Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Chuyên đề thơ mới trong chương trình Ngữ văn THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.69 KB, 8 trang )

1 1 THƠ MỚI TRONG CHƯƠNG TRÌNH
MÔN VĂN HỌC - PHỔ THÔNG TRUNG HỌC
Tào Văn Ân
Một thời gian khá dài, trong chương trình môn văn phổ thông trung học, Thơ mới nói riêng và văn
học lãng mạn nói chung chỉ được trình bày sơ lược ở phần khái quát về văn học Việt Nam giai đoạn 1930-
1945. Từ sau đại hội Đảng lần thứ VI, cùng với sự đổi mới trong đời sống xã hội trên nhiều lĩnh vực,
chương trình môn văn ở các lớp phổ thông trung học cũng đã có những điều chỉnh cho phù hợp với cách
nhìn mới, với tình hình thực tế của văn học nước nhà. Từ 1989 đến nay, chương trình môn văn có những
thay đổi đáng kể. Một số bài thơ tiêu biểu nhất của Thơ mới được đưa vào giảng dạy trong chương trình
môn Văn lớp 11 (chương trình hợp nhất hai bộ sách miền Nam và miền Bắc năm 2000). Cụ thể có một tác
giả và các bài thơ sau:
1. Xuân Diệu: Tiểu sử và sự nghiệp thơ văn.
2. Thơ duyên.
3. Đây mùa thu tới
4. Vội vàng.
5. Nguyệt cầm (đọc thêm)
6. Tràng giang của Huy Cận.
7. Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
8. Tống biệt hành của Thâm Tâm
9. Tiếng sáo thiên thai của Thế Lữ (đọc thêm)
10. Tương tư của Nguyễn Bính.
Những bài Nguyệt Cầm, Tiếng sáo thiên thai, Tương tư không được phân tích và bình giảng trên
lớp mà chỉ yêu cầu học sinh đọc thêm. Như vậy, Thơ mới được giảng dạy trực tiếp trên lớp chỉ có 1 tác
giả là Xuân Diệu và 7 bài thơ với sự phân bố thời gian là 8 tiết. Có thể nói các nhà biên soạn chương trình
đã chọn và giới thiệu với học sinh lớp 11 một tác giả và những bài thơ tiêu biểu của Thơ mới nhằm giúp
học sinh thấy được những cái hay, đặc biệt là những cái mới của phong trào thơ ca này. Sự phân bố số bài
như trên là tương đối hợp lí so với những tác phẩm văn học hiện thực phê phán và văn học cách mạng
cùng giai đọan (chủ yếu được dạy ở lớp 12).
Để có thêm tư liệu cho việc giảng dạy, chúng tôi liệt kê những bài Thơ mới và những bài nghị luận
văn chương có liên quan trong 2 bộ sách giáo khoa lớp 11 mới nhất được biên soạn theo chương trình thí
điểm Trung học phổ thông (do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành theo quyết định số 47/2002/QĐ-Bộ GD và


