Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Doanh nghiệp việt nam với thuế chống bán phá giá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.42 KB, 15 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH
LỚP: THUẾ _T02
*************


ĐỀ TÀI
THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ



GVHD: Nguyễn Đoàn Châu Trinh

Thành Viên: 1. Lê Nguyễn Vĩnh Phúc 030125090654
2. Lê Thị Phương Quyên 030125090670
3. Võ Trọng Tín 030125091026
4. Trần Bảo Toàn 030125090885




TP.Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 06 năm 2012





LỜI NÓI ĐẦU 3
1. Bán phá giá. 4
1.1. Khái niệm 4


1.2. Nguyên nhân. 4
1.3. Ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá. 4
2. Thuế chống bán phá giá 5
2.1. Khái niệm 5
2.2. Vai trò 6
2.3. Nội dung cơ bản của thuế chống bán phá giá 6
2.3.1. Trình tự một vụ kiện chống bán phá giá 6
2.3.2. Điều kiện áp thuế chống bán phá giá 7
2.3.3. Mức thuế 7
2.3.4. Về thời điểm tính mức thuế chính thức 8
2.3.5. Thời hạn của thuế 8
2.3.6. Hiệu lực của việc áp thuế 8
2.3.7. Hồi tố 9
3. Thực trạng bán phá giá và áp dụng thuế chống phá giá của Việt Nam. 9
3.1. Các vụ kiện bán phá giá đối với Việt Nam 9
3.2. Tình hình bán phá giá ở thị trường trong nước 11
4. Giải pháp cho doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề bán phá giá. 12
4.1. Nhóm giải pháp nhằm tránh bị liên quan đến các vụ kiện bán phá giá. 12
4.1.1. Am hiểu “luật chơi”. 12
4.1.2. Đa dạng hóa sản phẩm và thị trường xuất khẩu 13
4.2. Giải pháp cần tiến hành khi bị kiện bán phá giá. 13
KẾT LUẬN 15



LỜI NÓI ĐẦU



Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa kinh tế mang lại rất nhiều lợi ích cũng như

thúc đẩy phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên cơ sở một nền thương mại và đầu tư
công bằng. Nhưng song song với điều đó là những khó khăn, thách thức mới mà các quốc
gia phải đối măt. Khi các rào cản thuế quan được dỡ bỏ và thuế hóa các rào cản phi thuế
quan thì các biện pháp tự vệ, thuế chống bán phá giá, thuế đối kháng được các nước ngày
càng áp dụng triệt để nhằm bảo vệ hàng nội địa trước sự tấn công ào ạt của hàng nhập
khẩu bán phá giá tại thị trường nước mình. Điều này đã được chứng minh qua số lượng
ngày càng tăng các quốc gia có luật chống bán phá giá cũng như các vụ kiện bán phá giá
diễn ra trên phạm vi toàn cầu.
Và Việt Nam chúng ta cũng không phải là ngoại lệ khi mà chúng ta đang dần hội nhập
vào nền kinh tế thế giới với các nghiệp vụ kinh doanh mang tính xuyên quốc gia phát
sinh và từ đó cũng nảy sinh những vấn đề mang tính quốc tế cần giải quyết. Ví như chiến
dịch chống ca tra và cá ba sa Việt nam nhập khẩu vào Mỹ là một ví dụ điển hình nhất.
Điều tất nhiên, các cuộc đương đầu tương tự cũng sẽ không chỉ đối với Mỹ mà ở khắp
các thị trường xuất khẩu khác của nước ta. Bên cạnh đó hiện tượng bán phá giá hàng
nước ngoài cũng sẽ ngày càng tăng trên thị trường Việt Nam, có thể gây ra những tổn thất
lớn cho các nhà sản xuất nói riêng và cho cả nước nói chung. Và đây là điều hiển nhiên
mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt trong hoạt động thương mại quốc tế trong
tương lai.
Đứng trước thực tế này, đồi hỏi Việt Nam cần phải nghiên cứu và sớm đưa ra nhưng
công cụ bảo hộ mới cũng như thuế chống bán phá giá phù hợp với các quy định của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO). Và các doanh nghiệp cũng cần phải được trang bị
kiến thức, những hiểu biết nhất định về bộ luật này nhằm, ít nhất, tránh những lúng túng
và sai sót không cần thiết trong trường hợp bị kiện bán phá giá, và cao hơn, giành phần
thắng về mình, tạo vị thế cho doanh nghiệp Việt Nam.
Vì vậy chúng tôi tiến hành thực hiện tiểu luận này nhằm cung cấp khái quát về lý luận
của việc bán phá giá, thuế chống bán phá giá và thực tiễn của Việt Nam trước tình hình
hàng hóa của chúng ta xuất khẩu ra nước ngoài bị kiện bán phá giá cũng như hàng hóa
nước ngoài nhập khẩu bán phá giá ở trị trường trong nước.






1. Bán phá giá.
1.1. Khái niệm
Theo cách hiểu đơn giản, bán phá giá là hành động bán một hàng hoá nào đó với mức
giá thấp hơn mức bình thường nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh hoặc giành thêm thị phần.
Trong thương mại quốc tế, bán phá giá là hiện tượng xảy ra khi một hàng hóa được bán
sang một nước nhập khẩu với giá thấp hơn giá bình thường của mặt hàng đó tại thị trường
nước xuất khẩu.
Theo WTO, giá trị bình thường của hàng hoá là giá của hàng hoá đã được ấn định phụ
thuộc vào sức tiêu thụ trên thị trường nước xuất khẩu. Khi không có giá nội địa để so
sánh thì giá trị bình thường được coi là tổng các chi phí sản xuất, tiêu thụ hàng hoá cộng
với một phần lợi nhuận dự tính. Hoặc theo cách khác, giá trị bình thường có thể là giá
xuất khẩu sang một nước thứ ba. Trong trường hợp khi nước xuất khẩu chưa được công
nhận là có nền kinh tế thị trường thì giá trị bình thường được xác định trên cơ sở giá hàng
hoá tương tự của một nước thứ ba có nền kinh tế thị trường. Ví dụ, hiện nay Mỹ vẫn chưa
công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường nên việc định giá hàng hóa từ Việt
Nam được xác định cơ sở giá của một nước thứ ba có hàng hóa tương tự.
Bán phá giá thường được chia thành 2 loại: bán phá giá hàng sản xuất trong nước trên
thị trường nội địa và bán phá giá hàng nhập khẩu.
 Bán phá giá hàng sản xuất trong nước trên thị trường nội địa là việc cá nhân hoặc
tổ chức sản xuất đặt giá tiêu thụ thấp hơn giá thành tại thị trường trong nước. Mục tiêu
của hành động bán phá giá này là nhằm loại bỏ khỏi thị trường, hoặc ngăn cản sự thâm
nhập thị trường, của một doanh nghiệp hay một sản phẩm của doanh nghiệp khác.
 Bán phá giá hàng nhập khẩu là việc doanh nghiệp nước ngoài bán hàng hóa với
giá dưới mức bình thường tại nước nhập khẩu.
1.2. Nguyên nhân.
Trong thương mại quốc tế, bán phá giá là hiện tượng xảy ra rất thường xuyên, đặc biệt
đối với hàng xuất khẩu vào những thị trường lớn hoặc tiềm năng phát triển cao. Có nhiều

