Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Việc làm và thu nhập của người lao động tại xã Nông Cống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.12 KB, 100 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hai mơi năm qua, thực hiện đờng lối đổi mới của Đảng và Nhà nớc, kinh
tế xã hội huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá đã đạt đợc những thành tựu quan
trọng: tăng trởng kinh tế với tốc độ khá cao; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo h-
ớng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp; kết cấu hạ
tầng đợc quan tâm đầu t, nhiều dự án quan trọng đã và đang đợc xây dựng; đời
sống vật chất, tinh thần từng bớc đợc nâng cao.
Tuy nhiên, tình trạng lao động thiếu và không có việc làm, thu nhập của
ngời dân còn thấp vẫn đang còn là vấn đề nổi cộm, cản trở mục tiêu phát triển
bền vững của huyện. Toàn huyện hiện có 99,5% số dân (186.900 ngời) và
98,9% lực lợng lao động (96.002 trong số 97.070 lao động trong huyện) sống
ở nông thôn và khu vực này có trên 96% số ngời nghèo của huyện. Huyện
Nông Cống có tỷ lệ lao động nhàn rỗi vào loại cao trong toàn tỉnh, chiếm tới
tỷ lệ 35,2%. Đây là một vấn đề bức xúc mà cho tới nay vẫn cha giải quyết đ-
ợc. Tạo việc làm và thu nhập cho ngời lao động ở huyện Nông Cống tỉnh
Thanh Hoá vẫn đang là vấn đề nóng bỏng, cấp thiết đối với các cấp chính
quyền và từng gia đình ngời dân.
Để góp phần đánh giá đúng thực trạng và giỉa quyết vấn đề này, qua
nhiều năm chỉ đạo thực tiễn trên địa bàn huyện, tôi chọn đề tài Vic lm v
thu nhp nụng thụn huyn Nụng Cng tnh Thanh Hoỏ để nghiên cứu và
viết luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu khoa học liên quan
đến vấn đề việc làm và thu nhập của ngời lao động công bố trong và ngoài n-
ớc. Tiêu biểu nh:
- Thị trờng lao động: Thực trạng và giải pháp của PGS Nguyễn Quang
Hiền, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 1995;
- Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của PTS Nguyễn Hữu
Dũng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997;
1


- Thị trờng lao động ở Việt Nam: Định hớng và phát triển của Thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan Hơng, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2002;
- Mối quan hệ giữa nâng cao chất lợng lao động với giải quyết việc làm
trong quá trình CNH, HĐH đất nớc: Đề tài khoa học cấp Bộ do PGS, TS Trần
Văn Chử làm chủ biên, Hà Nội, 2001
Các công trình trên đã quan tâm đến vấn đề việc làm và thất nghiệp, coi
đó là một vấn đề có tính toàn cầu; đã đa ra cách tiếp cận về chính sách việc
làm, hệ thống hoá những khái niệm lao động, việc làm, thu nhập; đánh giá
thực trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam nói chung; đề xuất quan điểm và ph-
ơng hớng giải quyết vấn đề việc làm và khuyến nghị, định hớng một số chính
sách cụ thể về việc làm trong quá trình HĐH, CNH đất nớc.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu mang tính chuyên khảo, cũng đã
có nhiều bài báo công bố trên các tạp chí về đề tài việc làm và thu nhập của
ngời dân nông thôn nớc ta nh:
- "Lao động nông thôn trớc nguy cơ thất nghiệp ", bài viết của tác giả
Duy Cảnh đăng trên báo Giáo dục và thời đại, số 51(năm 2003);
- "Giải quyết việc làm ở nông thôn và những vấn đề đặt ra ", của PGS,
TS Nguyễn Sinh Cúc, đăng trên tạp chí Con số và sự kiện, số 8, năm 2003;
- "Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô thị hoá,
công nghiệp hoá nông thôn của Nguyễn Hữu Dũng, đăng trên tạp chí Lao
động Xã hội, số 247, (2004);
- "Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn ", bài viết của GS, TSKH Lê
Đình Thắng, đăng trên tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 3/2002;
- "Thực trạng lao động, việc làm ở nông thôn và một số giải pháp cho
giai đoạn 2001-2005 ", của Bùi Văn Quá, trên Tạp chí Lao động và Xã hội, số
chuyên đề 3 (2001);
- "Việc làm cho ngời nông dân hết đất sản xuất, quy hoạch lại nguồn
lao động", của Nguyễn Văn Nam, đăng trên Thời báo Kinh tế Việt Nam,
19/8/2005;
- "Chất lợng lao động nông thôn thấp của tác giả Huyền Ngân, trên

Thời báo kinh tế Việt Nam số ra ngày 23/3/2005.
2
Ngoài ra, còn có một số luận văn thạc sĩ viết vấn đề việc làm ở một số
tỉnh nh Hng Yên, Thái Bình, Kiên Giang, Hải Dơng với những cách tiếp cận
khác nhau, trong đó có cả tiếp cận dới góc độ kinh tế chính trị.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn cha có công trình nào nghiên cứu về vấn đề
việc làm và thu nhập của ngời lao động nông thôn ở huyện Nông Cống, tỉnh
Thanh Hoá từ góc độ kinh tế chính trị học. Đây là một đề tài mới, không trùng
với bất cứ công trình đã công bố nào, phù hợp để học viên nghiên cứu và viết
thành luận văn thạc sĩ.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Làm rõ thực trạng việc làm và thu nhập của ngời lao động nông thôn ở
huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá trong quá trình CNH, HĐH; đề xuất ph-
ơng hớng và giải pháp tạo việc làm và thu nhập gắn với quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn theo hớng hiện đại, bảo đảm phát triển
bền vững trên địa bàn.
3.1. Nhiệm vụ
- Khảo sát và đánh giữa thực trạng việc làm và thu nhập của ngời dân
nông thôn huyện Nông Cống trong quá trình triển khai CNH, HĐH; chỉ ra
những thành quả, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng này.
- Đề xuất phơng hớng và giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình tạo việc
làm và thu nhập, nâng cao chất lợng cuộc sống của ngời dân nông thôn huyện
Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá trong thời gian tới.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tợng nghiên cứu
Đề tài lấy đối tợng nghiên cứu là việc làm và thu nhập của những ngời
lao động sống ở nông thôn huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá trong quá trình
CNH, HĐH.
Do vấn đề việc làm và thu nhập có quan hệ trực tiếp với tăng trởng kinh

tế, tiến bộ, công bằng xã hội và phát triển bền vững, nên tác giả cho rằng đây
là một vấn đề kinh tế chính trị rất quan trọng cần đợc làm rõ và đợc giải quyết
trên một cơ sở khoa học, phải có những nghiên cứu rất công phu trên một bình
diện lớn, có thể ở một tỉnh hoặc một vùng. Nhng trong giới hạn một luận văn
3
thạc sĩ kinh tế, tác giả chỉ mới hớng nghiên cứu vào một địa bàn hẹp có tính
đại diện trong tỉnh Thanh Hoá là huyện Nông Cống để thực hiện nhiệm vụ và
mục tiêu nghên cứu đặt ra.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Huyện Nông Cống, Tỉnh Thanh Hoá;
Về thời gian: từ khi có chủ trơng của Đảng về đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nớc (1996) đến nay (2007)
5
. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đợc thực hiện trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm, lý luận, đờng lối và chính sách của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Nhà nớc ta về vấn đề việc làm và thu nhập của ngời dân trong sự nghiệp
CNH, HĐH đất nớc.
5.2. Phơng pháp nghiên cứu
Luận văn đợc thực hiện trên cơ sở các phơng pháp nghiên cứu của triết
học Mác - Lênin nh: phơng pháp kết hợp lý luận với thực tiễn; phơng pháp
phân tích và tổng hợp; phơng pháp nghiên cứ phân tích và tổng hợp, diện.
Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phơng pháp nghiên cứu khoa học cụ thể
khác nh: phơng pháp lôgic, các phơng pháp so sánh, đối chiếu, thống kê, mô
hình hóa
6. Đóng góp mới của luận văn
- Phân tích và đánh giá thực trạng việc làm và thu nhập ở nông thôn huyện
Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá từ năm 1996 đến nay.
- Đề xuất phơng hớng và giải pháp khả thi nhằm thúc đẩy có hiệu quả