ĐT ngày 19 tháng 11năm 2002 của Bộ trưởng Bộ GD và ĐT ) được xuất bản tháng 7 năm 2004. Giữa hai bộ
sách mới có một số khác biệt nhỏ như sau:
Chương trình của Bộ sách thứ nhất do Trần Đình Sử làm Tổng chủ biên gồm các bài:
1 1. Tác giả Xuân Diệu.
2 2. Vội vàng của Xuân Diệu.
3 3. Tràng giang của Huy Cận
4 4. Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
5 5. Mưa xuân của Nguyễn Bính.
6 6. Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh.
(Phần đọc thêm bắt buộc: Tống biệt hành của Thâm Tâm; Tiếng địch sông Ô
của Phạm Huy Thông; Đây mùa thu tới; Tựa tập “Thơ thơ” của Xuân Diệu)
Chương trình của bộ sách thứ 2 do Phan Trọng Luận làm Tổng chủ biên gồm các bài:
1 1. Tác giả Xuân Diệu.
2 2. Vội vàng của Xuân Diệu.
1
3 3. Tràng giang của Huy Cận
4 4. Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
5 5. Tương tư của Nguyễn Bính.
6 6. Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh
(Phần đọc thêm bắt buộc: Tống biệt hành của Thâm Tâm; Tiếng địch sông Ô của Phạm Huy Thông,
Đây mùa thu tới; Tựa tập “Thơ thơ” của Xuân Diệu)
Như vậy, chương trình của 2 bộ sách vừa được xuất bản có một khác biệt nhỏ trong việc chọn lựa giữa
2 bài thơ của Nguyễn Bính (Bộ 1: Mưa xuân, Bộ 2: Tương tư). Ngoài ra không còn sự khác biệt nào ở cả 2
phần chính thức và đọc thêm bắt buộc.
So với sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000, chương trình chính thức phần Thơ mới trong 2 bộ sách giáo
khoa thí điểm mới nhất giảm đi 1 bài nhưng nếu học sinh phải học thêm những bài “đọc thêm bắt buộc” thì
tổng số vẫn là 10 bài. Giáo viên đương nhiên phải dạy kĩ các bài chính thức nhưng không thể không lưu ý học
sinh phải đọc kĩ những bài “đọc thêm bắt buộc”.
Để phân tích và giảng dạy những bài thơ mới trong chương trình lớp 11, có thể cần phải lưu ý một
số vấn đề quan trọng sau:

1. Vấn đề văn bản và cách hiểu một số từ của các bài Thơ mới trong chương trình môn văn
PTTH.
Trước hết cần phải xác định chính xác văn bản thơ mà trong khi trích đăng cũng như bình giảng
không ít người đã sơ sót, mặc dù đã được nhiều lần đính chính.
Có những khác biệt ở một số bài thơ giữa 4 bộ sách giáo khoa văn học lớp 11 được xuất bản từ năm
2000 trở về trước:
Tên bài
thơ
Sách lớp 11 Ban
KHXH. Đặng Thanh Lê
chủ biên
Sách lớp 11.
Nguyễn Đình Chú
chủ biên
Sách lớp 11. Trần
Hữu Tá chủ biên
Sách lớp 11 chương
trình hợp nhất năm
2000
Đây mùa
thu tới
-Trong vườn sắc đỏ rũa
màu xanh
-Trong vườn sắc đỏ
rũa màu xanh
-Trong vườn sắc đỏ
rủa màu xanh
-Trong vườn sắc đỏ
rủa màu xanh
Thơ

Duyên
-Anh đi lững đững
chẳng theo gần
Anh đi lững đững
chẳng theo gần
Anh đi lững thững
chẳng theo gần
Anh đi lững đững
chẳng theo gần
Vội vàng -(In thiếu cả câu)
-Con gió xinh thì thào
trong lá biếc
Và này đây ánh
sáng chớp hàng mi
-Con gió xinh thì
thào trong lá biếc
Và này đây ánh
sáng chớp hàng mi
-Cơn gió xinh thì
thào trong lá biếc
Và này đây ánh sáng
chớp hàng mi
-Con gió xinh thì thào
trong lá biếc
Đây thôn
Vĩ Dạ
-Sao anh không về chơi
thôn Vĩ ?
-Lá trúc che ngang mặt
chữ điền ?

-Sao anh không về
chơi thôn Vĩ ?
-Lá trúc che ngang
mặt chữ điền ?
-Sao anh không về
chơi thôn Vĩ
-Lá trúc che ngang
mặt chữ điền
-Sao anh không về
chơi thôn Vĩ ?
-Lá trúc che ngang
mặt chữ điền ?
Tràng
giang
-Thuyền về, nước lại
sầu trăm ngả
-Lòng quê dợn dợn vời
con nước
Chim nghiêng cánh
nhỏ: bóng chiều sa
-Thuyền về nước lại
sầu trăm ngả
-Lòng quê dợn dợn
vời con nước
Chim nghiêng cánh
nhỏ: bóng chiều sa
-Thuyền về nước
lại, sầu trăm ngả
-Lòng quê dờn dợn
vời con nước

