Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

TL LSĐ đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (9 1945 12 1946)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.3 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Cách mạng tháng Tám thành cơng, nước ta đã phá tan xiềng xích nô lệ
của chủ nghĩa đế quốc trong gần một thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ
quân chủ chuyên chế hơn 1000 năm, lập nên nước Việt Nam dân chủ Cộng
hòa- nhà nước của nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Đảng Cộng sản Việt
Nam từ chỗ phải hoạt động bí mật và bất hợp pháp trở thành một Đảng cầm
quyền hoạt động công khai, giải quyết thành công vấn đề cơ bản của một
cuộc cách mạng xã hội, đó là vấn đề chính quyền. Với thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ bước lên làm người
chủ đất nước, có quyền quyết định vận mệnh của mình. Nước Việt Nam trở
thành một quốc gia độc lập có chủ quyền, vươn lên cùng các dân tộc trên thế
giới đấu tảnh cho các mục tiêu cao cả của thời đại hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ. Thắng lợi của cách mạng tháng tám mở ra một kỷ nguyên
mới trong tiến trình lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do và hướng tới chủ
nghĩa xã hội.
Cách mạng tháng Tám không chỉ là một cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc Việt Nam mà cịn là chiến cơng chung của các dân tộc thuộc địa đang
đấu tranh vì độc lập, tự do, vì thế nó cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới. Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của đường lối giải
phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo của Đảng và tư tưởng độc lập tự do của
Hồ Chí Minh. Góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc.
Tuy đã giành được độc lập nhưng nước ta lại phải đối mặt với mn
vàn khó khăn làm nước ta đứng trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Những
chính sách áp bức bọc lột của thực dân Pháp để lại hậu quả vơ cùng nặng nề,
sản xuất trì trệ, hàng hóa khan hiếm, đắt đỏ, đời sống nhân dân vô cùng khó
khăn. Hàng loạt nguy cơ, thách thức đó là “giặc đói”, “giặc dốt” và “giặc
1



ngoại xâm”.Chính quyền non trẻ có nguy cơ bị lật đổ, nền độc lập dân tộc vừa
giành được có nguy cơ bị mất. Trong tình hình đó, Đảng ta và chủ tịch Hồ
Chí Minh đã có những quyết sách kịp thời đúng đắn, sáng suốt và linh hoạt
ứng phó với những thách thức đe dọa sự tồn vong của nước ta, những biện
pháp cực kỳ sáng suốt mà Đảng ta đề ra trong thời kỳ này đã cho thấy sự lãnh
đạo tài ba của Đảng ta.
Việc xây dựng chính quyền đối với một chính quyền non trẻ như nước
ta lúc bấy giờ là điều vô cùng quan trọng nhưng việc bảo vệ chính quyền
cũng quan trọng khơng kém cho nên xây dựng chính quyền phải đi đơi với
bảo vệ chính quyền, dựng nước phải đi đôi với giữ nước, xây dựng chủ nghĩa
xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cách mạng tháng tám
thành công, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm giải quyết vấn đề gốc rễ là xây
dựng thực lực mạnh, trước hết là xây dựng chính quyền mạnh.
Chính quyền cách mạng cịn non trẻ, nhiều khó khăn thách thức ở cả
trong và ngồi nước nhưng đến cùng thì nước ra vẫn hoàn toàn thống nhất,
giữ được nền độc lập mà Đảng và nhân dân ta đã mất bao mồ hôi sương máu
mớii có được. Muốn làm được điều đó trước tiên phải có sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngay từ khi nước ta vừa mới bắt đầu bước vào kỷ nguyên độc tự do, so
với trước đây tình hình trong nước và thế giới có nhiều thay đổi, vai trị lãnh
đạo của Đảng vẫn là nhân tố quan trọng hàng đầu, lãnh đạo nhân dân, phát
huy những mặt tiêu cực và hạn chế những mặt tiêu cực của tình hình đưa cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, để lại cho các thế hệ
sau nhiều bài học quý giá trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong
thời kỳ sau này, và là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện tốt vai trị
của mình trong tình hình mới. Sự lãnh đạo của Đản trong thời kỳ này đã giúp
nước ta bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng, xây dựng nền móng

2



vững chắc cho nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, chuẩn bị điều kiện cần thiết
cho cuộc kháng chiến lâu dài của nước ta.
Vai trò lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ này đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, để lại cho thế hệ sau nhiều bài học vô cùng quý giá. Cho đến nay,
mặc dù đã qua hơn 75 năm nhưng đó vẫn là những kinh nghiệm quý báu cho
Đảng ta tiếp tục xây dựng và bảo vệ chính quyền, bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, tác giả chọn “Đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ
chính quyền cách mạng (9/1945- 12/1946)” làm đề tài cho tiểu luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu, phân tích, chứng minh các đường lối, chính
sách, chủ trương và vai trị của Đảng trong cơng cuộc lãnh đạo xây dựng và
bảo vệ chính quyền cách mạng (9/1945- 12/1946).
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được mục đích đề ra, đề tài tập trung giải quyết những vấn đề
sau:
- Khái qt những nét chính về tình hình nước ta sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945
- Phân tích, chứng minh vai trò của Đảng trong việc lãnh đạo xây dựng
và bảo vệ chính quyền cách mạng (9/1945- 12/1946)
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu, tìm hiểu về các đường lối, chủ trương của Đảng ta trong
lãnh đạo xây và bảo vệ chính quyền cách mạng (9/1945- 12/1946).
3.2. Phạm vi nghiên cứu.

3



Tiểu luận tập trung nghiên cứu về các đường lối, chính sách cuả Đảng
trong xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng từ khi giành được độc lập
đến hết năm 1946.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
4.1. Cơ sở lý luận.
Đề tài nghiên cứu được triển khai trên nền tảng của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những đường lối, quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu.
- Về phương pháp luận: trong quá trình nghiên cứu, đề tài tuân thủ các
nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để
xem xét, đánh giá, nhìn nhận vấn đề, sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn.
- Về phương pháp ngiên cứu cụ thể, sử dụng tổng hợp các phương
pháp: phương pháp logic- lịch sử giúp tìm hiểu rõ bản chất sự kiện, hiện
tượng, phương pháp phân tích tài liệu giúp đối chiếu, chọn lọc, chỉnh lý chính
xác các tài liệu có liên quan, các tiêu chí cụ thể một cách khoa học, chính xác,
khách quan; phương pháp thống kê; phương pháp đánh giá, so sánh; phương
pháp phân tích và tổng hợp.
5. Kết cấu của tiểu luận.
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì đề tài
gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về tình hình nước ta sau khi giành được độc lập
(9/1945-12/1946)
Chương 2: Xây dựng chế độ mới và chính quyền cách mạng.

