhằm thực hiện các nhiệm vụ mà Nghị
quyết 26-NQ/TW ( 05/8/2008)[13] đề ra, Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày
16/4/2009[15] ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Tiếp sau đó ngày
21 tháng 8 năm 2009 của Bộ Nông Nghiệp và PTNT đã quyết định ra thông tư số
54/2009/TT-BNNPTNT về việc hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về
NTM. Quyết định 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 phê duyệt chương trình Mục tiêu
quốc gia (MTQG) về xây dựng nông thôn mới 2010 - 2020.
Cũng như các tỉnh thành khác trên cả nước, tỉnh Hà Nam cũng đã và
đang tiến hành rà soát sơ bộ tại các huyện trên địa bàn tỉnh, và cũng tiến hành
xây dựng nông thôn mới thí điểm tại một số xã trong các huyện. Kim Bảng là
một huyện nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh, và là một trong số các huyện được
tỉnh quan tâm chú trọng phát triển tới đời sống của người dân trong vùng. Việc
xây dựng các mô hình thí điểm về nông thôn mới đã và đang được các ban
ngành trong huyện chú trọng thúc đẩy để nâng cao đời sống của người dân
trong huyện, cũng như giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc từ bao đời nay.
Việc xây dựng Nông thôn mới mang lại một diện mạo mới cho nông thôn
hiện nay nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần của người dân ở nông thôn.
Tuy nhiên để xây dựng được mô hình Nông thôn mới các địa phương còn gặp rất

nhiều khó khăn và tồn tại, cũng như các thách thức mà địa phương cần phải giải
quyết. Xuất phát từ những vấn đề trên tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh
giá thực trạng xây dựng Nông thôn mới theo tiêu chí của Bộ NN&PTNT tại
xã Tân Sơn - huyện Kim Bảng - tỉnh Hà Nam” với mong muốn tìm ra được
những vướng mắc khó khăn, tồn tại chính tại địa phương. Từ đó đưa ra được một
số giải pháp để địa phương sớm đạt được các tiêu chí trong Bộ tiêu chí quốc gia.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng về pháp triển nông thôn và so sánh với các
tiêu chí xây dựng NTM để đưa ra giải pháp, xác định phương hướng giúp xã Tân
Sơn sớm đạt được các tiêu chí về NTM .
6
6
7
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá được tình hình xây dựng NTM tại địa phương
- Đề xuất được một số giải pháp nhằm phát huy các điểm mạnh vốn có
của xã và khắc phục những khó khăn khi thực hiện mô hình Nông thôn mới.
1.4. Ý nghĩa đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập
- Củng cố kiến thức cơ sở, cũng như kiến thức chuyên ngành trong nhà trường
để từ đó củng cố lại kiến thức và áp dụng những kiến thức đó vào thực tiễn.
- Hiểu hơn về các chính sách ưu tiên hỗ trợ của nhà nước về các vấn đề
trong xã hội đặc biệt về lĩnh vực phát triển nông thôn.
- Rèn luyện kỹ năng thu thập thông tin và xử lý số liệu, viết báo cáo.
- Học hỏi những kinh nghiệm từ thực tế để áp dụng vào công việc sau này.
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tế
- Biết được những mặt đã làm được và chưa làm được để từ đó làm cơ
sở để đưa ra các giải pháp, hướng đi mới cho xã, để nâng cao đời sống của
người dân trong xã về mặt vật chất cũng như tinh thần, xây dưng một nông
thôn mới theo đúng các tiêu chí mà quyết định số 491/QĐ-TTg[10] và thông

tư 54/2009/TT-BNNPTNT đã đề ra.
- Từ những kết quả đạt được ở khóa luận, là cơ sở lựa chọn giải pháp phù hợp
trong việc xây dựng nông thôn mới ở cấp xã tại huyện Kim Bảng - tỉnh Hà Nam.
7
7
8
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu
2.1.1. Một số khái niệm liên quan
2.1.1.1. Khái niệm về Nông thôn
Hiện nay thì vẫn chưa có một khái niệm chuẩn và chung nhất về nông
thôn trên thế giới. Vì vậy với mỗi một quốc gia một khu vực lãnh thổ hay với
mỗi vùng miền khác nhau hoặc các tiêu chí khác nhau thì có những quan điểm
khác nhau về nông thôn.
Có quan điểm cho rằng cần dựa vào chỉ tiêu trình độ phát triển của cơ sở
hạ tầng, có nghĩa vùng nông thôn có cơ sở hạ tầng không phát triển bằng vùng
đô thị.
Quan điểm khác lại cho rằng nên dựa vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị trường,
phát triển hàng hoá để xác định vùng nông thôn vì cho rằng nông thôn có trình độ sản
xuất hàng hoá và khả năng tiếp cận thị trường so với đô thị là thấp hơn.
Cũng có ý kiến nên dùng chỉ tiêu mật độ dân cư và số lượng dân trong
vùng để xác định. Theo quan điểm này, vùng nông thôn thường có số dân và mật
độ dân thấp hơn vùng thành thị.
Vùng nông thôn là vùng có dân cư làm nông nghiệp là chủ yếu, tức là
nguồn sinh kế chính của cư dân trong vùng là từ sản xuất nông nghiệp
Theo ý kiến phân tích của các nhà kinh tế và xã hội học thì: “Nông thôn
là vùng khác với thành thị, ở đó một cộng đồng chủ yếu là nông dân sống và làm
việc, có mật độ dân cư thấp, có kết cấu hạ tầng kém phát triển hơn, có trình độ
dân trí, trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hóa kém hơn”.

