Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Biện pháp giảng dạy thơ Đường trong chương trình Ngữ văn 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.14 KB, 16 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Văn học có vai trị vơ cùng quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển
tư duy của con người. Là một mơn học thuộc nhóm khoa học xã hội, mơn văn có
tính thiết yếu trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh.
Trong thời đại hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển nhanh như vũ bão cho nên
đơi lúc con người có thể bị cuốn theo những tri thức khoa học mà quên đi cảm
xúc đời thường. Những lúc như vậy môn văn sẽ giữ lại tâm hồn con người
những tình cảm nhân văn để con người tìm đến với con người, để trái tim hịa
cùng nhịp đập với trái tim. Khơng chỉ thế học tốt mơn văn sẽ tác động tích cực
tới các mơn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt
mơn văn. Điều đó đặt ra u cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn
kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống. Muốn vậy,
mỗi giáo viên phải có phương pháp dạy học phù hợp với từng bộ môn nhằm
nâng cao trình độ kiến thức cho học sinh, đặt cơ sở vững chắc cho các em tiến
lên cấp học cao hơn.
Đối với môn Ngữ văn sau khi đổi mới và thực hiện đồng bộ trên cả nước,
phần lớn giáo viên văn không khỏi băn khoăn, trăn trở, đang từng ngày từng giờ
mày mị và tìm kiếm cho mình một phương pháp dạy học phù hợp, hấp dẫn cho
từng kiểu bài, cho từng thể loại.
Ở chương trình ngữ văn 7 học sinh được tìm hiểu một số bài thơ Đường
(của tác giả Việt Nam và Trung Quốc). Đây cũng là phần văn học chiếm vị trí
quan trọng trong chương trình Ngữ văn 7. Song khi thực hiện giảng dạy tôi thấy
học sinh gặp khơng ít khó khăn trong việc tiếp nhận tri thức. Khó khăn thứ nhất
mà các em gặp phải đó là hệ thống ngơn ngữ. các bài thơ Đường luật ngơn ngữ
dùng với nhiều hình ảnh: ước lệ, tượng trưng, điển cố, điển tích, từ ngữ Hán
Việt ... rất xa lạ với học sinh THCS. Khó khăn thứ hai mà tơi nhận thấy đó là
những bài thơ Đường luật có yêu cầu rất nghiêm ngặt về niêm luật, đối, vần, bố
cục... chính vì thế địi hỏi học sinh phải nắm chắc những quy định đó một cách

1




tương đối thuần thục thì mới có thể hiểu hết được nội dung, ý nghĩa của bài thơ
mà tác giả muốn gửi gắm vào đó. Khó khăn tiếp theo về khoảng cách thời gian.
Có những bài thơ của các tác giả Trung Quốc cách xa hàng mười mấy thế kỷ.
Mà khoảng cách về thời gian ln có sự khác biệt về tư tưởng, lối sống... Tất cả
những khó khăn trên đều tác động khơng ít tới việc tiếp cận tác phẩm. Xuất phát
từ thực tế trên trong quá trình học tập, giảng dạy, tìm hiểu, nghiên cứu, tơi mạnh
dạn đưa ra đề tài “một số biện pháp giảng dạy thơ Đường trong chương trình
Ngữ văn 7 ” để các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo nhằm rút ra những vấn đề
tối ưu nhất vận dụng vào quá trình giảng dạy .
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ.
Thơ Đường là một thành tựu tiêu biểu của văn học Trung Quốc. Đây là một
bộ phận văn học quan trọng, bao gồm những tác phẩm ưu tú, vượt qua những
biến cố thăng trầm của lịch sử, qua những thử thách khắc nghiệt của thời gian
đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị, vừa hiện thực vừa nhân đạo là tiếng nói
tình cảm thắm thiết, nhân văn cao cả. Tuy nhiên việc xác định nội dung tư
tưởng của các bài thơ Đường là một vấn đề rất khó. Trước đây thơ Đường được
đưa vào sách giáo khoa văn học 9 khơng ít Giáo viên và học sinh gặp khó khăn
trong việc dạy và học. Sau khi đổi mới chương trình sách giáo khoa, do tinh thần
tích hợp với kiểu văn bản biểu cảm, chùm thơ Đường đã được đưa vào dạy ở
lớp 7. Khó khăn lại càng khó khăn hơn bởi vì mọi cái đều xa lạ với các em, từ
chữ Hán, thi pháp thơ Đường cho đến cả cảm hứng, thi tứ, cảnh và người trong
thơ đến trình độ cảm thụ văn bản thơ … Vì vậy vấn đề đặt ra ở đây là: Dạy thơ
Đường như thế nào cho đối tượng 12–13 tuổi đạt kết quả. Từ thực tế đó tơi đã
tập trung nghiên cứu và áp dụng trong quá trình giảng dạy để làm sao các em
yêu thích và cảm thu, chiếm lĩnh được tác phẩm thơ Đường một cách có hiệu
quả cao nhất.
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ.

a.

