Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TL LSĐ vai trò của lãnh tụ nguyễn ái quốc trong quá trình thành lập đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.65 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
Mở
đầu………………………………………………………………………..1
Chương
1.
Nguồn
gốc
thành………………………….….2



quá

trình

hình

1.1 Cơ sở lý luận……………………………………………………...
……….2
1.1.1
Sự
ra
đời
của
Lênin…………………………………...2

chủ

nghĩa

Mác





1.1.2
Quan niệm của Mác-Lenin về tầm quan trọng của
Đảng………………..2
1.1.3
Căn cứ cho sự ra đời của Đảng Cộng sản trong lý
luận
của
chủ
nghĩa
MácLenin……………………………………………….……………..3
1.2 Cơ
sở
tiễn………………………………………………………….....5
1.2.1
Cách
mạng
nước………………………………………………….5
1.2.2
Cách
mạng
giới………………………………………………………6

thực
trong
thế

1.3. Qúa trình ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái

Quốc………………..7
Chương 2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị những điều kiện
cho
việc
thành
lập
Đảng
Cộng
sản………………………………………………………...……11
2.1 Về tư tưởng………………………………………………………….
….11
2.2.
Về
tổ
……………………………………………………………...13
2.3.
Về
trị……………………………………………………………..14

chức
chính

Chương 3. Hội nghị thành lập Đảng và cương lĩnh chính
trị
đầu
tiên
của
Đảng…………………………………………………………………………
16



3.1
Hội
nghị
thành
………………………...16

lập

Đảng……………………..

3.1.1
Thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên và 3 tổ chức
cộng sản ra đời…….16
3.1.2
Hội nghị thành lập Đảng…………………………………...
……….…16
3.2
Cương
lĩnh
chính
Đảng………………………..………...17

trị

đầu

3.2.1
Phương
hướng

lược……………………………………………...17

tiên

của
chiến

3.2.2 Nhiệm vụ………………………………………………….………..
…..17
3.2.3
Ý
nghĩa
Cương
trị……………………………………….18

lĩnh

chính

Kết luận ………………………………………………………………..19
Danh
mục
tài
liệu
khảo……………………………………….…..20

tham

MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 là sự kiện
lịch sử cực kì trọng đại, một bước ngoặt vơ cùng quan trọng
trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son
chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta. Đảng ra đời
trở thành đội tiên phong của giai cấp cơng nhân, đại biểu
trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là
Đảng duy nhất lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao
động thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đạt mục tiêu


tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng, văn
minh. Trong đó, người có vai trị hang đầu, có tác động lớn
nhất đến việc thành lập Đảng là Nguyễn Ái Quốc. Tác giả đã
chọn đề tài “ Vai trị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong q
trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam” để làm rõ được vai
trị đó.
2.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
Phân tích được rõ vai trị của Nguyễn Ái Quốc đối với q
trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.Kết cấu đề tài.
Chương 1: Nguồn gốc và quá trình hình thành
Chương 2: Những chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc cho việc
thành lập Đảng
Chương 3: Hội nghi thanh lập Đảng và cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH.

1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Sự ra đời của Chủ nghĩa Mác – Lenin
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỉ XIX,
khi mà chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu đang trên đà phát triển
mạnh mẽ đã tạo ra những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội


thuận lợi cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Đặc biệt, sự xuất
hiện giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và cuộc đấu tranh
tranh mạnh mẽ của giai cấp này là một trong những điều kiện
chính trị - xã hội quan trọng nhất cho sự ra đời của chủ nghĩa
Mác. C.Mác và Ăngghen đã kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, phát
triển, sáng tạo ra học thuyết khoa học và cách mạng của giai
cấp công nhân là chủ nghĩa xã hội khoa học. C.Mác và
Ănghen đã phát hiện ra quy luật giá trị thăng dư và sáng lập
ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, chỉ rõ hình thành, phát triển, diệt
vong của chủ nghĩa tư bản và vai trị lịch sử tồn thế giới của
giai cấp vơ sản là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác được
V.I.Lenin bổ sung, phát triển trong điều kiện chủ nghĩa tư bản
chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, khoa học thế giới vi
mô phát triển và chủ nghĩa xã hội hiện thực được xây dựng ở
nước Nga Xô viết, mở ra giai đoạn phát triển mới của chủ
nghĩa Mác – Lenin .
1.1.2 Quan điểm của Mác – Lenin về tầm quan trọng của
Đảng
Theo quan điểm của Mác – Lenin, “trong xã hội xây dựng
trên cơ sở phân chia giai cấp, cuộc đấu tranh giữa các giai cấp
thù địch, đến một chừng mực nào đó, sẽ trở thành đấu tranh