Còn theo bộ Nông nghiệp và PTNT (2010)[2] thì : “ Nông thôn là phần
lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị, thị xã, thị trấn và được quản lý bởi các
cấp hành chính là Ủy ban nhân dân xã”.
8
8
9
Khái niệm nông thôn chỉ có tính chất tương đối và luôn biến động theo
thời gian để phản ánh biến đổi về kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay thì khái niệm về nông thôn được hiểu chung
nhất đó là: “Nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp dân cư, trong đó có nhiều
nông dân. Tập hợp cư dân này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa - xã
hội và môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của
các tổ chức khác, phân biệt với đô thị”.(Mai Thu Cúc và cs, 2005)[5]
2.1.1.2. Phát triển nông thôn
Khác với phát triển và phát triển kinh tế, phát triển nông thôn là chỉ sự
phát triển ở khu vực nông thôn; có thể hiểu rằng phát triển nông thôn chỉ sự phát
triển kinh tế - xã hội trên phạm vi hẹp hơn phát triển và phát triển kinh tế. Sau
đây là một số quan điểm về phát triển nông thôn.
Phát triển nông thôn là một quá trình thay đổi có chủ ý về kinh tế, văn hóa, xã
hôi và môi trường nhằm nâng cao chất lượng đời sống người dân địa phương.
Ngân hàng Thế giới (1975) đã đưa ra định nghĩa: “Phát triển nông thôn
là một chiến lược nhằm cải thiện các điều kiện sống về kinh tế và xã hội của một
nhóm người cụ thể - người nghèo ở vùng nông thôn. Nó giúp những người
nghèo nhất trong những người dân sống ở các vùng nông thôn được hưởng lợi
ích từ sự phát triển”.(Mai Thu Cúc và cs,2005)[5]
Ngoài ra còn có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về phát triển nông
thôn. Tuy nhiên trong điều kiện của Việt Nam, tổng hợp quan điểm từ các chiến
“Phát triển nông thôn là quá trình cải thiện có chủ ý một cách bền vững về kinh
tế, xã hội, văn hóa và môi trường, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân nông thôn. Quá trình này trước hết là do chính người dân nông thôn

và có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước và các tổ chức khác” (Nguyễn Duy Hoan
và cs, 2007) [6].
9
9
10
2.1.1.3. Nông thôn mới
Để nắm rõ và đi sâu triển khai xây dựng Nông thôn mới từ cấp TW đến
địa phương, phải nắm rõ được khái niệm của nông thôn mới là như thế nào và
nội dung ra sao? Vậy nông thôn mới là gì?
Nông thôn mới trước tiên nó phải là nông thôn, không phải là thị tứ, thị
trấn, thị xã, thành phố và khác với nông thôn truyền thống hiện nay, có thể khái
quát gọn theo năm nội dung cơ bản sau: (i) làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng
hiện đại; (ii) sản xuất phải phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hoá; (iii)
đời sống về vật chất và tinh thần của dân nông thôn ngày càng được nâng cao;
(iv) bản sắc văn hoá dân tộc được giữ gìn và phát triển; (v) xã hội nông thôn an
ninh tốt, quản lý dân chủ.[4]
Với mục tiêu “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông
nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội
nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi
trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo
của Đảng được tăng cường”[8]. Nông thôn mới phải đảm bảo các chức năng
chính sau:
 Chức năng vốn có của nông thôn là sản xuất nông nghiệp có năng suất chất
lượng cao, phát huy được bản sắc dân tộc của địa phương (đặc sản) đồng thời
phát triển các ngành nghề truyền thống của địa phương, tăng thu nhập cho ngườu
dân nông thôn.
 Chức năng giữ gìn văn hóa bản sắc dân tộc: Bản sắc văn hóa làng quê cũng đồng
nghĩa với bản sắc từng dân tộc, giữ gìn nó là giữ gìn văn hóa truyền thống đa
dạng của các dân tộc, của từng quốc gia.

 Chức năng sinh thái: nếu như nền văn minh công nghiệp pá vỡ mối quan hệ hài
hòa vốn có giữa con người và thiên nhiên, thì thuộc tính sản xuất nông nghiệp lại
mang chức năng phụ vụ hệ thống sinh thái. Khi đó để tăng năng suất và đảm bảo
an ninh lương thực lại rất khó khăn.
10
10
11
 Với việc xây dựng mô hình nông thôn mới là một chính sách về một mô hình
phát triển cả về nông nghiệp và nông thôn, nên vừa mang tính tổng hợp, bao quát
nhiều lĩnh vực, vừa đi sâu giải quyết nhiều vấn đề cụ thể, đồng thời giải quyết
các mối quan hệ với các chính sách khác, các lĩnh vực khác trong sự tính toán,
cân đối mang tính tổng thể, khắc phục tình trạng rời rạc, hoặc duy ý chí.[11]
Nói tóm lại có thể quan niệm: “Mô hình nông thôn mới là tổng thể những
đặc điểm, cấu trúc tạo thành một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí mới, đáp
ứng yêu cầu mới đặt ra cho nông thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông
thôn được xây dựng so với mô hình nông thôn cũ (truyền thống, đã có) ở tính
tiên tiến về mọi mặt”.
2.1.1.4. Mục đích xây dựng mô hình NTM của Đảng và Nhà nước
Mô hình nông thôn mới là tổng thể những đặc điểm, cấu trúc tạo thành
một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra cho
nông thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn được xây dựng mới có tính
tiên tiến về mọi mặt.[2]
2.1.2. Nội dung của xây dựng NTM
Bộ tiêu chí là căn cứ để xây dựng nội dung Chương trình mục tiêu quốc
gia về xây dựng NTM, là chuẩn mực để các xã lập kế hoạch phấn đấu xây dựng
đạt được 19 tiêu chí trong Bộ tiêu chí đã đề ra. Đồng thời là căn cứ để chỉ đạo
đánh giá kết quả thực hiện xây dựng NTM tại các địa phương trong từng thời kỳ,
đánh giá công nhận, xã, huyện, tỉnh đạt nông thôn mới, đánh giá trách nhiệm của
các cấp ủy Đảng chính quyền trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM.
Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM được ban hành theo quyết định số