nguyên nhân dẫn tới hiện tượng bán phá giá trong thương mại quốc tế. Nhiều trường hợp
cố tình bán phá giá nhằm đạt được những lợi ích nhất định như: bán phá giá để chiếm
lĩnh thị phần, hoặc thậm chí loại bỏ các đối thủ cạnh tranh trên thị trường nước nhập khẩu
từ đó chiếm thế độc quyền, hoặc bán giá thấp để thu ngoại tệ mạnh. Việc bán phá giá có
thể bắt nguồn từ chính sách tài trợ của Chính phủ nước xuất khẩu như: bảo hộ, trợ cấp, ưu
đãi thuế, ưu đãi tín dụng nhằm tăng cường xuất khẩu hay phát triển các ngành công
nghiệp chủ lực. Đôi khi việc bán phá giá là việc bất đắc dĩ do nhà sản xuất, không bán
được hàng, sản xuất bị đình trệ, sản phẩm lưu kho lâu ngày có thể bị hỏng nên đành bán
tháo để thu hồi vốn.
1.3. Ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá.
Tác động của hiện tượng bán phá giá được nhìn nhận cả góc độ tích cực và tiêu cực
bằng việc phân tích ảnh hưởng của nó đối với lợi ích của người tiêu dùng, nhà sản xuất
có liên quan và các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm cạnh tranh nội địa. Trong thương
mại quốc tế, bán phá giá thường được coi là hiện tượng tiêu cực do nó làm giảm khả năng
cạnh tranh về giá và thị phần của sản phẩm nội địa của nước nhập khẩu. Tuy nhiên, ở một
góc độ khác, bán phá giá có thể có tác động tích cực đối với nền kinh tế: người tiêu dùng
được lợi vì có thể mua hàng với giá rẻ hơn, nếu hàng bị bán phá giá là nguyên liệu đầu
vào của một ngành sản xuất khác, giá nguyên liệu rẻ có thể là yếu tố góp phần tạo nên sự
tăng trưởng nhát định của ngành đó, giá giảm có thể là động lực thúc đẩy ngành sản xuất
trong nước tự đổi mới để nâng cao sức cạnh tranh.
Cụ thể hơn, ảnh hưởng của bán phá giá đến người tiêu dùng của nước nhập khẩu được
biểu hiện cả trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, việc bán phá giá đã tối đa hóa
lợi ích cho người tiêu dùng vì họ có cơ hội mua được hàng hóa nhập khẩu giá rẻ, là động
lực kích thích tiêu dùng tăng mạnh. Ngoài ra, việc bán phá giá hàng hóa nhập khẩu còn
làm tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường. Việc hàng hóa nhập khẩu phá giá với giá bán
rẻ hơn so với hàng hóa nội địa đã tạo ra sức ép cho ngành sản xuất nội địa trong việc tìm
phương cách nâng cao khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, trong dài hạn, quyền lợi của
người tiêu dùng có thể bị xâm hại nếu doanh nghiệp nước ngoài bán phá giá hàng hóa để
thực hiện chiến lược chiến đoạt thị trường, hủy diệt ngành sản xuất trong nước. Mặc dù
bán phá giá đem lại lợi ích cho người tiêu dùng ở hiện tại, song khi đã chiếm đoạt được

thị trường nhập khẩu, giá của hàng hóa nhập khẩu sẽ tăng vọt trong tương lai để các
doanh nghiệp lấy lại những gì đã mất từ việc phá giá. Người tiêu dùng lại trở thành nạn
nhân của mức giá độc quyền do các doanh nghiệp nước ngoài ấn định.
Bán phá giá gây tác động mạnh đến ngành sản xuất nội địa kinh doanh sản phẩm cạnh
tranh với hàng hóa nhập khẩu. Tác động tiêu cực của bán phá giá hàng hóa nhập khẩu
chủ yếu được chứng minh bằng những thiệt hại mà ngành sản xuất nội địa phải gánh chịu.
Các doanh nghiệp sản xuất nội địa và người lao động trong các doanh nghiệp này là nạn
nhân thực tế và trực tiếp của việc hàng hóa nhập khẩu bán phá giá. Nếu mức phá giá làm
giá cạnh tranh của sản phẩm nhập khẩu thấp hơn chi phí sản xuất của hàng hóa nội địa,
doanh nghiệp nội địa sẽ bị đẩy vào tình trạng cạnh tranh không lối thoát, hoặc chịu lỗ để
chạy đua theo mức giá phá giá, hoặc mất khách hàng. Trong trường hợp mức phá giá làm
giá cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu thấp hơn giá bán hiện tại nhưng không thấp hơn
chi phí sản xuất của hàng hóa nội địa thì thiệt hại mà ngành sản xuất nội địa phải chịu là
sự suy giảm lợi nhuận, suy giảm lợi tức đầu tư.
Như vậy, việc bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu vừa có những tác động tích cực,
vừa có tác động tiêu cực cho thị trường của nước nhập khẩu. Vì thế, khi tiến hành xử lý
hành vi phá giá, cần phải giải quyết xung đột giữa quyền lợi của người tiêu dùng và lợi
ích của nhà sản xuất trong nước cho phù hợp.
2. Thuế chống bán phá giá
2.1. Khái niệm
Trong thực thuế chống bán phá giá là một trong những biện pháp mà hàng hóa bị áp
đặt khi có kết luận là có hiện tượng bán phá giá nhằm triệt tiêu nguy cơ gây thiệt hại cho
ngành sản xuất trong nước nhập khẩu bên cạnh các biện pháp khác như đặt cọc hoặc thế
chấp, can thiệp hạn chế định lượng hoặc điều chỉnh mức giá của nhà xuất khẩu.
Như vậy, thuế chống bán phá giá là một sắc thuế mà nước nhập khẩu đánh vào một
mặt hàng nhập khẩu được bán phá giá với mục đích ngăn cản sự tiếp diễn của việc bán
phá giá đó để tránh gây thiệt hại cho ngành sản xuất mặt hàng tương tự trong nước. Thực
chất, thuế chống bán phá giá là một loại thuế nhập khẩu bổ sung đánh vào những hàng
hóa bị bán phá giá ở nước nhập khẩu nhằm hạn chế thiệt hại do việc bán phá giá đưa đến
cho ngành sản xuất của nước đó nhằm đảm bảo sự công bằng trong thương mại, được coi