chính trị. Đấu tranh của Đảng là phản ánh đấu tranh chính trị
của giai cấp có giá trị đầy đủ và có thể thức dứt khốt nhất”.
Mác và Ăng-ghen là những người đầu tiên đã phát hiện
ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản: thủ tiêu chủ nghĩa tư


bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản khơng
cịn giai cấp. Giai cấp vơ sản sở dĩ là lực lượng tiên phong và
triệt để cách mạng trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ tư bản,
là vì “giai cấp vơ sản đã chế ngự trung tâm kinh tế và hệ thần
kinh của toàn bộ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đó cũng là vì ,
về mặt kinh tế và chính trị của quần chúng lao động dưới chế
độ tư bản chủ nghĩa”. Thực tế lịch sử đã chứng minh sự xuất
hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tư cách là một
lực lượng chính trị độc lập trong xã hội tư sản đã quy định tính
tất yếu của sự thành lập đảng để lãnh đạo cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản. Tổ chức là phương tiện mạnh mẽ nhất của
giai cấp vô sản để đấu tranh chống lại kẻ thù có tổ chức là
giai cấp tư sản. Nhưng khơng phải mọi hình thức tổ chức đều
bảo đảm cho giai cấp vơ sản có thể hồn thành được sứ mệnh
lịch sử của mình là giải phóng nhân dân lao động, khỏi mọi
bóc lột và áp bức. Giai cấp cùng tồn thể nhân dân lao động
khơng thể được giải phóng về kinh tế, nếu không lật đổ sự
thống trị về kinh tế của giai cấp tư sản. Nhưng muốn tiến
hành đấu tranh chính trị, giai cấp vơ sản phải có sự thống
nhất về mục đích và tổ chức. Và chỉ có đảng chính trị mới có
thể đem lại sự thống nhất ấy. V.Lênin viết: “Giai cấp vơ sản có
thể trở thành và tất nhiên sẽ trở thành một lực lượng vơ địch,
vì một lẽ duy nhất là sự thống nhất tư tưởng của giai cấp công
nhân dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác, được củng

cố bằng sự thống nhất vật chất của tổ chức, tập hợp hàng
triệu người lao động, thành một đạo quân của giai cấp công
nhân”, “ sẽ khơng có một phong trào vững chắc nếu khơng có


Đảng vững chắc lãnh đạo, hãy cho tôi một tổ chức của những
người cộng sản, tôi sẽ làm đảo lộn cả nước Nga này”.
1.1.3 Căn cứ cho sự ra đời của Đảng cộng sản trong lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
1.1.3.1 Đảng xuất hiện trên cơ sở phong trào cơng nhân.
Trước khi có sự xuất hiện của đảng cộng sản, phong trào
cơng nhân cịn mang tính chất tự phát, rời rạc, chưa có ý
nghĩa chính trị độc lập, vì cuộc đấu tranh chưa được chỉ đạo
bởi lý luận cách mạng khoa học, chưa được lãnh đạo bởi đảng
cộng sản. Phong trào cơng nhân về nội dung chưa có ý thức
giác ngộ về giai cấp, chưa vượt qua giới hạn ý thức nghiệp
đồn, mà ý thức nghiệp đồn thì cịn lệ thuộc vào ý thức hệ tư
sản. Vào thời kỳ này, những người có tư tưởng xã hội chủ
nghĩa cịn đứng ngồi phong trào cơng nhân. Họ cơng kích
chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng quan điểm của họ chưa khoa
học, họ chỉ là những người có thiện chí, những nhà khơng
tưởng cho nên chưa có tác động thúc đẩy xã hội phát triển.
Khi công nghiệp phát triển, giai cấp vô sản ngày một đông
đúc, lớn mạnh cùng sự xuất hiện của đảng và được lãnh đạo
bởi bộ tham mưu và đội tiên phong của mình là đảng cộng
sản, giai cấp cơng nhân có thể hồn thành sứ mệnh lịch sử
của mình là kẻ đào mồ chơn chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã
hội cộng sản chủ nghĩa.
1.1.3.2 Đảng ra đời cần có sự tồn tại của học thuyết Mác
– Lênin