491/QĐ- TTg, ngày 16/4/2009[2] gồm 5 nhóm tiêu chí:
+ Nhóm quy hoạch (gồm 1 tiêu chí: quy hoạch)
+ Nhóm hạ tầng kinh tế xã hội (gồm 8 tiêu chí: giao thông, thủy lợi, điện, trường học,cơ
sở vật chất, chợ nông thôn, bưu điện, nhà ở dân cư)
11
11
12
+ Nhóm kinh tế và tổ chức sản xuất (gồm 4 tiêu chí: thu nhập, hộ nghèo, cơ cấu lao
động, hình thức tổ chức sản xuất)
+ Nhóm văn hóa- xã hội- môi trường (gồm 4 tiêu chí: giáo dục, y tế, văn hóa, môi
trường)
+ Nhóm hệ thống chính trị (gồm 2 tiêu chí: hệ thống tổ chức chính trị vững mạnh, an
ninh trật tự xã hội)
Nội dung của từng tiêu chí trong Bộ tiêu chí quốc gia được thể hiện ở bảng
phụ biểu 03, và các tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật về xây dựng NTM của Bộ
NN&PTNT[3] được thể hiện ở phụ biểu 04.
2.2. Tình hình xây dựng NTM trên thế giới
Phát triển nông nghiệp để xây dựng một nông thôn mới trong giai đoạn
hiện nay, từ các góc cạnh khác nhau, đang là mối quan tâm chung của cả cộng
đồng thế giới. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về vấn đề này là
bài học cho Việt Nam trong công cuộc xây dựng NTM trên phạm vi cả nước.
• Tại Mỹ
Mỹ là nước có điều kiện tự nhiên cực kỳ thuận lợi để phát triển nông
nghiệp. Vùng Trung Tây của nước này có đất đai màu mỡ nhất thế giới. Lượng
mưa vừa đủ cho hầu hết các vùng của đất nước; nước sông và nước ngầm cho
phép tưới rộng khắp cho những nơi thiếu mưa.
Bên cạnh đó, các khoản vốn đầu tư lớn và việc tăng cường sử dụng lao
động có trình độ cao cũng góp phần vào thành công của ngành nông nghiệp Mỹ.
Điều kiện làm việc của người nông dân làm việc trên cánh đồng rất thuận lợi:
máy kéo với các ca bin lắp điều hòa nhiệt độ, gắn kèm theo những máy cày, máy

xới và máy gặt có tốc độ nhanh và đắt tiền. Công nghệ sinh học giúp phát triển
những loại giống chống được bệnh và chịu hạn. Phân hóa học và thuốc trừ sâu
được sử dụng phổ biến, thậm chí, theo các nhà môi trường, quá phổ biến. Công
nghệ vũ trụ được sử dụng để giúp tìm ra những nơi tốt nhất cho việc gieo trồng
và thâm canh mùa màng. Định kỳ, các nhà nghiên cứu lại giới thiệu các sản
12
12
13
phẩm thực phẩm mới và những phương pháp mới phục vụ việc nuôi trồng thủy,
hải sản, chẳng hạn như tạo các hồ nhân tạo để nuôi cá.
Ngành nông nghiệp Mỹ đã phát triển thành một ngành “kinh doanh nông
nghiệp”, một khái niệm được đặt ra để phản ánh bản chất tập đoàn lớn của nhiều
doanh nghiệp nông nghiệp trong nền kinh tế Mỹ hiện đại.[18]
Hiện nay, trong cuộc sống hiện đại ồn ào, đầy sức ép, người Mỹ ở vùng đô
thị hay ven đô hướng về những ngôi nhà thô sơ, ngăn nắp và những cánh đồng,
phong cảnh miền quê truyền thống, yên tĩnh. Tuy nhiên, để duy trì “trang trại gia
đình” và phong cảnh làng quê đó thực sự là một thách thức.
• Tại Thái Lan
Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống với dân số nông thôn
chiếm khoảng 80% dân số cả nước. Để thúc đẩy sự phát triển bền vững nền nông
nghiệp, Thái Lan đã áp dụng một số chiến lược như: Tăng cường vai trò của cá
nhân và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; đẩy mạnh phong trào học
tập, nâng cao trình độ của từng cá nhân và tập thể bằng cách mở các lớp học và các
hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn; tăng cường công
tác bảo hiểm xã hội cho nông dân, giải quyết tốt vấn đề nợ trong nông nghiệp; giảm
nguy cơ rủi ro và thiết lập hệ thống bảo hiểm rủi ro cho nông dân.
Đối với các sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước đã hỗ trợ để tăng sức cạnh
tranh với các hình thức, như tổ chức hội chợ triển lãm hàng nông nghiệp, đẩy
mạnh công tác tiếp thị; phân bổ khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách khoa
học và hợp lý, từ đó góp phần ngăn chặn tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi

