Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TL LSĐ vai trò của nguyễn ái quốc trong quá trình thành lập đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.23 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
Dân tộc ta đã trải qua hơn bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước, vượt qua một chặng đường đấu tranh cực kì khó khăn và gian khổ,
giành được những thắng lợi vẻ vang. Từ thân phận người dân mất nước, nhân
dân ta đã anh dũng vùng lên, lần lượt đánh bại các cường quốc lớn mạnh, đưa
đất nước vào kỉ nguyên mới: kỉ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với Chủ
nghĩa xã hội. Lực lượng lãnh đạo nhân dân ta dành được những thắng lợi vĩ
đại đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một điều tất yếu lịch sử của cuộc
đấu tranh giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong thời đại
mới. Đảng là kết quả của một quá trình lựa chọn con đường cứu nước, tích
cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức của một tập thể cách mạng; là
một sự sàng lọc và lựa chọn nghiêm khắc của lịch sử cách mạng Việt Nam từ
khi mất nước vào tay Thực dân Pháp. Đảng ra đời là một bước ngoặt trọng đại
trong lịch sử cách mạng dân tộc Việt Nam.
Trước khi Đảng ra đời đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra nhưng
chúng đều bị thất bại trươc sự đàn áp dã man của thực dân Pháp. Chỉ đến năm
1924 Nguyễn Ái Quốc trở về thống nhất ba Đảng lúc bấy giờ thành một Đảng
duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam thì cuộc khủng hoảng về đường lối cách
mạng mới được giải quyết. Sự ra đời của Đảng gắn liền với tên tuổi của
Nguyễn Ái Quốc – người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam.
Bác là người Việt Nam đầu tiên nắm bắt Chủ nghĩa Mác- Leenin và vận dụng
sáng tạo vào đặc điểm lịch sử cách mạng dân tộc Việt Nam. Chính vì lẽ đó,
em lựa chọn đề tài “Vai trị của Hồ Chí MInh trong q trình thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam” để thấy rõ vai trò của Bác trong quá trình thành lập Đảng
cũng như trong quá trình giải phóng dân tộc thống nhất Tổ quốc.

1


NỘI DUNG


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT XÃ HỘI VIỆT NAM TRƯỚC KHI ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
1.1. Tình hình thế giới và tác động của nó tới cách mạng Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trên bình diện thế giới xuất hiện
những biến cố lịch sử mang tính chất là bước ngoặt của xã hội loại người.
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã chuyển từ giai đoạn
tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa (ĐQCN). Chính bước
chuyển này đã làm cho mâu thuẫn trong thế giới TBCN ngày càng trở nên gay
gắt: Mâu thuẫn vốn có trong CNTB là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất đã phát triển đến mức cần phải giải quyết. Mâu thuẫn này
tạo ra tính tất yếu của cách mạng vơ sản, phạm trù cách mạng thế giới chuyển
sang phạm trù cách mạng vô sản, cách mạng XHCN. Cùng với mâu thuẫn nội
tại trong bản thân mỗi nước tư bản thì thời điểm này cũng xuất hiện mâu
thuẫn giữa các nước tư bản với nhau do tranh giành thuộc địa, phân chia thị
trường và khu vực ảnh hưởng. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cuộc đại
chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918). Đặc biệt là sự thống trị tàn bạo của
CNĐQ làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với CNĐQ thực dân
ngày càng trở nên gay gắt và trở thành một vấn đề mang tính thời đại.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, một học thuyết cách mạng và khoa học đã khẳng định được vị trí và
được xem là vũ khí lý luận của giai cấp cơng nhân, đó là lý luận của Chủ
nghĩa Mác- Lênin. Không những thế, lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênnin
cũng chỉ ra cho các dân tộc thuộc địa con đường giải phóng mình.
Các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác- Lênin đã xây dựng nên học thuyết lý
luận cách mạng không ngừng, với nội dung cơ bản: Giai cấp công nhân, sau
khi đã trưởng thành về trình độ giác ngộ, trình độ tổ chức, có đủ khả năng và