Thuận lợi:

2


Trong những năm học trước bản thân tôi cũng đã được nhà trường phân công
giảng dạy môn ngữ văn 7, Trong năm học này tôi đang trực tiếp giảng dạy ngữ
văn của 3 lớp 7: 7a-7b-7c, tôi thấy học sinh của ba lớp có khả năng tiếp thu bài
nhanh, một số học sinh có năng khiếu về văn chương. Các em có tinh thần học
tập ham học hỏi, hăng say phát biểu ý kiến xây dựng bài, chuẩn bị bài tương đối
đầy đủ khi lên lớp. Bản thân tôi nhận được sự giúp đỡ tận tình của đồng nghiệp.
Tham gia đầy đủ các lớp học chuyên đề để nâng cao trình độ nghiệp vụ theo kịp
với xu thế đổi mới của nền giáo dục nước nhà. Hiện nay tài liệu tham khảo
nhiều giúp ích rất nhiều trong cơng tác giảng dạy của giáo viên. Song bên cạnh
những thuận lợi đó cịn có một số những khó khăn khi tham gia thực hiện đề tài.
b. Khó khăn:
Như trên tơi đã nói với trình độ nhận thức của học sinh lớp 7 để tiếp cận,
chiếm lĩnh nội dung các tác phẩm về thể loại thơ Đường quả là một vấn đề rất
khó khăn trong việc tiếp thu khiến thức, chiếm lĩnh tác phẩm. Qua thực tế dự
giờ, học hỏi kinh nghiệm, qua các tiết thao giảng khi dạy các bài thơ Đường
thấy kết quả chưa cao, một số em thậm chí khơng nắm được nội dung bài học.
Hiện tại môn Ngữ văn đã có tài liệu tham khảo nhưng các trang thiết bị như
tranh ảnh …của một số tác phẩm có đoạn trích được học trong sách giáo khoa ở
thư viện khơng có, do đó rất khó khăn cho học sinh hình dung được nội dung
của tác phẩm. Hiện nay do xu thế của xã hội nên học sinh xem nhẹ các mơn
KHXH trong đó có mơn Ngữ văn dẫn đến chất lượng học tập không cao. Thấy
được những thuận lợi và khó khăn trên tơi đã cố gắng khắc phục nghiên cứu để
ứng dụng những kinh nghiệm mà trong thực tế tôi đã áp dụng và đã thu được

những kết quả nhất định trong quá trình giảng dạy.
3. CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH..
Thơ Đường vốn rất xa lạ với học sinh THCS về tư tưởng, về nghệ thuật và
về quan điểm thẩm mỹ, tuy nhiên dạy học thơ Đường về đại thể khơng có gì
khác so với dạy học các tác phẩm văn học hiện đại nói chung, vẫn đi theo trình

3


tự các phần các mục của một giờ văn học. Song do tính đặc thù của thơ cổ trong
q trình giảng dạy tôi đã tiến hành một số biện pháp sau:
3.1. Giúp học sinh tiếp cận tốt tác phẩm:
Tiếp cận tác phẩm là một bước cực kì quan trọng khi dạy và học một tác
phẩm văn chương nói chung và đặc biệt là đối với một bài thơ Đường nói riêng.
Bấy lâu nay phần lớn giáo viên chưa chú trọng bước này và nghĩ rằng tiếp cận
tác phẩm chỉ là đọc tác phẩm và trả lời các câu hỏi cuối bài. Điều đó chưa đủ khi
dạy một bài thơ Đường. Trước khi dạy một bài thơ Đường tôi đã gúp các em
tiếp cận tác phẩm bằng các việc làm cụ thể như sau:
a. Tìm hiểu tác giả, hồn cảnh ra đời của tác phẩm.
Tìm hiểu tác giả, hồn cảnh ra đời của tác phẩm. Hiểu được nội dung tác
phẩm phải gắn tác giả với một giai đoạn lịch sử nhất định để học sinh dễ dàng
nắm bắt được ý tưởng của nhà thơ thông qua thời đại, xã hội mà tác giả sinh
sống. Khơng chỉ có thế bởi thơ là tiếng lịng là tiếng nói của con tim thi nhân
nên việc nắm được hồn cảnh của tác giả, tính cách của tác giả cũng là một việc
rất cần thiết để hiểu được nội dung tác phẩm. Vì vậy trong mục này tơi cho học
sinh tìm hiểu kỹ phần chú thích ở nhà cịn bản thân tơi đọc tài liệu thu thập
thông tin về tác giả và tác phẩm tổng hợp những ý cơ bản, và dẫn dắc học sinh
tiếp nhận thơng tin qua phương pháp tái hiện. Bên cạnh đó tơi thu thập các hình
ảnh về tác giả, tác phẩm qua mạng intnet , sử dụng poverpoint, trình chiếu
trong tiết học gây sự hứng thú , giúp học sinh hình dung được phong thái, tính