Chim nghiêng cánh
nhỏ: bóng chiều sa
-Thuyền về, nước lại,
sầu trăm ngả
-Lòng quê dợn dợn
vời con nước
Chim nghiêng cánh
nhỏ bóng chiều sa
2
Tống biệt
hành
Chí lớn chưa về bàn tay
không
Một chị hai chị cũng
như sen
Giời chưa mùa thu tươi
lắm thay
Chí lớn chưa về bàn
tay không ?
Một chị hai chị
cũng như sen
Giờ chưa mùa thu
tươi lắm thay
Chí nhớn chưa về
bàn tay không
Một chị hai chị
cùng như sen
Giời chưa mùa thu
tươi lắm thay
Chí lớn chưa về bàn

tay không
Một chị hai chị cùng
như sen
Giời chưa mùa thu
tươi lắm thay
Qua so sánh, chúng tôi nhận thấy sách văn học chỉnh lí năm 2000 đã khắc phục được những sơ sót
mà các bộ sách giáo khoa xuất bản trước đó mắc phải. Trong các bộ sách giáo khoa trước, bên cạnh những
lỗi chủ yếu do in ấn, vẫn có những lỗi do người soạn chưa thật cẩn thận dẫn đến việc giải thích sai nghĩa
của từ. Chẳng hạn, trong không ít lần, sách giáo khoa và nhiều tài liệu đã in sai từ "dợn dợn" trong bài
Tràng giang của Huy Cận thành "dờn dợn". Từ việc
trích sai thơ như vậy, người soạn sách cũng như người giảng dạy phân tích cái hay của từ ngữ và
hình tượng thơ đã không ít lần giải thích thiếu chính xác ý nghĩa của từ ngữ cũng như dụng ý của nhà thơ.
Trong một bài phê bình về cách hiểu sai từ "dợn dợn" trong bài thơ Tràng giang, Trần Mạnh Hảo cũng
tiếp tục hiểu hai từ trên thành dờn dợn. Ông viết: "Chúng tôi chỉ xin lấy một ví dụ khi tác giả sách giáo
khoa giảng giải cho giáo viên hiểu câu thơ thứ ba của khổ thơ kết: "Lòng quê dờn dợn vời con nước" như
sau: "Dờn dợn: dờn là màu xanh dờn. Dợn là dợn lên, gợn lên (cỏ non xanh dợn chân trời- Truyện Kiều)...
Sách giáo khoa giải thích từ dờn dợn cũng chưa đúng: "dờn là màu xanh dờn". Dờn là một trợ từ, nhiều
trường hợp chỉ có nghĩa khi đi kèm với một từ mẹ khác. Nó đi trước dợn theo kiểu gờn gợn, cốt làm
cho sự dợn của sóng bớt đi, nhỏ đi (Tào Văn Ân nhấn mạnh) như cái dợn kia được nhìn từ xa, chứ
không phải dờn là màu xanh dờn như sách giáo khoa đã giải thích"
(1)
Nếu Trần Mạnh Hảo và một số nhà
giáo đã đọc kỹ lời đính chính của chính nhà thơ Huy Cận thì sẽ không giải thích từ láy toàn phần dợn dợn
thành dờn dợn: "Hai chữ dợn dợn của tôi thường bị đọc sai thành dờn dợn, như thế chẳng có ý
nghĩa gì. Trong bài thơ Tràng giang có nhiều điệp ngữ như: điệp điệp, song song, dợn dợn. Mỗi từ điệp
như thế đều có ý nghĩa riêng về nội dung cũng như về nghệ thuật"
(2)
. Việc in chính xác văn bản không phải
chỉ là yêu cầu đối với việc giảng dạy các bài Thơ mới hay môn ngữ văn mà là yêu cầu chung trong ngành
sư phạm, đặc biệt là với sách giáo khoa. Những sơ sót này đã được sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000 điều