4


Chương 3: Tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở
Nam Bộ, đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ.


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH NƯỚC TA SAU KHI
GIÀNH ĐƯỢC ĐỘC LẬP (9/1945-12/1946)
1.1.Tình hình thế giới:
Cục diện thế giới cũng đang có những sự thay đổi lớn. Sau khi giải
phóng khỏi chủ nghĩa phát xít, một số nước ở Đơng Âu được sự ủng hộ và
giúp đỡ của Liên Xô đã lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội
và sau đó phe xã hội chủ nghĩa dần hình thành do Liên Xô làm trụ cột và trở
thành hệ thống đối trọng với phe tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu.
Chiến tranh thế giới lần thứ I kết thúc, chủ nghĩa nghĩa phát xít thế giới
bị tiêu diệt, chủ nghĩa đế quốc suy yếu, đã tạo điều kiện cho phong trào cộng
sản, phong trào công nhân và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế
giới phát triển mạnh mẽ chống lại đế quốc và thực dân giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa ở khắp các nước châu Á, Châu Phi và cả Mỹ Latinh dâng
cao. Ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, sự thảm bại của phát xít Nhật và
các thế lực tay sai đã tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa, phụ thuộc, trong đó Việt Nam là
một nước tiên phong.
Tuy nhiên trong thời kỳ này tình hình thế giới cũng có nhiều bất lợi đối
với nước ta: chủ nghĩa tư bản, đứng đầu là Mỹ tiến hành cuộc “chiến tranh
lạnh” chống lại Liên Xô và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, tiến
hành bao vây, cấm vận, với Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa, chống lại
5


các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới, các nước tư bản thắng
trận trong Chiến Tranh thế giới thứ II bắt đầu công cuộc phân chia lại thuộc
địa sau chiến tranh.
1.2. Tình hình trong nước:
Thuận lợi cơ bản và lâu dài là Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự

do; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ, bị áp bức trở thành chủ nhân của
đất nước, của chế độ mới; Đảng Cộng sản trở thành chính Đảng, Đảng cầm
quyền lãnh đạo phong trào cách mạng trong cả nước. Hệ thống chính quyền
cách mạng thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ sở trong toàn quốc với
những phẩm chất chính trị hồn tồn mới; cơ cấu tổ chức bộ máy, mục đích
hoạt động gắn liền với lợi ích của nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân,...
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa được thành lập, đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng niềm tin, sức mạnh của nhân dân
cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh với uy tín đạo đức, trí tuệ và tài năng của
mình đã trở thành trung tâm đại đoàn kết toàn dân tộc, là biểu tượng của nền
độc lập, tự do của Việt Nam. Mặt trận Việt Minh được củng cố, sự phát triển
nhanh của Quân đội quốc gia Việt Nam, việc thống nhất lực lượng Cơng an
trong tồn quốc, thành lập các tịa án quân sự và xây dựng các tổ chức bán vũ
trang khác... trở thành cơng cụ chun chính tin cậy, sắc bén để bảo vệ Đảng,
bảo vệ chính quyền cách mạng.
Đặc điểm tình hình trên đã đặt ra cho cách mạng Việt Nam trong năm
đầu giành chính quyền nhanh chóng ổn định tình hình chính trị, xã hội, xây
dựng, củng cố đất nước về mọi mặt trong đó củng cố chính quyền cách mạnh
là nhiệm vụ quan trọng.
Cùng với những thuận lợi đó, nước ta cũng gặp mn vàn khó khăn:
khi Chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc cũng là lúc các nước lớn, phe đế
quốc chủ nghĩa bộc lộ rõ âm mưu mới trong việc “chia lại hệ thống thuộc địa
thế giới”, bắt tay, dàn xếp với nhau, một mặt tìm cách liên kết phục hồi chủ
6


nghĩa thực dân, duy trì ảnh hưởng và sự thống trị của mình đối với các nước
thuộc địa, phụ thuộc, một mặt khác các nước thực dân đế quốc ra sức tấn
công, đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong đó có cách mạng Việt
Nam. Mặc dù Việt Minh có được những mối quan hệ tốt đẹp với nước Mỹ và

Đồng minh chống phát xít từ trước năm 1945, nhưng sau khi Việt Nam giành
được chính quyền từ tháng 8-1945, vì lợi ích của mình và phe đế quốc, các
nước đồng minh chống phát xít, nhất là Mỹ lại không ủng hộ nền độc lập của
Việt Nam mới giành được. Khơng có nước nào cơng nhận địa vị pháp lý của
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quan hệ của Đảng Cộng sản Đông
Dương với các Đảng Cộng sản của các nước trên thế giới, với phong trào giải
phóng dân tộc cũng gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Việt Nam bị bao vây cách
biệt với thế giới bên ngoài. Ở các nước láng giềng và trong khu vực Đông
Nam Á, lực lượng yêu nước, cách mạng cũng gặp nhiều khó khăn, trở lực lớn
do sự hành xử thiếu thiện chí, dã tâm xâm lược của các thế lực hiếu chiến,
phản động cầm quyền ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây, nhất là thái
độ của Chính phủ Mỹ, Anh, Pháp, Trung Hoa Dân quốc (Tưởng Giới Thạch)
đối với vấn đề Việt Nam và Đông Dương. Cục diện thế giới đang thay đổi
nhanh chóng, diễn biến phức tạp, có những tác động bất lợi đối với cách
mạng 3 nước Đơng Dương và cách mạng Việt Nam nói riêng.
Nước ta gặp phải rất nhièu khó khăn cần phải được khắc phục ngay. Hệ
thống chính quyền cách mạng cịn rất non trẻ, thiếu thốn, yếu kém về nhiều
mặt; ảnh hưởng, hậu quả chiến tranh rất nặng nề, sự tàn phá của nạn lũ lụt
hạn hán và chính sách cai trị của Nhật Pháp gây ra nạn đói năm 1945 rất
nghiêm trọng, 2 triệu người dân Việt Nam chết đói cuối năm 1944 đầu năm
1945 diễn ra ở 32 tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ. Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa tiếp quản một nền kinh tế xơ xác, tiêu điều sau chiến tranh,
công thương nghiệp định đốn, nhiều nhà máy xí nghiệp ngưng trệ hàng hóa
khan hiếm, đắt đỏ, nơng nghiệp bị hoang hóa tới 50 % ruộng đất không thể
cày cấy, ruộng đất phần lớn nằm trong tay của địa chủ, nơng dân khơng có
7


ruộng đất để sản xuất nông nghiệp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn;
nền tài chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng chỉ còn 1,2 triệu đồng,