cách, tâm tư của nhà thơ từ đó tiếp cận nội dung bài thơ một cách dễ dàng.
b. Đọc tác phẩm:
Phần lớn giáo viên khi dạy thơ Đường chỉ chú ý đến phần dịch thơ và bám
vào đó để phân tích (vì phần phiên âm chữ Hán Giáo viên nghĩ là khó nên bỏ
qua) . Đọc tác phẩm thơ Đường là phải đọc cả phần phiên âm chữ Hán, dịch
nghĩa và dịch thơ. Đặc biệt chú đến phần phiên âm chữ Hán vì phần phiên âm
này có lúc đã vượt khỏi tầm hiểu biết của học sinh, nhưng dù khó đi chăng nữa

4


việc tìm hiểu kĨ phần phiên âm chữ Hán giúp học sinh bước đầu có cách cảm
nhận riêng mà phần dịch thơ không thể thay thế được.
Để làm nổi bật bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng, các tác giả
dùng những từ ngữ gợi tả hình tượng, màu sắc, đường nét cho nổi hình trước
mắt người đọc . Đồng thời mỗi bài thơ là một bản nhạc, nhạc của thanh điệu,
vần, luật, tiết tấu, đối…Sự hài hòa về âm điệu, nhịp điệu,sự thống nhất về âm
hưởng làm cho bài thơ trở thành một tấm dệt âm thanh tinh xảo tạo nên một khả
năng biểu hiện nội dung mạnh mẽ… Vì thế yêu cầu đọc thơ phải “ Vang hết lời,
rung hết nhạc” giúp các em biết lắng nghe ngôn ngữ nghệ thuật trong văn bản
nghệ thuật ngôn từ, hình thành ở các em nhu cầu cảm nhận, xúc cảm và rung
động chân thành trước mỗi cái hay cái đẹp toát ra từ mỗi âm thanh, nhịp điệu,
âm hưởng của bài thơ...với mục đích đó khi hướng dẫn đọc tôi hướng dẫn đọc
một cách cặn kẽ, hướng dẫn các em đọc sáng tạo, chú ý cách ngắt nhịp, giọng
thơ…Sau đó tơi đọc mẫu cả đoạn thơ hoặc một vài câu thơ, cũng có thể cho các
em cảm thụ bài thơ qua các giọng đọc của các nghệ sĩ mà mình sưu tầm, thu âm
đươc…
c. Hiểu nghĩa các yếu tố Hán Việt.
Nắm được nghĩa các yếu tố Hán Việt giúp các em bước đầu nắm được nội
dung bài thơ. Các phần chú giải văn bản, giải thích từ Hán Việt các điển tích

điển cố trong bài thơ chính là phá vỡ hàng rào ngôn ngữ, rút ngắn khoảng cách
giữa học sinh và các điều đại lịch sử. Việc nắm chắc nghĩa các yếu tố Hán Việt
tạo cơ sở cho học sinh hiểu một cách khái quát nghĩa của từng câu thơ để từ đó
hiểu được nội dung tác phẩm cao hơn là học sinh biết vận dụng để giao tiếp phù
hợp với văn cảnh.
Sách giáo khoa Ngữ văn đã giải nghĩa các yếu tố một cách cơ bản, nhưng với
những từ khó hoặc những từ dễ nhầm lẫn, bởi vậy khi lên lớp tơi lấy thêm ví dụ
để học sinh dễ hiểu. Sử dụng lời giảng thuật để dẫn dắc học sinh tiếp cận văn
bản. Sau khi nắm chắc nghĩa từng yếu tố và nghĩa từng câu. Các em phải biết so
sánh phân biệt phần dịch thơ với nguyên tác. Bởi vì khơng phải phần dịch thơ