chỉnh. Đây cũng chính là những điều kiện đầu tiên để cảm thụ đúng đắn thơ ca.
Những bài thơ được in trong sách giáo khoa thí điểm xuất bản năm 2004 mặc dù đã sữa chữa nhiều
sơ sót trong các lần in trước nhưng do trích thơ từ những nguồn khác nhau nên cũng có vài khác biệt. Hãy
thử so sánh một số bài Thơ mới trong 2 bộ sách vừa nêu:
Tên bài thơ Sách giáo khoa thí điểm lớp 11, tập 2, Bộ 1-
Trần Đình Sử chủ biên
Sách giáo khoa thí điểm lớp 11, tập 2, Bộ
2- Phan Trọng Luận chủ biên
Vội vàng Con gió xinh thì thào trong lá biếc
(Thơ thơ, Nxb Đời nay, H. 1938)
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
Tuyển tập Xuân Diệu, tập 1- Thơ, nxb
Văn học, H. 1983.
Đây thôn
Vĩ Dạ
Ai biết tình ai có đậm đà?
(Đau thương, nxb Hội nhà văn, H. 1995
Ai biết tình ai có đậm đà.
(Thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên tuyển
chọn và giới thiệu, nxb Văn học, H. 1991
Tràng
giang
Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả
Sông dài trời rộng, bến cô liêu
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
(Lửa thiêng, Nxb Hội nhà văn, H. 1995)
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
(Lửa thiêng, Nxb Đời Nay, HN, 1940)

3
Tống biệt
hành
Một chị, hai chị cũng như sen
Trời chưa mùa thu tươi lắm thay 1940
(Thơ Thâm Tâm, Nxb Văn học, H.1998)
Một chị, hai chị cùng như sen
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
(Thi nhân Việt Nam, in lần thứ 2,
Nguyễn Đức Phiên xb, H. 1943
Tiếng địch
sông Ô
Chỉ trích một số đoạn tiêu biểu
(Theo Huy Thông; Tiếng sóng –Yêu thương-
Tiếng địch sông Ô, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
1995)
Trích từ câu 175 đến hết bài thơ (câu
234)
(Theo Hà Nội báo, số 2 ngày 8-1-1936)
Qua so sánh, có thể thấy Bộ 2, sách thí điểm có những sơ sót dẫn đến việc hiểu sai câu thơ và
không thấy hết những nét riêng của nhà thơ. Chẳng hạn: Con gió khác với cơn gió, và đó là cách nói mới
mẻ của Xuân Diệu. Trong bài “Tràng giang”, giữa hai câu: “Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả” và “
thuyền về nước lại, sầu trăm ngả” không thể hiểu giống nhau được do dấu phảy được đặt ở những vị trí
khác nhau..... Giảng bài “Đây thôn Vĩ Dạ” không thể không chú ý đến 3 dấu hỏi trong 3 khổ thơ đi liền
theo các câu: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Có chở trăng về kịp tối nay? Ai biết tình ai có đậm đà?. Phải
chăng vì in thiếu dấu hỏi cuối câu thơ “Ai biết tình ai có đậm đà ?” mà sách giáo viên lớp 11 (Bộ 2, tập 2)
hoàn toàn không đề cập đến chi tiết này, trong khi đó ở sách Bài tập (Bộ 1, tập 2) lại đưa vào một ý lớn để
hướng dẫn cho giáo viên giảng dạy?
“Mỗi khổ thơ trong bài thơ chứa đựng một câu hỏi. Những câu hỏi này đã giúp độc giả nhận ra
được tiếng nói trữ tình sâu thẳm của bài thơ. Với câu hỏi đầu tiên vốn có dáng dấp của một lời tự nhắc