Ngân hàng Đông Dương lại đang nằm trong tay tư bản nước ngoài.
Các tiêu cực xã hội tràn lan, các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, thói hư,
tật xấu, tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại rất to lớn, rượu chè cờ bạc, thuốc
phiện, nhất là 95 % dân số thất học, mù chữ. Nhưng trở ngại, thách thức lớn
nhất, nghiêm trọng nhất đối với cách mạng Việt Nam lúc này là âm mưu và
hành động xâm lược của chủ nghĩa để quốc Pháp muốn quay trở lại thống trị
Việt Nam một lần nữa.
Từ tháng 9-1945, theo thỏa thuận của phe Đồng minh, 2 vạn quân đội
Anh- Ấn đổ bộ vào Sài Gòn để giải giáp quân đội Nhật thua trận ở Nam Việt
Nam; đội quân thực dân Pháp theo chân quân đội Anh quay trở lại xâm lược
Nam Bộ. Với sự thỏa thuận lợi ích của phe đế quốc, quân đội Anh đã trực tiếp
bảo trợ và sử dụng đội quân Nhật giúp đội quân xâm lược của thực dân Pháp
ngang nhiên nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn Chợ Lớn ( Nam Bộ ) vào
rạng sáng ngày 23-9-1945, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ 2 của
thực dân Pháp ở Việt Nam.
Ở Bắc vĩ tuyến 16, theo thỏa thuận Hiệp ước Potsdam ( Đức ), từ cuối
tháng 8/ 1945, hơn 20 vạn quân của Tưởng Giới Thạch được lệnh của Mỹ
tràn qua biên giới kéo vào Việt Nam dưới sự bảo trợ và ủng hộ của phe đế
quốc, đứng đầu là Mỹ với danh nghĩa quân đội Đồng minh vào giải giáp quân
đội Nhật thua trận ở Bắc Việt Nam. Đội quân Tưởng vào Việt Nam kéo theo
lũ tay sai hùng hậu, với âm mưu vô cùng nguy hiểm, thâm độc “ diệt Cộng,
cầm Hồ, phá Việt Minh ” - tiêu diệt cộng sản, bắt giam Hồ Chí Minh, phá tan
Mặt trận Việt Minh. Trên đất nước Việt Nam lúc này cịn có 6 vạn qn đội
Nhật thua trận đang chờ giải giáp. Nền độc lập non trẻ của Việt Nam phải
đương đầu với sự hiện diện của đội quân nước ngồi đơng đúc chưa từng có
với khoảng hơn 30 vạn tên. Cách mạng Việt Nam cịn phải đối phó với sự
8


xuất hiện của các đảng phái chính trị phản động, các thế lực tay sai ăn theo

đội quân xâm lược của ngoại bang, các thế lực chống đối trong giai cấp bóc
lột cũ, các đối tượng phản cách mạng cũ, các loại tội phạm hình sự đồng loạt
ngóc đầu dậy chống phá cách mạng rất quyết liệt.
Chính quyền non trẻ lúc và nhân dân Việt Nam này phải đối phó với
nhiều loại kẻ thủ cả trong và ngoài nước, nền độc lập, tự do của Tổ quốc bị đe
dọa nghiêm trọng, vận mệnh chính quyền cách mạng “ như ngàn cân treo sợi
tóc ”. Đảng Cộng sản cầm quyền, Chính phủ Việt Nam đang phải đối mặt với
những thách thức hết sức to lớn, nghiêm trọng và những biến động phức tạp
khơn lường.
Lúc này nhiệm vụ đặt ra cho tồn Đảng và toàn dân ta là “vừa kháng
chiến,vừa kiến quốc”, đưa ra đường lối kháng chiến đúng đắn, phù hợp với
điều kiện hoàn cảnh của đất nước lúc bấy giờ, lãnh đạo đưa cuộckháng chiến
đi đến thắng lợi. Đây là nhiệm vụ quan trọng và rất khó khăn, địi hỏi phải có
sự nỗ lực cao độ trong chủ trương, xây dựng Đảng vững chắc về mọi mặt,
mọi phương diện, đủ sức, đủ tầm lãnh đạo các cuộc kháng chiến đi đến thắng
lợi.

9


CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ MỚI VÀ CHÍNH QUYỀN CÁCH
MẠNG
2.1. Chỉ thị “kháng chiến, kiến quốc”.
Sau khi tuyên bố độc lập, ngày 3-9-1945, Chính phủ lâm thời họp
phiên đầu tiên dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những
nhiệm vụ cấp bách của chính quyền cách mạng và xác định nhiệm vụ lớn là :
diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm.
Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra “ Chỉ thị kháng
chiến, kiến quốc ”, nhằm định hướng con đường đi lên của cách mạng Việt
Nam sau khi giành được chính quyền. Chỉ thị kháng chiến, kiến quốc là văn

kiện quan trọng của Đảng ở giai đoạn này, vạch ra con đường đi lên cho cách
mạng Việt Nam, đặt dấu ấn đầu tiên về tư duy chính trị của Đảng cầm quyền.
Chỉ thị phân tích sâu sắc sự biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, nhất
là tình hình Nam Bộ và xác định rõ kẻ thù chính lúc này là thực dân Pháp, nêu
rõ mục tiêu của cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là “ dân tộc giải
phóng”. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hồn thành, vì nước ta
chưa được hồn toàn độc lập và đề ra khẩu hiệu “ Dân tộc trên hết, Tổ quốc
trên hết ”; mọi hành động phải tập trung vào nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt là
củng cố chính quyền cải thiện đời sống nhân dân và kiên quyết giành độc lập,
tự do, hạnh phúc cho dân tộc. Về phương hướng nhiệm vụ, giải pháp lớn của
cách mạng Việt Nam lúc này được Đảng Xác định là phải tăng cường mặt
trận dân tộc thống nhất, đoàn kết, kiên quyết chống thực dân Pháp xâm lược;
tăng cường các mặt cơng tác chính trị, qn sự, kinh tế, ngoại giao...
Bốn nhiệm vụ cấp bách chủ yếu lúc này là: củng cố chính quyền, chống
thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. Chỉ thị
cũng đã đề ra nhiều biện pháp cụ thể phục vụ nhiệm vụ chính trị trước mắt và
giải quyết những khó khăn, phức tạp hiện thời của cách mạng Việt Nam,
trong đó có việc xúc tiến bầu cử Quốc hội để đi đến thành lập Chính phủ
10