5


nào cũng đạt tới “mười phân vẹn mười”. Từ đó bước đầu các em cảm nhận được
vẽ đẹp của tác phẩm, thấy được nét độc đáo trong tâm hồn, phong cách nghệ
thuật của từng câu thơ. Ví dụ: Trong bài “Vọng Lư Sơn bộc bố” ở câu 1: Quan
hệ ý nghĩa giữa hai vế trong câu là quan hệ nhân quả, chủ thể xuyên suốt là mặt
trời. Ơ phần dịch thơ, vế sau thành cụm C – V “khói tía bay”, mối quan hệ nhân
quả trên đã bị xoá bỏ, khơng khí huyền ảo đã bị xua tan. Cịn ở câu 3: Phần dịch
thơ đã bỏ mất di từ “quải” nên ấn tượng do hình ảnh dịng thác gợi ra trở nên mờ
nhạt, hình ảnh liên tưởng ở câu cuối thiếu cơ sở.Hay ở bài “Tĩnh dạ tứ” tác gỉ
cảm nhận được ánh trăng sáng qua tư thế nằm trên giường từ “ sàng” ngĩa là “
Giường” nói lên điều đó. Nếu thay từ “ đình ” có nghĩa là sân hoặc những từ
ngữ khác thì ý nghĩa của câu thơ sẽ bị giảm sút. Khơng cịn sợ thao thức , trăn
trọc khi nghĩ về quê hương yêu dấu. Khi dạy bài thơ này tôi không thể không
cho các em hiểu nghĩa cụm từ và cũng là cảm hứng chủ đạo của bài thơ: Vọng
nguyệt hồi hương ( Trơng trăng nhớ quê).
Hiểu nghĩa các yếu tố Hán Việt là bước không thể thiếu được bởi khi dạy
tôi thường cho học sinh so sánh nghĩa giữa bản dịch và nguyên tác để học sinh

thu nhận được kiến thức một cách sâu sắc , toàn diện.
3.2. Định hướng được kiến thức cơ bản .
Kiến thức cơ bản là kiến thức cụ thể nhưng ở dạng tập trung hơn, trừu tượng
hơn, làm bộc lộ bản chất của cái cụ thể. Biết định hướng, làm rõ hệ thống kiến
thức cơ bản sẽ tránh bài dạy dàn đều và tràn lan, làm cho học sinh nhồi nhét quá
nhiều thông tin. Đặc biệt ở đây lại là thơ Đường rất hàm súc và nhiều tầng ý
nghĩa. Cùng với nó, đối tượng tiếp cận lại là học sinh 12 – 13 tuổi. Kiến thức cơ
bản ở đây chủ yếu là hướng dẫn các em học sinh tìm hiểu: Hệ thống cảm xúc,
rung động và tâm trạng tình cảm thơng qua bức tranh thiên nhiên sinh động
Ví dụ: Khi đọc bài “ Vọng Lư Sơn bộc bố” (Lý Bạch) tơi tập trung làm rõ
được tình cảm nhà thơ trước vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của thác núi Lư qua việc sử
dụng kênh hình. Từ đó rút ra được nét độc đáo trong phong cách thơ Lý Bạch:
Phóng khoáng, giàu chất lãng mạn, bằng hệ thống câu hỏi định hướng, gợi tìm.

6


Hoặc là với bài “ Qua đèo Ngang ” với ngôn ngữ phong phú, kết hợp với
việc sử dụng những thủ pháp nghệ thuật tài tình lấp lánh nhiều tầng ý nghĩa đã
góp phần làm nên tên tuổi của Bà Huyện Thanh Quan tôi cũng chủ yếu khai
thác bức tranh tâm trạng, tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ.
Thơ Đường là một thể loại khó lại dạy cho học sinh lớp 7. Vì vậy khi dạy thơ
Đường Giáo viên không nên ôm đồm kiến thức dẫn đến học sinh khó hiểu rồi đi
đến chán nãn và tiếp nhận khơng có hiệu quả.
3.3. Xác định được thi pháp thơ Đường trong các bài thơ:
Cái gì làm nên sự hấp dẫn thơ Đường? Đó chính là thi pháp thơ Đường. Nắm
được điều này giúp chúng ta hiểu thơ Đường một cách chính xác và khách quan,
giúp Giáo viên phân tích và giảng các bài thơ một cách sâu sắc, tránh áp đặt,
miễn cưỡng, cứng nhắc. Nắm được thi pháp thơ Đường có ý nghĩa thực tiễn
thiết thực đối với những người làm cơng tác dạy học mơn Ngữ văn nói chung và

thơ Đường nói riêng. Vì vậy khi dạy chùm thơ Đường trong sách Ngữ văn 7 nếu
giáo viên xác định đúng các yếu tố thi pháp thì lúc ấy giáo viên mới mở được
cánh cửa để học sinh đi vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Vậy nói đến thi
pháp thơ Đường chúng ta nói đến những điều gì? Trong phạm vi đề tài này tơi
chỉ đưa ra một số yếu tố thi pháp cần thiết cho việc dạy phần thơ Đường trong
sách Ngữ văn 7.
a. Con người trong thơ Đường.
Con người là chủ thể, là đối tượng, đồng thời cũng là mục đích cứu cánh của
văn học. Sáng tác văn học là một hoạt động phản ánh và thể hiện con người.
Con người là yếu tố trung tâm, chi phối các yếu tố thi pháp khác. Bởi thế xác
định được con người trong thơ Đường là xác định được nội dung chính, tư
tưởng, thơng điệp của bài thơ. Ví dụ: Trong bài “Vọng Lư Sơn bộc bố” và “Tĩnh
dạ tứ” ta thấy con người xuất hiện ở đây là con người vũ trụ, ln khát vọng và
hồ hợp với thiên nhiên. Cả không gian bao la của dãy núi Lư Sơn như thu vào
tầm mắt của Lý Bạch. Từ đó ta có thể thấy được đây là người u thiên nhiên,
ưa tự do, phóng khống, lãng mạn như một “Tiên thi”.