là một sự bảo hộ hợp lý cho sản xuất trong nước. Thông thường mỗi nước đều có một hệ
thống các quy định riêng về các điều kiện và thủ tục áp đặt thuế chống bán phá giá bên
cạnh quy định trong Hiệp định chống bán phá giá của WTO.
2.2. Vai trò
Biện pháp phòng vệ thương mại: “Ý tưởng căn bản của việc áp đặt thuế chống bán phá
giá là sự phản ứng của nước nhập khẩu được thiết kế phần nào nhằm bình quân với ảnh
hưởng của các thủ pháp bất chính”. Mục tiêu chính của thuế chống bán phá giá là nhằm
vô hiệu hóa việc bán phá giá, bù đắp những tổn thất do bán phá giá và cạnh tranh không
lành mạnh gây ra cho các doanh nghiệp của nước nhập khẩu hàng bán phá giá. Thuế
chống bán phá giá được đặt ra nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước thông qua cơ chế
điều chỉnh hàng háo nhập khẩu chứ không có chức năng trừng phạt. Bằng việc áp thuế,
các quốc gia nhập khẩu mong muốn đẩy giá bán của hàng hóa nhập khẩu lên tương ứng
để loại bỏ khả năng gây thiệt hại hoặc loại bỏ tình trạng phá giá. Khi đó, ưu thế cạnh
tranh của hàng hóa nhập khẩu do việc bán phá giá tạo ra không thể tồn tại nên tình trạng
cạnh tranh trở về trạng thái bình thường.
Biện pháp điều tiết xuất khẩu: Là một loại thuế áp dụng khi nhập khẩu hàng hóa, trách
nhiệm nộp thuế chống bán phá giá thuộc về người nhập khẩu nên doanh nghiệp nhập
khẩu phải chịu gánh nặng tài chính, người tiêu dùng gánh chịu mức giá mua hàng hóa
tăng thêm. Từ đó, thuế chống bán phá giá tác động là cân bằng cạnh tranh, đồng thời ảnh
hưởng đến các dòng thương mại, làm thay đổi hướng kinh doanh, xu hướng tiêu dùng của
thị trường nhập khẩu. Như vậy, tuy không trực tiếp đặt ra hạn ngạch để hạn chế việc nhập
khẩu nhưng thuế chống bán phá giá đã tác động đến lợi ích của các tổ chức, các nhân
kinh doanh và tiêu dùng hàng hóa nhập khẩu nhằm chi phối nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
2.3. Nội dung cơ bản của thuế chống bán phá giá
2.3.1. Trình tự một vụ kiện chống bán phá giá
Bước 1 : Ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu nộp đơn kiện (kèm theo chứng cứ
ban đầu);
Bước 2 : Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi xướng điều tra (hoặc từ chối đơn
kiện, không điều tra);
Bước 3 : Điều tra sơ bộ ban đầu nhằm xác định có hiện tượng bán phá giá hay không

và biê độ phá già là bao nhiêu, đồng thời xác định có thiệt hại đối với ngành sản xuất
trong nước hay không và thiệt hại có phải là do hệ quả của việc bán phá giá không. Việc
điều tra này được thực hiện thông qua bảng câu hỏi gửi cho các bên liên quan, thu thập,
xác minh thông tin, thông tin do các bên tự cung cấp.
Bước 4 : Kết luận sơ bộ : Cơ quan điểu tra đưa ra kết luận sợ bộ về các vấn đề được
điều tra dựa trên cơ sở kết quả điều tra sơ bộ, có thể kèm theo quyết định áp dụng biện
pháp tạm thời như buộc đặt cọc, ký quỹ…trong trường hợp kết luận sơ bọ khẳng định có
sự tồn tại việc bán phá giá gây thiệt hại đáng kể.
Bước 5 : Tiếp tục điều tra về việc bán phá giá và về thiệt hại (có thể bao gồm điều tra
thực địa tại nước xuất khẩu); đồng thời xem xét các phản hồi từ các bênh đối với kêt luận
sơ bộ. Các phiên điều trần có thể được tổ chức để cơ quan điều tra trực tiếp nghe các bên
trình bày tranh luận.
Bước 6 : Kết luận cuối cùng;
Bước 7 : Quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá (nếu kết luận cuối cùng
khẳng định có việc bán phá giá gây thiệt hại) ;
Bước 8 : Rà soát lại biện pháp chống bán phá giá (hàng năm cơ quan điều tra có thể sẽ
điều tra lại biên phá giá thực tế của từng nhà xuất khẩu và điều chỉnh mức thuế)
Bước 9 : Rà soát hoàng hôn (5 năm kể từ ngày có quyết định áp thuế chống bán phá
giá hoặc rà soát lại, cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra lại để xem xét chấm dứt việc áp
thuế hay tiếp tục áp thuế thêm 5 năm nữa).
2.3.2. Điều kiện áp thuế chống bán phá giá
Theo quy định của WTO và luật pháp ở nhiều nước, thuế chống bán phá giá chỉ được
áp dụng khi hàng hóa được bán phá giá gây thiệt hại đáng kể hay đe dọa gây thiệt hại
đáng kể cho ngành sản xuất của nước nhập khẩu. Thuế chống bán phá giá sẽ không được
áp dụng khi biên phá giá là quá nhỏ hoặc lượng hàng hóa nhập khẩu bị phá giá, thực tế
hoặc tiềm năng, hoặc thiệt hại là không đáng kể. Theo hiệp định chống bán phá giá của
WTO, biên phá giá sẽ được coi là quá nhỏ nếu dưới 2% của giá xuất khẩu; và lượng hàng
nhập khẩu bị phá giá thường sẽ bị coi là không đáng kể nếu lượng hàng nhập khẩu bị phá
giá các sản phẩm bị điều tra từ một nước cụ thể được thấy là dưới 3% trên tổng lượng
hàng nhập khẩu của sản phẩm tương tự và bị điều tra ở quốc gia trừ khi hàng nhập khẩu