tiến trình giải quyết việc làm và thu nhập của ngời dân nông thôn huyện Nông
Cống tỉnh Thanh Hoá đến năm 2015.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chơng, 7 tiết.
4
Chơng 1
cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề
việc làm và thu nhập ở nông thôn
1.1. việc làm, thu nhập và đặc điểm của việc làm, thu nhập
ở nông thôn
1.1.1. Việc làm và thu nhập
- Việc làm, mối quan hệ giữa việc làm và lực lợng lao động
Việc làm là một khái niệm đợc nhiều nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu.
C. Mác khi phân tích quá trình sản xuất t bản chủ nghĩa, đã đề cập đến việc
làm nhng cha đa ra khái niệm cụ thể mà mới thể hiện nó trong mối quan hệ
với lao động. Ông viết: "Sự tăng lên của bộ phận khả biến của t bản, và do đó
sự tăng thêm số công nhân đã có việc làm, bao giờ cũng gắn liền với những
biến động mạnh mẽ và với việc sản xuất ra số nhân khẩu thừa tạm thời" [26,
tr. 159].
Vic lm l mt hỡnh thc hot ng kinh t - xó hi. Hot ng ú
khụng n thun l s kt hp sc lao ng vi t liu sn xut, m nú cũn
bao gm c nhng yu t xó hi. Mun s kt hp ú din ra v khụng ngng
phỏt trin, phi to ra c s phự hp c v s lng, cht lng sc lao
ng vi t liu sn xut, trong mt mụi trng kinh t - xó hi thun li,
m bo cho hot ng ú din ra.
Việc làm thể hiện mối quan hệ của con ngời với những nơi làm việc cụ
thể mà ở đó lao động diễn ra, là điều kiện cần thiết nhằm thỏa mãn nhu cầu xã
hội về lao động, là hoạt động lao động của con ngời. Dới góc độ kinh tế, việc
làm thể hiện mối tơng quan giữa các yếu tố con ngời và yếu tố vật chất hay

giữa sức lao động và t liệu sản xuất trong quá trình sản xuất vật chất.
Có nhiều cách quan niệm khác nhau về việc làm, song xét cho cùng
thực chất của việc làm là sự kết hợp sức lao động của con ngời với t liệu sản
xuất.
ở Việt Nam quan niệm về việc làm cũng có nhiều thay đổi qua các
thời kỳ lịch sử. Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao
cấp, ngời lao động đợc coi là có việc làm và đợc xã hội thừa nhận, trân trọng
là ngời làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể. Theo cơ chế
5
đó, xã hội không thừa nhận việc làm ở các thành phần kinh tế khác và cũng
không thừa nhận có hiện tợng thiếu việc làm, thất nghiệp
Từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nớc đến nay, quan niệm
về việc làm đã đợc nhìn nhận đúng đắn và khoa học. Điều 13, Chơng II Bộ luật
Lao động nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ rõ: "Mọi hoạt động
lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều đợc thừa nhận là
việc làm" [3, tr. 42]. Với khái niệm này, các hoạt động lao động đợc xác định
là việc làm, bao gồm: toàn bộ các hoạt động tạo ra của cải vật chất hoặc tinh
thần không bị pháp luật cấm, đợc trả công dới dạng bằng tiền hoặc hiện vật;
tất cả những công việc tự làm mang lại lợi ích cho bản thân hoặc tạo thu nhập
cho gia đình, cho cộng đồng, kể cả những công việc không đợc trả công bằng
tiền hoặc bằng hiện vật.
Nh vậy, theo Bộ luật lao động của Việt Nam, thì việc làm có phạm vi rất
rộng: từ những công việc đợc thực hiện trong các doanh nghiệp, công sở đến
mọi hoạt động lao động hợp pháp nh các công việc nội trợ, chăm sóc con,
cháu trong gia đình đều đợc coi là việc làm. Quan niệm trên làm cho nội
dung của việc làm đợc mở rộng và tạo ra khả năng to lớn giải phóng tiềm năng
lao động, giải quyết việc làm cho nhiều ngời. Thể hiện:
+ Thị trờng lao động không bị hạn chế về mặt không gian và các thành
phần kinh tế, nó đợc mở rộng trong mọi hình thức và cấp độ của tổ chức sản
xuất, kinh doanh và sự đan xen giữa chúng;

+ Ngời lao động đợc tự do hành nghề, tự do liên doanh, liên kết, thuê
mớn lao động theo khuôn khổ của pháp luật quy định.
Quan niệm mới về việc làm nh Bộ luật lao động quy định cho thấy ở n-
ớc ta đã có sự thay đổi căn bản trong nhận thức về việc làm. Với quan niệm
này, nó đã xóa bỏ sự phân biệt đối xử lao động giữa các thành phần kinh tế,
động viên mọi tổ chức, mọi cá nhân và toàn xã hội tạo mở nhiều việc làm cho
ngời lao động. Bên cạnh quan niệm mới về việc làm, Bộ luật lao động còn quy
định giải quyết việc làm nh sau: "Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi ngời
có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nớc,
của các doanh nghiệp và của toàn xã hội" [3, tr. 142].
6
Nh vậy, với quan niệm trên đã làm cho nội dung của việc làm đợc mở
rộng, tạo tiền đề để giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho
nhiều ngời lao động ở các thành phần kinh tế khác nhau; mặt khác còn ngăn
chặn những việc làm trái với quy định dễ nảy sinh trong sản xuất kinh doanh.
Trong mối quan hệ với việc làm, lực lợng lao động đợc thể hiện ở ba
phạm trù sau đây: ngời có việc làm, thiếu việc làm và thất nghiệp.
+ Ngời có việc làm:
ở nớc ta, đối tợng này bao gồm những ngời từ đủ 15 tuổi trở lên trong
nhóm dân số hoạt động kinh tế, đang làm việc để nhận tiền lơng (tiền công),
hoặc đang làm công việc dịch vụ cho bản thân, gia đình và các việc sản xuất
kinh doanh của hộ gia đình.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, với các chính sách về lao động và
việc làm của Đảng và Nhà nớc ta đã có tác động tích cực, tạo ra nhiều việc
làm mới cho ngời lao động; vì vậy, đời sống của ngời lao động đợc cải thiện,
nâng cao rõ rệt. Tuy nhiên, giải quyết việc làm cho ngời lao động vẫn nổi lên
là một trong những vấn đề bức xúc, đặc biệt là đối với những vùng, những địa
phơng đất chật, ngời đông, nhiều ngời lao động còn không có hoặc thiếu việc
làm.
+ Thiếu việc làm:

Có nhiều cách tiếp cận và cách hiểu khác nhau về vấn đề này,
TS. Trần Thị Thu đa ra khái niệm: "Thiếu việc làm còn đợc gọi là bán thất
nghiệp hoặc thất nghiệp trá hình là hiện tợng ngời lao động có việc làm ít hơn
mức mà mình mong muốn" [34, tr. 17]. Đó là tình trạng có việc làm nhng do
nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của ngời lao động, họ phải làm việc
không hết thời gian theo pháp luật quy định, hoặc làm những công việc mà
tiền công thấp không đáp ứng đủ nhu cầu của cuộc sống, họ muốn tìm thêm
việc làm để bổ sung.
+ Thất nghiệp:
Có nhiều quan niệm khác nhau về thất nghiệp, nhng nội dung cơ bản của
thất nghiệp đều đợc hiểu chung là: ngời lao động có khả năng làm việc, mong
muốn làm việc nhng không đợc làm việc. P.A.Samuelson - nhà kinh tế học ng-
ời Mỹ thuộc trờng phái chính hiện đại cho rằng: "Thất nghiệp là những ngời
không có việc làm, nhng đang chờ để trở lại việc làm hoặc đang tích cực tìm
việc làm" [37, tr. 271].
7
Bộ Lao động - Thơng binh và Xã hội Việt Nam nêu quan niệm:
Ngời bị coi là thất nghiệp là ngời đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số
hoạt động kinh tế, hiện tại đang đi tìm việc làm hay không đi tìm việc do không
biết tìm việc ở đâu; và những ngời trong tuần lễ trớc thời điểm điều tra có tổng
số giờ làm việc dới 8 giờ, có mong muốn và sẵn sàng làm thêm giờ nhng không
tìm ra việc [15, tr. 142].
Theo Bộ luật lao động của Việt Nam thì: những ngời trong độ tuổi lao
động (nam từ 15 đến 60 tuổi, nữ từ 15 đến 55 tuổi) có khả năng lao động,
không có việc làm hoặc đang tìm việc làm là những ngời thất nghiệp.
Nh vậy, thất nghiệp (không có việc làm) là hiện tợng ngời lao động
muốn đi làm nhng không tìm đợc việc làm, tức là họ bị tách rời sức lao động
khỏi t liệu sản xuất. Thất nghiệp có nhiều loại:
Thất nghiệp tạm thời: là thất nghiệp phát sinh do ngời lao động muốn có
thời gian để tìm việc làm thích hợp với chuyên môn và sở thích của mình.