Theo Lênin, phong trào công nhân không thể thắng lợi
nếu như khơng có lý luận cách mạng khoa học “Lý luận này


không thể do tưởng tượng mà bịa đặt ra. Lý luận này được
hình thành trên cơ sở tổng hợp kinh nghiệm cách mạng và tư
tưởng cách mạng của tất cả các nước trên trái đất. Lý luận đó
ra đời từ nửa thế kỷ 19. Lý luận đó là chủ nghĩa Mác”
V. Lênin nhấn mạnh rằng: Chủ nghĩa xã họi khoa học “chỉ
có thể trở nên sức mạnh, khi nó trở thành mục tiêu của cuộc
đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân. Chỉ trong điều
kiện này, lý luận cách mạng mới trở nên sức mạnh cải tạo,
mới được quán triệt vào đời sống, mới được phát triển sáng
tạo và phong phú, trên cơ sở kinh nghiệm đấu tranh mới của
giai cấp cơng nhân và đảng của nó.
V. Lenin cũng chỉ rõ: “Khơng có lý luận cách mạng, khơng
thể có phong trào cách mạng” và từ đó “chỉ có đảng được vũ
trang bằng lý luận tiên phong mới đóng được vai trò là người
chiến sĩ tiên phong”.
1.1.3.3 Đảng cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân.
Sự kết hợp này dẫn đến tổ chức và hoạt động của đội
tiên phong vô sản, bộ tham mưu của giai cấp vô sản là đảng
cộng sản. Sự kết hợp giữa lý luận cách mạng khoa học và
phong trào công nhân, trước hết là một quá trình tất yếu của
việc thành lập đảng. Đó là thời kỳ lịch sử, trong đó từ giai cấp
công nhân, đã xuất hiện đội tiên phong của mình; những phần
tử tiên tiến này tập hợp thành tổ chức chính trị, thành đảng
cộng sản. V. Lênin đã chỉ ra rằng, việc thành lập đảng cộng
sản - quá trình kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với phong

trào công nhân. Nhưng con đường kết hợp này lại phụ thuộc


vào điều kiện lịch sử cụ thể của từng nước. V.Lênin viết:
“Trong tất cả các nước, đã có thời kỳ phong trào công nhân và
chủ nghĩa xã hội tồn tại biệt lập với nhau, mỗi bên đi theo con
đường riêng biệt của mình và trong tất cả nước, sự biệt lập ấy
đã làm yếu cả chủ nghĩa xã hội lẫn phong trào cơng nhân.
Trong tất cả nước, chỉ có sự kết hợp chủ nghĩa xã hội với
phong trào công nhân đem lại cơ sở vững vàng cho cả hai
bên. Nhưng ở mỗi nước, sự kết hợp chủ nghĩa xã hội với
phong trào cơng nhân đã được diễn ra với tính chất lịch sử,
theo con đường riêng biệt, phụ thuộc vào những điều kiện địa
phương và thời gian”.
Đảng cộng sản là đội tiên phong có ý thức và có tổ chức
của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư
tưởng của Đảng. “Tổ chức khơng có tư tưởng - đó là điều vơ
nghĩa, trên thực tế là biến giai cấp công nhân thành những
tên tay sai đáng thương hại của chính quyền tư sản”.
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Cách mạng trong nước.
1.2.1.1 Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong
kiến
Phong trào Cần Vương (1885-1896) do Hàm Nghi và Tôn
Thất Huyết phát động phát triển ở nhiều địa phương Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ. Ngày 1/11/1888, Hàm Nghi bị bắt nhưng
phong trào vẫn tiếp tục đến năm 1896.
1.2.1.2 Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dẫn chủ
tư sản



Phong trào Đông du (1906- 1908) do nhà yêu nước Phan
Bội Châu lãnh đạo. Phong trào mở đầu cho cuộc vận động giải
phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản.
Phong trào Đông kinh nghĩa thục (1907) diễn ra khá sơi
nổi dưới nhiều hình thức như tun truyền cải cách văn hóa,
xã hội, hơ hào thực nghiệp, đả phá tư tưởng, lê thói phong
kiến, bài trừ mê tín, hủ tục, đả kích tham quan ơ lại, cổ vũ
long u nước…
Phong trào Duy tân (1906-1908) do các sĩ phu yêu nước
như cụ Phan Châu Trinh, Trần Qúy Cáp, Huỳnh Thúc Kháng…
khởi xướng. Phong trào nhằm vận động cải cách văn hóa xã
hội, động viên lịng u nước, đả kích bọn vua quan thối nát,
đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản,…
Phong trào Việt Nam quang phục hội (1912) do Phan Bội
Châu vận động thành lập dưới sự tác động của cách mạng Tân
Hợi Trung Quốc năm 1911.
Trong chiến tranh thế giới nhứ nhất (1914-1918), các
cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Pháp của nhân dân Việt Nam
vẫn tiếp diễn, nhưng đều không thành công.
Thất bại của những phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp
phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để
lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ
dân tộc ở Việt Nam.
1.2.2 Cách mạng thế giới
Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa tăng
cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và



áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ
nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước
trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với
chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, Cách mạng tháng 10 Nga thắng lơi thức tỉnh
các dân tộc nô lệ vùng lên tranh đấu để tự giải phóng. Hồ Chí
Minh viết: “Đối với nhân dân và đặc biệt những người cách
mạng, cách mạng tháng Mười đã đem lại cho chúng tôi chủ
nghĩa Mác-Lê nin. Học thuyết bất hủ đó đã vạch ra con đường
mà chúng tơi phải đi theo”
1.3

Qúa trình ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái

Quốc.
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19-5-1890, quê ở làng Kim
Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Lúc nhỏ có tên là Nguyễn
Sinh Cung, khi đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Lớn lên lấy
tên giữa lúc nước mất, nhà tan, đau xót trước cảnh lầm than
của đồng bào, Nguyễn Tất Thành sớm có chí đánh đuổi thực
dân Pháp, giải phóng dân tộc.
Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành rời đất nước ra đi tìm
đường cứu nước, xem các nước làm thế nào rồi trở về giúp
đồng bào.
Trên lộ trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã trải
qua những bước ngoặt lớn.
Một là, nhận ra hạn chế của các nhà yêu nước đương
thời.



Nguyễn Ái Quốc rất khâm phục tinh thần yêu nước của
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hồng Hoa Thám nhưng
khơng đồng ý đi theo con đường của một người nào. Trong khi
nhiều người còn ngưỡng mộ cách mạng tư sản, Người đã vượt
qua sự hạn chế tầm nhìn của họ, đi tìm con đường cứu nước
khác.
Hai là, tìm ra hạn chế của cách mạng dân chủ tư sản là
những cuộc cách mạng khơng giải phóng được cơng nơng và
quần chúng lao động.
Cuộc khảo sát có một khơng hai ở Mỹ và Anh, Pháp đã
giúp Nguyễn Aí Quốc nhận ra là ở đâu cũng có hai loại người:
người giàu và người nghèo, người áp bức và người bị áp bức.
Càng ngày Người càng hiểu sâu sắc bản chất của chủ nghĩa
đế quốc.
Ngày 6-7-1911, Nguyễn Tất Thành đến cảng Macxay,
thấy nhiều phụ nữ nghèo khổ, Nguyễn Tất Thành nói với người
bạn: “Tại sao người Pháp khơng đi “khai hóa” đồng bào của
họ trước khi đi “khai hóa” chúng ta?”
Làm thuê trên chiếc tàu đi vịng quanh châu Phi, tận mắt
trơng thấy những cảnh khổ cực, chết chóc của người da đen
dưới roi vọt của bọn thực dân, Nguyễn Tất Thành nghĩ: Đối với
bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da vàng hay da
đen cũng không đáng một xu.
Giữa tháng 12-1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ,
Người dành một phần thời gian để lao động kiếm sống, Người
dành một phần thời gian để lao động kiếm sống, còn phần lớn
thời gian dành cho học tập, nghiên cứu Cách mạng tư sản Mỹ



năm 1776. Khi thăm tượng Thần tự do, Nguyễn Tất Thành
không để ý đến ánh hào quang đầu tượng mà xúc động trước
cảnh những nô lệ da đen dưới chân tượng.
Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành từ Mỹ sang Anh và
cuối năm 1917 trở lại Pháp.
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) giết hại biết
bao sinh mạng, phá hủy vô vàn của cải. Qua đó, Nguyễn Ái
Quốc càng hiểu them bản chất của chủ nghĩa tư bản.
Quá trình nghiên cứu, xem xét Cách mạng tư sản Mỹ
(năm 1776) và Cách mạng tư sản Pháp (năm 1789) đã giúp
Nguyễn Ái Quốc học hỏi được nhiều điều. Tuy vậy, Người vẫn
đánh giá những cuộc cách mạng tư bản là
“những cuộc cách mạng không đến nơi”.
Chiến tranh kết thúc, các nước thắng trận họp Hội nghị
hịa bình ở Vécxay (Pháp) để chia phần. Thay mặt Hội những
người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị
bản yêu sách 8 điểm. Trong khi chờ đợi giải quyết vấn đề dân
tộc tự quyết, Người chỉ đề cập những yêu sách “tối thiểu” và
“cấp thiết”. Tổng thồng Mỹ Wilson, tác giả chương trình 14
điểm với chiêu bài dân tộc tự quyết cũng có mặt ở hội nghị.
Nhưng những yêu sách dù khiêm tốn của Nguyễn Ái Quốc đã
không được Hội nghị đáp ứng.
Sự kiện này đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ ““chủ nghĩa
Uynxon” chỉ là một trò bịp bợm lớn”. Những lời tuyên bố tự do
của nhà chính trị tư sản trong lúc chiến tranh thực ra chỉ là
những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc. Muốn được giải
phóng, các dân tộc chỉ cịn có thể trơng cậy vào lực lượng của