các sản phẩm bị điều tra từ tất cả các nước đang bị điều tra mà từng nước chiếm dưới 3%
tổng lượng nhập khẩu các sản phẩm tương tự và bị điều tra ở quốc gia, kết hợp lại chiếm
trên 7% hàng nhập khẩu các sản phẩm tương tự và bị điều tra ở quốc gia.
2.3.3. Mức thuế
Theo quy định của WTO thì “Thuế chống bán phá giá sẽ được đánh bổ sung bên cạnh
thuế nhập khẩu khác được đánh vào hàng nhập khẩu liên quan. Thuế chống bán phá giá
sẽ được thu bởi cơ quan có thẩm quyền theo lượng phù hợp trong từng vụ, trên cơ sở
không phân biệt đối xử đối với hàng nhập khẩu từ các nguồn khác nhau bị phát hiện phá
giá và gây thiệt hại”. Điều này có nghĩa là thuế chống bán phá giá đánh vào từng mặt
hàng riêng lẻ - mặt hàng được kết luận là bán phá giá, không áp đặt chung cho hàng hóa
của một quốc gia và hàng hóa bị bán phá giá được xuất khẩu từ những quốc gia khác
nhau vời cùng biên độ phá giá như nhau thì sẽ áp đặt mức thuế chống bán phá giá thuộc
vào biên độ phá giá của từng nhà xuất khẩu chứ không áp dụng bình quân và không được
phép vượt quá biên độ đã được xác định
Trường hợp các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài không được lựa chọn để tham gia
cuộc điều tra nhưng hợp tác với cơ quan điều tra thì mức thuế chống bán phá giá áp dụng
cho họ không cao hơn biên phá giá trung bình của tất cả các nhà sản xuất, xuất khẩu nước
ngoài được lựa chọn điều tra;
Trường hợp các nhà sản xuất, xuất khẩu không hợp tác, gian lận trong quá trình điều
tra thì sẽ phải chịu mức thuế cao mang tính trừng phạt.
Thuế chống bán phá giá của EU được ấn định ở một mức thuế nhất định trong suốt
thời hạn áp dụng tính theo giá CIF với sản phẩm nhập khẩu từ nước xuất khẩu liên quan
bất kể có bị bán phá giá hay không.
2.3.4. Về thời điểm tính mức thuế chính thức
Có hai cách xác định mức thuế chống bán phá giá:
 Cách tính thuế cho khoảng thời gian sắp tới (EU theo cách này): Mức thuế
chính thức sẽ được xác định ngay trong Quyết định áp thuế ban hành khi kết thúc điều tra
và có hiệu lực cho hàng hoá liên quan nhập khẩu trong khoảng thời gian sau đó;
 Cách tính thuế cho khoảng thời gian đã qua (Hoa Kỳ tính theo cách này): Mức
thuế nêu tại Quyết định áp thuế ban hành sau khi điều tra chỉ là tạm thời; hết mỗi năm kể

từ ngày có Quyết định này, cơ quan điều tra sẽ xác định biên phá giá thực tế của các nhà
xuất khẩu trong năm đó và quyết định mức thuế chính thức cho họ (nếu mức này cao hơn
mức thuế tạm tính thì doanh nghiệp phải nộp bổ sung; nếu thấp hơn sẽ được hoàn trả).
Theo quy định của WTO, dù theo cách tính nào thì cứ tròn 01 năm kể từ ngày có
Quyết định áp thuế, các bên liên quan trong vụ kiện đều có quyền yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền rà soát lại để giảm, tăng mức thuế hoặc chấm dứt việc áp thuế
2.3.5. Thời hạn của thuế
Theo quy định của WTO, việc áp thuế chống bán phá giá không được kéo dài quá 5
năm kể từ khi có Quyết định áp thuế trừ khi các cơ quan hữu quan quyết định rằng việc
hết hạn hiệu lực của thuế chống phá giá có thể dẫn tới sự tiếp tục cũng như tái sinh hiện
tượng phá giá và các thiệt hại.
Tuy nhiên, thuế chống bán phá giá có thể được loại trừ áp dụng khi các cơ quan hữu
quàn quyết định việc áp dụng thuế chống bán phá giá là không còn cần thiết. Điều này
được thực hiện trên cơ sở các cơ quan hữu quan sẽ xem xét lại yêu cầu tiếp tục duy trì
thuế chống bán phá giá trong trường hợp thấy cần thiết hoặc do đề nghị của các bên có
liên quan đã cung cấp các thông tin tích cực đủ để đề nghị xem xét lại.
2.3.6. Hiệu lực của việc áp thuế
 Quyết định áp thuế chỉ có hiệu lực đối với tất cả hàng hoá liên quan nhập khẩu từ
nước bị kiện sau thời điểm ban hành Quyết định.
 Quyết định áp thuế có hiệu lực với cả các nhà xuất khẩu mới, người chưa xuất
khẩu hàng hoá đó sang nước áp thuế trong thời gian trước đó; nhà xuất khẩu mới có thể
yêu cầu cơ quan điều tra tính mức thuế riêng cho mình, nhưng trong thời gian chưa có
quyết định về mức thuế riêng thì hàng hoá nhập khẩu của nhà xuất khẩu mới vẫn thực
hiện Quyết định áp thuế nói trên;
 Việc áp dụng hồi tố (áp dụng cho những lô hàng nhập khẩu trước thời điểm ban
hành Quyết định) chỉ được thực hiện nếu thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất nội địa là
thiệt hại thực tế.
2.3.7. Hồi tố
Quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá có hiệu lực hồi tố thực chất là truy thu thuế
đối với hàng nhập khẩu vào nước nhập khẩu trước thời điểm quyết định áp đặt thuế được