chính thức, lập ra Hiến pháp, động viên lực lượng tồn dân kiên trì kháng
chiến tổ chức và lãnh đạo chuẩn bị kháng chiến lâu dài; kiên định nguyên tắc
độc lập và chính trị, thực hiện chế độ dân chủ cộng hòa, về ngoại giao phải
đặc biệt chú ý “làm cho nước mình ít kẻ thủ và nhiều bạn đồng minh hơn
hết”, đối với Tàu chủ trương “Hoa - Việt thân thiện”, đối với Pháp độc lập về
chính trị, nhân nhượng về kinh tế”. Những quan điểm chỉ đạo và chủ trương
được Đảng nêu ra trong bản Chỉ thị kháng chiến kiến quốc đã đáp ứng kịp
thời yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, có tác dụng định
hướng tư tưởng, trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở

Nam Bộ; đấu tranh xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, vừa kháng
chiến vừa kiến quốc của nhân dân trong giai đoạn đầy khó khăn, phức tạp
này.
Đảng đã lãnh đạo tồn dân kiên quyết chống thực dân Pháp quay trở lại
xâm lược ở Nam Bộ; củng cố, xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng về
mọi mặt, ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, bước đầu xây dựng đời sống
mới; đối phó có hiệu quả với các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam
của các thế lực giặc ngồi, thù trong bảo vệ vững chắc hệ chính quyền cách
mạng non trẻ...
Thực hiện chủ trương chiến lược của Đảng “vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc”, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ đã đề
ra và chỉ đạo hệ thống chính quyền trong tồn quốc tích cực triển khai những
nhiệm vụ lớn, cấp bách về kinh tế - xã hội, là : chống giặc đói, chống giặc
dốt, xây dựng đời sống mới, củng cố, tăng cường xây dựng bộ máy chính
quyền dân chủ nhân dân...
Chỉ thị “kháng chiến kiến quốc” có ý nghĩa hết sức quan trọng: xác
định kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm lược; chỉ ra
những vấn đề cơ bản về chiến lược, sách lược cách mạng; đề ra những biện

11


pháp cụ theer trong đốinội,đối ngoại, khắc phục nạn đói, nạn dốt, chống giặc
ngoại xâm,..
2.2. Về chính trị:
Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, về
vấn đề nhà nước Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “trước chúng ta đã bị chế độ
quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chun
chế, nên nước ta khơng có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền
tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tơi đề nghị Chính

phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu
phiếu. Tát cả cơng dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử,
không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống,.v.v.”
Để bảo vệ thành quả cách mạng, ngày 13/09/1945 Chủ tịch Hồ Chí
Minh ban hành sắc lệnh 33C thiết lập các Tòa án quân sự; sắc lệnh 33A về
việc cho phép ty liêm phóng bắt những người nguy hiểm cho chế độ dân chủ
cộng hòa Việt Nam để đưa đi an trí; sắc lệnh 33B quy định thể lệ cho Ty liêm
phóng và sở cảnh sát phải tuân theo mỗi khi bắt người.
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương phải tiến hành ngay một
cuộc bầu cử tồn quốc theo hình thức phổ thơng đầu phiếu để bầu ra Quốc hội
và thành lập Chính phủ chính thức. Ngày 6-1-1946, tồn dân Việt Nam nơ
nức tham gia cuộc bầu cử, có hơn 89 % số cử tri đã đi bỏ phiếu dân chủ lần
đầu tiên, đồng bào Nam Bộ và một số nơi đi bỏ phiếu dưới làn đạn của giặc
Pháp. Cuộc bầu cử thành công rực rỡ đã bầu ra Quốc hội đầu tiên của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm 333 đại biểu Quốc hội khóa I đã họp
phiên đầu tiên tại Nhà hát lớn Hà Nội vào ngày 2-3-1946 và lập ra Chính phủ
chính thức, gồm 10 bộ và kiện tồn nhân sự bộ máy Chính phủ do Hồ Chí
Minh làm Chủ tịch; tạm thời quyết định Quốc kỳ, Quốc ca của Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hịa. Quốc hội nhất trí bầu Ban Thường trực quốc hội do
cụ Nguyễn Văn Tố làm Trưởng ban. Đồng thời các địa phương cũng tiến
12


hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và kiện tồn Ủy ban hành chính các
cấp. Quốc hội cũng thành lập ra Ban soạn thảo bản Hiến pháp mới và tại kỳ
họp thứ 2 (9-11-1946), Quốc hội đã thông qua và ban hành bản Hiến pháp đầu
tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa.
Bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương và các cơ quan tư
pháp được thiết lập và tăng cường. Đảng quan tâm xây dựng bộ máy chính
quyền mới dân chủ, trong sạch luôn đi đối với chấn chỉnh, sửa chữa, khắc

phục các khuyết điểm trong bộ máy chính quyền nhà nước.
2.3. Về kinh tế
2.3.1.Giải quyết nạn đói:
Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói được xác định là một nhiệm vụ lớn,
quan trọng cấp bách lúc bấy giờ Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh
tập trung chỉ đạo, động viên, tập hợp đông đảo nhất mọi tầng lớp nhân dân
tham gia với các phong trào lớn, các cuộc vận động lớn trong toàn quốc được
phát động như: tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, lập hũ gạo tiết kiệm,
thực hiện phong trào tiết kiệm: “ngày đồng tâm”, “nhường cơm sẻ áo”, “một
nắm khi đói bằng một gói khi no”; nhiệm vụ quan trọng nhất cần được tập
trung thực hiện để giải quyết nạn đói là tăng gia sản xuất. Bãi bỏ thuế thân và
nhiều thứ thuế vô lý của chế độ cũ, thực hiện chính sách giảm tơ 25%. Sản
xuất nơng nghiệp có bước khởi sắc rõ rệt, khuyến khích việc sửa chữa đê
điều, tổ chức khuyến nông, tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian, đất
hoang hóa chia cho nông dân nghèo, phắt triển nông nghiệp; sản lượng lương
thực tăng lên rõ rệt, nhất là diện tích và số lượng hoa màu. Một số nhà máy,
công xưởng, hầm mỏ được Chính phủ khuyến khích tự nhân đầu tư khơi phục
hoạt động trở lại. Nhờ đó, đầu năm 1946 nạn đói cơ bản được đẩy lùi, đời
sống, nhân dân được ổn định, tinh thần dân tộc được phát huy cao độ, góp
phần động viên kháng chiến ở Nam Bộ.
2.3.2. Giải quyết khó khăn về tài chính.
13