Thất nghiệp theo mùa vụ: là thất nghiệp do cầu lao động lao động giảm,
thờng vào những thời kỳ nhất định trong năm.
Thất nghiệp chu kỳ: là thất nghiệp gắn liền với sự suy giảm theo thời kỳ
của nền kinh tế.
Thất nghiệp cơ cấu: là thất nghiệp xuất hiện khi không có sự đồng bộ
giữa kỹ năng, trình độ của ngời lao động với cơ hội việc làm do cầu lao động
và sản xuất thay đổi.
Thất nghiệp do chuyển đổi: là một dạng của thất nghiệp cơ cấu, đây là
loại thất nghiệp do sự mất cân bằng trong một thời kỳ dài giữa cung và cầu lao
động. Nó nảy sinh do có những điều chỉnh trong chính sách kinh tế, dẫn đến
những thay đổi trong cơ cấu sản xuất, tiêu thụ trong toàn bộ nền kinh tế, làm
cho một số ngành kinh tế truyền thống bị suy thoái và làm nảy sinh một số
ngành mới. Những thay đổi này làm cho các kỹ năng, tay nghề cũ của ngời lao
động trở nên không thích hợp với những ngành nghề mới. Họ buộc phải thôi
việc hoặc phải mất một thời gian nhất định để đào tạo, huấn luyện lại tay nghề
[15, tr. 144]. Thất nghiệp cơ cấu thờng xảy ra ở các nớc đang phát triển có nền
kinh tế đang chuyển đổi nh nớc ta; loại thất nghiệp này có quy mô lớn hơn,
trầm trọng hơn so với thất nghiệp do thay đổi cơ cấu ở các nớc phát triển.
8
Tuy nhiên, những ngời không có khả năng lao động, ngời không có nhu
cầu tìm việc làm, ngời đang đi học dù đang ở độ tuổi lao động cũng không
thuộc những ngời thất nghiệp và không nằm trong lực lợng lao động.
Thất nghiệp là một vấn đề xã hội rất nhạy cảm, là mối quan tâm lớn của
tất cả các quốc gia, khi mức thất nghiệp tăng quá mức cho phép tài nguyên sẽ
bị lãng phí, thu nhập của ngời lao động giảm và rơi vào tình trạng nghèo đói;
nền kinh tế suy thoái, lạm phát cao dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội. Do
đó, tỉ lệ thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu trọng yếu để xem xét, đánh
giá tình trạng của một nền kinh tế, sự tiến bộ xã hội, là mối quan tâm hàng
đầu của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
T nhng phõn tớch trờn cho thy gim mc tht nghip v tỡnh trng

thiu vic lm, cn cú nhng gii phỏp nhm gii quyt vic lm. Gii quyt vic
lm cn phi c xem xột c t ba phớa: ngi lao ng, ngi s dng lao
ng v Nh nc. Theo ngha rng, gii quyt vic lm l tng th nhng bin
phỏp, chớnh sỏch kinh t - xó hi ca Nh nc, cng ng v bn thõn ngi lao
ng tỏc ng n mi mt ca i sng xó hi to iu kin thun li m
bo cho mi ngi cú kh nng lao ng cú vic lm. Theo ngha hp, nú l cỏc
bin phỏp ch yu hng vo i tng tht nghip, thiu vic lm nhm to ra
ch vic lm cho ngi lao ng, gim t l tht nghip xng mc thp nht.
- Thu nhập, mối quan hệ giữa việc làm và thu nhập
9
Thu nhập là khoản tiền hay hiện vật trả công cho lao động khi ngời lao
động làm một công việc nào đó. Khoản này có thể đợc trả theo thời gian hoặc
theo sản phẩm mà ngời lao động đã hoàn thành. Thu nhập luôn luôn gắn liền
với việc làm. Không có việc làm thì không có thu nhập. Có việc làm là có thể
tạo ra thu nhập. Đó là đòi hỏi chính đáng của ngời lao động. Tạo đợc việc làm
tức là thu hút đợc nguồn lực lao động vào quá trình sản xuất, làm ra nhiều của cải
cho xã hội, tạo ra tiền đề vật chất để giải quyết tốt mối quan hệ tăng trởng kinh tế
gắn với tiến bộ và công bằng xã hội. Trong hoạch định chính sách và chỉ đạo
thực tiễn, Đảng ta luôn quan tâm đến con ngời, tạo mọi điều kiện để con ngời
phát triển. Đảng ta khẳng định: "Phát huy yếu tố con ngời và lấy con ngời làm
mục đích cao nhất của mọi hoạt động" [9, tr. 36].
Chính vì mối quan hệ gắn kết này mà khi bàn về vấn đề giải quyết việc
làm cũng chính là vấn đề tăng thu nhập. Không thể bàn đến việc tăng thu nhập
mà không tính đến chất lợng, quy mô và hiệu quả của việc làm.
Để tăng thu nhập cho ngời dân, điều đầu tiên là phải tạo ra việc làm, để
họ không rơi vào trạng thái thất nghiệp hoặc thiếu việc làm. Bên cạnh đó, cần
phải tính đến tính hiệu quả của khi ngời lao động làm việc. Lao động không
có hiệu quả, không có năng suất, không tạo ra đợc hàng hoá có chất lợng, tất
yếu không có thu nhập cao. Tuy nhiên, tác nhân ảnh hởng đến thu nhâp ngoài
việc làm và chất lợng của việc làm còn có một số vấn đề liên quan đến phân

phối thu nhập, đến việc đảm bảo sự công bằng trong xã hội và nhiều vấn đề
khác.
Gii quyt vic lm v to thu nhp cho ngi lao ng l mt vn
chung liờn quan n bỡnh din kinh t v mụ, n n nh v phỏt trin kinh t
xó hi v n cỏc vn chớnh tr - xó hi khỏc. Chớnh vỡ th, cỏc nh kinh t
hc hin i ó rt quan tõm n nghiờn cu vn ny. n nay ó cú nhng
lý thuyt quan trng.
+ Lý thuyt to vic lm bng s can thip vo u t ca chớnh ph
trong nn kinh t trong hc thuyt ca J.M.Keynes.
J.M. Keynes l mt nh kinh t ngi Anh thi k 1883-1946. ễng cú
phm ni ting: Lý thuyt tng quỏt v vic lm, lói sut v tin t xut bn
nm 1936. Trong cun sỏch ny, ụng ó xem xột vic lm trong mi quan h
10
với sản lượng chung, đầu tư và tiết kiệm, thu nhập và tiêu dùng. Theo ông,
trong một nền kinh tế, khi việc làm tăng, thì sản lượng tăng, thu nhập sẽ tăng,
kéo theo tiêu dùng tăng, đầu tư tăng và ngược lại. Tuy nhiên, do tâm lý của
dân chúng là khi thu nhập tăng thì tốc độ gia tăng tiêu dùng chậm hơn gia
tăng thu nhập vì khuynh hướng gia tăng tiết kiệm một phần thu nhập, làm cho
cầu tiêu dùng thực tế giảm tương đối so với thu nhập dẫn đến một bộ phận
hàng hóa, dịch vụ không bán được. Đây chính là nguyên nhân gây ra khủng
hoảng kinh tế, ảnh hưởng xấu đến quy mô sản xuất ở các chu kỳ sau, do đó
làm giảm việc làm, tăng thất nghiệp. Mặc khác, trong nền kinh tế thị trường,
khi quy mô đầu tư tư bản tăng thì hiệu quả giới hạn của tư bản đầu tư có xu
hướng giảm sút. Khi hiệu quả giới hạn của tư bản giảm xuống bằng mức lãi
suất, thì chủ doanh nghiệp đóng cửa sản xuất. Khi đó, thất nghiệp tăng, sản
lượng hàng hoá và dịch vụ giảm. Từ đó, ông cho rằng để thúc đẩy tăng trưởng
sản lượng của nền kinh tế, cần phải gia tăng việc làm, giảm thất nghiệp, phải
tăng tổng cầu của nền kinh tế. Chính phủ có vai trò kích thích tiêu dùng (kể cả
tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng phi sản xuất) để tăng tổng cầu thông qua tăng
trực tiếp các khoản chi tiêu của Chính phủ, hoặc thông qua chính sách của

