1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện
tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của thế hệ tương
lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, đảm bảo tiến
bộ xã hội và bảo vệ môi trường (Luật BVMT, 2005) [7].
Phát triển bền vững ngày càng trở thành trung tâm của sự phát triển
trong mọi lĩnh vực khi xã hội bước vào thế kỉ 21. Vấn đề ô nhiễm môi trường
ngày càng trở thành vấn đề đáng lưu tâm song song với sự đi lên nhanh chóng
của nền kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến mạnh mẽ.
Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa diễn ra hết sức khẩn trương, bộ mặt
xã hội có những chuyển biến tích cực. Cùng với sự phát triển trên quá trình đô
thị hóa ở Việt Nam cũng đang phát triển không ngừng cả về tốc độ lẫn qui
mô, về số lượng lẫn chất lượng. Cho đến nay, nó không chỉ phát triển ở các
thành phố, khu đô thị lớn của nước ta mà còn đang mở rộng ra các vùng lân
cận. Kinh tế xã hội phát triển, đời sống của người dân được cải thiện đáng kể,
mức sống của người dân ngày càng được nâng cao thì nhu cầu tiêu dùng, sử
dụng các loại dịch vụ ngày càng tăng, cùng với sự gia tăng dân số điều này
đồng nghĩa với việc lượng rác thải phát sinh ngày càng nhiều và trên diện
rộng. Đó là nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí
ở các địa phương. Làm thể nào để công tác quản lý rác thải có một lối thoát
riêng phù hợp với tình hình Việt Nam nói chung và các địa phương nói riêng.
Phát triển kinh tế cần đi đôi với bảo vệ môi trường nhằm hướng tới phát triển
bền vững. Câu hỏi đặt ra yêu cầu có sự hợp sức của tất cả các ban ngành, địa
phương, nhân dân trong toàn quốc cùng với sự giúp đỡ của các tổ chức nước
ngoài để giải quyết vấn đề mang tính toàn cầu này.
Người ta thường nghĩ “rác là thứ bỏ đi” và tìm cách loại bỏ nó. Điều
này là rất khó khăn khi mà lượng rác thải sinh hoạt phát sinh ngày càng nhiều.
Quản lý rác thải là một trong những khâu tồn tại nhiều vấn đề nhất hiện nay,
chưa có đánh giá một cách đầy đủ dẫn đến việc thu gom và quản lý rác thải
gặp nhiều khó khăn và chưa có biện pháp xử lý phù hợp.
Xuất phát từ thực trạng trên, nhằm tìm ra biện pháp quản lý rác thải
sinh hoạt phù hợp với địa phương và đảm bảo phát triển bền vững. Được sự
đồng ý của Ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm Khoa Tài Nguyên và
2
Môi Trường Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Dưới sự hướng dẫn
của cô giáo: Th.S Vũ Thị Quý, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh
giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn
thị trấn Hương Khê - huyện Hương Khê - tỉnh Hà Tĩnh”.
1.2. Mục đích của đề tài
Đánh giá được hiện trạng rác thải sinh hoạt và công tác quản lý rác thải
trên địa bàn thị trấn Hương Khê. Từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao
công tác quản lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn, góp phần cải thiện
chất lượng môi trường ở địa phương nhằm hướng tới phát triển bền vững.
1.3. Mục tiêu đề tài
- Đánh giá được điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thị trấn Hương
Khê.
- Đánh giá được hiện trạng rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Hương
Khê
- Đánh giá được tình hình quản lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn
Hương Khê
- Đánh giá được nhận thức của cộng đồng về công tác quản lý rác thải
sinh hoạt
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý
rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Hương Khê
1.4. Ý nghĩa đề tài
- Trong học tập và nghiên cứu khoa học:
+ Giúp sinh viên có cơ hội tiếp cận với cách thức thực hiện một đề tài
nghiên cứu khoa học.
+ Vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế.
+ Nâng cao kiến thức, kĩ năng và rút ra những kinh nghiệm thực tế
phục vụ cho công tác sau này.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Đánh giá được điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội, hiện trạng rác thải
sinh hoạt và công tác quản lý chúng, đánh giá nhận thức của cộng đồng .
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý
rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Hương Khê.
3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Các khái niệm liên quan
2.1.1.1. Khái niệm về chất thải
- Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác (Luật BVMT, 2005) [7].
- Chất thải là sản phẩm được sinh ra trong quá trình sinh hoạt của con
người, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ, giao thông,
sinh hoạt gia đình, trường học, các khu dân cư, nhà hàng, khách sạn. Ngoài ra,
còn phát sinh trong giao thông vận tải như khí thải của các phương tiện giao
thông. Chất thải là kim loại, hóa chất từ các vật liệu khác (Nguyễn Xuân
Nguyên, 2004) [8].
2.1.1.2. Khái niệm về chất thải rắn
Theo điều 3 Nghị định 59/2007/NĐ - CP ngày 09/04/2007 của chính
phủ về quản lý chất thải rắn quy định:
+ Chất thải rắn: là chất thải ở thể rắn được thải ra từ quá trình sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác.