Vận động nhân dân quyên góp tiền, vàng cho cách mạng, vận động
nhân dân tham gia đóng góp vào “tuần lễ vàng”, xây dựng “quỹ độc lập”. Kết
quả thu được khoảng 370 kg vàng. Việc xây dựng “tuần lễ vàng”, “quỹ độc
lập” đã giúp nước ta vượt qua tình trạng khó khăn về tài chính lúc bấy giờ,
ngân khố quốc gia được khôi phục lại, cho thấy công tác dân vận có hiệu quả
của Đảng ta, đồng thời thấy được sức mạnh của toàn thể nhân dân, sự đoàn

kết của dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước của nhân dân ta.
Ngày 23/11/1946, quốc hội cho lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước,
phát hành đồng giấy bạc Việt Nam.
2.4. Về văn hóa, giáo dục
Nhà nước chăm lo việc phát triển giáo dục, nhiệm vụ cấp bách là diệt
giặc dốt, xóa nạn mù chữ. Thư gửi học sinh nhân ngày khai trường tháng
9/1945 của chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tư tưởng chiến lược phát triển giáo
dục và ý nghĩa của chiến lược ấy đối với sự phát triển của đất nước. Nhà nước
chú trọng xây dựng đời sống mới, khắc phục những hậu quả của chế độ thực
dân, phong kiến, quan tâm đến việc cải thiện đời vật chất và tinh thần của
nhân dân.
Chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm
đặc biệt, coi đó là một “giải pháp quan trọng ” để xây dựng hệ thống chính
quyền cách mạng, phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh chủ trương phát động phong trào “Bình dân học vụ ”, tích cực
bài trừ nạn mù chữ, tồn dân học chữ Quốc ngữ để từng bước xóa bỏ nạn dốt;
vận động toàn dân xây dựng đời sống mới, nền văn hóa mới để đẩy lùi các tệ
nạn, hủ tục, thói quen cũ, lạc hậu cản trở tiến bộ. Các trường học từ cấp tiểu
học trở lên lần lượt khai giảng năm học mới; mở đại học và trung học mới,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 45 / SL, ngày 10/10/1945, thành lập
thêm Trường Đại học Văn khoa Hà Nội. Cải cách việc học theo tinh thần mới,
bài trừ cách dạy học nhồi nhét, cổ động văn hóa cứu quốc. Cơng tác giáo dục,
14


đào tạo đại học nước nhà được quan tâm xây dựng,... kết quả đến cuối năm
1946, cả nước có thêm hơn 2,5 triệu người dân thoát nạn mù chữ, biết đọc,
biết viết chữ Quốc ngữ. Đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân được
cải thiện rõ rệt, nhân dân ngày càng tin tưởng, gắn bó với chế độ mới và càng
nêu cao quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng.


15


CHƯƠNG 3: TỔ CHỨC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN
PHÁP XÂM LƯỢC Ở NAM BỘ, ĐẤU TRANH BẢO VỀ CHÍNH
QUYỀN CÁCH MẠNG NON TRẺ.
3.1. Kháng chiến ở Nam Bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thành lập Hội Liên hiệp quốc dân
Việt Nam (Liên Việt) do Huỳnh Thúc Kháng làm hội trưởng, Tơn Đức Thắng
làm hội phó; thành lập Hội đồng cố vấn chính phủ do Vĩnh Thụy (tức cựu
hồng Bảo Đại) đứng đầu. Lực lượng vũ trang cách mạng được củng cố và tổ
chức lại, tích cực mua sắm vũ khí, tích trữ lương thực, thuốc men, củng cố
các cơ sở và căn cứ địa cách mạng cả ở miền Bắc, miền Nam. Chính phủ ra
các Sắc lệnh xây dựng Quân đội quốc gia; thống nhất lực lượng Công an tồn
quốc với tên gọi Việt Nam Cơng an vụ nằm trong Bộ Nội vụ; thành lập các
Toà án quân sự... Cuối năm 1946, Việt Nam có 8 vạn bộ đội chính quy, lực
lượng cơng an được thống nhất tổ chức đến cấp huyện, hàng vạn dân quân tự
vệ được tổ chức ở cơ sở từ Bắc chí Nam.
Trước sự khiêu khích của thực dân Pháp, Cuộc kháng chiến của nhân
dân Sài Gòn nổ ra ngay từ rạng sáng ngày 23/09/1945, trên tồn thành phố sài
Gịn. Các đơn vị bảo vệ trụ sở Ủy ban nhân dân, Sở tự vệ, nhà Bưu điện thành
phố đã chiến đấu anh dũng đến viên đạn cuối cùng. Ngày 25-10-1945 Hội
nghị cán bộ Đảng bộ Nam Bộ đã họp tại Thiên Hộ, Cái Bè ( Mỹ Tho ) bàn
bạc và quyết định những biện pháp cấp bách củng cố lực lượng vũ trang, xây
dựng cơ sở chính trị và vũ trang bí mật trong nội đô và tổ chức cuộc kháng
chiến chống Pháp xâm lược ở Nam Bộ; phát động toàn dân kháng chiến, kiên
quyết đẩy lùi cuộc tấn quân của quân Pháp, ngăn chặn bước tiến của chúng.
Nhân dân các tỉnh Nam Bộ đã chống trả hành động gây hấn xâm lược
của thực dân Pháp, kiên quyết bảo vệ nền độc lập, tự do và chính quyền cách