bản than mình. Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập

Đảng Xã hội Pháp, một đảng tiến bộ lúc bấy giờ. Người có dịp
tiếp xúc, hoạt động với nhiều nhà chính trị nổi tiếng ở Pháp.
Nguyễn Ái Quốc tìm hiểu và hoạt động trong phong trào công
nhân, liên lạc và cùng hoạt động với nhiều nhà cách mạng ở
nhiều thuộc địa Pháp.
Ba là, đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười
Nga, đi theo Quốc tế Cộng sản.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi là sư
kiện chính trị lớn nhất của thế kỷ XX, mở ra thời đại mới trong
lịch sử loài người, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thời đại thắng lợi của
cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vơ sản, đồng
thời đặt ra sự lựa chọn mới với những người cách mạng Việt
Nam: Độc lập dân tộc cho một số ít người hay cho đại đa số
người? Độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa tư bản hay độc lập
dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội?
Khi được biết thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga,
Nguyễn Ái Quốc ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó và kính phục
V.I.Lenin. Người đã tham gia nhiều cuộc vận động ủng hộ
nhân dân Nga bảo vệ thành quả cách mạng. Tháng 3-1919,
Quốc tế Cộng sản ra đời, ảnh hưởng phong trào cách mạng
thế giới. Năm 1920, cuộc đấu tranh giữa hai con đường diễn
ra quyết liệt trong nhiều đảng công nhân và ngay trong Đảng
xã hội Pháp; Tiếp tục theo Quốc tế thứ hai là tiếp tục con
đường cải lương hay đi theo Quốc tế thứ ba, con đường cách
mạng.


Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa

của V.I.Lenin. Luận cương đã giải thích đáp trúng những vấn
đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở tìm hiểu, giúp Người
thấy rõ con đường thắng lợi của cách mạng giải phóng dân
tộc, nhận rõ lập trường của V.I.Lenin và Quốc tế thứ ba khác
hẳn với những lời tuyên bố suông của Quốc tế thứ hai. Luận
cương của Lenin đã có ảnh hưởng quyết định đến lập trường
của Nguyễn Ái Quốc: Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tán
thành Quốc tế thứ ba, đặt cách mạng giải phóng dân tộc
trong quỹ đạo cách mạng vô sản, trở thành một trong những
nhà sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu
tiên của Việt Nam.
Qua mười năm sống và làm việc ở những nước tư bản
phát triển, Nguyễn Ái Quốc khơng chống ngợp trước sự giàu
có của giai cấp tư sản mà nhận thấy chế độ tư sản có nhiều
khuyết tật. Người khẳng định dứt khốt chủ nghĩa tư bản
không cứu được nước, không cứu được dân. Chỉ có chủ nghĩa
xã hội mới giải phóng được các dân tộc trên thế giới khỏi ách
nô lê.


CHƯƠNG 2. NGUYỄN ÁI QUỐC CHUẨN BỊ NHỮNG ĐIỀU
KIỆN CHO VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN
2.1 Về tư tưởng
Xác định chủ nghĩa Mác-Lenin làm nền tảng tư tưởng của
Đảng. Nghiên cứu, học tập, truyền bá lý luận Mác-Lenin về
trong nước. Q trình đó cũng là q trình Người từng bước
vạch đường lối chiến lược cho Cách mang Việt Nam.
Cuối năm 1917, giữa lúc chiến tranh thế giới thứ hai sắp
kết thúc, Người trở lại Pháp. Tại đây, Người lao vào cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân Pháp, tham gia Đảng xã hội