Chính phủ nhằm khuyến khích đầu tư của tư nhân, của các tổ chức xã hội.
Theo J.M.Keynes để tăng đầu tư và bù đắp các khoản chi tiêu của Chính phủ,
Nhà nước có thể sử dụng các biện pháp hạ lãi suất cho vay, giảm thuế, trợ giá
đầu tư, in thêm tiền giấy để cấp phát cho ngân sách Nhà nước. J.M.Keynes
còn chủ trương tăng tổng cầu của nền kinh tế bằng mọi cách kể cả đầu tư vào
những việc “vô bổ” miễn là tạo ra được việc làm và thu nhập, tạo sự ổn định
và thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế.
+ Lý thuyết tạo việc làm bằng gia tăng đầu tư, tăng trưởng kinh tế
(mô hình đầu tư - tăng trưởng kinh tế).
Theo mô hình này, muốn tăng trưởng kinh tế phải có tích luỹ, để từ đó
có vốn đầu tư mở rộng tái sản xuất, tạo mở nhiều việc làm. Các nước đang
11
phát triển do thu nhập thấp, tốc độ tăng trưởng chậm, tỷ lệ tích luỹ thấp, dẫn
đến thiếu vốn đầu tư. Để tạo vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế, các nước này
cần phải dựa vào lợi thế so sánh của mình là tài nguyên thiên nhiên và nguồn
nhân lực dồi dào để thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài (hiểu theo nghĩa rộng,
vốn đầu tư bao gồm cả vốn bằng ngoại tệ, thiết bị, phương tiện kỹ thuật, công
nghệ, tri thức quản lý kinh tế hiện đại), từ đó sẽ tạo mở được nhiều việc làm.
Theo mô hình này, tốc độ và quy mô của vốn đầu tư tăng sẽ thúc đẩy trực tiếp
tốc độ và quy mô của việc thu hút nguồn nhân lực vào hoạt động kinh tế (tạo
việc làm).
+ Lý thuyết tạo việc làm bằng di chuyển lao động giữa hai khu vực
cong nghiệp và nông nghiệp.
Lý thuyết này do Athur Lewis đưa ra. Tư tưởng cơ bản của lý thuyết
này là chuyển số lao động dư thừa từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công
nghiệp do hệ thống tư bản nước ngoài đầu tư vào các nước đang phát triển.
Quá trình này sẽ tạo ra nhiều việc làm mới. Bởi vì, trong khu vực nông nghiệp
đất đai chật hẹp, lao động dư thừa. Số lao động này không có việc làm nên
không có thu nhập. Vì vậy, việc di chuyển một bộ phận lao động từ khu vực
nông nghiệp sang khu vực công nghiệp sẽ có 2 tác dụng: (1) chuyển bớt được

lao động ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp, chỉ để lại số lao động đủ để tạo ra sản
lượng cố định, từ đó nâng cao sản lượng bình quân đầu người; (2) việc di
chuyển này còn tạo việc làm cho số lao động dư thừa trong nông nghiệp, tăng
thu nhập, tăng lợi nhuận công nghiệp, từ đó giúp tăng trưởng kinh tế.
+ Lý thuyết của Harry Toshima.
Theo Harry Toshima, lý thuyết của Athur Lewis không có ý nghĩa thực
tế với tình trạng dư thừa lao động trong nông nghiệp ở các nước châu Á gió
mùa… Bởi vì, nền nông nghiệp lúa nước vẫn thiếu lao động lúc mùa vụ và
chỉ dư thừa lao động lúc mùa nhàn rỗi. Vì vậy, ông cho rằng cần giữ lại lao
động nông nghiệp và chỉ tạo thêm việc làm trong những tháng nhàn rỗi bằng
12
cỏch a dng húa cõy trng vt nuụi, thõm canh, tng v ng thi, cn
phỏt trin cỏc ngnh cụng nghip cn nhiu lao ng s dng s lao ng
nhn ri trong nụng nghip. Bng cỏch ú, lc lng lao ng s c s
dng ht.
+ Lý thuyt to vic lm bng di chuyn lao ng ca Torado.
Lý thuyt ca Torado nghiờn cu s di chuyn lao ng trờn c s thc
hin iu tit thu nhp, tin cụng gia cỏc khu vc kinh t. Theo Torado, lao
ng nụng thụn cú thu nhp thp. H quyt nh di chuyn ra khu vc thnh
th cú thu nhp cao hn. Quỏ trỡnh ny mang tớnh t phỏt, ph thuc vo s
la chn, quyt nh ca cỏc cỏ nhõn. Vỡ th, lm cho cung - cu v lao ng
tng vựng khụng n nh, gõy khú khn cho Chớnh ph trong qun lý lao
ng v nhõn khu.
Cỏc lý thuyt v gii quyt vic lm nờu trờn u tp trung lun gii cỏc
bin phỏp nhm to m vic lm. Mc dự cỏc lý thuyt ú cha lm rừ vai trũ
ca Chớnh ph trong vic kt hp cỏc chớnh sỏch kinh t vi cỏc chớnh sỏch xó
hi thỳc y chuyn dch c cu lao ng gn vi chuyn dch c cu kinh
t, to m nhiu vic lm, song nú cú tỏc dng gi m cho chỳng ta nhng
cỏch thc, bin phỏp to m nhiu vic lm cho lao ng nụng nghip
trong quỏ trỡnh ụ th húa.

Nh vy, cỏc nh kinh t rt quan tõm n vn vic lm v gii
quyt vic lm, nht l i vi nhng ngi lao ng trong khu vc nụng
nghip, nụng thụn.
1.1.2. Đặc điểm việc làm và thu nhập ở nông thôn
- Việc làm gắn liền với các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch
vụ trong khu vực nông thôn
Tỷ lệ ngời đến độ tuổi lao động ở nông thôn thờng cao hơn thành thành
thị. Họ có đặc điểm là có sức khoẻ tốt, chăm chỉ, cần cù nhng họ có hn ch là
không có kỹ năng tay nghề, chủ yếu vẫn là lao động phổ thông. Lao động ở
13
khu vực nông thôn chủ yếu tham gia lao động ở các ngành nông nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ tại địa phơng. Tuy nhiên cũng có một số ngời rời quê ra
thành thị để kiếm việc làm.
Số ngời làm việc trong ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất, đặc
biệt là trồng trọt. Nông thôn Việt Nam có nghề trồng lúa truyền thống, nhng
năm gần đây nghề trồng lúa vẫn đợc duy trì với nhiều cải tiến và ứng dụng
tiến độ khoa học kỹ thuật mới trong việc chọn tạo giống có chất lợng tốt, năng
suất cao, khả năng chống chịu thiên tai dịch bệnh tốt vì thế sản lợng lơng thực
ngày một tăng cao, không những chỉ phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nớc mà
còn xuất khẩu ra nớc ngoài, vì vậy ngành trồng lúa hiện đang thu hút tỷ lệ lao
động lớn nhất ở nông thôn, tạo ra nhiều việc làm cho xã hội.
Bên cạnh trồng lúa, trồng hoa màu và các loại cây ăn quả, cây công
nghiệp cũng là một thị trờng thu hút lao động lớn ở nông thôn. Việc làm mà
ngành này tạo ra ngày một tăng, đặc biệt là trong xu thế chuyển đổi cơ cấu
cây trồng hiện nay ở tất cả các vùng nông thôn trên cả nớc nhằm mục đích
phát huy cao nhất hiệu quả sử dụng đất và hiệu quả kinh tế của ngành nông
nghiệp. Những trang trại trồng cây ăn quả, trồng cây công nghiệp đã tạo ra
nhiều việc làm cho lao động nông thôn trong những năm gần đây với thu nhập
cao hơn so với trồng lúa.
Hiện nay, chăn nuôi cũng là một hớng phát triển mạnh, tạo việc làm và

thu nhập cho lao động nông thôn. Quy mô chăn nuôi đang đợc mở rộng, vợt ra
khỏi quy mô gia đình, tự cung tự cấp, do đó đã thu hút nhiều lao động trong
lĩnh vực này. Một trang trại chăn nuôi gia cầm loại trung bình có thể cần từ
10-15 lao động; một trang trại nuôi tôm nớc lợ cũng cần từ 15 đến 20 lao động
làm việc thờng xuyên.
Ngoài ngành nông nghiệp ra, các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp cũng
tạo ra nhiều việc làm cho lao động nông thôn. Hiện nay với xu thế CNH,
HĐH, nhiều nhà máy, xí nghiệp đã đợc xây dựng tại địa phơng để tận dụng
khai thác nguồn tài nguyên của địa phơng đó, đồng thời khai thác nguồn nhân
công dồi dào của nông thôn. Ví dụ nhà máy sản xuất đờng Lam Sơn Thanh
Hoá, nhà máy Chè đen, Sơn Dong Tuyên Quang, Xí nghiệp may xuất khẩu ở
Lạng Giang, Bắc Giang, Nhà máy chế biến dứa xuất khẩuMột nhà máy cỡ
trung bình có thể thu hút hàng ngàn lao động. Tuy nhiên số nhà máy, xí
nghiệp này hiện nay còn cha thực sự phát triển nên ở nông thôn số lợng việc
làm tại ngành này cha chiếm tỷ lệ cao.
14
Một trong những ngành tạo ra đợc nhiều việc làm cho số lao động ở nông
thôn chính là các ngành tiểu thủ công nghiệp. Các nghề thủ công truyền thống
ở các vùng nông thôn luôn luôn thu hút nhiều lao động động nhàn rỗi. Trớc đây
bên cạnh việc giải quyết công việc chính cho một số thợ thủ công, các ngành
nghề này còn giải quyết số thời gian nhàn rỗi của những ngời nông dân vào lúc
nông nhàn ở nông thôn. Trớc đây, quy mô sản xuất của các nghề này còn nhỏ
lẻ, thị trờng nhỏ hẹp. Nhng ngày nay, quy mô của một số ngành tiểu thủ công
đặc biệt là các ngành thủ công mỹ nghệ nh nghề làm cói, nghề gốm, nghề mây
tre đan, nghề thêu, đang ngày càng phát triển, thị tròng ngày càng mở rộng, do
đó đã tạo ra nhiều việc làm cho lao động nông thôn.
Ngoài ra. một số ngành dịch vụ tại địa phơng cũng tạo ra số lợng việc
làm đáng kể. Thu nhập và dịch vụ ở nông thôn luôn có mối quan hệ thuận với
nhau. ở vùng nông thôn nào có dịch vụ càng phát triển thì số lợng ngời thất
nghiệp càng ít, thu nhập càng cao và ngợc lại vùng nông thôn nào có thu nhập