ban hành. Thuế chống bán phá giá cuối cùng có thể được thu trên những sản phẩm được
nhập vào để tiêu thụ trong vòng 90 ngày kể từ ngày áp dụng các biện pháp tạm thời nếu
cơ quan điều tra quyết định, với các sản phẩm bị phá giá, rằng:
Đã có một quá trình phá giá đã gây ra thiệt hại hoặc nhà xuất khẩu đã hoặc đáng lẽ
phải biết rằng nhà xuất khẩu tiến hành phá giá và rằng việc phá giá đó sẽ gây ra thiệt hại;
và thiệt hại bị gây ra bởi lượng hàng bị phá giá lớn trong một thời gian khá ngắn mà theo
thời gian mà lượng hàng nhập khẩu bị phá giá và các trường hợp khác (như việc kiểm kê
hàng hóa nhập khẩu) dường như gây ra những tác động tiêu cực phải áp dụng thuế chống
bán phá giá cuối cùng miễn là nhà nhập khẩu liên quan có cơ hội bày tỏ ý kiến.
3. Thực trạng bán phá giá và áp dụng thuế chống phá giá của Việt Nam.
Ngày nay, đứng trước thách thức về cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường nội
địa, các quốc gia đã tăng cường sử dụng các công cụ bảo hộ ngày càng tinh vi thông qua
các biện pháp bảo đảm thương mại công bằng của WTO, trong đó có thuế chống bán phá
giá. Các vụ kiện bán phá giá xảy ra trên thế giới ngày càng tăng về số lượng chủ thể tham
gia và ngày càng mở rộng phạm vi hàng hoá áp dụng. Theo số liệu của WTO, các nước
có số vụ kiện chống bán phá giá nhiều nhất là Mỹ và liên minh EU; các nước bị kiện
nhiều nhất đa phần ở các nước có nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Hàn
Quốc…trong đó có Việt Nam. Với nền nền kinh tế thị trường còn yếu, Việt Nam có rất ít
kinh nghiệm trong việc đương đầu với các vụ kiện phá giá và vận dụng cơ chế chống bán
phá giá. Thực trạng này đã khiến các doanh nghiệp Việt Nam gặp rất nhiều tổn hại về
quyền và lợi ích khi tham gia vào thương mại quốc tế.
3.1. Các vụ kiện bán phá giá đối với Việt Nam
Theo số liệu từ Hội đồng tư vấn các biện pháp phòng vệ thương mại quốc tế, tính đến
tháng 3/2006, Việt Nam đã phải đối phó với 21 vụ kiện chống bán phá giá, trong đó có 13
vụ Việt Nam phải chịu thuế chống bán phá giá. EU là nước khởi kiện Việt Nam nhiều
nhất (8 vụ) với mức thuế cao nhất lên đến 93% đối với mặt hàng Oxit kẽm. Đến cuối
12/2011, số vụ kiện đã lên tới 42, trong đó có nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực như thủy
sản đông lạnh, giày da, thép, nhựa… Nếu trong giai đoạn 1994-2001, Việt Nam chỉ chịu
1-2 vụ kiện/năm thì đến năm 2004 phải đối phó với 7 vụ kiện liên tiếp liên quan đến
nhiều mặt hàng công nghiệp xuất khẩu. Ở thời kỳ trước, các mặt hàng xuất khẩu của Việt

Nam bị áp dụng thuế chống bán phá giá chưa phải là những mặt hàng chiến lược, vì vậy
ảnh hưởng chưa lớn đến kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Nhưng từ vụ kiện cá tra, cá ba
sa năm 2002 đến nay có thể thấy không chỉ một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam mà cả những mặt hàng xuất khẩu có số lượng chưa lớn nhưng mới thâm nhập thị
trường đều có thể trở thành đối tượng của kiện bán phá giá do phương thức tính gộp tổng
lượng hàng hoá liên quan từ nhiều nguồn nhập khẩu (không được quá 7%) của nước khởi
kiện như: khoá Inox (EU) săm lốp xe đạp, xe máy (Thổ Nhĩ Kỳ), đèn huỳnh quang (Ai
Cập).
Vụ kiện bán phá giá của Mỹ đối với cá tra và cá ba-sa Việt Nam năm 2002 là một
trong những vụ kiện lớn nhất và điển hình nhất, gây thiệt hại nặng nề đối với các doanh
nghiệp xuất khẩu thủy sản. Từ năm 1996, Việt nam bắt đầu xuất khẩu cá tra, cá basa sang
Mỹ, đến năm 2001 thì sản lượng xuất khẩu đạt 9 triệu tấn, chiếm gần 2% tổng sản lượng
cá da trơn tại Mỹ. Vào tháng 6/2002, CFA (Hiệp hội các chủ trại cá da trơn Mỹ) và một
số các công ty chế biến tại Mỹ đệ đơn kiện yêu cầu mở điều tra chống bán phá giá cá da
trơn từ Việt nam với lý do là các mặt hàng này được nhập vào Mỹ dưới giá hợp lý, đe doạ
ngành sản xuất nội địa Mỹ và qua sự cạnh tranh bất chính này đã chiếm 20% thị trường
của Mỹ.
Tháng 7/ 2002, Bộ thương mại Mỹ (DOC) bắt đầu tiền hành các thủ tục điều tra và
tiến hành các giai đoạn công bố, tập hợp ý kiến các bên. Ngày 8 tháng 11 năm 2002,
DOC thông báo quyết định coi Việt nam là nước có nền kinh tế phi thị trường. Sau khi
phản đối không thành quyết định bất lợi này, Hiệp hội xuất khẩu và chế biến thủy sản
Việt Nam (VASEP) đề nghị DOC sử dụng Bangladesh là nước thứ ba để tính các chi phí
sản xuất, vì quốc gia này gần với Việt Nam về một số yếu tố như mức thu nhập quốc dân
tính theo đầu người và có các điều kiện nuôi cá nước ngọt tương tự.
Ngày 27/1/2003, DOC đưa ra phán quyết sơ bộ là các công ty Việt nam có hành vi bán
phá giá cá tra tại Mỹ và ấn định mức thuế chống phá giá từ 37.94% đến 61,88 % cho các
công ty này, và một mức chung 63,88% cho toàn Việt nam. Ngay sau đó, VASEP đã
phản đối và nêu lên những sai sót, bất hợp lý trong quyết định này. Tháng 3 năm 2003,
DOC đã quyết định sửa lại mức thuế chống bán phá giá áp dụng đối với các công ty tham
gia vụ kiện (chẳng hạn như từ 61,88% xuống 31,45% cho Agifish, từ 53,96% xuống