và kịp thời phục hồi những khu vực mà tài nguyên đã bị suy thoái; giải quyết
những mâu thuẫn có liên quan đến việc sử dụng tài nguyên lâm, thủy hải sản, đất
đai, đa dạng sinh học, phân bổ đất canh tác. Trong xây dựng kết cấu hạ tầng, Nhà
nước đã có chiến lược trong xây dựng và phân bố hợp lý các công trình thủy lợi
lớn phục vụ cho nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu cho hầu hết
đất canh tác trên toàn quốc, góp phần nâng cao năng suất lúa và các loại cây
13
13
14
trồng khác trong sản xuất nông nghiệp. Chương trình điện khí hóa nông thôn với
việc xây dựng các trạm thủy điện vừa và nhỏ được triển khai rộng khắp cả nước.
Về lĩnh vực công nghiệp phục vụ nông nghiệp, chính phủ Thái Lan đã tập
trung vào các nội dung sau: Cơ cấu lại ngành nghề phục vụ phát triển công nghiệp
nông thôn, đồng thời cũng xem xét đến các nguồn tài nguyên, những kỹ năng
truyền thống, nội lực, tiềm năng trong lĩnh vực sản xuất và tiếp thị song song với
việc cân đối nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhập khẩu.
Thái Lan đã tập trung phát triển các ngành mũi nhọn như sản xuất hàng
nông nghiệp, thủy hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp
chế biến nông sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, nhất là các nước công
nghiệp phát triển.
Một số kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp, nông thôn nêu trên cho
thấy, những ý tưởng sáng tạo, khâu đột phá và sự trợ giúp hiệu quả của nhà nước
trên cơ sở phát huy tính tự chủ, năng động, trách nhiệm của người dân để phát
triển khu vực này, có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng đối với việc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công nông nghiệp - tạo nền tảng thúc đẩy quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước[18].
• Tại Trung Quốc:
Bên cạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn đầu tư áp dụng cơ
giới hóa, phát triển thủy lợi và áp dụng khoa học công nghệ Trung Quốc còn đẩy
mạnh phát triển cơ sở hạ tầng, đây được xem là điều kiện quan trọng thúc đẩy

sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển. Trung Quốc đã thực hiện
nhiều chính sách cải cách ở nông thôn. Đến năm 2009, thu nhập bình quân của
cư dân nông thôn, lần đầu tiên đạt mức trên 5.000 NDT, tăng 8,5% so với năm
trước. Cũng trong năm 2009, Trung Quốc đầu tư làm mới và sửa chữa khoảng
300.000 km đường bộ nông thôn; hỗ trợ trên 46 triệu người nghèo đảm bảo đời
sống tối thiểu; triển khai thí điểm ở 320 huyện về bảo hiểm dưỡng lão xã hội
nông thôn. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì Trung Quốc còn xây dựng
14
14
15
được các cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn cụ thể xác thực. Chúng là nguồn tài liệu
tham khảo quý giá để lại cho chúng ta trong công cuộc xây dựng Nông thiin mới
tại Việt Nam.
• Tại Hàn Quốc:
Nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến khu vực kinh tế nông thôn khi
thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ I (1962-1966) và thứ II (1966-1971) với chủ
trương công nghiệp hóa hướng đến xuất khẩu, tháng 4 năm 1970, Chính phủ Hàn
Quốc phát động phong trào Saemaul Undong. Mục tiêu của phong trào này là
"nhằm biến đổi cộng đồng nông thôn cũ thành cộng đồng nông thôn mới: mọi
người làm việc và hợp tác với nhau xây dựng cộng đồng mình ngày một đẹp hơn
và giàu hơn. Cuối cùng là để xây dựng một quốc gia ngày một giàu mạnh hơn".
Theo đó, Chính phủ vừa tăng đầu tư vào nông thôn vừa đặt mục tiêu thay
đổi suy nghĩ ỷ lại, thụ động vốn tồn tại trong đại bộ phận dân cư nông thôn.
Điểm đặc biệt của phong trào NTM của Hàn Quốc là Nhà nước chỉ hỗ trợ một
phần nguyên, vật liệu còn nông dân mới chính là đối tượng ra quyết định và thực
thi mọi việc. Saemaul Undong cũng rất chú trọng đến phát huy dân chủ trong
xây dựng NTM với việc dân bầu ra một nam và một nữ lãnh đạo phong trào.
Ngoài ra, Tổng thống còn định kỳ mời 2 lãnh đạo phong trào ở cấp làng xã tham
dự cuộc họp của Hội đồng Chính phủ để trực tiếp lắng nghe ý kiến từ các đại
diện này. Nhằm tăng thu nhập cho nông dân, Chính phủ Hàn Quốc áp dụng

chính sách miễn thuế xăng dầu, máy móc nông nghiệp, giá điện rẻ cho chế biến
nông sản. Ngân hàng Nông nghiệp cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư về nông
thôn với lãi suất giảm 2% so với đầu tư vào ngành nghề khác Năm 2005, Nhà
nước ban hành đạo luật quy định mọi hoạt động của các bộ, ngành, chính quyền
phải hướng về nông dân. Nhờ hiệu quả của phong trào Saemaul Undong mà Hàn
Quốc từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu trở thành một quốc gia giàu có,
hiện đại bậc nhất châu Á. [17]
15
15
16
• Tại Nhật Bản:
Từ năm 1979, Tỉnh trưởng Oita-Tiến sĩ Morihiko Hiramatsu đã khởi
xướng và phát triển phong trào "Mỗi làng, một sản phẩm" (One Village, one
Product-OVOP) với mục tiêu phát triển vùng nông thôn của khu vực này một
cách tương xứng với sự phát triển chung của cả Nhật Bản. Phong trào "mỗi làng
một sản phẩm" dựa trên 3 nguyên tắc chính là: địa phương hóa rồi hướng tới
toàn cầu; tự chủ, tự lập, nỗ lực sáng tạo; phát triển nguồn nhân lực. Trong đó,
nhấn mạnh đến vai trò của chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ kỹ thuật,
quảng bá, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm được xác định là thế mạnh. Sau 20 năm áp
dụng OVOP, Nhật Bản đã có 329 sản phẩm đặc sản địa phương có giá trị thương
mại cao như như nấm hương Shitake, rượu Shochu lúa mạch, cam Kabosu,
giúp nâng cao thu nhập của nông dân địa phương.[18]
2.3. Tình hình xây dựng NTM tại Việt Nam
Ở Việt Nam, Chương trình xây dựng thí điểm MHNTM trong thời kỳ
CNHHĐH được triển khai thực hiện theo Kết luận số 32-KL/TW ngày 20/11/2008
của Bộ Chính trị và Thông báo kết luận số 238-TP/TW ngày 7/4/2009 của Ban Bí
thư về Đề án “Xây dựng thí điểm mô hình NTM”, nhằm tổ chức thực hiện Nghị
quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Hội nghị lần thứ 7, BCH Trung ương Đảng
(khóa X) về “nông nghiệp, nông dân, nông thôn”[8]. Chương trình đã thành công
bước đầu và đạt được một số kết quả quan trọng.