mạng non trẻ vừa giành được. Nhiều hoạt động kháng chiến được tổ chức sôi
16


nổi như: công tác diệt ác, trừ gian, phát động chiến tranh nhân dân trong lòng
thành phố, đốt phá kho tàng, chặn đánh các đoàn xe vận tải của địch, củng cố,
xây dựng căn cứ địa. Nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn đi tiên phong ngăn cản
bước tiến, kìm hãm, bao vây địch trong thành phố. Quân và dân ta đã dựng
chướng ngại vật, lập các ổ chiến đấu trên đường phố chính, phá hủy các cơ sở
hạ tầng điện, nước; các đội vũ trang, công an xung phong, quốc gia tự vệ cuộc
lùng bắt, trừng trị bọn Việt gian tay sai của Pháp, nhiều trận đánh liên tiếp
diễn ra ở khu Tân Định, Cầu Muối, cầu chữ Y, tiêu biểu nhất là trận đánh
ngăn chặn địch ở cầu Thị Nghè ngày 17 -10-1945, các trận đánh địch ở
Khánh Hội, Phú Lâm, An Nhơn, cầu Tham Luông...ngày 26-9-1945, những
chi đội đầu tiên tru tú nhất của quân đội miền Bắc được trang bị vũ khí tốt
nhất đã lên đường Nam tiến.
Do chưa có sự chuân bị kỹ càng cùng với tương quan so sánh lực lượng
giữa ta và Pháp có sự chênh lệch. Nhưng với lịng u nước sâu sắc, quyết
tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, và nhận được sự
lãnh đạo kịp thời, đúng đắn của Xứ ủy Nam Bộ, của Trung ương, của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, sự chỉ đạo trực tiếp của các ủy ban kháng chiến, quân và
dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên chiến đấu vô cùng anh dũng và chiến thắng
vẻ vang. Quân và dân các tỉnh Tây Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên đã
nhanh chóng tổ chức lực lượng, củng cố các khu căn cứ địa, phát triển lực
lượng vũ trang, động viên nhân tài, vật lực của toàn dân, ngăn chặn bước tiến
của thực dân Pháp và ra sức tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiển lâu dài.
Các cuộc chiến đấu của quân, dân Nha Trang đã diễn ra vô cùng ác liệt, chặn
đánh địch quyết liệt khi chúng vừa đổ bộ xuống vào ngày 22-10-1945. Đây là
tri đánh mở đầu cho cuộc chiến đấu oanh liệt, anh dũng của quân và dân ở
mặt trận Nam Trung Bộ và Tây Nguyên chống xâm lược Pháp trong những

ngày đầu kháng chiến.

17


3.2. Chủ trương, chính sách của Đảng trong việc đấu tranh bảo vệ
chính quyền non trẻ
Để bảo tồn chính quyền cách mạng, làm thất bại âm mưu thâm độc
“diệt Cộng, cầm Hồ ” của quân Tưởng và tay sai, Đảng, Chính phủ Hồ Chí
Minh chủ trương tiện tục thực hiện tinh thần Nghị quyết Hội nghị toàn quốc
của Đảng ở Tân Trào (8-1945 ) và chỉ thị kháng chiến, kiến quốc là “phải làm
cho nước mình ít kẻ thủ hơn hết và nhiều bạn đồng minh hơn hết”; thực hiện
sách lược “triệt để lợi dụng mâu thuẫn hẻ thù, hào hỗn, nhân nhượng có
ngun tắc " với qn Tưởng ở miền Bắc; đề ra những chủ trương, đối sách
thích hợp với quân Tưởng, tránh các hoạt động khiêu khích, xung đột vũ
trang với quân Tưởng, thực hiện giao thiệp thân thiện, ứng xử mềm dẻo, khơn
khéo để đối phó với các yêu sách của quân Tưởng và các tổ chức đảng phái
chính trị tay sai thân Tưởng, số cầm đầu Việt quốc, Việt cách khi vào Việt
Nam.
Để tránh mũi nhọn tấn công của các kẻ thù, Đảng chủ trương rút vào
hoạt động bí mật, bằng việc ra “Thơng cáo Đảng Cộng sản Đông Dương tự ý
tự giải tán ngày 11-11-1945”, chỉ để lại một bộ phận hoạt động công khai với
danh nghĩa “Hội nghiện cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương”1; về quân sự
Quân đội quốc gia Việt Nam được đổi thành Vệ quốc đồn (9-1945); Chính
phủ Việt Nam đồng ý việc đảm bảo cung cấp lương thực, thực phẩm cần thiết
cho 20 vạn quân đội Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật
khi ở Việt Nam và nhân nhượng cho quân Tưởng được sử dụng và lưu hành
đồng tiền Quan kim, Quốc tệ song hành cùng đồng bạc Đơng Dương ở phía
Bắc Việt Nam...
Đảng tiếp tục chủ trương tăng cường đoàn kết mọi lực lượng, đoàn kết

dân tộc rộng rãi để tập trung ngọn lửa đấu tranh vào thực dân Pháp xâm lược,
Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng suốt sách lược lợi

18


dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch, thực hiện chính sách “ liên hiệp bên
trên, quét sạch bên dưới ” để đối phó với đội quân Tưởng ở Bắc Việt Nam.
Sau khi bầu cử Quốc hội thành công ( 6-1-1946 ) để hịa hỗn với
Tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở rộng thành phần đại biểu chấp
nhận thêm 70 ghế Quốc hội không qua bầu cử cho một số đảng viên của Việt
cách, Việt quốc; chấp nhận cải tổ, mở rộng thành phần Chính phủ liên hiệp
với sự tham gia của nhiều nhân sĩ, trí thức, người không đảng phái và cả một
số phần tử cầm đầu tổ chức phản động tay sai của quân Tưởng, trong đó có
nhiều ghế bộ trưởng quan trọng, như: Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Bộ trưởng
Bộ Kinh tế thậm chí là chức vụ Phó Chủ tịch Chính phủ cho ơng Nguyễn Hải
Thần...
Được sự đàn xếp, thỏa thuận của phe đế quốc, Chính phủ Pháp và
Chính phủ Trung Hoa dân quốc đã ký kết với nhau bản “Hiệp ước Trùng
Khánh” (còn gọi là Hiệp ước Hoa - Pháp ngày 28-2-1946), trong đó có nội
dung thỏa thuận để Pháp đưa quân đội ra Bắc vĩ tuyến 16 làm nhiệm vụ giải
giáp quân đội Nhật thay thế 20 vạn quân Tưởng rút về nước hạn cuối cùng là
ngày 31-3-1946 và đổi lại Pháp sẽ nhượng lại cho Tưởng nhiều quyền lợi
quan trọng ở Trung Quốc và Việt Nam. Đảng ta xác định: “Hiệp ước Hoa Pháp không phải chuyện riêng của Tàu và Pháp. Nó là chuyện chung của phe
đế quốc và và bọn tay sai của chúng ở thuộc địa. Dù nhân dân Đông Dương
muốn hay không muốn, nhất định chúng cũng thi hành Hiệp ước ấy”1. Đây
thực chất là một bản hiệp ước bán rẻ và chà đạp lên nền độc lập của Việt
Nam, hợp pháp hóa hành động xâm lược của thực dân Pháp. Bản Hiệp ước
này cũng gây ra những sự mâu thuẫn, xung đột kịch liệt về quyền lợi giữa các
tập đồn lợi ích của qn đội Tưởng ở Việt Nam và quân đội Pháp; đặt cách

mạng Việt Nam, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đứng trước tình thế vô
cùng nguy hiểm, phải cùng lúc đối mặt trực tiếp với 2 kẻ thù xâm lược to lớn
là Pháp và Tưởng, trong khi thực lực cách mạng vẫn còn rất non kém.