38,09% cho Navisfishco) và giữ nguyên mức 63,88% cho các công ty không tham gia.
Sau phán quyết cuối cùng này của DOC, kết quả của vụ kiện chỉ còn tuỳ thuộc vào phán
quyết của ITC về vấn đề thiệt hại hại. Ngày 24 tháng 7 năm 2003, ITC đưa ra phán quyết
cuối cùng, khẳng định các doanh nghiệp Việt nam đã bán với giá thấp hơn giá thành và
gây tổn hại cho ngành sản xuất của Mỹ, do đó ấn định mức thuế chống bán phá giá từ
36,84 đến 63,88%.
Rất nhiều doanh nghiệp Việt nam có liên quan đều phản đối về sự bất công trong vụ
kiện. Một điều rõ ràng là rất nhiều người, cả Việt nam và Mỹ, cho rằng phán quyết về vụ
cá tra và cá ba-sa là không công bằng, chỉ đem lại lợi ích cho một số công ty Mỹ và gây
thiệt hại cho những người nông dân nghèo vùng đồng bằng sông Cửu long. Tuy nhiên
việc tập trung vào khía cạnh công bằng hay không công bằng của vụ tranh chấp đòi hỏi
Việt nam phải xem xét một vấn đề lớn hơn, đó là: Liệu bằng cách nào Việt nam có thể
đối phó với những vụ kiện tương tự trong tương lai một cách hiệu quả nhất. Cần phải
thừa nhận một thực tế là sẽ tiếp tục có những vụ kiện chống bán phá giá và đây chưa phải
là vụ cuối cùng. Vụ kiện cá da trơn này chỉ là một trong số 276 vụ kiện chống bán phá
giá của thế giới năm 2002.
Hiện nay, theo cập nhật mới nhất từ chuyên gia pháp lý đến từ Hoa Kỳ cho thấy, nhiều
ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như: tôm đông lạnh, cá tra, da giày… đang
tiếp tục đối mặt với nguy cơ bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá. Mới nhất là việc
Hoa Kỳ áp đặt mức thuế chống phá giá gần 28% với các nhà xuất khẩu ống thép hàn
cácbon của Việt Nam trong tháng 5/2012.
3.2. Tình hình bán phá giá ở thị trường trong nước
Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng
thời đã và đang chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Sau khi gia nhập WTO,
Việt Nam có cơ hội phát triển, mở rộng thị trường tiêu thụ, tuy nhiên đó cũng là thách
thức khi hàng hóa các nước cũng sẽ thâm nhập vào thị trường trong nước, cạnh tranh với
ngành sản xuất nội địa. Các mặt hàng từ các quốc gia có nền kinh tế mạnh như Mỹ, Nhật,
EU, Hàn Quốc, Trung Quốc… chiếm thị phần ngày càng lớn, nhất là các mặt hàng công
nghệ, điện tử, máy móc. Sự cạnh tranh gay gắt này đã khiến các công ty tăng cường các
biện pháp cạnh tranh, cả lành mạnh và không lành mạnh, trong đó có biện pháp bán phá

giá.
Thực trạng này đặt ra vấn đề cần phải triển khai áp dụng thuế chống bán phá giá như
thế nào để đảm bảo được lợi ích cao nhất cho toàn xã hội. Rõ ràng là các doanh nghiệp
lớn có sức mạnh đáng kể nên có nhiều cơ hội hơn trong việc vận động các cơ quan có
thẩm quyền điều ta và áp dụng thuế chống bán phá giá cho các sản phẩm của họ. Nhưng
nước ta chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguồn lực kinh tế yếu, việc khiếu kiện
chống bán phá giá với các mặt hàng nhập khẩu gặp nhiều khó khăn. Do đó, cần có cơ chế
thực thi thích hợp để có thể bảo hộ được nhóm các nhà sản xuất này.
Hiện nay hệ thống pháp lý làm cơ sở áp dụng thuế chống bán phá giá ở nước ta còn ít,
quy định còn mập mờ, tính thực tiễn chưa cao. Từ khi phải đối mặt với các vụ kiện về
bán phá giá khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Việt nam đã bắt đầu cân nhắc xây
dựng và áp dụng thuế này. Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu số 04/1998/HQ 10 ngày 20/5/1998 đã cho phép áp dụng thuế bổ
sung đối với hàng nhập khẩu được bán phá giá vào Việt Nam. Quyết định của Thủ tướng
chính phủ số 46/2001/QĐ - TTg ngày 4/4/2001 về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hoá thời kỳ 2001 - 2005 cũng quy định việc xây dựng nguyên tắc áp dụng thuế chống bán
phá giá trong năm 2001. Tại kì họp quốc hội khóa XI, Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh
Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu, cùng với Nghị định 90/2005/NĐ-CP của Chính
phủ về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Chống bán phá giá hàng
hoá nhập khẩu vào Việt Nam. Tuy nhiên việc áp dụng các quy định này ở nước ta vẫn
còn rất hạn chế.
Trong bối cảnh nhiều ngành sản xuất hàng hoá đang hát triển khá nhanh, việc áp dụng
thuế chống bán phá giá là cần thiết để bảo hộ một số nhà sản xuất nhất định. Do đó, Việt
nam cần nhanh chóng xây dựng thêm và hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp lý về thuế
chống bán phá giá dựa trên Hiệp định tương ứng của WTO. Để có thể triển khai được
công cụ này trên thực tế, văn bản pháp lý cần phải có những quy định rất cụ thể về các cơ
quan thực thi, đặc biệt là các cơ quan điều tra phá giá và cơ quan đánh giá đặc biệt.
4. Giải pháp cho doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề bán phá giá.
4.1. Nhóm giải pháp nhằm tránh bị liên quan đến các vụ kiện bán phá giá.
4.1.1. Am hiểu “luật chơi”.