Sau 3 năm triển khai thực hiện thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới
cấp xã tại 11 xã điểm ở 11 tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng, miền, đã dần
dần hình thành được mô hình nông thôn mới thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH trên
thực tế theo cấp độ xã và thôn, bản ở các vùng.
Đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn ngày càng được cải
thiện. Theo tiêu chí cũ, tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm từ 16,2% năm 2008
xuống còn 11,3% năm 2010. Chính phủ cũng đã tập trung hỗ trợ 62 huyện nghèo
nhất để giảm nghèo nhanh và bền vững, đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các
khu vực.
16
16
17
Hầu hết các xã thực hiện Chương trình thí điểm đều cho rằng, việc triển
khai và kết quả bước đầu của chương trình đã có tác động làm chuyển biến nhận thức
trong cán bộ và người dân nông thôn, tạo cho họ niềm tin về sự đổi đời trong tương
lai. Vì thế người dân đã tham gia nhiều hơn trong các hoạt động xây dựng NTM,
quan tâm hơn đến công việc của cộng đồng và tự giác thực hiện tại gia đình mình; là
cơ sở để hình thành và phát triển được các phong trào NTM [19].
Bên cạnh đó, niềm tin vào Đảng không ngừng được nâng lên, nội dung
xây dựng NTM cũng là nội dung được đề cập nhiều nhất tại Đại hội Đảng các
cấp. Không chỉ có người dân mà cả các cấp, ngành từ Trung ương đến địa
phương cũng đã có sự thay đổi trong nhận thức về vai trò của nông nghiệp, nông
thôn, nông dân. Nhiều hoạt động, chương trình hành động của các đơn vị liên
quan đều đề ra nhiệm vụ xây dựng NTM [13].
“Hình hài” mô hình NTM theo 19 tiêu chí đã được hình thành. Bên cạnh
các xã đạt kết quả tương đối toàn diện còn có nhiều xã đạt được mô hình tốt như
mô hình quy hoạch và thực hiện tốt quy hoạch ở Hải Đường; mô hình phát triển
sản xuất, nâng cao thu nhập ở Mỹ Long Nam; mô hình huy động nguồn lực ở
Thanh Chăn và Định Hòa; mô hình phát triển sản xuất gắn với quy hoạch đồng
ruộng và cơ sở hạ tầng ở Tam Phước; mô hình phong trào cải tạo điều kiện sống

của các hộ dân cư ở Tân Thịnh; mô hình liên kết sản xuất giữa nông dân với
doanh nghiệp ở Thụy Hương, Tân Hội… (Phan Xuân Sơn và cs, 2008) [9].
2.4. Xây dựng NTM tại Hà Nam
Sau 03 năm thí điểm xây dựng mô hình NTM, diện mạo nông thôn các xã
điểm trên địa bàn tỉnh Hà Nam đã thay đổi rõ rệt, hạ tầng kinh tế xã hội đã có
bước phát triển, nhất là hệ thống giao thông và các công trình phúc lợi công
cộng. Các tiêu chí để xây dựng NTM tăng bình quân mỗi xã khoảng 6 tiêu chí.
Đặc biệt việc huy động sự đóng góp của cộng đồng trong xây dựng NTM cũng
đạt hiệu quả khá cao. Từ năm 2009 đến 2011, tổng kinh phí của 5 xã sử dụng cho
xây dựng NTM là 273,125 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách tỉnh lồng ghép các
17
17
18
chương trình là trên 95 tỷ, ngân sách xã 95 tỷ và vốn nhân dân đóng góp là trên
67 tỷ đồng[1]. Đại bộ phận nhân dân đều phấn khởi tích cực hưởng ứng tham gia
thực hiện các nội dung chương trình xây dựng NTM. Đặc biệt trong năm 2011,
thực hiện Nghị quyết 03 của Tỉnh ủy về xây dựng NTM, đến nay 100% các xã
đã được phê duyệt đồ án quy hoạch và đề án xây dựng NTM. Các giải pháp được
lựa chọn đã đạt kết quả cao như việc dồn đổi ruộng đất, mô hình đầu tư cho sản
xuất nâng cao thu nhập, nhất là mô hình chăn nuôi lợn bằng công nghệ đệm lót
sinh học. Ngoài ra, thực hiện Cuộc vận động “Chung sức xây dựng NTM”, năm
2011 các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã đăng ký hỗ trợ gần 25 tỷ đồng và
hàng nghìn khối đá cho xây dựng NTM.[12]
Năm 2012, các cấp ủy đảng, chính quyền trong tỉnh tập trung huy động và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư trên cơ sở thực hiện lồng ghép có hiệu
quả các chương trình, dự án, đẩy nhanh thực hiện và hoàn thành các tiêu chí
NTM của các xã điểm giai đoạn 2009 - 2011; chỉ đạo xây dựng NTM ở tất cả các
xã trong tỉnh; chú trọng các giải pháp phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho nông
dân như chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật mới; lồng ghép, huy động các nguồn lực, nhất là nguồn lực cộng đồng nhân