19


Tình hình phức tạp trên đây địi hỏi Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ
Chí Minh phải có lựa chọn thích hợp. Nếu chủ trương đánh Pháp đến cùng thì
khơng những làm cho ta bị cơ lập vì chống lại Đồng minh mà lực lượng còn
bị tiêu hao, cần phải có thời gian để phát triển lực lượng. Nếu hịa với Pháp
cũng có bất lợi là bọn phản động lợi dụng vu cáo nhà nước ta bán nước cho
Pháp và cũng có khả năng Pháp gia tăng lực lượng và bội ước để tiêu diệt nhà
nước ta. Trước sự thay đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình, Thường vụ
Trung ương Đảng, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng nhận định, đánh giá đúng
âm mưu, ý đồ chính trị của Pháp và Tưởng và ra bản Chỉ thị Tình hình và chủ
trương, ngày 3-3-1946, Chỉ thị phân tích sâu sắc âm mưu và ý đồ của Anh,
Mỹ, Tàu và Pháp, dự kiến những tình huống. Bản chỉ thị đã kịp thời đề ra chủ
trương mới : tạm thời “dàn hòa với Pháp”, nhân nhượng với Pháp về lợi ích
kinh tế, nhưng Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của dân tộc ta,
“lợi dụng thời gian hịa hỗn với Pháp để diệt bọn phản động bên trong, tay
sai Tàu trắng, trừ những hành động khiêu khích ly gián ta với Pháp”, thúc đẩy
nhanh quân Tưởng về nước, bớt đi một kẻ thù nguy hiểm. Đảng, Chính phủ
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến chủ trương hịa với Pháp để mau chóng
gạt bỏ quân Tưởng về nước. Trong chỉ thị cũng phê phán khuynh hướng cực
đoan là muốn đánh Pháp đến cùng, là tự cơ lập mình, tiêu hao thực lực hoặc
hịa hỗn, đàm phán với Pháp lại làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc
ta.
Ngày 6-3-1946, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký với đại diện Chính phủ Cộng hịa Pháp là

ơng Jean Sainteny (J.Xanhtơny) bản Hiệp định sơ bộ. Trong đó nêu rõ: Chính
phủ Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện,
tài chính và qn đội riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc khối
Liên hiệp Pháp; về phía Việt Nam đồng ý để 15.000 quân đội Pháp ra miền
Bắc thay thế 20 vạn quân đội Tưởng rút về nước và sẽ rút dần trong thời hạn
5 năm; hai bên sẽ tiếp tục tiến hành đàm phán chính thức để giải quyết mối
20


quan hệ Việt- Pháp....Hiệp định sơ bộ là hiệp định, văn kiện ngoại giao đầu
tiên của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ký với nước ngồi. Quyền dân
tộc cơ bản đã bước đầu được khẳng định trong bản ngoại giao. Đó cũng là cơ
sở pháp lý quan trọng khơng chỉ có ý nghĩa quan hệ với Pháp mà cả quan hệ
với các nước khác.
Ngày 9-3-1946, Thường vụ Trung ương Đảng ra ngay bản Chỉ thị “Hòa
để tiến”, phân tích, đánh giá chủ trương hịa hỗn và khả năng phát triển của
tình hình. Trong chỉ thị nêu rõ: phải tránh hết sức những việc làm nông nổi vô
tổ chức, vơ chính phủ, dễ bị bọn phản động khiêu khích, đồng thời cũng
khơng nên ngây thơ tin rằng có Hiệp định sơ bộ làm cho dân tộc ta tránh được
mọi khí khăn mà lơ đãng, khơng chuẩn bị đối phó với bất trắc, không sẵn
sàng chiến đấu... Cần phải tiếp tục nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng,
không ngừng một phút công việc sửa soạn sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc
nào và ở đâu nếu bất thình lình thực dân Pháp giở đáo, và nhất định không để
cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta,
nhất là đối với đồng bào Nam Bộ và các chiến sĩ ngoài mặt trận; đẩy mạnh
công tác xây dựng Đảng, đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ chính trị và quân sự,
gây dựng cơ sở Đảng, củng cố phong trào quần chúng... Đến tháng 12-1946,
Đảng đã có sự phát triển thêm cả về tổ chức và số lượng đảng viên với hơn
20.000 đảng viên.
Từ ngày 19-4 đến ngày 10-5-1946, đại diện Việt Nam và Pháp gặp

nhau tại Hội nghị trù bị ở Đà Lạt, nhưng khơng đạt được bước tiến nào vì vấp
phải lập trường thực dân của phía Pháp. Từ ngày 31-5 1946, theo lời mời của
Quốc hội và Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng phải đồn của
Chính phủ Việt Nam thăm chính thức nước Cộng hịa Pháp và trong chuyến
thăm này đã thu được nhiều thành công về mặt đối ngoại, làm cho dư luận
Pháp, nhân dân Pháp và giới chính trị Pháp tiến bộ hiểu thêm cuộc đấu tranh
chính nghĩa, vì nền độc lập thực sự của Việt Nam. Cũng trong thời gian này,