cao thì có dịch vụ phát triển. Một số vùng nông thôn nhờ điều kiện tự nhiên
thuận lợi nh gần trục giao thông chính, gần khu công nghiệp lớn, phát triển đ-
ợc ngành du lịch thì thờng có dịch vụ phát triển và tạo nhiều công ăn việc
làm cho lao động nông thôn.
Nhìn chung, việc làm ở nông thôn chủ yếu gắn liền với những thị trờng
lao động nêu trên, tuy nhiên cũng có một số lao động nông thôn đi tìm kiếm
việc làm tại các đô thị, số lao động này hiện nay mỗi ngày một gia tăng, gây
sức ép cho vấn đề giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội khác ở các thành
phố lớn, nhng tỷ lệ việc làm mà họ tìm kiếm đợc tại các ngành dịch vụ phổ
thông ở thành thị vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ so với các ngành nghề nêu trên.
- Quy mô việc làm thờng là nhỏ, công cụ lao động chủ yếu là thủ
công, lực lợng lao động đông nhng chất lợng lao động thấp
Một trong những đặc trng nổi bật của việc làm ở những vùng nông thôn
của Việt Nam là quy mô việc làm thờng nhỏ. Mô hình sản xuất truyền thống
lâu đời và phù hợp nhất cuả nông thôn Việt Nam cho tới tận ngày nay vẫn là
mô hình gia đình. Trong những năm đầu xây dựng XHCN, Đảng và nhà nớc ta
đã chủ trơng tập thể hoá, hợp tác hoá nông nghiệp để tạo ra các quy mô việc
làm lớn hơn. Nhng mô hình sản xuất đó cha phù hợp với ngời nông dân Việt
Nam vốn có truyền thống hàng ngàn đời nay quen làm ăn cá thể và nhỏ lẻ
kiểu tiểu nông dẫn đến biến các hợp tác xã thành những đơn vị sản xuất kém
hiệu quả kiểu cha chung không ai khóc. Nhận thức rõ những bất cập trong
15
phơng thức tổ chức sản xuất này Đảng và nhà nớc đã tiến hành công cuộc đổi
mới, giao lại ruộng đất cho dân theo cơ chế khoán sản phẩm. Chủ trơng này đã
phù hợp với tình hình thực tế, làm khởi sắc và ngày càng phát triển nền nông
nghiệp nông thôn. Chính vì đặc thù này mà việc làm ở nông thôn cho đến
ngày nay vẫn chủ yếu ở quy mô nhỏ lẻ, quy mô gia đình. Mỗi một đơn vị, một
cơ sở sản xuất chỉ giải quyết đợc việc làm cho 3-4 nhân công. Tuy nhiên, việc
xuất hiện và ngày càng phát triển các trang trại có quy mô ngày càng lớn hiện
nay ở các vùng nông thôn sẽ đang tạo một nhu cầu hợp tác mới trong lao động

sản xuất ở nông thôn và cùng theo đó sẽ tạo ra các quy mô việc làm lớn hơn.
Tuy nhiên cho đến ngày nay, mặc dù nhu cầu này đang phát triển những vẫn
cha chiếm đựơc tỷ lệ cao trong việc cung cấp việc làm cho lao động ở nông
thôn.
Bên cạnh việc tổ chức sản xuất với quy mô nhỏ, một trong những đặc
thù nữa của việc làm ở nông thôn là thờng sử dụng công cụ lao động thủ công,
lạc hậu, khiến năng xuất lao động thấp, chất lợng sản phẩm kém, không có
sức cạnh tranh cao trên thị trờng và tất yếu là tạo ra thu nhập thấp.
Đây là một trong những đặc điểm cơ bản làm cho nông thôn Việt Nam
kém phát triển và lạc hậu. Mặc dù có hàng ngàn năm kinh nghiệm trồng
lúa, nhng cho đến ngày nay mọi công cụ lao động phục vụ cho công nghệ
trồng lúa vẫn chỉ là các dụng cụ cầm tay, thủ công. Từ khâu làm đất, chăm
sóc, tới tiêu, bón phân, phun thuốc trừ sâu, thu hoạch trong ngành trồng
trọt, ngời nông dân vẫn làm bằng phơng pháp thủ công. Một số loại máy
móc nh máy cày, máy gặt đập liên hợp, bơm phun nớcthời hợp tác hoá
nông nghiệp đã có lúc đợc đa vào đồng ruộng nhng không mang lại hiệu
quả kinh tế, không có ngời quản lý và duy tu sửa chữa kịp thời nên đã dần
dần mai một. Trong thời kỳ đổi mới, một phần là do ruộng đất chia cắt
thành nhiều mảnh nhỏ để khoán sản cho dân nên việc áp dụng máy móc
không mấy thuận lợi, mặt khác ngời nông dân không đủ vốn đầu t và cũng
không đủ trình độ kỹ thuật để sử dụng các công cụ lao động hiện đại. Tuy
nhiên một số năm gần đây, một số vùng nông thôn đã phát triển theo hớng
giới hoá, nhiều công cụ lao động hiện đại đã đợc dần dần sử dụng. Nhng xu
hớng chính cho đến bây giờ vẫn là dùng các công cụ thủ công, lạc hậu.
Ngoài việc trồng cây lơng thực việc trông cây hoa màu, trồng rau, hoa
ở nông thôn cũng chủ yếu bằng công cụ thủ công. Một số năm gần đây do nhu
cầu mỗi ngày một lớn của thị trờng về các loại rau sạch, hoa, cây cảnh, một số
16
vùng nông thôn, chủ yếu là các vùng ven đô đã có đầu t những dây chuyền
công nghệ hiện đại trồng rau sạch và hoa, cây cảnh. Đây chắc chắn là một h-

ớng phát triển tốt tạo cho ngời lao động ở nông thôn có thu nhập ổn định và
cao hơn rất nhiều so với các trồng thủ công, truyền thống. Vì trồng các loại
cây này theo công nghệ hiện đaị sẽ giúp ngời dân tránh đợc thiên tai, không
phụ thuộc hoàn toàn vào thời tiết. Tuy nhiên, một khó khăn nan giải đó là cần
phải đầu t nhiều vốn cho khâu kỹ thuật và công cụ sản xuất và điều này luôn
là một bài toán khó với ngời dân có thu nhập thấp ở nông thôn.
Bên cạnh công cụ lao động của ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi kể cả
theo hớng chăn nuôi công nghiệp cũng cha đợc đầu t các dây chuyền sản xuất
hiện đại. Lao động ở nông thôn vẫn chăn nuôi gia cầm và gia súc theo kiểu
thủ công, nên không kiểm soát tốt các thông số kỹ thuật về môi trờng vệ sinh,
chuồng trại. Đây vừa là nguyên nhân khiến lao động ở đây nặng nhọc, vừa là
nguyên nhân gây ra nhiều dịch bệnh khiến việc chăn nuôi tổn thất và thu nhập
từ nghề này bấp bênh, phụ thuộc.
Những lao động làm việc trong các ngành nghề thủ công truyền thống ở
các vùng nông thôn cũng với những công cụ lao động thủ công và lạc hậu.
Vùng nông thôn vốn là vùng nghèo, tập quán làm ăn nhỏ lẻ lâu đời theo cung
cách tự cung tự cấp không cho phép họ tích luỹ lớn. Vì thiếu vốn đầu t nên
không thể cải tạo cơ sở sản xuất theo hớng hiện đại hoá và công nghiệp hoá
dẫn đến một tình trạng đầy mâu thuẫn: muốn có thu nhập cao phải mở rộng
thị trờng hàng hoá, tăng sức cạnh tranh, muốn mở rộng thị trờng, tăng sức
cạnh tranh thì phải có vốn đầu t cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới. Nh-
ng đầu t thì phải có vốn tích luỹ, phải tạo thu nhập cao mới tích luỹ đợc vốn.
Đây là một vòng luẩn quẩn mà việc tháo gỡ nó thật sự khó khăn đối với ngời
dân. Chỉ có chính sách hỗ trợ vốn, hỗ trợ kỹ thuật của chính quyền mới có thể
giúp họ giải quyết đợc khó khăn trong việc mở rộng quy mô việc làm và tăng
thu nhập.
Cùng với quy mô việc làm nhỏ lẻ, công cụ lao động lạc hậu và thủ công
thì việc làm và thu nhập ở nông thôn còn có một đặc thù quan trọng là lực l-
ợng lao động đông đảo nhng chất lợng lao động lại thấp. Tuyệt đại đa số lao
động ở nông thôn đều chỉ có thể đáp ứng đợc các việc làm cần lao động phổ