2



điều kiện lãnh đạo cuộc cách mạng dân chủ tư sản trên cơ sở liên minh với
giai cấp nông dân đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế phong kiến. Dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân, sự liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân trở thành lực lượng chủ yếu đánh đổ chế độ chuyên chế
phong kiến, thành lập nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp công
nhân và giai cấp nông dân (gọi tắt là chun chính cơng nơng). Một cuộc cách
mạng như vậy được gọi là cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới. Sự hoàn
thành triệt để cuộc cách mạng đó có nghĩa là tạo lập chiếc cầu trực tiếp để
chuyển sang cách mạng XHCN và giữa chúng không có ''bức tường thành
ngăn cách''.
Lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin và đặc biệt là Lý luận cách mạng
không ngừng đã chỉ ra con đường giải phóng cho các dân tộc thuộc địa như
Việt Nam, đó là phải tiến hành một cuộc cách mạng theo con đường cách
mạng vô sản. Đồng thời Lênin cũng chỉ ra việc cần thiết phải xây dựng một
Đảng cộng sản kiểu mới của giai cấp công nhân.
Trong lúc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang phát triển
mạnh mẽ, đặc biệt là khi được trang bị bởi một học thuyết cách mạng và khoa
học, cuộc cách mạng vô sản đầu tiên nổ ra và giành thắng lợi tại Nga năm
1917.
Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng mười đã cổ vũ phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, đặc biệt là
nhân dân các nước thuộc địa. Cách mạng Tháng Mười đã thúc đẩy sự ra đời
của hàng loạt các đảng cộng sản trên thế giới: Đản cộng sản Đức, Đảng cộng
sản Hunggari (1918), Đảng cộng sản Mỹ (1919), Đảng cộng sản Anh, Đảng
cộng sản Pháp (1920)…
Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga 1917 cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, dẫn tới sự ra
đời của hàng loạt các đảng cộng sản. Tình hình đó địi hỏi phải có một tổ chức
3



quốc tế đứng ra lãnh đạo, tập trung sức mạnh của phong trào ở tất cả các quốc
gia, dân tộc (Quốc tế II đã khơng cịn vai trị tiên phong kể từ sau khi
Ăngghen qua đời năm 1895).
Tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập, với khẩu hiệu "Vô
sản thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại" đã đánh dấu một giai đoạn
mới của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. "Lần đầu tiên trong lịch
sử, quốc tế Cộng sản đã chỉ rõ sự đoàn kết tất yếu, liên minh chiến đấu giữa
giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa đang rên xiết dưới ách thống trị thực
dân". Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với cách
mạng Việt Nam: "Xem trong cách tổ chức Đệ tam quốc tế, có đặt ra một bộ
riêng, chuyên nghiên cứu và giúp đỡ cho cách mệnh bên Á- Đông… Xem
khẩu hiệu Đệ tam quốc tế, chẳng những rằng "vô sản giai cấp" mà lại thêm
câu "… và dân tộc bị áp bức trong thế giới liên hiệp lại"… Xem những việc
ấy thì đủ biết rằng An Nam muốn làm cách mệnh thành cơng, thì tất phải nhờ
Đệ tam quốc tế".
Như vậy, tình hình thế giới và những đặc điểm trên đây của thời đại có
ảnh hưởng to lớn tới cách mạng Việt Nam đặc biệt là quá trình hình thành
Đảng cộng sản Việt Nam.
1.2. Tình hình xã hội Việt Nam
Năm 1858, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược Việt Nam tại cửa biển
Đà Nẵng. Nhân dân ta đã đứng lên, anh dũng đấu tranh chống thực dân Pháp
xâm lược, song các phong trào đấu tranh đều lần lượt thất bại. Đến 1897, thực
dân Pháp đã áp đặt xong bộ máy cai trị ở nước ta và bắt đầu tiến hành khai
thác thuộc địa với những chính sách phản động và hà khắc.
Về chính trị, Pháp thực hiện chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp
nặng nề, mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người
Pháp: Tồn quyền Đơng Dương, Thống đốc Nam Kỳ, Thống sứ Bắc Kỳ,
Khâm sứ Trung Kỳ, Công sứ các tỉnh. Biến vua quan Nam Triều thành bù
4