Thiếu am hiểu luật chơi quốc tế là một trong những điểm yếu của các doanh nghiệp
Việt Nam dẫn đến sự yếu thế trong các vụ kiện chống bán phá giá. Điều đáng lưu tâm là
phần lớn các doanh nghiệp trong các vụ kiện chống bán phá giá chỉ thực sự chú ý đến vấn
đề khi có sự cố xảy ra lúng túng, bị động trong cách chơi và dễ bị đối tác qua mặt, dẫn
đến thua thiệt trong cạnh tranh quốc tế. Điều này xuất phát từ việc các doanh nghiệp thiếu
thông tin về khi tiếp cận một thị trường mới và ngay cả những thị trường mà họ đã thâm
nhập từ trước. Nghiên cứu kỹ về những yếu tố và thông số thị trường và những quy định
về chống bán phá giá của thị trường mục tiêu giúp cho các doanh nghiệp xây dựng được
các chính sách thích hợp nhằm hạn chế tối đa các vụ kiện liên quan đến bán phá giá và
chủ động hơn khi bị kiện bán phá giá. Việc am hiểu thị trường, nắm rõ các điều kiện cạnh
tranh, các đối thủ cùng với những quy định về chống bán phá giá giúp doanh nghiệp nhận
biết được lợi thế cạnh tranh, điểm mạnh và điểm yếu của bản thân doanh nghiệp xuất
khẩu cũng như các đối thủ cạnh tranh, từ đó doanh nghiệp có thể thâm nhập thị trường
một cách hiệu quả hơn, đồng thời có thể xây dựng được một chính sách giá hợp lý – vừa
đảm bảo cạnh tranh được với các đối thủ vừa tránh được các vụ kiện. Về cơ bản một
chính sách giá hợp lý nhằm tránh liên quan đến các vụ kiện chống bán phá giá phải đáp
ứng một số tiêu chí: Đảm bảo sự thống nhất về mức giá giữa các thị trường xuất khẩu
khác nhau, giữa thị trường xuất khẩu và thị trường nội địa; Đảm bảo được tính cạnh tranh
của sản phẩm xuất khẩu trên cơ sở có cân nhắc đến mức giá hợp lý – trước khi hình thành
giá xuất khẩu, nhà xuất khẩu cần cân nhắc mức độ cạnh tranh của mức giá đó tại thị
trường nước nhập khẩu và khả năng thỏa mãn thị trường của mức giá đó và mức lợi
nhuận mà mức giá đó đem lại. Yếu tố thông tin là điểm mấu chốt đề các doanh nghiệp có
thể thực hiện được hai tiêu chí này. Bên cạnh đó, doanh nghiệp xuất khẩu cần chuẩn bị tư
thế sẵn sáng với nguy cơ bị kiện bán phá giá bằng việc chuẩn bị đầy đủ các tài liệu liên
quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh như số liệu về các chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp phục vụ cho hoạt động sản xuất, các chi phí về quản lý, chi phí tài chính và các
khoản chi phí chung khác, số liệu về giá cả các yếu tố đầu vào trên thế giới cũng như một
số quốc gia có khả năng được sử dụng lam thị trường thay thế cho Việt Nam,….
Nguyên nhân của tình trạng thiếu thông thi thiếu am hiểu luật chơi không chỉ đến từ
các doanh nghiệp, trách nhiệm không nhỏ đến từ các cơ quan quản lý Nhà nước. Các cơ

quan quản lý Nhà nước cần làm nhiều việc để giúp các doanh nghiệp có thể trang bị
những kiến thức cần thiết về những quy định chống bán phá giá trong thương mại quốc
tế, từ đó các doanh nghiệp có thể chủ động giảm thiểu những tiêu cực của việc chống bán
phá giá từ các nước khác:
Xây dựng một hệ thống thông tin về phá giá và chống bán phá giá.
Xây dựng cơ chế cảnh báo về kiện bán phá giá và chống bán phá giá, dự kiến
những mặt hàng có khả năng bị kiện phá giá.
Xây dựng các thức tận dụng hiệu quả các thủ tục điều tra trong khuôn khổ WTO
cũng như thủ tục điều tra của nước kiện phá giá.
Tích cực tham gia vào diễn đàn cùng với các nước đang phát triển để xây dựng
một cơ chế chống bán phá giá chặt chẽ hơn trong khuôn khổ WTO.
Tổ chức tìm hiểu các vụ kiện về chống bán phá giá của một số ngành và một số
quốc gia lựa chọn.
Chứng minh Việt Nam có nền kinh tế thị trường.
4.1.2. Đa dạng hóa sản phẩm và thị trường xuất khẩu
Giải pháp này nhằm giảm nguy cơ bị kiện bán phá giá và hạn chế những thiệt hại mà
thuế chống bán phá giá tạo ra. Khi một sản phẩm tại một thị trường nào đó bị áp dụng
thuế chống bán phá giá cao thì doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều khó khắn trong việc
cạnh tranh và thị trường gần như đóng cửa với sản phẩm của doanh nghiệp. Do đó, doanh
nghiệp có thể sẽ phải đối mặt với tình trạng khủng hoảng nếu quá lệ thuộc vào một thị
trường xuất khẩu và thiếu đa dạng trong sản phẩm xuất khẩu. Điều này đã được minh
chứng trong các vụ kiện bán phá giá trước đây các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt
khi xuất khẩu sản phẩm vào thị trường Mỹ.
4.2. Giải pháp cần tiến hành khi bị kiện bán phá giá.
Luật chống bán phá giá thực chất cũng chỉ là một công cụ để bảo hộ nền sản xuất của
nước nhập khẩu, vì vậy, việc giành phần thắng trong một vụ kiện bán phá giá là rất khó
khăn đối với nhà xuất khẩu. Nhưng khó khăn không có nghĩa là không có hy vọng bởi
thực tế vẫn có những vụ kiện mà phần thắng thuộc về bên bị đơn. Điều quan trọng là các
nhà xuất khẩu cần phải nắm được quy trình thủ tục cũng như cách thức theo hầu một vụ
kiện bán phá giá. Và sau đây là một số kiến nghị, giải pháp có thể giúp nhà xuất khẩu