thông, nghĩa là các việc làm chỉ cần sức khoẻ, không cần nhiều đến tay nghề
và kỹ thuật cao. Đây cũng là một đặc thù mà khi giải quyết vấn đề việc làm và
tăng thu nhập ở nông thôn phải tính đến. Phần lớn lao động ở nông thôn chỉ có
17
trình độ văn hoá hết trung học cơ sở (lớp 9 phổ thông), một số hết phổ thông
trung học (lớp 12), thậm trí một số vùng nông thôn xa, số lao động chỉ có
trình độ tiểu học và cả mù chữ. Họ không đợc đào tạo nghề và cập nhật các
kiến thức khoa học kỹ thuật mới cần thiết cho phát triển kinh tế hiện đại. Vì
thế, việc bố trí, sắp xếp những lao động này ở vùng nông thôn chỉ có thể phù
hợp với địa phận nông nghiệp truyền thống mà hiện nay ngày càng trở nên
chật hẹp và d thừa lao động do nhiều tác nhân mà ta sẽ phân tích ở mục 1.2
duới đây. Những thị trờng việc làm mới ở nông thôn đang hình thành do công
cuộc đổi mới nền kinh tế nh các nhà máy, xí nghiệp hơng trấn, nhà máy xí
nghiệp trung ơng, các trang trại chăn nuôi, trồng trọt theo hớng hàng hoá hoá
và công nghiệp hoálai yêu cầu lao động có tay nghề có kỹ năng và kỷ luật
lao động cao hơn. Muốn bố trí họ vào các vị trí việc làm này tất yếu phải có
một chiến lợc đào tạo nghề sát với nhu cầu thực tế và hiệu quả.
- Không ít việc làm cha thực sự gắn với thị trờng, còn mang tính tự
cấp, tự túc.
Mặc dù đất nớc ta đã và đang chuyển mình để thích nghi với cơ chế
kinh tế mới: cơ chế tế thị trờng. Nền kinh tế sản xuất hàng hoá đang là con đ-
ờng chúng ta đi. Nhng ở nhiều vùng nông thôn lực lợng lao động vẫn đang
duy trì những việc làm mang tính tự cấp tự túc. Nh trên đã đề cập đến mô hình
sản xuất truyền thống ở nông thôn là hộ gia đình. Cho đến nay, mô hình này
vẫn còn phổ biến dẫn đến quy mô việc làm ở nông thôn thờng nhỏ lẻ. Mô hình
sản xuất gia đình cũng thờng kèm theo đó là sản xuất theo kiểu tự sản, tự tiêu.
Không ít hộ gia đình vừa trồng trọt, vừa chăn nuôi. Trồng trọt cũng không
chuyên canh mà trồng mỗi thứ một ít đủ để phục vụ cho nhu cầu gia đình, có
d thừa thì mới mang ra chợ bán. Chăn nuôi cũng vậy, họ không chủ trơng phát
triển một nền chăn nuôi hàng hoá mà nuôi mỗi loài vật nuôi một số lợng nhỏ

để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của gia đình. Tỷ lệ việc làm ở nông thôn
theo mô hình tự cấp, tự túc này khá cao, mặc dù trong thời gian gần đây với
chủ trơng khuyến khích nền sản xuất hàng hoá của Nhà nớc, một số gia đình
đã mạnh dạn đầu t để chuyển đổi sang sản xuất hàng hoá, tuy nhiên việc
chuyển đổi này hiện nay còn chậm chạp và nhiều hộ gia đình khi chuyển sang
kinh doanh sản xuất một mặt hàng chủ yếu nào đó vẫn tiếp tục duy trì mô
hình tự cung cấp cho mình những nhu cầu thiết yếu nh lơng thực, thực phẩm
Đây là tập quán làm ăn lâu đời của ngòi dân nông thôn Việt Nam, đó thực sự
18
là một bớc cản không nhỏ để phát triển nền kinh tế hàng hoá quy mô, tạo
nhiều việc làm theo quy mô lớn và có thu nhập cao.
- Thu nhập của ngời dân nông thôn còn thấp so với ngời dân thành
thị.
Một trong những đặc trng cơ bản của việc làm và thu nhập ở nông thôn
là: việc làm ở nông thôn thờng đem lại thu nhập thấp hơn so với thu nhập ở
thành thị. Cho đến nay, thu nhập từ ngành trồng trọt vẫn đang ở mức thấp nhất
so với các ngành kinh tế khác. Nông sản ở Việt Nam thờng rất rẻ so với các
mặt hàng công nghiệp, mà sản phẩm chính của các việc làm ở khu vực nông
thôn hiện nay là nông sản do đó thu nhập không cao.
Một mặt, hàng hoá mà ngời nông dân ở khu vực nông thôn bán ra thị tr-
ờng hầu hết là các dạng hàng hoá thô, chủ yếu là dạng nguyên liệu cha qua
tinh chế nên phải bán theo giá thấp. Mặt khác, việc trồng trọt và chăn nuôi lại
phụ thuộc nhiều vào yếu tố môi trờng. Nhiều năm việc trồng trọt và chăn nuôi
thờng bị thất thu vì thiên tai, bão lụt hay hạn hán hoặc vì dịch bệnh do đó thu
nhập ở nông thôn thờng thấp và bấp bênh.
Ngay cả những việc làm thuộc khu vực dịch vụ của nông thôn cũng cho
thu nhập thấp hơn so với dịch vụ ở thành thị. Bởi đó là hệ quả tất yếu của thu
nhập thấp nói chung từ các ngành trồng trọt, chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp ở
nông thôn và bởi trình độ, chất lựong dịch vụ không thể tốt nh ở thành thị. Thu
nhập thấp thì nhu cầu tiêu dùng thấp. Đây cũng là lý do mà dịch vụ ở nông

thôn thờng không phát triển nh ở thành thị.
1.2. Các nhân tố ảnh hởng đến việc làm và thu nhập ở
nông thôn
1.2.1. Nhân tố về điều kiện tự nhiên, môi trờng sinh thái
19
Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất vì nó vừa
là đối tợng lao động, vừa là t liệu lao động, là cơ sở quan trọng hàng đầu của
sản xuất vật chất, tạo ra việc làm cho ngời lao động.
Tài nguyên thiên nhiên là một phạm trù kinh tế rộng lớn. Đối với một
quốc gia, nó bao gồm tất cả những gì có trong vùng trời, vùng biển, trên mặt
đất, trong lòng đất, khí hậu, thời tiết, vị trí địa lý đều tác động đến sự phát
triển, giàu có hay nghèo đói của mỗi quốc gia, đặc biệt là có ảnh hởng lớn đến
vấn đề giải quyết việc làm cho ngời lao động. Lịch sử phát triển của nhân loại
cho thấy: ở quốc gia nào hoặc ở vùng nào có điều kiện thiên nhiên thuận lợi,
tài nguyên phong phú thì ở nơi đó có điều kiện thuận lợi hơn đối với vấn đề
giải quyết việc làm và cơ cấu việc làm ở những nơi này cũng phong phú đa
dạng hơn so với những nơi khác.
Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng. Nhờ đó đã góp
phần tạo ra nhiều việc làm cho ngời lao động, thúc đẩy kinh tế tăng trởng, làm
thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội trong những năm qua. Tuy nhiên,
do tốc độ gia tăng dân số trong quá khứ quá nhanh nên số ngời bớc vào độ
tuổi lao động ngày càng nhiều, tốc độ tạo việc làm không thể tăng kịp với tốc
độ gia tăng của nguồn lao động; vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay đòi hỏi phải
phát huy và khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng với các
nguồn lực khác nh lao động, vốn, công nghệ để tạo ra nhiều việc làm mới
cho ngời lao động, đảm bảo cho nền kinh tế tiếp tục phát triển nhanh và bền
vững, đa sự nghiệp đổi mới đất nớc tiếp tục đi lên. Tuy vậy, có những quốc
gia, thậm chí một địa phơng nào đó của một quốc gia có nguồn tài nguyên
nghèo nàn, khan hiếm nh Nhật Bản mà vẫn tạo đợc nhiều việc làm cho ngời
lao động. Bởi vì, họ đã xây dựng đợc chính sách và giải pháp về việc làm đúng