nhìn tay sai. Biến Việt Nam từ một nước phong kiến thành nước thuộc địa nửa
phong kiến.
Thực dân pháp ra sức thi hành chính sách “ chia để trị “, chúng trực tiếp
nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, thi hành chính sách cai
trị chuyên chế, biến một bộ phận của giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong
kiến thành tay sai đắc lực, tạo nên sự cấu kết giữa chủ nghĩa đế quốc và
phong kiến tay sai, đặc trưng của chế độ thuộc địa. Sự cai trị của chính quyền
thuộc địa đã làm cho nhân dân ta mất hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ;
mọi phong trào yêu nước bị đàn áp dã man; mọi ảnh hưởng của các trào lưu
tiến bộ từ bên ngoài vào đều bị ngăn cấm.
Về kinh tế, 1897 Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần 1, sau chiến
tranh thế giới I (1914- 1918), chúng khai thác lần 2 - để bù vào những tổn thất
trong chiến tranh (vốn đầu tư với tốc độ nhanh, giai đoạn 1924 - 1928 hơn 6
lần 1847 - 1918), tập trung vào hai khu vực chủ yếu là đồn điền cao su và mỏ
than.
Tăng cường ngân hàng để cho vay nặng lãi và thâu tóm để kiểm sốt
các hoạt động kinh tế ở Đông Dương. Chúng tăng thuế lên 2 - 3 lần so với
trước, độc quyền thuốc phiện, rượu, muối.
Chúng thực hiện chế độ mộ phu cực kỳ man rợ và chiếm đoạt ruộng đất
của nông dân làm 50% nông dân ta mất ruộng đất. Đời sống nhân dân vô cùng
cực khổ. Chúng du nhập phương thức sản xuất TBCN làm cho quan hệ kinh
tế ở nông thôn bị phá vỡ và hình thành nên những đơ thị, khu dân cư và trung
tâm kinh tế mới. Chúng duy trì phương thức sản xuất phong kiến, kết hợp hai
phương thức sản xuất để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chúng khơng du nhập
phương thức sản xuất TBCN một cách hồn chỉnh, chính vì thế mà Việt Nam
khơng thể tiến lên TBCN bình thường được. Vì vậy nền kinh tế Việt Nam bị
kìm hãm trong vịng lạc hậu - vừa mang tính chất tư bản thực dân - vừa mang
tính chất phong kiến.

5


Về văn hóa, Thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa nơ dịch, ngu
dân, gây tâm lý tự ti, vong bản để chúng dễ bề thống trị... đồng thời chúng
cịn tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn khơng cho ảnh hưởng đến văn hóa
tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đó nói rõ về chính sách
này: "Chủ nghĩa tư bản Pháp đó vào Đơng Dương từ nửa thế kỷ nay; vì lợi ích
của nó, nó đã dựng lưỡi lê để chinh phục đất nước chúng tơi. Từ đó, chúng tơi
khơng những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã, mà cịn bị hành hạ và
đầu độc một cách thê thảm. Tụi xin nhấn mạnh từ "đầu độc" bằng thuốc
phiện, bằng rượu... Chúng tơi khơng có quyền cư trú và du lịch ra nước ngồi;
chúng tơi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm và chúng tơi khơng có quyền
tự do học tập".
Sự thống trị của thực dân Pháp đã để lại nhiều hậu quả trong nền kinh
tế- xã hội Việt Nam.
Về kinh tế, nền kinh tế Việt Nam không thể tiến lên TBCN bình thường
được, trái lại nó phát triển chậm chạp, què quặt, mất dần tính độc lập, ngày
càng lệ thuộc vào kinh tế Pháp; nó bị kìm hãm trong vịng lạc hậu - vừa mang
tính chất TB thực dân - vừa mang tính chất phong kiến.
Về xã hội, Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập đã trở thành một
nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn trong xã hội cũng bị chi phối bởi
đặc điểm này; xã hội Việt Nam hình thành nhiều mâu thuẫn đan xen lẫn nhau,
song mâu thuẫn chủ yếu nhất nổi lên lúc này là mâu thuẫn giữa toàn thể dân
tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động.
Về giai cấp cũng bị phân hóa triệt để do chính sách khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp, ngoài những giai cấp vốn có (địa chủ phong kiến và nơng
dân), xã hội Việt Nam xuất hiện những giai cấp mới như tư sản, tiểu tư sản,
vơ sản.
Thái độ chính trị của các giai cấp cũng có sự phân hố sâu sắc, theo đó

trong các giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản đều có những bộ phận có thể
6


lôi kéo, lợi dụng trong lực lượng cách mạng ; các giai cấp tiểu tư sản và nơng
dân đều có tinh thần hăng hái cách mạng, là lực lượng quan trọng của cách
mạng. Đặc biệt là công nhân, tuy chiếm khoảng 1% dân số nhưng là lực
lượng duy nhất có khả năng lãnh đạo cách mạng nếu được trang bị Chủ nghĩa
Mác- Lênin.
Trong bối cảnh đó, các phong trào yêu nước theo nhiều khuynh hướng
khác nhau đã diễn ra: Phong trào Cần Vương (1885 – 1896), Khởi nghĩa của
nông dân Yên Thế (1885 – 1913), Phong trào Đông Du (1906 – 1908), Phong
trào Duy Tân (1906- 1908), Phong trào yêu nước dân chủ công khai (1925 1926), Phong trào cách mạng quốc gia tư sản, gắn liền với hoạt động của Việt
Nam Quốc dân đảng (1927 - 1930)... Nhưng tất cả các phong trào đều lần lượt
thất bại, cách mạng Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng.