dân và các doanh nghiệp để hỗ trợ đầu tư xây dựng công trình phúc lợi; tăng
cường công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm gắn với duy trì và phát triển
các ngành nghề truyền thống; tiếp tục phát động phong trào thi đua xây dựng
NTM…[15]
2.4. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
2.4.1. Điều kiện tự nhiên
2.4.1.1. Vị trí địa lý
Tân Sơn là một xã nằm ở phía Tây Bắc của huyện Kim Bảng, cách trung
tâm huyện khoảng 4 km theo trục đường quốc lộ 21B.
Ranh giới hành chính xã Tân Sơn các phía giáp:
- Phía Bắc giáp với xã Tượng Lĩnh
18
18
19
- Phía Tây giáp với Làng Đục Khê – Mỹ Đức – Hà Nội
- Phía Nam giáp với xã Khả Phong và xã Thụy Lôi
- Phía Đông giáp với xã Đồng Hóa và xã Lê Hồ
Xã Tân Sơn được chia thành 11 xóm với 6 thôn là Thụy Sơn, Hồi Trại,
Thụy Trại, Tân Lang, Vĩnh Sơn, Đồng Bưng.
2.4.1.2.Địa hình
Nhìn chung địa hình xã Tân Sơn khá phức tạp, không bằng phẳng, được
chia làm 2 khu vực: Phía Tây phần lớn là núi đá vôi, đá phong hóa. Phía Đông
bằng phẳng hơn, chủ yếu là ruộng canh tác. Và một phần của con sông Đáy
chảy qua địa bàn xã, nên rất thuận lợi cho viêc việc trồng cây nông nghiệp, còn
có một phần diện tích khá lớn là núi đá vôi, không thuận tiện cho việc trồng cây
lâm nghiệp dài ngày nên chủ yếu được sử dụng để khai thác đá, làm xi măng.
Địa hình phức tạp nên việc quản lý và kiểm soát mọi hoạt động của xã còn gặp
nhều khó khăn.
2.4.1.3. Khí hậu, thời tiết
Khí hậu tại xã mang những nét chung của vùng Đồng Bằng Bắc Bộ đó là:

khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa đông lạnh, mùa hè nóng ẩm mưa nhiều.
Nhiệt độ trung bình năm giao động từ 23
0
C đến 24
0
C. Mùa hè nhiệt độ
trung bình 27
0
C, tháng nống nhất trong năm là các tháng 6, 7, nhiệt độ cao nhất
từ 36
0
C đến 38
0
C. Mùa đông nhiệt độ trung bình 18.9
0
C, các tháng lạnh nhất
trong năm là tháng 1,2 nhiệt độ thấp nhất từ 6
0
C đến 8
0
C.
Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2000mm. Năm mưa nhiều
khoảng 2400mm, năm mưa ít khoảng 1200mm. Mùa mưa nhiều từ tháng 5 đến
tháng 10, lượng mưa chiếm khoảng 80% lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng
11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa chiếm khoảng 20% lượng mưa của cả năm.
Tổng số ngày nắng trung bình trong các năm 1276 giờ. Mùa hè có tổng số
giờ nắng lớn, các tháng có giờ nắng cao nhất là tháng 5,6. Mùa đông số giờ nắng
chiếm trung bình khoảng 92%, độ ẩm trung bình tối thiểu khoảng 82%.
19
19

20
Độ ẩm trung bình lớn 84%. Độ ẩm trung bình giữa các tháng chênh lệch
không lớn, độ ẩm trung bình tối đa khoảng 92%, độ ẩm trung bình tối thiểu
khoảng 82%.
Hướng gió thay đổi theo mùa. Tốc độ gió trung bình từ 1.9m/s đến 2.2m/s.
Mùa hè thường có mưa bão lớn. Mùa đông thịnh hành là gió Đông Bắc, tần suất
khoảng 60 – 70%.
( Nguồn: Niêm giám thống kê tỉnh Hà Nam)
Với điều kiện khí hậu như vậy rất thuận lợi cho việc phát triển nhiều loại
cây trồng khác nhau, cũng như việc chăn nuôi tại địa phương.
2.4.1.4. Nguồn nước và thủy văn
Hệ thống dòng chảy: Một phần của sông Đáy với chiều dài 7,3m chảy
qua địa bàn xã, cùng với hệ thống kênh mương phục vụ tốt cho công viêc tưới
tiêu, phục vụ cho sản xuât nông nghiệp.
Hệ thống máy bơm nước được bố trí tại các cánh đồng phục vụ cho ngành
nông nghiệp
2.4.2. Tài nguyên thiên nhiên
2.4.2.1. Tài nguyên đất
Xã Tân Sơn, là một xã bán sơn địa lại có nhiều sông ngòi chảy qua nên có
những loại đất chính sau:
Đất phù sa được bồi tụ bởi con sông Đáy, đất tố màu mỡ, thích hợp cho
việc canh tác lúa nước, rau màu và một số loại cây công nghiệp ngắn ngày như
đỗ tương, lạc và một số cây ăn quả.
Đất nâu vàng trên nên phù sa cổ, đất đỏ vàng trên phiến đá sét, thích hợp
cho việc trồng cây lâm nghiệp, cây ăn quả và cây công nghiệp.
Nhìn chung tài nguyên đất của xã khá phong phú thuận lợi cho việc phát
triển đa dạng các loại cây trồng trong xã.
20
20
21

Bảng 2.1. Tình hình sử dụng đất tại xã Tân Sơn
STT Mục đích sử dụng
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)
Tổng diện tích đất tự nhiên 1,037.63 100,00
1 Nhóm đất nông nghiệp 642.83 62
- Đất sản xuất nông nghiệp 364.46
+ Đất trông cây hằng năm 345.91
+ Đất trồng lúa 306.06
+ Đất trồng cây lâu năm 18.55
- Đất sản xuất lâm nghiệp 250.03
+ Đất rừng sản xuất 15.58
+ Đất rừng phòng hộ 234.45
- Đất nuôi trồng thủy sản 28.34
2 Nhóm đất phi nông nghiệp 384.91 37.1
- Đất ở 41.97
- Đất chuyên dùng 280.84
- Đất tôn giáo, tín ngưỡng 0.89
- Đất nghĩa trang nghĩa địa 6.81
- Đất sông suối 54.4
3 Nhóm đất chưa sử dụng 9.89 0.9
- Đất bằng chưa sử dụng 9.67
- Đất đồi núi chưa sử dụng 0.22
(Nguồn: Ban thống kê xã Tân Sơn)
Qua bảng trên ta thấy được, xã có tổng diện tích tự nhiên là 1.037,63 ha
được chia ra làm 3 nhóm chính:
Nhóm đất nông nghiệp là 642.83ha, chiếm 62% tổng diện tích tự nhiên.
Trong nhóm đất nông nghiệp được chia ra là đất dùng để sản xuất nông nghiệp,