21


phái đoàn Quốc hội Việt Nam do Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi thăm thân thiện
và tham dự đàm phán chính thức giữa 2 bên Việt - Pháp tại Hội nghị
Fontainebleau ( Pháp ) từ ngày 6-7 đến ngày 10-9-1946. Nhưng do vấp phải
lập trường hiếu chiến và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp nên Hội nghị
lâm vào bế tắc và khơng đạt kết quả tích cực nào. Ngày 15-9-1946, đoàn lên
đường về nước, để đảm bảo an toàn cho phái đoàn đại biểu Việt Nam rời
Pháp và cứu vãn tình thế bế tắc, ngày 14-9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với
ơng Marius Moutet ( M.Mute ), đại diện của Chính phủ Pháp, bản Tạm ước
14-9, nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi kinh tế, văn hóa ở Việt
Nam, đồng thời hai bên cam kết đình chỉ chiến sự ở Nam Bộ và tiếp tục đàm
phán...
Dưới sự lãnh đạo chỉ đạo kiên quyết, sáng suốt của Đảng và Chính phủ
do cụ Huỳnh Thúc Kháng quyền Chủ tịch Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ
trực tiếp chỉ đạo, rạng sáng ngày 12-7-1946, lực lượng Công an sau nhiều
ngày trinh sát bí mật đã khơn khéo, mưu trí, sáng tạo, quyết đốn tổ chức đột
nhập, tấn công bất ngờ vào trụ sở của bọn Đại Việt Quốc dân đảng ở số nhà
132 Duvigneau (Duyvinho) nay là phố Bùi Thị Xuân - Hà Nội, nhanh chóng
khống chế bọn phản động có vũ trang, tổ chức khám xét và tịch thu được
nhiều tài liệu phản động, trong đó có bản kế hoạch tổ chức làm đảo chính lật

đổ chính phủ Hồ Chí Minh. Với chứng cứ rõ rằng đó, được lệnh của Chính
phủ, Nha cơng an đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang khác, với
sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của quần chúng nhân dân nhanh chóng, kịp thời phá
thành cơng vụ án ở số 7 phố Ôn Như Hầu (vụ án Ôn Như Hầu ) và đồng loạt
mở cuộc tấn công truy quét, bóc gỡ hơn 40 hang ổ, trụ sở của bọn Quốc dân
đảng phản động ở Hà Nội và các khu vực lân cận. Với thắng lợi quan trọng
này đã đập tan hoàn toàn mưu đồ thâm độc lật đổ chính quyền cách mạng của
bọn tay sai phản động câu kết với thực dân Pháp, giữ vững chính quyền dân
chủ nhân dân, lột mặt nạ phản dân hai nước của bọn tay sai thân Tưởng; tăng

22


cường khối đoàn kết mặt trận dân tộc thống nhất, góp phần bảo đảm an tồn
cho chuyến đi thăm Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh...
Ngày 20-10-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đồn Việt Nam về
đến cảng Hải Phịng an tồn trong khơng khi đón chào nồng nhiệt của nhân
dân, của đồng bào, đồng chí. Ngay sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết một
văn kiện quan trọng: Công việc khẩn cấp bây giờ, nêu rõ thêm những nhiệm
vụ cụ thể và cấp thiết phải làm về mặt quân sự, chính trị và khẳng định vai
lãnh đạo của Đảng, của đảng viên cán bộ phải “làm cho dân ta có tín tâm và
quyết tâm” đối với cơng cuộc kháng chiến kiến quốc và tích cực chuẩn bị cho
cuộc kháng chiến lâu dài, điều mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu
là khơng thể tránh khỏi.Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Hà Nội, đó là cuộc đi
thăm nước ngoài đầu tiên của người đứng đầu nhà nước cách mạng Việt Nam,
và cũng là chuyến đi thăm nước ngoài dài ngày nhất của một vị nguyên thủ
quốc gia.
3.3. Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm.
3.3.1. Ý nghĩa:
Nhờ đánh giá đúng tình hình nước ta sau cách mạng tháng tám, kịp thời

đề ra những đường lối chủ trương đúng đắn, xây dựng và phát huy được khối
đại đồn kết dân tộc, cơng tác dân vận của đảng tốt, cùng với việc lợi dụng
được mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Nên nước ta sau Cách mạng tháng
Tám đã giữ vững được chính quyền cách mạng, xây dựng nền móng cho nước
Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa phát triển, đi lên chủ nghĩa xã hội, chuẩn bị được
những điều kiện cần thiết cho cuộc kháng chiến chống Pháp lâu dài.
3.3.2. Bài học kinh nghiệm:
Phát huy sức mạnh của khối đại đồn kết tồn dân tộc, vừa xây dựng
chính quyền cách mạng, vừa bảo vệ chính quyền cách mạng. Triệt để lợi dụng
23


mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, xác định được kẻ thù chính, nhân nhượng
kẻ thù có ngun tắc. Tận dụng khae năng hịa hỗn để xây dựng lực lượng và
củng cố chính quyền của nhân dân.

24


KẾT LUẬN
Sự nghiệp xây dựng nhà nước luôn đi liền với việc củng cố và bảo vệ
đất nước, công cuộc củng cố và bảo về đất nước cũng vô cùng khó khăn và
phức tạp. Mặc dù phải rút vào hoạt động bí mật nhưng Đảng ta vẫn lãnh đạo
Nhà nước và nhân dân ta trong việc giải quyết “giặc đói”, “giặc dốt” và chống
giặc ngoại xâm có hiệu quả. Cơng tác dân vận trong thời kỳ này được thực
hiện rất tốt thể hiện rất rõ trong việc vận động người dân quyên góp tiền, của
cho cách mạng, đưa nước ta thốt khỏi khó khăn, để lại kinh nghiệm q báu
cho công tác dân vận của Đảng. Đảng đã lãnh đạo thực hiện có hiệu quả việc
xóa nạn mù chữ cho nhân dân, làm nhân dân có thêm niềm tin, tin tưởng vào

đường lối, chính sách của Đảng. Đảng đã làm được nhiều việc như: tổ chức
Tổng tuyển cử, bầu ra quốc hội, lâp Hiến pháp; xây dựng và củng cố chính
quyền nhân dân; tiêu diệt bọn phản động; xây dựng và củng cố lực lượng vũ
trang; giảm tô thuế; đặt nền móng cho xây dựng nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân. Chỉ trong 2 năm ngắn ngủi mà giải quyết được nhiều khó
khăn tồn tại từ thời kỳ phong kiến cũ cùng với hậu quả mà thực dân Pháp và
phát xít Nhật gây ra cho đất nước ta trước đây, tạo được lòng tin của nhân dân
với Đảng.
Cuộc đấu tranh của Đảng trong thời kỳ này diễn ra gay go, quyết liệt
trên nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, ngoại giao,...và
đạt được nhièu thành tựu to lớn.
Đảng, nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức được tình hình
đất nước cũng như kẻ địch chính lúc bấy giờ, tận dụng mọi thời cơ để bảo vệ
chính quyền cịn non trẻ, làm việc có nguyên tắc, sách lược mềm dẻo, linh
hoạt, lúc thì hịa với Tưởng, khi thì đàm phán với Pháp, nhân nhượng có
nguyên tắc để nước ta tránh phải đối mặt với nhiều kẻ thù cùng một lúc. Tận

25


×