Pháp, lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước với tờ báo
“Việt Nam hồn” để tuyên truyền giáo dục Việt kiều ở Pháp.
Tháng 4-1921, khi còn ở Pháp, người viết bài cho báo
Đông Dương, trong bài báo Đông Dương, Người từng phê phán
sai lầm của đảng cộng sản ở các nước tư bản phát triển “chưa
quan tâm đến vấn đề thuộc địa”, tháng 5 năm đó, cũng trong
bài báo Đông Dương, Người đặt vấn đề: “Chế độ cộng sản có
áp dụng được ở châu Á nói chung và ở Đơng Dương nói riêng
khơng?”. Người dự đốn: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân
châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê
tiện của một bọn thực dân long thsm không đáy, họ sẽ hình
thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế
quốc , họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương
Tây trong nhiệm vụ giải phong hoàn toàn”.
Tháng 7-1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số chiến sĩ
cách mạng ở nhiều nước thuộc địa Pháp thành lập Hội Liên


hiệp thuộc địa, Hội đã ra tờ báo Người cùng khổ (Le Paria), tờ
báo đã tạo ra “một luồng gió mới thổi đến nhân dân các nước
bị áp bức”, “đã làm cho nước Pháp chân chính biết rõ những
sự việc xảy ra trong các thuộc địa”, “đã thức tỉnh đồng bào
chúng ta”, “khiến cho đồng bào chúng ta nhận rõ nước Pháp,
nước Pháp tự do, bình đẳng, bác ái”. Ngồi việc viết bài cho
báo Người cùng khổ, Người còn viết bài cho báo Nhân đạo,
Đời sống công nhân.
Đến năm 1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi Matxcova để
tham dự Hội nghị Quốc tế nông dân, đồng thời trực tiếp học
tập nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng tháng 10 Nga và chủ

nghĩa Mác – Lenin. Người có nhiều cho các báo “Sự thật” – cơ
quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Liên Xơ và tạp chí “ Thư
tín Quốc tế” của Quốc tế Cộng sản.
Qua các bài báo, tạp chí, Nguyễn Ái Quốc góp phần quan
trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở
các thuộc địa, đồng thời tiến hành tuyên truyền tư tưởng MácLenin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng
sản và nhân dân lao động. Đây là thời gian Người thu nhập tư
liệu cho tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”.
Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế
Cộng sản Liên Xô và các đại hội của Quốc tế công hội, Quốc
tế Phụ nữ, Quốc tế Thanh niên,…Và nhất là đại hội lần V, đã
có bản báo cáo rất quan trọng về dân tộc và thuộc địa; làm
sáng tỏ và phát triển một số luận điểm quan trọng của Lênin
về bản chất của chủ nghĩa thực dân và nhiệm vụ của các
Đảng Cộng sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống áp
bức bóc lột, đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa.


Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925) mặc dù bị nhà
cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đốn, các sách
báo nói trên vẫn được giữ bí mật truyền về Việt Nam vạch rõ
âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc, từ đó khơi dậy tinh
thần yêu nước, tinh thần dân tộc để đánh đuổi thực dân Pháp
xâm lược; Người nêu lên mối quan hệ giữa cách mạng vơ sản
và cách mạng giải phóng dân tộc qua hình ảnh chủ nghĩa đế
quốc là một con đỉa hai vòi. Muốn giết con vật ấy “người ta
phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vịi
thơi, thì cái vịi cịn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp
vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại
mọc ra”.

2.2 Về tổ chức
Với sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc
cùng một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của
Pháp thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa năm 1921 nhằm tập
hợp tất cả những người thuộc địa sống trên đất Pháp đấu
tranh chống chủ nghĩa thực dân. Và cũng thông qua hội này
để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê Nin đến các dân tộc thuộc
địa. Đến ngày 11-11-1924, Người tới Quảng Châu. Tại đây,
Người cùng các nhà cách mạng Trung Quốc, Thái Lan, Ấn
Độ,... sáng lập Hội Liên hiện các dân tộc bị áp bức (9/7/1925)
đã nêu bật được tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết dân tộc
trên thế giới.
Và bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức
cho sự ra đời của Đảng Cộng sản VN chính là Hội Việt Nam
cách mạng Thanh niên.


Hội được Nguyễn Ái Quốc thành lập vào tháng 6/1925
với cơ quan tuyên truyền của Hội là tờ báo Thanh niên. Sau
khi thành lập, Hội đã mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận giải phóng dân tộc cho
những người trong tổ chức nhằm thúc đẩy sự phát triển phong
trào cách mạng Việt Nam. Chống lại những đường lối dân tộc
chủ nghĩa hẹp hòi tiểu tư sản.
Hội đã giáo dục và giác ngộ nhiều người yêu nước chân
chính theo con đường Hồ Chí Minh, đào tạo và rèn luyện họ
thành những chiến sĩ cách mạng trung thành, làm nòng cốt
trong việc thành lập Đảng Cộng sản sau này.
Truyền bá chủ nghĩa Mác Lenin và tư tưởng cách mạng
Hồ Chí Minh vào trong phong trào công nhân và phong trào