(Sao anh không về chơi thôn Vĩ?) ta nghe được niềm xốn xang trong lòng nhân vật trữ tình khi kỉ niệm về
Huế, về thôn Vĩ được đánh thức một cách đột ngột. Còn câu hỏi thứ hai (Có chở trăng về kịp tối nay?) cho
thấy nhân vật dần chìm sâu vào mặc cảm về thân phận và tự thấy mình là kẻ “chậm chân”, “lỡ chuyến”
giữa cuộc đời. Câu hỏi xuất hiện cuối bài (Ai biết tình ai có đậm đà?) ẩn ngụ một chút hoài nghi, một chút
trách móc, vừa thoáng vẻ cam chịu, vừa nhói lên khát vọng sống khôn cùng”
(3)
Những bài Thơ mới được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 11 là những bài thơ hay, tiêu
biểu nhất của phong trào Thơ mới, thể hiện khá rõ nét đặc trưng cơ bản của thơ lãng mạn. Nhưng ở mỗi
nhà thơ; mỗi bài thơ; những đặc trưng đó được thể hiện với những sắc thái riêng biệt, độc đáo tùy thuộc
vào
đối tượng, hoàn cảnh riêng, cảm xúc, quan niệm nghệ thuật, tài năng và cá tính sáng tạo của từng
nhà thơ. Chẳng hạn, nỗi buồn và cô đơn là một nét chung được thể hiện ở hầu hết các nhà Thơ mới nhưng
tâm trạng, cảm xúc đó được biểu hiện khác nhau qua các tác giả cũng như ở các bài thơ khác nhau của
cùng một tác giả. Nếu người đọc bắt gặp ở bài Thơ duyên một nỗi buồn nhè nhẹ, phảng phất của một
thanh niên mới lớn ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của cô gái nhưng vẫn e dè ngần ngại vì "lần đầu rung động nỗi
thương yêu" thì cái buồn đã trở nên u uất, tiếc nuối, cô đơn hơn trong Đây mùa thu tới và Vội vàng. Người
đọc có thể cảm nhận được tình yêu trong sáng với những hình ảnh hài hòa trong Thơ duyên của Xuân
Diệu nhưng cũng lay động bởi hình ảnh tươi sáng, hài hòa rồi chia lìa, buồn bã trong Tràng giang của Huy
Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử và cũng không thể không thấy được khúc ca bi tráng ở cảnh Hạng
Võ biệt Ngu Cơ trong Tiếng địch sông Ô của Phạm Huy Thông... Đây cũng chính là điều thể hiện mối
quan hệ riêng chung thống nhất nhưng đa dạng và phong phú trong sáng tạo nghệ thuật.
Đặt Thơ mới lãng mạn trong mối tương quan với thơ hiện thực và thơ cách mạng, không thể không
thấy những hạn chế của nó trong việc phản ánh những vấn đề lớn của hiện thực cách mạng xét trên những
tiêu chí đánh giá của văn học cách mạng. Tuy nhiên nhìn từ góc độ hiện đại hóa nền văn học Việt Nam thì
phải nói Thơ lãng mạn nói riêng và văn học lãng mạn nói chung có vai trò của người tiên phong. Đây
không phải là nét đặc thù trong văn học Việt Nam mà là một đặc điểm có tính qui luật phổ biến của văn
học thế giới. Bởi vì những nhà văn lãng mạn là những người nhạy cảm hơn ai hết trước những qui phạm
gò bó của thi pháp thơ ca thời Trung đại. Vấn đề hiện đại hóa văn học, dĩ nhiên không phải chỉ có văn học
4
lãng mạn mà còn có sự đóng góp của các dòng văn học khác nhưng cũng cần thấy vai trò tiên phong của