7


Trong bài: “Mao ốc vị thu phong sở phá ca” con người xuất hiện ở đây lại là
con người đời thường, con người hành động, con người chịu nhiều những biến
cố thăng trầm, những bon chen của của cuộc sống vì vậy họ đề cao cái tâm hơn.
Đó là tình cảm, hồi niệm, ưu, sầu, ốn, hận, khát vọng cuộc sống ấm no, tươi
đẹp khơng chỉ cho mình mà cịn “khắp kẻ sĩ nghèo trong thiên hạ “qua đó bộc lộ
được tính nhân văn giữa con người với con người mà chỉ bấy nhiêu đó thơi cũng
đủ tác động sâu sắc đến tình cảm, lẽ sống. Như vậy nắm được chủ thể trong thơ
Đường nghĩa là nắm được linh hồn của văn bản. Khi khai thác văn bản học sinh
sẽ tiếp thu nhanh nhất bức tranh tâm trang của nhà thơ, từ đó nắm được thơng
điệp mà tác giả nhắn gửi trong tác phẩm. Muốn được như vậy ngoài các phương

pháp truyền đạt kiến thức của một giờ Ngữ văn tơi cịn hướng dẫn học sinh nắm
bắt kiến thức bằng việc kết hợp sử dụng kênh hình, từ kênh hình sử dụng các
câu hỏi gợi lên trí tưởng tưởng để các em hình dung trước mắt mình hình ảnh
con người với những mối quan hệ tổng hòa trong xã hội.
b. Không gian và thời gian.
Không gian và thời gian trong thơ Đường nó mang tính đối xứng với con
người ở vị trí trung tâm. Trong bài: “Vọng Lư Sơn bộc bố”, “Tĩnh dạ tứ” từ một
điểm nhìn con người nhìn ra mọi phía, bao qt cảnh vật để tìm ra cái thần của
bức tranh thiên nhiên. Lý Bạch “Xa ngắm thác núi Lư”, đây là một sự lựa chọn
hợp lý vì “xa ngắm” thì mới tái hiện được cái hùng vĩ, tráng lệ của cảnh ở đây.
Con người được bao bọc giữa sơn thuỷ hữu tình, giữa mây trời non nước. Không
gian mở ra mọi hướng và tâm hồn con người cũng tương thông với không gian
ấy được thể hiện một cách tinh tế.
Trong bài: “Tĩnh dạ tư” từ một điểm “đầu giường” nhìn thấy ánh trăng
xuyên qua cửa, và qua hành động “cử”, “đê” ta thấy không gian ấy đã bao phủ
nổi nhớ và suy nghĩ của nhà thơ về q hương từ đó bộc lộ được tình cảm yêu
quê hương thắm thiết của tác giả.
Nếu như “Vọng Lư Sơn bộc bố” và “Tĩnh dạ tứ” không gian mở ra mọi
hướng, thì ở “Hồi hương ngẫu thư”, “Mao ốc vị thu phong sở phá ca” lại là

8


khơng gian đời thường có xu hướng thu hẹp, dồn nén con người vào những địa
dư chật hẹp, những góc sinh hoạt, hoạt động trong thơn xóm, làng mạc cụ thể
của thời đương đại. Vì thế mà tính hiện thực được gợi lên rất rõ nét, vừa có giá
trị phản ánh cuộc sống vừa có giá trị nhân văn sâu sắc.
Khơng gian và thời gian trong thơ Đường có tính biện chứng. Đó là cái lẽ mà
các nhà thơ dùng không gian để thể hiện thời gian. Thời gian với không gian
thống nhất lại làm nên một thế giới, một cuộc sống, một phong cách bất hủ của

nhà thơ.
c. Kết cấu trong thơ Đường
c.1. Về bố cục:
* Với những bài thơ “Thất ngơn bát cú Đường luật” có cấu trúc rất chặt chẽ,
và có những nét riêng.
- Nếu tìm hiểu thao chiều dọc thì có bố cục, niêm, đối vần.
- Nếu tìm hiểu theo chiều ngang thì có luật (bằng, trắc).
- Bố cục của bài thơ Thất ngôn bát cú có bốn phần: đề, thực, luận, kết. (mỗi
phần có hai câu)
+ Phần đề: Phải làm cho người đọc thấy được “cái thần” của bài thơ và từ
trong đề đã hàm ý các phần tiếp sau.
+ Ví dụ: Phần đề trong bài “Qua đèo ngang” đã giới thiệu phần nào khung
cảnh đèo Ngang buổi xế tà (đã chuẩn bị cho toàn bài)
+ Phần thực gồm câu 3, 4 đối nhau có nhiệm vụ triển khai ý tứ của đề như tả
cảnh, tả việc hoặc cách nghĩa sự việc cho phần tiếp theo.
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.”
(Hai câu tả cảnh đã ngầm ý luận)
+ Phần luận: Gồm câu 5, 6 cũng đối nhau có nhiệm vụ bình luận, nhận định.
- Thơng thường triển khai tứ, ý ở hai câu thực và có khi lộn với hai câu luận,
nếu hai câu thực đã ngầm ý luận.
"Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