7


CHƯƠNG 2
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC THÀNH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

2.1. Tiểu sử vắn tắt của chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi
học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây
lấy tên là Nguyễn Ái Quốc), sinh ngày 19-5-1890 ở làng Kim Liên, xã Nam
Liên (nay là xã Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và mất ngày 2-91969 tại Hà Nội. Người sinh ra trong một gia đình: Bố là một nhà nho u
nước, nguồn gốc nơng dân; mẹ là nông dân; chị và anh đều tham gia chống

Pháp và bị tù đày.
Ngày 5-6-1911, Người ra nước ngoài, làm nhiều nghề, tham gia cuộc
vận động cách mạng của nhân dân nhiều nước, đồng thời không ngừng đấu
tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người
Việt Nam đầu tiên ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và tìm thấy ở
chủ nghĩa Mác- Lênin con đường giải phóng của giai cấp công nhân và nhân
dân các nước thuộc địa. Năm 1920, Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản
Pháp tại Đại hội Tua. Năm 1921, người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các
dân tộc thuộc địa Pháp; xuất bản tờ báo Người cùng khổ ở Pháp (1922). Năm
1923, Người được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924,
Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là
Uỷ viên thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam.
Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức
châu á, Xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925)
và Đường cách mệnh (1927).

8


Năm 1925, Người thành lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí
Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức “Cộng sản đồn” làm nịng cốt
cho Hội đó, đào tạo cán bộ Cộng sản để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào Việt Nam.
Ngày 3-2-1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu
Long (gần Hương Cảng). Hội nghị đã thơng qua Chính cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Điều lệ Đảng do chính Người soạn thảo. Người ra lời kêu gọi
nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đổi là Đảng Cộng sản Đông
Dương, rồi Đảng Lao động Việt Nam và nay là Đảng Cộng sản Việt Nam ).
Từ năm 1930 đến 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động cho
sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam của các dân tộc bị áp bức khác

trong những điều kiện vơ cùng gian khổ và khó khăn.
Năm 1941, Người về nước, triệu tập Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, quyết định đường lối cứu
nước, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh Hội (Việt Minh), tổ chức lực
lượng vũ trang giải phóng, chính sách căn cứ địa, lãnh đạo nhân dân khởi
nghĩa từng phần và chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả
nước.
Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thắng lợi, ngày 2-9-1945, tại Quảng
trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tun ngơn Độc lập tun bố
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tổ chức Tổng tuyển cử tự do
trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của
Việt Nam. Quốc hội khóa I đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa (1946). Cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo tồn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam phá tan âm mưu của đế
quốc, giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng.

9


Ngày 19-12-1946, người kêu gọi cả nước kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, bảo vệ và phát triển những
thành quả của Cách mạng Tháng Tám.
Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch
Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam
chống thực dân Pháp xâm lược đã giành được thắng lợi to lớn, kết thúc bằng
chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ (1954). Sau khi miền Bắc được hồn tồn
giải phóng (1955) Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời đấu tranh giải

phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hồn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã
nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III đã bầu Người làm
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cùng với Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân
dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ; lãnh đạo sự
nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn đưa cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người sáng lập ra Đảng MácxítLêninnít ở Việt Nam, sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng
lập ra các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hịa, góp phần tăng cường đoàn kết quốc tế. Người là tấm
gương sáng của tinh thần tập thể, ý thức tổ chức và đạo đức cách mạng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính
u của giai cấp cơng nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc,

10


một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải
phóng dân tộc.
2.2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam và sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức
2.2.1. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ
thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái
Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng

mới. Với khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho nước,
Nguyễn Tất Thành đã bất chấp mọi nguy hiểm, gian khổ, đi qua nhiều nước
của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã rút ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ
nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của cơng nhân và nhân dân
lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Cuối năm 1917, Người từ nước Anh trở lại nước Pháp và tham gia các
hoạt động xã hội. Năm 1919 Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một chính
đảng tiến bộ nhất lúc đó ở Pháp. Vào tháng 6-1919, nhân các nước thắng trận
họp Hội nghị Vecxay (Versailles), Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người
Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị Bản yêu sách của nhân dân Việt
Nam, gồm 8 điểm địi Chính phủ Pháp thực hiện quyền tự do, dân chủ, bình
đẳng cho dân tộc Việt Nam.
Tháng 7-1920, Người đã đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đăng trên báo L'Humanite (Nhân đạo)
của Đảng Xã hội Pháp. Qua Luận cương, Người đã tìm thấy con đường giải
phóng dân tộc. Cuối tháng 12-1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội
Pháp họp ở Tua (Tours) Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế thứ ba
và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
11