văn học lãng mạn. Không phải không có lí khi có nhiều người đồng nhất khái niệm hiện đại hóa văn học
với khái niệm chủ nghĩa lãng mạn.
2. Vấn đề cái mới của Thơ mới trong chương trình môn văn PTTH.
Xuân Diệu là tác gia Thơ mới duy nhất được giảng dạy trong chương trình môn Văn lớp 11. Sau
này, dù chương trình có thay đổi theo hướng tinh giản, Xuân Diệu vẫn được giữ lại cùng những bài thơ
tiêu biểu nhất của ông.
Trong việc nghiên cứu văn chương nói chung, thật khó có thể xác định một cách dứt khoát tác giả
nào lớn hơn tác giả nào, bài thơ nào hay hơn bài thơ nào. Việc xác định giá trị của một bài thơ, bên cạnh
những tiêu chí chung còn có một vấn đề quan trọng thuộc về chủ quan là tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ, là cái
tạng của người cảm thụ. Người đọc thơ có thể thích Huy Cận hơn Xuân Diệu, thích Hàn Mặc Tử hơn Thế
Lữ, thích Xuân Diệu hơn Nguyễn Bính... Đây là điều bình thường trong cảm thụ thơ ca. Nhưng khi khẳng
định "Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới" (Hoài Thanh) thì có lẽ dễ dàng tìm được
sự đồng tình ở các giáo viên và những người am hiểu về Thơ mới. Cái mới của Thơ mới được biểu hiện
trước hết ở Phan Khôi, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư.. nhưng có thể nói được tập trung thể hiện rõ nét và tiêu
biểu nhất trong thơ Xuân Diệu. Phải chăng chọn Xuân Diệu là tác gia duy nhất của Thơ mới, các tác giả
biên soạn sách muốn nhấn mạnh đến những cái mới mà các tác giả Thơ mới đã đạt được? Từ suy nghĩ đó,
chúng tôi cho rằng, giảng về Xuân Diệu, thơ Xuân Diệu, và cả
những nhà Thơ mới khác, cần phải nhấn mạnh những cái mới trong thơ của họ so với những
nhà thơ trước đó. Nói cách khác, giảng về Thơ mới, nhất thiết phải giúp cho học sinh thấy được cái
mới trong thơ họ so với thơ Trung đại Việt Nam. Riêng với Xuân Diệu, không chỉ thấy rõ cái mới
trong thơ ông so với các nhà thơ Trung đại mà còn cần chỉ rõ cái mới đó so với các nhà thơ lãng mạn
cùng thời.
Trong quá trình phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu có một vai trò hết sức quan
trọng. Ông được các nhà phê bình văn học cùng thời nhận xét là người mang đến cho Thơ mới nhiều
cái mới nhất (Vũ Ngọc Phan), Người mới nhất trong những nhà Thơ mới ( Hoài Thanh). Cái mới trong
thơ Xuân Diệu được thể hiện trên nhiều phương diện từ quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người
đến những cách tân táo bạo trong hình thức nghệ thuật thơ ca...
Những đổi mới của thơ Xuân Diệu trong giai đoạn 1930-1945 gắn liền với quan niệm nghệ
thuật của ông về con người và thế giới. Là một nhà thơ lãng mạn, Xuân Diệu có ít nhiều điểm tương
đồng với các nhà Thơ mới. Nếu như các nhà Thơ mới đề cao cái tôi, ý thức sâu sắc về cá nhân thì

Xuân Diệu cũng không vượt ra ngoài qui luật chung đó của thời đại nhưng con người cá nhân trong
thơ Xuân Diệu cũng có những nét riêng không lẫn vào đâu được, đó “là Một, là Riêng, là Thứ Nhất”
như ông quan niệm. Cũng như các nhà Thơ mới, ông cũng thể hiện con người với nhiều ước mơ,
mộng tưởng, cô đơn, lạc loài nhưng điều quan trọng trong thơ ông là con người đó đồng thời cũng gắn
bó sâu xa, máu thịt với cuộc đời thường nhật, biểu hiện một khát vọng sống mãnh liệt, nồng nàn, tha
thiết.
Xuân Diệu đã cảm nhận thế giới vượt ra ngoài thông lệ so với những nhà thơ của quá khứ cũng
như nhiều nhà thơ đương thời. Những sự vật vốn trừu tượng, vô hình thường hiện lên một cách sinh
động, cụ thể trong mối tương quan, tổng hòa của các giác quan.
Riêng trên bình diện ngôn ngữ thơ ca, Xuân Diệu có những điểm mới, rất sáng tạo, lạ lùng, mà
đương thời không ít người chê là ngô nghê, lai căng, mất gốc...Quả thật, nhiều câu thơ của Xuân Diệu
chịu ảnh hưởng của sự diễn đạt của câu văn Pháp.
Trong thơ Xuân Diệu có hàng loạt những từ ngữ mới mẻ nhưng cũng chỉ những từ ngữ ấy mới
diễn đạt được cái mới trong tâm hồn thi sĩ của nhà thơ: Nhan sắc ơi, bình minh quá, tháng giêng cười,
tuôn âu yếm, lùa mơn trớn, rượu nơi mắt, gấm trong lòng, chùm mong nhớ, khóm yêu đương, hoa kỹ
nữ, gió phong lưu, tình thổi gió, trăng mối lái, trăng vú mộng, tắt nắng đi, buộc gió lại..
5

×