yêu nước gắn liền với xây dựng các tổ chức cơ sở của Hội ở
nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng.
Từ năm 1925-1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện
chính trị tại Quảng Châu, đào tạo nên đội ngũ cán bộ cho
cách mạng Việt Nam. Những bài giảng ở đây của Người đã
được tập hợp thành cuốn “Đường cách mệnh”.
Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương “vơ sản hóa”, đưa
hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập
trường, quan điểm giai cấp công nhân, để truyền bá Chủ
nghĩa Mác-Lenin và lý luận giải phóng dân tộc nhằm thúc đẩy
sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam.
2.3 Về chính trị
Sự chuẩn bị về chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện thông qua


việc hình thành các quan điểm sau đây, trong đó ảnh hưởng
lớn nhất là cuốn “Đường cách mệnh”.
1.Chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ
nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới.
2.Xác định cách mạng giải phóng dân tộc là bộ phận của
cách mạng vô sản trên thế giới. Cách mạng giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng chính quốc có quan hệ
chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng không phụ thuộc
vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành cơng
trước cách mạng chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng
chính quốc.
3.Trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng
đông đảo nhất, bị đế quốc phong kiến áp bức nặng nề, vì vậy

cần phải thu phục và lội cuốn được công nhân, cần phải xây
dựng khối công nông làm động lực cách mạng, đồng thời tập
hợp được sự tham gia đông đảo các giai tầng khác tham gia.
4.Cách mạng muốn giành được thắng lợi, trước hết phải
có Đảng cách mạng nắm vai trò lãnh đạo. Đảng muốn vững
phải được trang bị chủ nghĩa Mác-Lenin.
5.Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân,
chứ không phải của một vài người, “cơng nơng là nguồn gốc
của cách mệnh; cịn học trị là nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ…là
bầu bạn cách mệnh của công nông”. Cách mạng “là việc
chung của cả dân chúng chứ khơng phải việc của một hai
người”. Vì vậy, cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ
chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao.


CHƯƠNG 3. HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ CƯƠNG
LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG.
3.1 Hội nghị thành lập Đảng.
3.1.1

Thành lập chi bộ cộng sản

đầu tiên và 3 tổ

chức cộng sản ra đời
Đầu năm 1929, phong trào công nhân, phong trào yêu
nước mạnh mẽ. Tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí hội khơng cịn phù hợp trước u cầu mới của phong trào
cách mạng.
Ngày 17-6-1929, đại biểu kỳ bộ Bắc Kỳ họp ở chùa

Hương Tuyết – phố Bạch Mai – Hà Nội tuyên bố thành lập
Đảng lấy tên Đông Dương Cộng sản Đảng.
Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội có nguy cơ
tan rã. Trung ương Việt Nam cách mạng đồng chí hội quyết
định cải tổ thành An Nam Cộng sản Đảng vào tháng 10/1929.
Để tồn tại và kịp thời đáp ứng yêu cầu cách mạng, tại
Trung Kỳ, Tân Việt cách mạng Đảng đổi thành Đông Dương
Cộng sản cuối năm 1929.
Chỉ trong vòng 6 tháng, ba tổ chức cộng sản lần lượt ra
đời chứng tỏ những điều kiện thành lập Đảng Cộng sản ở nước
ta đã chin muồi.
Những người cộng sản của ba tổ chức này đã đánh giá
nhau không đúng và chưa nhận thức được hiện tương phân
tán, chia rẽ về tổ chức của phong trào cộng sản sẽ dẫn đến
những nguy cơ gì. Vì vậy, khắc phục sự phân tán và chia rẽ về
tổ chức là nhiệm vụ cấp bách trước mắt của tất cả những
người cộng sản, cũng là đòi hỏi khẩn thiết của cách mạng


nước ta lúc bấy giờ. Yêu cầu của lịch sử là phải hợp nhất 3 tổ
chức đó lại thành một Đảng duy nhất để lãnh đạo cách mạng.
3.1.2

Hội nghị thành lập Đảng.