Sự kiện đó đã đánh dấu bước chuyển biến tư tưởng chính trị của
Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản.
Đồng thời cũng mở ra cho cách mạng Việt Nam một giai đoạn phát triển mới
"giai đoạn gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân
quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải
qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin".
Sau khi đã tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, từ năm
1921 Người tiếp tục học tập để bổ sung hoàn thiện tư tưởng cứu nước, đồng
thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam nhằm chuẩn bị

tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời chính đảng tiên phong ở
Việt Nam.
2.2.2. Sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về chính trị, tư tưởng, tổ
chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Bằng nhiều hoạt động, trong giai đoạn 1921 - 1929, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về
chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng:
Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào
trong nước. Nguyễn Ái Quốc đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối
cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong những
bài giảng của Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Năm 1927, những bài giảng của
người trong các lớp huấn luyện được in thành sách lấy tên là Đường Kách
mệnh. Tác phẩm chỉ ra vấn đề then chốt có tác dụng lớn khơng chỉ đối với
Việt Nam, mà cịn đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các
nước thuộc địa Phương Đông. Những vấn đề đó là: cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, chủ yếu là cơng nơng, vì vậy phải tổ chức quần chúng lại;
cách mạng muốn thành cơng phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải có

12


đường lối và phương pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc
phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng vô sản thế giới…
Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc
biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm
ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước
xích dần đến lập trường của giai cấp công nhân. Nội dung truyền bá là những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hóa cho phù hợp với
trình độ của các giai tầng trong xã hội. Những bài viết, bài giảng với lời văn

giản dị, nội dung thiết thực đã nhanh chóng được truyền thụ đến quần chúng.
Đồng thời, Người đã vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối
với nhân dân thuộc địa, nhân dân Việt Nam. Trong tác phẩm Đường Kách
mệnh, Người tố cáo thực dân Pháp đã bắt dân bản xứ phải đóng "thuế máu"
cho chính quốc... để "phơi thây trên chiến trường châu Âu"; "đày đọa" phụ
nữ, trẻ em thuộc địa; các thống sứ, quan lại thực dân "độc ác như một bầy thú
dữ" v.v... Tác phẩm đã "hướng các dân tộc bị áp bức" đi theo con đường cách
mạng Tháng Mười Nga, tiêu diệt "hai cái vòi của con đỉa đế quốc" – một
"vòi" bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc, một "vòi" bám vào nhân dân
thuộc địa và đề ra cho dân Việt Nam con đường cách mạng vô sản theo chủ
nghĩa Mác – Lênin.
Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho
sự ra đời của chính đảng vơ sản của giai cấp cơng nhân Việt Nam. Đó là huấn
luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng
Châu (Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí.
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã giúp cho những người Việt Nam yêu
nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng

13


của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Người trong chuẩn
bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của
nhân dân ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa
Mác - Lênin được Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về
trong nước, cùng với phong trào "vơ sản hố" đã làm chuyển biến phong trào
cơng nhân, giác ngộ họ và tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác.
Thông qua phong trào “vô sản hoá”, lớp lớp thanh niên yêu nước được rèn

luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ
nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thúc đẩy
phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự
ra đời của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều kiện chín muồi
và hợp qui luật cho sự ra đời của Đảng.
Có thể thấy rằng, sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức
cho việc ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam vào những ngày đầu năm 1930 là
những đóng góp to lớn, vững chắc và là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam của Nguyễn Ái Quốc - Người thanh niên yêu nước chân chính, tài ba, lỗi
lạc. Nhờ hoạt động khơng mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều
đồng chí cách mạng tiền bối mà đến cuối năm 1929, đầu năm 1930, những
điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vơ sản ở Việt Nam đã chín muồi.
2.3. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức
cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng
Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt
Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất
Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7-2-1930.

14


Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng
sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đơng Dương Cộng sản Liên đồn) thành
Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện:
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn
tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo,
được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua

lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng
sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập
Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội
thành lập Đảng. Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do
Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2
dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã phản ánh sự kết hợp giữa đấu tranh
giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; đồng
thời, là sản phẩm của sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó là
một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm
dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước. Sự thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp
công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện
Đảng ta.
2.4. Một số nhận xét

15


Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - một tất yếu
lịch sử. Tuy nhiên, những chuyển biến của lịch sử, sự vận động của quy luật
thành lập Đảng chịu sự tác động trực tiếp của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các
nhà cách mạng Việt Nam. Vậy nên việc ngiên cứu tìm hiểu vai trị của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam có ý nghĩa to
lớn để thấy được sự tài năng của bác, hơn hết là sự hy sinh hết lịng vì nước,