đất lâm nghiệp, và đất nuôi trồng thủy sản. Và chiếm ưu thế hơn cả là nhóm đất
sản xuất nông nghiệp với diện tích 364.46 ha thuận lợi cho việc phát triển các
cây trồng hằng năm và lâu năm cũng như cây lúa. Sự đa dạng các loại đất cho
phép Tân Sơn phát triển nông nghiệp một cách toàn diện với nhiều loại cây trông
khác nhau. Diện tích đất lâm nghiệp là 250.03ha tập trung chủ yếu ở phía Tây và
một phần phía Nam của xã. Do địa hình khá phức tạp nên chủ yếu là rừng phòng
hộ, chỉ có một diện tích nhỏ là rừng trồng ở vùng đệm giữa núi và đồng bằng với
21
21
22
loài cây chiếm ưu thê là bạch đàn. Một phần nhỏ diện dùng nuôi trồng thủy sản
chủ yếu là tận dụng diện tích ao đầm và mặt nước sẵn có, hoặc có một số hộ chủ
động đào ao thả cá để phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho gia đình.
Nhóm đất phi nông nghiệp có diện tích là 384.91ha chiếm 37.1% tổng
diện tích tự nhiên. Trong đó diện tích đất chuyên dùng chiếm diện tích lớn nhất
trong nhóm đất phi nông nghiệp 280.84ha dùng để xây dựng trụ sở cơ quan, đất
an ninh, quốc phòng, đất giao thông, thủy lợi, đất cơ sở y tế, đất cơ sở văn hóa,
đất cơ sở giáo dục đào tạo… Tiếp đến là diện tích đất ở chỉ 41.97ha, cộng thêm
việc dân số của xã khá đông nên phần diện tích đất tích theo đầu người tại xã rất
thấp:44m
2
/người. Xã nằm trong dòng chảy của con sông Đáy, nên với diện tích
đất sông suối là 54.4ha rất thuận lợi cho phất triển sản xuất nông nghiệp. Và một
phần nhỏ diện tích đất được dùng trong việc xây dựng nghĩa trang, nghĩa địa, đất
tôn giáo tín ngưỡng.
Đất chưa sử dụng là 9.89 ha chiếm 0.9% tổng diện tích đất tự nhiên toàn
xã. Chủ yếu là đất bằng chưa sử dụng 9.67 ha. Loại đất này chủ yếu là đất đã của
hợp tác xã, đất tập thể, hoặc đất của một số hộ trong xã chưa có hướng sử dụng
nên còn bỏ trống. Nếu có thể khai thác đưa vào sử dụng loại đất này sẽ tăng thêm
phần diện tích đất ở cho người dân trong xã nhằm giãn cách mật độ dân số trong xã

xuống thấp hơn. Còn một phần nhỏ diện tích đồi núi chưa được sử dụng (0.22 ha).
Đất này thường khó canh tác, chủ yếu là núi đá.
2.4.2.2. Tài nguyên nước
Toàn xã có 90.45 ha diện tích đất mặt nước. Trong đó diện tích sông, ngòi,
kênh, rạch, suối là 54.41 ha, đây là nguồn nước chính phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp. Diện tích đất ao, hồ, đầm là 36.04 ha được dùng để nuôi trồng thủy sản
chủ yếu là nuôi các loại cá.
Nguồn nước ngầm: Ở độ sâu từ 6 đến 10m là nguồn nước ngầm phong
phú được người dân trong xã khai thác bằng cách khoan, đào giếng lấy nước
phục vụ cho ăn uống sinh hoạt hàng ngày.
22
22
23
2.4.2.3. Tài nguyên rừng
Diện tích rừng là 250.03ha trong đó diện tích rừng phòng hộ là 234.45ha
và diện tích rừng sản xuất là 15.58ha. Nhũng năm gần đây diện tích rừng ngày
càng giảm do việc khai thác đá ở các núi đá ngày càng nhiều, cần phải có những
biện pháp và chính sách cụ thể để khoanh nuôi phục hồi lại rừng.
2.3.2.4. Khoáng sản
Khoáng sản chủ yếu ở xã Tân Sơn là đá vôi, là nguyên liệu cho sản xuất xi
măng, vôi, sản xuất bột nhẹ, làm vật liệu xây dựng.
Một số loại đá quý có ở xã như đá Vân Hồng, tím nhạt. Hay trữ lượng đất
sét lớn dùng để làm nguyên liêu cho sản xuất xi măng, hay làm gạch, ngói…
2.4.3. Điều kiện kinh tế xã hội
2.4.3.1. Dân số – Lao động – Dân tộc
Toàn xã có 6 thôn được chia ra làm 11 xóm bao gồm tổng số hộ là 2483
hộ với 9342 nhân khẩu. Trong đó, số người trong độ tuổi lao động là 5603 người,
số lao động làm trong lĩnh vực nông nghiệp là 2297 người chiếm 41% tổng lao
động, số lao động làm trong lĩnh vực CN – TTCN là 2073 người, chiếm 37%, số
lao động làm trong lĩnh vực dịch vụ là 533 người chiếm 9.5%, và số lao động