đắn và khoa học.
Việc làm và thu nhập chịu ảnh hởng trực tiếp của sự phát triển kinh tế,
cơ cấu ngành nghề, trình độ ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất.
Các yếu tố này, đến lợt mình lại chịu tác động không nhỏ của điều kiện tự
nhiên, môi trờng sinh thái. Vì thế, điều kiện tự nhiên, môi trờng sinh thái là
yếu tố quan trọng tác động lên việc làm và thu nhập ở nông thôn. Tuy tác
động của điều kiện tự nhiên lên việc làm và thu nhập mang tính gián tiếp, nh-
ng nó ảnh hởng không nhỏ đến cơ cấu, quy mô và chất luợng của việc làm tại
các địa phơng, đặc biệt là vùng nông thôn.
20
Trong điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý đóng vai trò là một yếu tố có tác
động mạnh. Vị trí địa lý của một địa phơng đã tạo ra cho địa phơng đó những
thuận lợi hoặc những khó khăn nhất định. Đối với những địa phơng nằm ở
cùng sâu, vùng xa, hạ tầng cơ sở thờng thấp kém, giao thông đi lại khó khăn
dẫn theo kinh tế phát triển chậm và kèm theo nó là hạn chế nhu cầu về việc
làm, hoặc chỉ có những việc làm có thu nhập thấp. ở những vùng nh thế, nền
kinh tế hầu nh chỉ mang tính tự cung tự cấp, kinh tế hàng hoá phát triển khó
khăn vì thế ngời lao động chỉ có thể tìm đợc việc làm ở ngành trồng trọt hoặc
chăn nuôi. Tính chất tự cấp tự túc của các nền kinh tế tại các địa phơng này
không tạo cho ngời làm nông nghiệp có thu nhập cao và cũng không thể tạo ra
các cơ sở kinh tế quy mô lớn vì thế cũng không có một thị trờng lao động có
nhu cầu và quy mô lớn. Ngợc lại, nếu địa phơng nằm ở một vị trí thuận tiện
cho việc giao thông thì kinh tế luôn có đợc những khả năng phát triển, nh: thu
hút vốn đầu t từ bên ngoài dễ dàng; dễ dàng tiếp xúc và ứng dụng những tiến
bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sản xuất tiên tiến; điều kiện thông thơng tốt
sẽ tạo điều kiện cho kinh tế hàng hoá phát triển, và đến lợt mình nền kinh tế
hàng hoá sẽ tạo cho địa phơng đó điều kiện để phát triển công nghiệp, thủ
công nghiệp hoặc các ngành nghề có quy mô lớn vì không chỉ sản xuất ra các
sản phẩm phục vụ nhu cầu của địa phơng mà còn bán ra thị trờng bên ngoài.
Nh vậy, tất nhiên tạo ra một thị trờng lao động phong phú, quy mô và có điều

kiện để có thu nhập cao.
Địa hình và đất đai là yếu tố thứ hai tác động gián tiếp lên việc làm và
thu nhập của địa phơng. Địa hình và đất đai thờng quy định cho địa phơng
những khả năng lựa chọn để phát triển cơ cấu vật nuôi, cây trồng. Mỗi một
dạng địa hình sẽ cho một lựa chọn nhất định. Địa hình miền núi thờng chỉ phù
hợp với phát triển lâm nghiệp, trồng cây công nghiệp và chăn nuôi gia súc.
Địa hình đồng bằng lại phù hợp với việc trồng lúa, hoa màu và chăn nuôi gia
súc nhỏ, gia cầm. Địa hình đa dạng thờng tạo điều kiện cho một nền nông
nghiệp đa canh, nhng nhng thờng với quy mô nhỏ. Địa hình đồng nhất thì phù
hợp cho việc phát triển nông nghiệp độc canh nhng có thể với quy mô lớn.
Những đặc điểm này sẽ quy định nhu cầu, cơ cấu và chất lợng của thị trờng
lao động tơng ứng.
Đất đai là yếu tố tự nhiên có tác động mạnh đến việc làm và đặc biệt là
thu nhập. Đất đai cũng nh địa hình thờng quy định cơ cấu vật nuôi, cây trồng
của kinh tế nông thôn. Những loại đất phù hợp với trồng cây công nghiệp nếu
21
có một diện tích lớn sẽ là điều kiện thuận lợi để phát triển loại cây đó, và tiếp
theo đó là nhà máy chế biến sản phẩm của nó.
Ví dụ, huyện Sơn Dơng tỉnh Tuyên Quang do có đất đai, thổ nhỡng phù
hợp với cây chè, nên ngay từ năm 1960 đã hình thành một nông trờng trồng
chè, và sau đó là một nhà máy chế biến chè đen xuất khẩu. Sự có mặt của cơ
sở sản xuât này đã thu hút hàng ngàn công nhân không chỉ tại điạ phơng mà
còn ở các vùng quê khác nh Hà Bắc, Thái Bình, Nam Định. Thu nhập của
công nhân nông trờng và nhà máy chè này cao hơn hẳn so với thu nhập của
nhân dân địa phơng sản xuất thuần nông, trồng lúa và hoa màu.
Ngoài ra, độ màu mỡ của đất đai còn tác động mạnh đến năng suất cây
trồng, vật nuôi vì vậy nó tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh tế và thông qua
đó tác động lên thu nhập của ngời lao động.
Bên cạnh đất đai, tài nguyên khoáng sản là một yếu tố tiềm năng tác
động lên việc làm và thu nhập tại nông thôn; Những vùng có tài nguyên giàu

có sẽ có cơ hội để phát triển các ngành công nghiệp khai thác, chế biến những
tài nguyên khoáng sản đó và vì thế tạo ra một thị trờng thu hút lao động lớn,
có quy mô tại địa phơng. Sự có mặt của các doanh nghiệp công nghiệp nh vậy
sẽ không chỉ tác động lên quy mô, cơ cấu việc làm tại địa phơng mà còn tác
động mạnh mẽ lên chất lợng lao động và kèm theo đó là thu nhập.
Môi trờng sinh thái trong những năm gần đây trở thành một nguồn lực
phát triển mới cho địa phơng. Môi tròng sinh thái trong lành, cảnh quan thiên
nhiên tơi đẹp là điều kiện tiên quyết để phát triển một số ngành dịch vụ nh du
lịch và nghỉ mát. Những địa phơng có tiềm năng thiên nhiên này luôn có điều
kiện phát triển ngành công nghiệp không khói với hiệu quả kinh tế rất cao và
tất nhiên sẽ tạo ra nhu cầu lao động đa dạng và phong phú, từ doanh nhân cho
đến các nhân viên nhà hàng, khách sạn, vận chuyển, buôn bánSầm Sơn là
một huyện của Thanh Hoá có môi trờng sinh thái u đãi nh vậy và họ đã tìm đ-
ợc cơ hội cho hàng chục ngàn lao động có việc làm, thu nhập khá.
22
1.2.2. Tiến trình triển khai công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Tiến trình triển khai CNH, HĐH tại điạ phơng là một trong những yếu
tố có tác động nhanh và mạnh nhất đến tạo việc làm và thu nhập ở nông thôn.
Sự nghiệp CNH, HĐH càng đợc đẩy mạnh, thì càng có điều kiện mở rộng
ngành nghề, thay đổi bộ mặt của nông thôn theo hớng văn minh và hiện đại.
Từ hạ tầng cơ sở đến lối sống và lối sinh hoạt của nhân dân đều biến đổi để
thích nghi với nền sản xuất CNH và HĐH. Tiến bộ của khoa học, công nghệ
sẽ làm tăng nhu cầu việc làm cho lao động phức tạp, có kỹ thuật và ngợc lại,
làm giảm việc làm đối với lao động giản đơn. Quá trình phát triển của mỗi quốc
gia ngày nay đợc cấu trúc lại dựa trên những lợi thế của nguồn lực con ngời
với hàm lợng trí tuệ ngày một gia tăng. Nhờ có sự tiến bộ của khoa học - công
nghệ mà phần tỷ lệ của lao động chân tay kết tinh vào sản phẩm ngày một
giảm rõ rệt, hàm lợng lao động "chất xám" kết tinh vào sản phẩm ngày một
tăng lên.
Sự phát triển của khoa học - công nghệ mang lại nhiều cơ hội để ngời