9


Thương nhà mỏi miệng cái da da.”
- Ở đây tác giả vẫn tiếp tục tả cảnh nhưng ngụ tình theo nghệ thuật thừa ý,
chuyển ý.
- Phần kết: Gồm câu 7, 8 với chức năng khép bài nhưng thường khơng khép

kín mà gợi ý có khi gợi ra một ý mới.
“Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta"
+ Qua các phần đề, thực, luận kết cấu tứ của bài thơ ngày càng rõ dần theo
một trình tự lơ gíc, cảm xúc của tác giả cũng dần được bộc lộ qua kết cấu.
- Giữa thực và luận nhiều khi ranh giới cũng không rõ ràng tách bạch. Bởi
thế khi phân tích cũng khơng tách ra một cách máy móc.
- Cịn giữa đề và kết lại có quan hệ mật thiết từ hình thức đến nội dung: Về
hình thức thì hai câu đề và câu kết cũng có hệ thống thanh bằng, thanh trắc trùng
nhau.
"Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng chợ thời xa.
………………………..
Đầu trò tiếp khách trầu khơng có
Bác đến chơi đây ta với ta"
Về nội dung thì câu đề giới thiệu ý của bài, câu kết vừa khái quát được ý vừa
gây được âm vang và liên tưởng cho người đọc. Câu kết thường bộc lộ chủ đề
của bài.
" Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta"
* Với những bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Đây là thể thơ mỗi bài
chỉ có bốn câu (tứ tuyệt), mỗi câu thơ chỉ có bẩy chữ (thất ngơn)
- Đối: Phần lớn những bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật có luật đối như
sau :
+ Có thể câu 1 và câu 2 đối nhau.

10


+ Có thể câu 3 và câu 4 đối nhau.

+ Có thể câu 2 câu 3 đối nhau.
- Bố cục của bài thơ Thất ngơn tứ tuyệt Đường luật hồn toàn khác so với
những bài thơ làm theo thể Thất ngôn bát cú.
- Bố cục của bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt được khai thác theo cấu trúc: Khai,
thừa, chuyển, hợp.
+ Câu 1 gọi là câu khai.
+ Câu 2 gọi là câu thừa.
+ Câu 3 gọi là câu chuyển.
+ Câu 4 được gọi là câu hợp (khép lại.)
Tóm lại kết cấu bài thơ Đường rất chặt chẽ từ đề, thực, luận, kết... đều nằm
trong hệ thống chặt chẽ khi phân tích thơ Đường cho nên khi khai thác, phân
tích văn bản tơi thường cắt ngang phân tích từng phần rồi cuối cùng tổng hợp
lại.
Ví dụ: Khi dạy bài thơ "Qua đèo Ngang’’ của Bà Huyện Thanh Quan tơi
phân tích theo kết cấu đề, thực luận kết rồi sau đó tổng hợp chốt lại kiến thức cơ
bản vì trong suốt bài thơ tình lồng trong cảnh, cảnh có trong tình ‘‘ngụ cảnh tả
tình’’ để khi phân tích học sinh khơng bị trùng lặp kiến thức.
c.2. Về Niêm luật.
Khi dạy thơ Đường tôi luôn chú ý cho học sinh hiểu rõ Niêm luật trong thể
thơ Đường luật. Đây là vấn đề rất quan trọng trong việc khai thác cái hay, đúng,
cái đẹp của tác phẩm.
- Luật bằng trắc.
- Các chữ không dấu và chỉ có dấu huyền: thuộc thanh bằng.
- Các chữ có dấu sắc, nặng, hỏi, ngã: thuộc thanh trắc.
- Các chữ thứ nhất, ba, năm là bằng hay trắc đều được, nhưng các chữ thứ
hai, tư, sáu phải theo đúng luật bằng trắc.
- Trong các câu thơ các chữ thứ 2,4, 6 phải đối thanh.