vì dân của Người.
Vai trị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá trình chuẩn bị thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện tập trung ở 3 vấn đề lớn.
Một là, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy và lựa chọn con đường cứu
nước đúng đắn cho dân tộc ta.
Từ cuối thế kỷ XIX, do sự bất lực của triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam
từ một quốc gia độc lập, thống nhất có chủ quyền bị thực dân Pháp xâm lược
và biến thành thuộc địa. Chế độ cai trị độc tài và chuyên chế đã làm cho xã
hội Việt Nam biến đổi toàn diện, mạnh mẽ, với sự lệ thuộc, lạc hậu của xã hội
và sự bần cùng của đại đa số dân cư. Với truyền thống yêu nước và tinh thần
quật cường dân tộc, ngay khi đất nước đối đầu với họa ngoại xâm, khi triều
Nguyễn ngày càng lún sâu vào vũng bùn đầu hàng, từ bỏ chủ quyền quốc gia
cho thực dân Pháp, nhiều phong trào yêu nước đã diễn ra. Mục tiêu chung là
bảo vệ, khơi phục nền độc lập dân tộc, tồn vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc gia,
chấn hưng đất nước, tiêu biểu như khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa Bãi Sậy,
khởi nghĩa Hương Khê, phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế trong hệ
tư tưởng phong kiến cuối thế kỷ XIX, qua các phong trào Đông Du, Đông
Kinh nghĩa thục, Duy Tân theo xu hướng dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX,
phong trào chống thuế ở Trung Kỳ… Tuy nhiên, các phong trào yêu nước đó
đều đi đến thất bại.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của các phong trào yêu nước,
song nguyên nhân chính là thiếu lực lượng lãnh đạo, chưa có hệ tương tưởng
16


khoa học dẫn đường, chưa có lý luận và đường lối cách mạng đúng đắn, sáng
tạo và nhất là chưa có một tổ chức lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự thất bại của các phong trào yêu nước thể
hiện sự khủng hoảng, bế tắc của các phương cách cứu nước truyền thống Việt
Nam trước sự chuyển biến của thời cuộc. Song sự thất bại đó khơng hề vơ ích,

nó là động lực thơi thúc ý chí vươn lên sáng tạo của con người Việt Nam,
đồng thời đặt ra yêu cầu cấp bách phải có một ánh sáng mới soi đường, dẫn
dắt.
Trong bối cảnh lịch sử đó, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với lịng
u nước, thương dân sâu sắc, lại sớm được tiếp thu những tư tưởng tiến bộ
của nhân loại về “tự do, bình đẳng, bắc ái” được truyền đến Việt Nam, với
tầm nhìn chiến lược và phương pháp tư duy sáng tạo đã sớm hình thành ý chí
cứu nước, cứu đồng bào ở Người. Người nhận thấy những bất cập và bế tắc
của con đường cứu nước của thế hệ cha anh đang tiến hành và yêu cầu bức
bách đối với dân tộc là phải tìm kiếm con đường cách mạng mới và Người đã
đảm đương trọng trách đó.
Trải qua gần 10 năm nghiên cứu, khảo nghiệm, học tập, tìm tịi, hoạt
động khơng ngừng ở nhiều quốc gia, ở hầu khắp các châu lục. Tháng 7/1920,
lần đầu tiên Người đọc: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân Đạo (L’Humanite), số
ra ngày 16 và 17/7/1920. Luận cương lập tức thu hút sự chú ý đặc biệt của
Nguyễn Ái Quốc. Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng đắn giải phóng đất
nước khỏi ách thực dân, cứu dân cứu nước là theo con đường cách mạng vơ
sản, con đường có mục đích cao cả là giải phóng dân tộc để tiến tới giải
phóng con người. Sau này Người viết: “Luận cương của Lênin đã làm cho
tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tơi vui mừng đến
phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói
trước quần chúng đơng đảo: “Hỡi đồng bào bị đày đọa và đau khổ! Đây là cái

17


cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta! Từ đó tơi
hồn tồn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”
Nguyễn Ái Quốc trở thành người Việt Nam đầu tiên, nghiên cứu, tổng

kết, tìm ra bản chất của các học thuyết, các cuộc cách mạng trên thế giới, chắt
lọc, vận dụng và phát triển cho phù hợp với dân tộc mình. Năm 1927, trong
tác phẩm Đường Kách mệnh, Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” (2). Cũng trong tác phẩm đó, Người đã thấy sự
cần thiết phải có Đảng để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đặt vấn đề
cách mệnh trước hết phải có cái gì? Người chỉ rõ: “Trước hết phải có Đảng
cách mệnh” và “Đảng có vững cách mệnh thì mới thành cơng, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt... Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí
khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam” (3).
Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức sâu sắc sự gắn bó mật thiết giữa giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con
người. Và Người cũng sớm nhận thức rõ, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân
tộc chân chính là một động lực lớn của cách mạng và đã kết hợp tài tình chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác – Lênin – học thuyết cách mạng tiên tiến
nhất của thời đại. Người nhận thức, chỉ có kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước mới có thể xây dựng được
một Đảng cách mạng chân chính đảm bảo cho cách mạng phát triển đúng
hướng và đi đến thắng lợi.
Hai là, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào trong nước, chuẩn bị
những điều kiện cần thiết cho sự ra đời của Đảng.
Trong giai đoạn 1921 - 1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích cực
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư
tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng. Ở đây có ba điểm rất đáng lưu ý:
18