Ngày 3 – 7/2/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp
nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam tại Hương Cảng, Trung
Quốc với sự tham gia của hai đại biểu Đông Dương Cộng sản
Đảng và An Nam Cộng sản Đảng và hai đại biểu ngoài nước.
Hội nghị đã nhất trí:

Thống nhất thành lập một Đảng, lấy tên là Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Thơng qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều
lệ vắn tắt, Lời kêu gọi thành lập Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo.
Quyết định kế hoạch thống nhất các tổ chức cơ sở nhân
dân trong cả nước; thể thức cử Ban chấp hành Trung ương lâm
thời và bàn về viêc tiếp nhận Đông Dương Cộng sản Liên
đoàn…
Quyết định hợp nhất các đoàn thể quần chúng.
3.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Hội nghị thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách
lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng hợp
thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh xác
định những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam như sau:
3.2.1 Phương hướng chiến lược: “tư sản dân quyền cách
mạng” và “thổ địa cách mạng” để đi tới xã hội cộng sản.
3.2.2 Nhiệm vụ


Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm
cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.
Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân
hang…) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính
phủ cơng nơng bình.
Quốc hữu hóa tồn bộ đồn điền và đất đai của bọn đế
quốc và địa chủ phản cách mạng Việt Nam chia cho nông dân
nghèo.
Tổ chức quân đội công nông.
“Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung

nơng, Thanh niên, Tân Việt,… để kéo họ đi vào phe vơ sản giai
cấp. Cịn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản
An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải cách mạng
thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ
phận nào đã ra mặt phản cách mang thì phải đánh đổ. Trong
khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào
nhượng một chút lợi ích gì của cơng nơng mà đi vào đường
thỏa hiệp, trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam
độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị
áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai
cấp Pháp”.
“Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu
phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai
cấp mình lãnh đạo được dân chúng”.
3.2.3 Ý nghĩa Cương lĩnh chính trị
Xác định đúng đắn con đường giải phóng dân tộc và
phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam.


Giải quyết được cuộc khủng hoảng về đường lối cách
mạng Việt Nam.
Nắm được ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam
trong gần 80 năm qua đã chứng minh rõ tính khoa học và tính
cách mạng, tình đúng đắn và tiến bộ của Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng.

KẾT LUẬN
Nguyễn Aí Quốc, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là
tấm gương sáng về tinh thần cách mạng chí khí kiên cường

bất khuất, tồn tâm tồn ý phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân,
phục vụ cách mạng, tận tụy hy sinh suốt đời phấn đấu vì sự
nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng
lồi người, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội cộng sản.
Muốn cách mạng thành cơng thì điều kiện khơng thể
thiếu là phải có một chính đảng vững mạnh lãnh đạo. Hiểu
được sự bức thiết phải thành lập một chính đảng để phục vụ
việc giải phóng dân tộc.


Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của mình đã chuẩn bị
rất chu đáo về tư tưởng chính trị và tổ chức đến ngày 3-31930, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp chống
thực dân Pháp của nhân dân ta, đó là việc thành lập Đảng
cộng sản Việt Nam, mở ra một trang sử mới đầy vẻ vang của
dân tộc Việt Nam.
Trong đó vai trị to lớn nhất thuộc về Nguyễn Ái Quốc,
Người là cha đẻ của Đảng ta, là tượng trưng của sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa ý tưởng độc lập, tự do với lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa; giữa chủ nghĩa yêu nước nồng nàn với quốc tế
vô sản. Người đã tiếp thu phát huy tốt đẹp nhất truyền thống
của dân tộc Việt Nam và kết hợp những truyền thống ấy với
tư tưởng cách mạng triệt để của thời đại ngày nay, tư tưởng
chủ nghĩa Mác Lenin. Người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt
Nam và rèn luyện Đảng ta thành một Đảng cách mạng chân
chính của giai cấp cơng nhân.
Nguyễn Ái Quốc có vai trị rất lớn đối với việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã chuẩn bị đầy đủ và thành
công về tư tưởng, chính

trị và tổ chức cho việc thành lập


Đảng. Qua quá trình chuẩn bị ấy đã thể hiện sự vận dụng
đúng đắn, sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lenin của Nguyễn Ái Quốc
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam,…

DANH MỤC TÀI KIỆU THAM KHẢO
1. Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia mơn
khoa học Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2018) “ Giáo


trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Sự thật.
2. PGS.TS. PHẠM VĂN ĐỨC, PGS.TS. ĐẶNG HỮU TỒN,
TS. NGUYỄN ĐÌNH HỊA (Đồng chủ biên) (2009) “ Triết học Mác
và thời đại” , Nhà xuất bản khoa học xã hội.
3. Vũ Thọ, “Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp
giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân”.
4. Thạc sĩ Đặng Thị Lương, Thạc sĩ Trần Thị Hương,
Nguyễn Thị Phương (2014) Lịch sử xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nxb.Hà Nội
5. Nguyễn Minh Tuấn – Viên trưởng Viện xây dựng đảng,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, “Vai trò của Nguyễn
Ái Quốc với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Tạp chí
tổ chức nhà nước


×