11



Nếu chữ thứ 2 là bằng thì chữ thứ thứ 4 là trắc → chữ thứ 6 là bằng. Nếu chữ
thứ 2 là trắc → chữ thứ 4 là bằng → chữ thứ 6 là trắc.
- Nói cách khác trong mỗi câu thơ chữ thứ hai và chữ thứ 6 phải đồng thanh,
chữ thứ 4 phải đối thanh với chữ thứ 2 và chữ thứ 6.
- Cặp câu 1 và 4, cặp câu 2 và 3 thì các chữ thứ 2,4, 6 phải đồng thanh (cùng
trắc hoặc cùng bằng)
- Chữ thứ 2 câu 1 là bằng.
- Ví dụ :

"Thân em vừa trắng lại vừa trịn.
B

T

B

Bảy nổi ba chìm với nước non.
T

B

T

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn.
T

B

T


Mà em vẫn giữ tấm lịng son."
B

T

B

- Chữ thứ 2 câu 1 là trắc.
Ví dụ: Bài thơ "Thiên trường vãn vọng" của Trần Nhân Tông.
"Thôn hậu thôn tiền đạm tử yên
T

B

T

Bán vô bán hữu tịch dương biên
B

T

B

Mục đồng địch lí ngưu quy tận
B

T

B


Bạch lộ song song phi hạ điền."
T

B

T

Như vậy vấn đề Niêm luật địi hỏi học sinh phải chú ý trong q trình phân
tích bởi thơng qua đó tác giả nêu lên tâm sự thầm kín của mình và học sinh thấy
được tài năng đặc biệt của từng nhà thơ, từ đó phát huy được khả năng văn
chương của chính mình.

12


c.3. Ngôn ngữ trong thơ Đường luật.
Ngôn ngữ trong thơ Đường luật có tính hàm súc. Đặc biệt là những bài thơ
của tác giả Trung Quốc, khiến học sinh gặp khơng ít khó khăn trong q trình
hiểu văn bản. Nếu chương trình sách giáo khoa cũ các em được học tiết "Mở
rộng vốn từ" thì một số từ ngữ Hán việt các em cịn hiểu chút ít, nhưng hiện nay
phần này khơng được đưa vào chương trình sách giáo khoa. Vì thế các em hiểu
rõ những từ ngữ trong bài thơ rất lơ mơ, do đó các em rất khó cảm nhận hết
được tư tưởng mà nhà thơ gửi gắm vào bài viết. Chính vì vậy trước khi tìm hiểu
một bài thơ Đường luật tôi thường yêu cầu học sinh tự tra những từ ngữ đó trong
phần cuối sách trước ở nhà, để khi đến lớp các em dễ dàng tiếp nhận tác phẩm
hơn.
Một trong những đặc điểm của thơ Đường luật là tính hàm súc (ý tại ngơn
ngoại). Đây chính là đặc điểm của một bài thơ có giá trị. Với 56 tiếng của của
bài Thất ngôn bát cú và 28 câu của bài tứ tuyệt, bài thơ phải diễn đạt được tối đa

ý đồ thầm kín của tác giả.
Ngồi ra một yếu tố nữa trong ngơn ngữ được những nhà thơ xưa coi trọng,
đó là yếu tố hoạ, nhạc "Thi trung hữu hoạ" hoặc "Thi trung hữu nhạc". Để làm
nổi bật được "bức tranh" trong bài thơ người ta sử dụng lối văn hình ảnh, dùng
từ ngữ gợi tả hình tượng màu sắc, đường nét cho nổi hình trước mắt người xem.
Trong thơ Đường, đặc biệt là thơ Đường luật thường khơng có hư từ mà chỉ
có những thực từ gắn kết với nhau theo cấu trúc nội tại vì thế khi phân tích tơi
coi trọng việc khai thác từng tiếng, từng từ, từng hình ảnh kết hợp việc phân
tích, giảng thuật và kênh hình để từ đó học sinh cảm nhận được những tấc lòng
của thi nhân, những nỗi niềm tâm sự thầm kín.
Đây là một trong những đặc sắc của thơ Đường luật. Đó chính là sự cơ đúc,
súc tích được sản sinh từ một kiểu tư duy nghệ thuật, một thi pháp độc đáo của
các nhà thơ xưa.
Tóm lại xác định được các yếu tố thi pháp là một việc, nhưng cái quan trọng
ở đây là cách vận dụng sát hợp với đối tượng học sinh lớp 7 với những khái

13


niệm còn xa lạ của thi pháp thơ Đường trong từng bài cụ thể. Để có thể đưa
những vấn đề cao xa, trừu tượng của thi pháp thơ đường vào đầu óc non trẻ, cảm
tính của các em nhỏ, có thể đưa bằng nhiều cách như: cụ thể hoá, cảm tính hố,
thậm chí trực quan hố các khái niệm thi pháp thơ Đường trong quá trình dẫn
dắt và tiến hành dạy các bài thơ.
Khi vận dụng các yếu tố thi pháp phải linh hoạt, phù hợp với từng bài thơ.
Không cứng nhắc, áp đặt. Làm thế nào để học sinh nắm bắt được nội dung cũng
như giá trị nghệ thuât của bài thơ. Gây được sự hứng thú khi học thơ Đường,
biến cái khó thành cái bình thường, từ chỗ chán nãn đến chỗ ham thích, say mê
nghiên cứu thơ Đường.
4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIÊM.