Thứ nhất, khi truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc không bê nguyên xi mà vận dụng sáng tạo. Nghĩa là, chủ

nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam đã qua “nung nấu trí tuệ Hồ Chí Minh”. Vì
thế, Người đã chọn những vấn đề căn cốt nhất, cách diễn đạt ngắn gọn, dễ
hiểu nhất… Do đó, dễ dàng được dân tộc Việt Nam, trước hết là những nhà
cách mạng tiếp thu.
Thứ hai, Người không chỉ truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào phong
trào cơng nhân mà cịn truyền bá vào phong trào yêu nước. Do đó, tạo ra một
cơ sở xã hội rộng lớn cho chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam, tạo sự
chuyển biến về chất của phong trào yêu nước Việt Nam. Từ đó, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự ra đời của đảng cộng sản ở Việt Nam.
Thứ ba, phương pháp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng rất đặc biệt. Người tuyên truyền thông qua
các bài viết, tác phẩm, bài báo (đặc biệt là báo Thanh niên); thông qua tổ chức
(Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên) và thông qua những con người cụ thể
(các lớp học tại Quảng Châu -Trung Quốc, phong trào “vơ sản hóa” tại Việt
Nam). Với những cách tun truyền đặc biệt này, một mặt giúp cho truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam nhanh và sâu rộng hơn; mặt khác, cùng
với truyền bá truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam là quá trình
chuẩn bị về tổ chức cho sự ra đời của Đảng sau này.
Tất cả những sự chuẩn bị này của Nguyễn Ái Quốc có ý nghĩa vơ cùng
quan trọng. Người chuẩn bị đầy đủ mọi mặt về chính trị, tư tưởng và tổ chức
cho sự ra đời của Đảng. Đây là cơ sở, nền móng vững chắc cho sự ra đời
Đảng.
Ba là, chuẩn bị và chủ trì hội nghị thành lập Đảng.
Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm (Thái Lan), mặc
dù chưa nhận được chỉ thị của Quốc tế cộng sản về yêu cầu thống nhất các tổ
chức cộng sản ở Việt Nam. Song với sự nhạy bén về chính trị, sự chủ động
19


cao, thực hiện trọng trách lịch sử đối với dân tộc, với vai trò, trách nhiệm

trong Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp
nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập Đảng Cộng Sản
Việt Nam. Từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu Long – Hồng
Công (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất đã được tiến hành dưới sự chủ trì của
Nguyễn Ái Quốc. Tham dự Hội nghị có các đại biểu của Đông Dương Cộng
sản Đảng (2 đại biểu) và An Nam Cộng sản Đảng (2 đại biểu) và 2 đại biểu
hải ngoại (Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn). Cịn Đơng Dương Cộng sản Liên
đồn đã thành lập, song chưa có liên hệ, nên chưa được triệu tập đại biểu đến
dự (và ngày 24/02/1930, tổ chức này được hợp nhất vào Đảng Cộng sản Việt
Nam). Với sự nhất trí cao, Hội nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam
và thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng,
Điều lệ vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng.
Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo, đã
thể hiện rõ con đường giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam là “làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng” (tức cách mạng dân tộc
dân chủ), “thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng” để đi
tới xã hội cộng sản”. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa
cách mạng, tức cách mạng dân tộc, dân chủ, trong đó giành hết độc lập dân
tộc được đặt ở vị trí trên hết. Ở Việt Nam, trước hết phải làm “dân tộc cách
mệnh”, tức trước hết phải đánh đổ sự cai trị, nô dịch dân tộc của chủ nghĩa đế
quốc, giành lại quyền bình đẳng dân tộc, tự do cho dân nước mình: “dân tộc
cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí
chống lại cường quyền”. Có thể thấy, trong Chánh cương vắn tắt, Hồ Chí
Minh đã thực hiện 3 cuộc giải phóng cách mạng vơ sản ở một nước thuộc địa
như nước ta là: giải phóng dân tộc phải tiến hành trước tiên, tạo tiền đề giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Nói một cách khác giải phóng, giành độc
20