giành phần thắng về mình.
Thứ nhất, một điểm hết sức quan trọng là cần tận dụng mọi cơ hội để giành phần thắng
ngay từ đâu. Chính vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu cần phải có thái độ quan điểm
đúng khi bị kiện bán phá giá – phải coi hiện tượng bị kiện bán phá giá ở nước nhập khẩu
là bình thường. Khi bị khởi kiện, doanh nghiệp phải chủ động, tích cực ngay từ đầu đối
phó với vụ kiện.
Thứ hai, doanh nghiệp tích cự tham gia “hầu kiện”; trả lời đầy đủ các câu hỏi, nộp
đúng thời hạn, hợp tác với các nhóm nhân viên điều tra đến từ nước nhập khẩu. Hoàn
thiện hệ thống sổ sách chứng từ kế toán phù hợp với các quy định của pháp luật và chuẩn
mực quốc tế, lưu trữ đầy đủ hồ sơ về tình hình kinh doanh nhằm chuẩn bị sẵn sàng các
chứng cứ, các lập luận chứng minh không bán phá giá của doanh nghiệp, tổ chức nhân
sự, dụ trù kinh phí, xây dựng các phương án bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp…
Thứ ba, tạo ra mối liên kết với các hiệp hội ngành để vận động hành lang nhằm lôi kéo
những đối tượng có cũng quyền lợi ở nước khởi kiện ủng hộ mình. Trong một số vụ kiện
thực tế đã chứng minh, các doanh nghiệp xuất khẩu thành công trong việc lôi kéo các nhà
nhập khẩu, nhà phân phối hàng nhập khẩu…tham gia cùng “trận tuyến” với mình để đối
phó với các vụ kiện chống bán phá giá, đã mang lại nhiều kết quả khả quan. Ngược lại
trong rất nhiều vụ kiện, các nhà xuất khẩu quyết định đơn độc đối chọi lại bên nguyên
đơn và cuối cùng kết quả không được tốt đẹp. Bởi vì, nhà xuất khẩu nước ngoài có thể
nắm rõ các số liệu của họ, nhưng họ không nắm vững tình hình thực tế tại thị trường
nước nhập khẩu. Do đó, nhà nhập khẩu là người duy nhất có thể biện hộ một cách hiệu
quả chống lại sự tố cáo của bên nguyên đơn bằng việc chứng minh: Hành vi bán dưới
mức hợp lý có thể gây thiệt hại cho ngành sản xuất ở nước nhập khẩu.
Thứ tư, chủ động thương lượng với chính phủ của nước khởi kiện thực hiện cam kết
giá nếu doanh nghiệp thực sự có hành vi phá giá, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp cùng
ngành hàng của nước nhập khẩu. Cam kết giá là việc nhà sản xuất, xuất khẩu cam kết sửa
đổi mức giá bán hoặc cam kết ngừng xuất khẩu với giá bị coi là bán phá giá hàng
hóa.Cam kết giá có ưu điểm là nhanh chóng hơn và ít tốn kém hơn so với việc phải hoàn
tất cuộc điều tra của cơ quan điều tra về bán phá giá.
Thứ năm, một vấn đề của các nhà xuất khẩu Việt Nam, đó là do sự eo hẹp về tài chính

nên các nhà xuất khẩu thường thuê các luật sư với mức thù lao thấp. Khi đó có thể dẫn
đến các luật sư sẽ không thể chú tâm vào vụ kiện mà có thể quan tâm đến các vụ kiện
khác có mức thù lao cao hơn. Việc trả một mức thù lao hợp lý có thể tạo điều kiện để các
luật sư có cơ hội tìm kiếm được những bằng chứng có lợi và khả năng thắng kiện sẽ cao
hơn.
Ngoài ra, vai trò của các cơ quan truyền thông đại chúng cũng rất quan trọng trong
việc đăng tải nguy cơ vụ kiện, hậu quả dự kiến của vụ kiện…nhằm tạp dư luận thuận lợi,
gây sức ép nhất định đến các cơ quan “xử kiện” ở nước nguyên đơn, và tạo sự chú ý của
Chính phủ, của các cấp có thẩm quyền tăng cường sự hỗ trợ các doanh nghiệp đối phó
với các vụ kiện.
















KẾT LUẬN






Việt Nam của chúng ta đang trên đà hội nhập với nền kinh tế thế giới. Ngoại thương
mở cửa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam đưa những hàng hóa của mình đến
các thị trường lớn như Mỹ, Châu Âu, Canada…; đồng thời cũng có nhiều hàng hóa của
các nước bạn được nhập khẩu vào Việt Nam. Và hiện tượng bán phá giá cũng đang diễn
ra ngày một gia tăng, gây trở ngại cho việc xuất khẩu hàng hóa cũng như gây nhiều tổn
thất cho các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và nền kinh tế của cả nước nói chung. Vì
vậy, Chính phủ, Bộ và các cơ quan ban ngành có liên quan cần phải có những chính sách
cụ thể để đối phó với tình trạng hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam bị kiện bán phá giá và
hàng hóa nhập khẩu bán phá giá trên thị thường trong nước.
Bên cạnh đó, cần tổ chức, tuyên truyền cho các doanh nghiệp có những hiểu biết nhất
định về quyền của họ đối với việc tiến hành điều tra áp dụng thuế chống bán phá giá,
nghĩ vụ tham gia của họ trong tiến trình điều tra,…. Các doanh nghiệp cũng cần biết rõ
nguy cơ hàng xuất khẩu của họ cũng bị nước nhập khẩu áp dụng thuế chống bán phá giá.
Vì vậy, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu một loại mặt hàng nên hợp tác với nhau
dưới hình thức hiệp hội để thường xuyên trao đổi thông tin, tìm hiểu biện pháp đối phó
khi mặt hàng mình xuất khẩu bị nước ngoài điều tra phá giá, đồng thời các doanh nghiệp
cũng cần hợp tác chặt chẽ với Chính phủ để tiến hành những vận động cần thiết khi hàng
xuất khẩu của Việt Nam có nguy cơ bị điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá.
Do nguồn nhân lực có hạn, thời gian thực hiện đề tài hạn hẹp và phạm vi của bài tiểu
luận không cho phép nên nhóm chỉ xin được giới thiệu những kiến thức sơ lược về vấn đề
bán pháp giá. Và vẫn còn nhiều kiến thức liên quan khác mà chưa được nhóm đề cập đến
cũng như nhiều vấn đề khác mà nhóm chưa đào sâu được như phân tích những thành tựu
và hạn chế cần khắc phụ của Việt Nam đối với vấn đề bán phá giá. Hy vọng, cô và các
bạn bỏ qua và có thể tiếp tục nghiên cứu, đào sâu những vấn đề nhóm còn bỏ dở.





×