Trước khi nghiên cứu và thực hiện đề tài này tôi nhận thấy nhìn chung các
em tiếp nhận những tác phẩm thơ Đường luật cịn rất lúng túng, tâm lý khơng
thích học thể loại này mấy. Tôi đã tiến hành khảo sát một số tiết dạy ở ba lớp 7
mà tôi trực tiếp giảng dạy
Hình thức và nội dung khảo sát.
- Yêu cầu học sinh tìm hiểu nghĩa của những từ Hán Việt trong bài thơ
“Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê.”
- Sử dụng phiếu học tập và các câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra việc nắm bắt
kiến thức của học sinh.
- Tiến hành kiểm tra viết để đánh giá khả năng nhận thức của học sinh kết
quả khảo sát chất lượng ở hai lớp 7A và 7B (năm học 2010 -2011) như sau:
Điểm 0→ 4
Điểm 5→ 6
Điểm 7→ 8 Điểm 9 →10
45,1
12,9
7A
31
14
13
42%
4
0
0%
%
%
7B
30
12
40%

16
53,4%
2
6,6%
0
0%
Như vậy so với yêu cầu chung và so với việc tiếp nhận các thể loại văn học

Lớp

Số bài

khác tôi nhận thấy kết quả như trên là chưa đạt. Sau đó tơi triển khai và áp dụng
một số các biện pháp trên vào q trình giảng dạy tơi nhận thấy học sinh tiếp
thu bài tốt hơn, các em hứng thú học hơn, cịn ít hiện tượng ngại tiếp xúc với

14


những bài thơ Đường luật. Nội dung nghệ thuật của các tác phẩm thơ Đường
được các em đón nhận và lĩnh hội một cách sâu sắc có tính giáo dục cao. Chính
vì thế tơi ln áp dụng trong q trình giảng dạy ở những lớp tôi trực tiếp giảng
dạy.
Kết quả đạt được sau khi áp dụng những giải pháp trên (năm học 2011 - 2012).
Lớp
7A
7B

Số bài
31

30

Điểm 0→ 4
3
9,6 %
2
6,6%

Điểm 5→ 6
16 51,8%
19 63,5%

Điểm 7→ 8
9
29%
7
23,3%

Điểm 9 →10
3
9,6%
2
6,6%

III. KẾT LUẬN.
Qua thực tế dạy môn Ngữ văn 7, tôi đã áp dụng các các biện pháp trên và
thấy kết quả rất khả quan: Học sinh hứng thú học tập, nắm được nội dung tác
phẩm nhanh hơn, hiểu biết vấn đề một cách tồn diện sâu sắc. Bởi vậy qua kinh
nghiệm trên tơi thấy nếu giáo viên đầu tư thời gian để hướng dẫn học sinh tìm
hiểu các thể loại văn học đặc biệt là với thể thơ Đường - một thể loại được học

sinh coi là khó, thì cũng có thể giúp các em tiếp nhận nội dung, nghệ thuật của
bài thơ một cách hiệu quả hơn, thu hút tạo hứng thú cho các em học tập.
Trên đây là một số vấn đề mà trong quá trình học tập, tìm hiểu, nghiên cứu
và vận dụng trong quá trình giảng dạy đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn
nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh mà tôi mạnh dạn đưa ra để các
bạn đồng nghiệp, quý thầy cô cùng tham khảo và đúc rút thêm kinh nghiệm.
Tất nhiên trong đề tài nghiên cứu sẽ có nhiều vấn đề chưa hợp lý, chưa giải
thích một cách thoả đáng. Vậy nên tơi rất mong các bạn đồng nghiệp, các q
thầy cơ đóng góp ý kiến xây dựng cho đề tài nghiên cứu của tơi được hồn thiện
hơn, để việc vận dụng đổi mới phương pháp dạy học ngày một đạt kết quả tốt
hơn, đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu đáp ứng được nhu cầu của
nền giáo dục hiện tại.
Mục đích cuối cùng của đề tài là tơi muốn góp một phần nhỏ vào sự nghiệp
GD huyện nhà, tỉnh nhà những biện pháp dạy học có tính thiết thực bồi dưỡng

15


thêm phương pháp dạy học môn Ngữ văn. Một lần nữa tôi rất mong được các
đồng nghiệp đánh giá, bổ sung để đề tài có thể áp dụng rộng rãi.
Tơi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 5 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người
khác.
Người viết SKKN

Vũ Thị Hà


16



×