lao động tạo ra việc làm, phát huy khả năng cống hiến của mình cho xã hội,
đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức. Khi đa khoa học, công nghệ tiến bộ
vào sản xuất sẽ làm cho những nớc có nguồn lao động giản đơn d thừa nhng
thiếu lao động phức tạp, có kỹ thuật cao nh Việt Nam hiện nay mất đi u thế
của lao động nhiều giá rẻ. Xu hớng chung hiện nay là tăng lao động phức tạp
có kỹ thuật cao, giảm lao động giản đơn. Nh vậy, vấn đề giải quyết việc làm
của mỗi quốc gia phụ thuộc vào chất lợng nguồn lao động (thể lực và trí lực)
mà điểm quan trọng có tính quyết định là trí tuệ của nguồn lao động; bởi vì,
sự yếu kém của trí tuệ là lực cản nguy hại nhất dẫn đến sự thất bại trong hoạt
động của con ngời. Điều này đã đợc C. Mác khẳng định: "Sự ngu dốt là sức
mạnh của ma quỷ và chúng ta lo rằng, nó sẽ là nguyên nhân của nhiều bi kịch
nữa" [28, tr. 438].
Ngày nay, khoa học - công nghệ phát triển nh vũ bão, là lực lợng trực
tiếp tham gia vào quá trình sản xuất vật chất. Vì vậy, đòi hỏi ngời lao động
phải có phẩm chất trí tuệ cao; nghĩa là ngời lao động phải có năng lực sáng
tạo, áp dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ tiên tiến, khả năng
biến tri thức của mình thành kỹ năng nghề nghiệp, thể hiện qua trình độ tay
nghề thành thạo, chuyên môn nghiệp vụ giỏi, làm chủ đợc công nghệ, hoàn
thành tốt công việc mà mình đảm nhiệm.
23
Sự tác động của tiến trình CNH, HĐH lên việc làm và thu nhập của
nông thôn có thể theo hai xu hớng, cả thuận và nghịch. Trớc hết, mục tiêu của
CNH, HĐH là tạo ra các cơ sở sản xuất công nghiệp, hiện đại, nhằm khai thác
đợc tiềm năng lao động, tài nguyên của địa phơng, cải tạo cơ sở hạ tầng nh đ-
ờng xá, điện nớc do đó tốc độ triển khai CNH, HĐH sẽ tác động lên tốc độ
hình thành thị trờng lao động với cơ cấu mới tại đại phơng. Khi các nhà máy,
xí nghiệp hiện đại ra đời, trên cơ sở khai thác những tiềm năng thiên nhiên nh
khai thác và chế biến khoáng sản, chế biến nông sản, lâm sản, thuỷ hải sản
hoặc một số sản phẩm nông nghiệp khác, sẽ tạo ra một thị trờng lao động lớn,
thu hút hàng ngàn công nhân có kỷ luật lao động, có trình độ và kỹ năng cao

hơn lao động thuần nông và kèm theo đó là họ có thu nhập cao hơn; Việc tạo
ra một cơ cấu hạ tầng phát triển và tiện lợi sẽ là tiền đề để địa phơng đó có cơ
hội thông thơng với các vùng miền khác, điều đó, nh đã phân tích ở trên sẽ tạo
điều kiện cho kinh tế hàng hoá phát triển. Kinh tế hàng hoá phát triển sẽ giúp
mở rộng quy mô sản xuất các sản phẩm và mặt hàng mang tính truyền thống
của địa phơng và nh thế cũng tạo ra một nhu cầu mới về lao động, tạo ra khả
năng mới nhằm nâng cao thu nhập. Đó chính là tác động thuận của CNH,
HĐH nếu nh địa phơng có những chính sách phát triển đồng bộ và phù hợp,
tận dụng đợc những thế mạnh của tiến trình này.
Mặt khác, CNH, HĐH cũng có thể tạo ra tác động nghịch lên việc làm
và thu nhập ở nông thôn. Nó có thể tạo ra một loạt các lao động d thừa và
những tác động tiêu cực khác nếu địa phơng không kịp thời có những điều
chỉnh phù hợp. Xu hớng tiêu cực này thể hiện ở hai phơng diện, thứ nhất,
CNH, HĐH thờng có mục đích nâng cao năng lực sản xuất nên áp dụng các
kỹ thuật, máy móc, trang thiết bị tiên tiến, tận dụng máy móc thay sức lao
động của con ngời sẽ dẫn đến việc phải cắt giảm một số lao động d thừa gây
cho nhiều công nhân bị thất nghiệp. Thứ hai, khi tiến hành CNH, HĐH tại địa
phơng tất yếu sẽ thu hẹp diện tích trồng trọt, chăn nuôi hay lâm nghiệp, điều
đó chắc chắn dẫn đến gia tăng thêm số lao động d thừa từ ngành trồng trọt và
chăn nuôi của địa phơng. Số lao động d thừa này, mặc dù không còn đất đai để
chăn nuôi hay trồng cấy những lại không đủ trình độ và kỹ năng để đáp ứng đ-
ợc yêu cầu của các cơ sở sản xuất công nghiệp hiện đại, nếu không đợc tạo
điều kiện đào tạo và dạy nghề. Khi không có công ăn việc làm, cha có định h-
ớng chuyển nghề phù hợp với năng lực, kèm với một số tiền họ có thể có đợc
do đợc đền bù từ đất đai sẽ là cơ hội để họ sa vào các tệ nạn xã hội hoặc tham
24
gia vào các hoạt động buôn bán trái phép để giàu nhanh chóng, dẫn đến sự bất
ổn định xã hội. Vì vậy, chính quyền địa phơng phải có những kế hoạch cụ thể
và chính sách phù hợp trong việc đào tạo nghề, giải quyết lao động d thừa khi
tiến hành CNH, HĐH tại địa phơng.

ở nớc ta hiện nay có nguồn lao động dồi dào, bớc vào năm 2005 lực l-
ợng lao động là 42,4 triệu ngời [23, tr. 147]. Đây là nguồn lực cơ bản nhất để
tiến hành CNH, HĐH đất nớc. Tuy nhiên, chỉ có lực lợng lao động đông thì
không đủ và không thể đáp ứng đợc yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH
mà vấn đề bức bách hàng đầu đặt ra hiện nay là phải nâng cao chất lợng
nguồn nhân lực, đó là giải pháp cơ bản để tạo việc làm, giảm thiểu thất
nghiệp, là nhân tố quyết định đảm bảo vững chắc cho sự nghiệp CNH, HĐH
thành công. Chính vì vậy, Hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành Trung ơng Đảng
khóa IX khẳng định: "Đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong toàn bộ
nền kinh tế quốc dân nhằm nhanh chóng thoát khỏi tình trạng lao động thủ
công, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân và
sức mạnh quốc phòng, an ninh. Chú trọng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và
thành tựu của khoa học, công nghệ cho nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng
khó khăn" [13, tr. 93-94].
1.2.3. Trình độ phát triển của kinh tế thị trờng
Trình độ phát triển của kinh tế thị trờng đợc xác định bởi sự đa dạng
hoá các thành phần kinh tế, giảm tỷ lệ doanh nghiệp kinh tế nhà nớc bằng các
biện pháp cổ phần hoá và tăng tỷ lệ doanh nghiệp kinh tế t nhân tại địa phơng,
đẩy mạnh các ngành dịch vụ phát triển, thay thế nền sản xuất tự cung, tự cấp,
tự sản tự tiêu bằng nền kinh tế hàng hoá, cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh
nghiệp khiến cho chỉ có doanh nghiệp nào làm ăn hiệu quả mới có thể tồn tại
và phát triển. Ngợc lại nếu không đủ sức cạnh tranh sẽ bị phá sản. Vì vậy trình
độ phát triển của kinh tế thị trờng có thể nói là một yếu tố trực tiếp tác động
linh hoạt đến việc làm và thu nhập của ngời dân theo cả hớng tiêu cực và tích
cực.
Trong thời bao cấp, các doanh nghiệp nhà nớc đã thu hút một số lợng
lớn công nhân, trên thực tế số công nhân này vợt xa so với nhu cầu lao động
thực tế của doanh nghiệp. Họ chấp nhận làm việc với thu nhập thấp vì hiệu
quả kinh tế của doanh nghiệp không cao. Đến khi cải cách mở cửa, Đảng và
nhà nớc chủ trơng phát triển nền kinh tế thị trờng, hàng loạt các doanh nghiệp

25

×