trong các ngành nghề khác là 700 người chiếm 12.5%. Tân Sơn là xã có số lượng
dân số khá đông đặc biệt là nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động lớn, tuy nhiên
thì nguồn lao động trong độ tuổi lao động thường đi lao động xa hoặc vào làm tại
các khu công nghiệp. Vì vậy việc phát triển nguồn nhân lực tại địa phương vừa
có những cơ hội nhưng bên cạnh đó cũng có rất nhiều thách thức cần phải đối
mặt.
Bảng 2.2. Tình hình dân số và lao động của xã Tân Sơn
Năm
Chỉ tiêu
ĐVT 2009 2010 2011
Tốc độ phát
triển(%)
2010/2
009
2011/2
010
23
23
24
1. Tổng nhân khẩu Người 9242 9287 9342 100.48 100.6
Nhân khẩu nông nghiệp Người 6931 6733 6539 97.14 97.12
1.2. Nhân khẩu phi nông
nghiệp
Người 2311 2554 2803 110.51 109.75
2. Tổng số hộ Hộ 2348 2483 2652 105.75 106.81
Hộ nông nghiệp Hộ 1878 1862 1856 99.15 99.677
Hộ phi nông nghiệp Hộ 470 621 796 132.13 128.18
3. Tổng số lao động LĐ 5545 5572 5603 100.49 100.55
Lao động nông nghiệp LĐ 2495 2340 2297 93.79 98.16
Lao động phi nông nghiệp LĐ 3050 3232 3306 105.96 102.28

4. Bình quân LĐNN/ hộ NN LĐ/hộ 1.32 1.26 1.24
5. Bình quân NKNN/hộ NN LĐ/hộ 3.69 3.62 3.52
(Nguồn: Ban thống kê xã Tân Sơn)
Qua bảng ta thấy được sự biến động dân số của xã trong những năm qua. Về
tổng nhân khẩu có sự tăng lên về nhân khẩu giữa các năm, năm 2010 tăng lên
0.48% so với năm 2010 và tiếp tục tăng vào năm 2011 (tăng 0.6% so với năm
2011). Tuy nhiên, số nhân khẩu nông nghiệp lại đang có chiều hướng đi xuống
trong những năm gần đây, năm 2010 giảm 2.86% so với năm 2009, và tiếp tục
giảm trong năm 2011, năm 2011 giảm 2.88%. Hiện người dân không còn được
mặn mà với việc phát triển nông nghiệp, chuyển dịch ngành nghề sang các ngành
khác nên việc số nhân khẩu tăng lên nhưng nhân khẩu nông nghiệp giảm xuống
thay vào đó là sự tăng lên về nhân khẩu phi nông nghiệp. Năm 2010 số nhân
khẩu phi nông nghiệp tăng 10.51% so với năm 2009 , đến năm 2011 tăng 9.75%
so với năm 2010. Người dân đang có xu hướng chuyển mục đích kinh doanh
sang CN-TTCN nên số nhân khẩu đang có xu hướng tăng lên, tuy nhiên tăng ở
mức độ nhẹ.
Về tổng số hộ trong xã, số hộ trong xã cũng tăng lên một cách nhanh
chóng, năm 2010 tăng 5.78% so với năm 2009, năm 2011 tăng 6.77% so với năm
2010. Tuy nhiên, số hộ nông nghiệp lại đang ngày một giảm, năm 2010 giảm
0.85% so với năm 2009, năm 2011 giảm 0.33% so với năm 2010 và số hộ phi
24
24
25
nông nghiệp đang có xu hướng tăng lên do có xu hướng chuyển đổi ngành nghề,
năm 2010 tăng 32.13% so với năm 2010, năm 2011 tăng 28.18% so với năm
2010.
Tổng số lao động cũng có xu hướng tăng lên do số nhân khẩu đến tuổi lao
động tăng lên, năm 2010 tăng 0.49% so với năm 2010, năm 2011 tăng 0.55% so
với năm 2011. Tuy nhiên vẫn ở mức độ tăng chậm. Đối mặt với thực tế, việc sản
xuất nông nghiệp không mang lại hiệu quả về kinh tế cho người dân nên việc

chuyển đổi cơ cấu ngành nghề khiến cho lao động nông nghiệp ngày càng giảm
xuống và lao động phi nông nghiệp ngày càng tăng. Chính vì thế mà bình quân
LĐNN/ hộ NN và NKNN/ hộ NN cũng đang giảm dần. Tuy nhiên, mức độ giảm
còn thấp.
Nhìn chung, xã Tân Sơn nguồn nhân lực làm nông nghiệp vẫn còn khá cao.
Tuy nhiên thì sản xuất nông nghiệp không mang lại hiệu quả kinh tế cao nên hiện
người dân không còn mặn mà với việc phát triển nông nghiệp, nhân lực làm nông
nghiệp chính là phụ nữ còn lại nam giới và một số bộ phận lao động trẻ đã bỏ
nông nghiệp đi làm xa nhà (phu hồ, học cao đẳng, đại học, hoặc đi làm ở các khu
công nghiệp). Nếu có cơ cấu hỗ trợ phát triển nông nghiệp, có hướng phát triển
xây dựng kinh tế từ nông nghiệp để ổn định kinh tế sẽ có thể lôi kéo một lượng
lớn lao động quay về quê hương phát triển kinh tế.
Thành phần dân tộc trong xã, người Kinh chiếm đại đa số, nên việc
thông tin truyền đạt các vấn đề tới người dân không gặp phải khó khăn gì về
mặt ngôn ngữ.
2.4.3.2. Điều kiện kinh tế
Cơ cấu kinh tế: nông nghiệp vẫn đóng vai trò chủ đạo với 45% tổng giá trị
kinh tế của toàn ngành. Tiểu thủ công nghiệp chiếm 35% so với tổng giá trị kinh
tế của toàn ngành, và thương nghiệp dịch vụ chiếm 20% tổng giá trị kinh tế của
toàn ngành và đang có xu hướng tăng lên.
 Sản xuất nông nghiệp
25
25

×