lập dân tộc là bước đi đầu tiên của cuộc cách mạng vô sản ở nước thuộc địa, ở
Việt Nam. Đây là một luận điểm cơ bản, chính yếu trong Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng. Đây cũng là một đóng góp đặc sắc, bổ sung phát triển chủ
nghĩa Mác –Lênin trên phương diện lý luận về các mô hình vận động, phát
triển của cuộc cách mạng vơ sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, có vai trị to lớn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện những nỗ lực hoạt động nhận thức, phát
triển lý luận cách mạng gắn liền với hoạt động thực tiễn không mệt mỏi của
Người, đặc biệt là ở những luận điểm cách mạng độc đáo và sáng tạo, xác lập.
Nói cách khác, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp của
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước.
Trải qua 90 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, sự nghiệp cách mạng
nước ta đã giành được những thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử và thời đại.
Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự dẫn dắt của lãnh tụ Hồ Chí Minh
đã đồn kết, đồng lịng đánh thắng các thế lực thù địch, những chiến công đã
đi vào lịch sử như Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cuộc kháng chiến chống
Pháp 1945, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975. Đặc biệt,
những thành tựu của công cuộc đổi mới gần 35 năm qua, càng chứng minh
cho sự lựa chọn đắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và khẳng
định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những thắng lợi to lớn đó
đã chứng minh một chân lý: “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng
đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”
Có thể thấy, trong hành trình ra đi tìm đường cứu nước (1911 - 1930),
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã có vai trị quan trọng đối với việc thành lập Đảng.
Vai trò quan trọng của Người thể hiện rõ qua việc tìm thấy và lựa chọn con

21



đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam; chuẩn bị về chính trị, tư
tưởng, tổ chức và chủ động triệu tập, chủ trì Hội nghị thành lập Đảng.
Từ đó, đã góp phần vơ cùng quan trọng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam vào mùa Xuân năm 1930 - người lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đưa
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác gần 90 năm qua.
Do đó, có thể xác định lại quy luật ra đời của Đảng ta đúng như lịch sử đã
diễn ra là Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.

22


KẾT LUẬN
Nguyễn Ái Quốc, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là tấm gương
sáng về tinh thần cách mạng, ý chí kiên cường bất khuất, tồn tâm tồn ý
phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, tận tụy hi sinh suốt đời
phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng
lồi người, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội cộng sản.
Muốn cách mạng thành cơng thì điều kiện khơng thể thiếu là phải có
một chính đảng vững mạnh lãnh đạo. Hiểu được sự bức thiết phải thành lập
một chính đảng để phục vụ việc giải phóng dân tộc.
Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của mình chuẩn bị rất chu đáo về tư
tưởng chính trị và tổ chức và đến ngày 3-2-1930, đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng trong sự nghiệp chống thực dân Pháp của nhân dân ta, đó là việc
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, mở ra một trang sử mới đầy vẻ vang của
Dân tộc Việt Nam.
Trong đó vai trị to lớn nhất thuộc về Nguyễn Ái Quốc – Người là cha
đẻ của Đảng ta, là tượng trưng của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ý tưởng độc

lập, tự do với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa; giữa chủ nghĩa yêu nước nồng nàn
với quốc tế vô sản. Người đã tiếp thu phát huy tốt đẹp nhất truyền thống của
dân tộc Việt Nam và kết hợp những truyền thống ấy với tư tưởng cách mạng
triệt để của thời đại ngày nay, Tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lê nin. Người đã
sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và rèn luyện Đảng ta thành một Đảng cách
mạng chân chính của giai cấp cơng nhân.
Nguyễn Ái Quốc có vai trị rất lớn đối với việc thành lập Đảng cộng
sản Việt Nam. Người đã chuẩn bị đầy đủ và thành cơng về tư tưởng, chính trị
và tổ chức cho việc thành lập Đảng. Qua quá trình chuẩn bị ấy đã thể hiện sự
vận dụng đúng đắn, sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lê nin của Nguyễn Ái Quốc
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam. . .
23


Nghiên cứu về vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình
thành lập Đảng cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm hết sức quý báu: bài
học về vận dụng lý luận vào thực tiễn (sáng tạo, bám sát thực tiễn Việt Nam);
bài học về tính chủ động, bản lĩnh độc lập, tự chủ; bài học về sự trung thành
với những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê nin v.v.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam –
NXB Chính trị Quốc gia
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1998,
3. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, 2011, tr.562.

4. Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 2, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, 2011, tr.289.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.2
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.66.
7. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Lịch sử - Lịch sử
Việt Nam, Tập 7 (từ năm 1897 - 1918), Nxb Khoa học xã hội, H. 2013, tr.
172.
8. Hồ Chí Minh - Tồn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 424.
9. Đại cương lịch sử Việt Nam
10. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh – NXB Chính trị Quốc gia.
11. Tạp chí Xây dựng Đảng
12. Tạp chí Cộng sản.
13. Và một số trang báo điện tử khác…

25


×