+ Chất thải rắn sinh hoạt: là CTR phát sinh trong sinh hoạt cá nhân, hộ
gia đình, nơi công cộng.
+ CTR công nghiệp: là CTR phát sinh từ hoạt động sản xuất công
nghiệp, làng nghề, kinh doanh, dịch vụ hoặc các hoạt động khác.
+ Phế liệu: là sản phẩm, vật liệu bị loại ra trong quá trình sản xuất hoặc
tiêu dùng được thu hồi để tái chế, tái sử dụng làm nguyên liệu cho quá trình
sản xuất sản phẩm khác.
+ Thu gom CTR: là hoạt động tập hợp, phân loại, đóng gói và lưu giữ
tạm thời CTR tại nhiều điểm thu gom tới thời điểm hoặc cơ sở được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền chấp nhận.
+ Lưu giữ CTR: là việc giữ CTR trong một khoảng thời gian nhất định
ở nơi cơ quan có thẩm quyền chấp nhận trước khi chuyển đến cơ sở xử lý.
+ Vận chuyển CTR: là quá trình chuyên chở CTR từ nơi phát sinh, thu gom,
lưu trữ, trung chuyển đến nơi xử lý, tái chế tái sử dụng hoặc chôn lấp cuối cùng.
4
+ Xử lý CTR: là quá trình sử dụng các giải pháp công nghệ, kỹ thuật
làm giảm, loại bỏ, tiêu hủy các thành phần có hại hoặc không có ích trong
CTR; thu hồi, tái chế, tái sử dụng lại các thành phần có ích trong CTR [9].
- CTR gồm các chất hữu cơ như: thức ăn thừa, giấy, carton, nhựa, vải,
cao su, gỗ, xác động thực vật,… và các chất vô cơ như: thủy tinh, nhôm, đất
cát, phế liệu, kim loại khác,… (Nguyễn Đình Hương, 2003) [13].
2.1.1.3. Khái niệm về chất thải nguy hại
+ Chất thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, dễ
cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm, gây ngộ độc hoặc đặc tính nguy hại
khác (Luật BVMT, 2005) [7].
+ Chất thải nguy hại là chất có chứa các chất hoặc hợp chất mang một
trong các đặc tính gây nguy hại trực tiếp(dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn, dễ lây
nhiễm, gây ngộ độc và các đặc tính nguy hại khác) hoặc tương tác với các
chất khác gây nguy hại tới môi trường và sức khỏe con người (Nguyễn Đức
Khiển 2003, Quản lý chất thải nguy hại) [10].
+ Quản lý chất thải: Là hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển,
giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, thiêu hủy, thải loại chất thải (Luật
BVMT, 2005) [7].
2.1.1.4. Khái niệm về rác thải sinh hoạt
+ Rác: là thuật ngữ dùng để chỉ CTR hình dạng tương đối cố định, bị
thải bỏ từ các hoạt động của con người (Trần Hiếu Nhuệ và cs, 2001) [15].
. + Rác thải sinh hoạt hay CTR sinh hoạt là một bộ phận của CTR, được
hiểu là các CTR phát sinh từ các hoạt động sinh hoạt hàng ngày của con
người từ các khu dân cư, cơ quan, trường học …Vì vậy, rác thải sinh hoạt cần
được phân loại và có biện pháp tái chế, tái sử dụng, xử lý phù hợp để thu hồi
năng lượng và bảo vệ môi trường (Nguyễn Thế Chinh, 2003) [11].
+ Quản lý rác thải sinh hoạt: Là hoạt động quy hoạch quản lý, đầu tư,
xây dựng cơ sở quản lý rác thải sinh hoạt. Thu gom, lưu giữ vận chuyển, tái
sử dụng, tái chế và xử lý rác thải sinh hoạt để giảm ô nhiễm môi trường.
5
2.1.2. Nguồn phát sinh và phân loại chất thải rắn
2.1.2.1. Nguồn phát sinh
Hộ dân, khu dân cư
Chất thải rắn
Chợ
Cơ quan, trường học
Bệnh viện, cơ sở y tế
Thương mại, dịch vụ
Các nguồn khác (vui chơi, rác quét đường, xử lý chất thải,…)
Công nghiệp
Nông nghiệp
Hình 2.1. Sơ đồ nguồn phát sinh chất thải rắn
+ Hộ gia đình (nhà ở riêng biệt, khu tập thể, chung cư…): Thực phẩm
thừa, carton, nhựa, vải, da, gỗ vụn, thủy tinh, nilon, vỏ lon các loại, các kim
loại khác, tro, lá cành cây, các chất thải đặc biệt(đồ điện hỏng, pin, acqui, dầu
nhớt, lốp xe…) và các chất độc hại sử dụng trong gia đình.
+ Thương mại (kho, quán ăn, chợ, văn phòng, khách sạn, nhà in, trạm
xăng dầu, gara,…): thức ăn thừa, nhựa, kim loại, carton, thủy tinh, dầu mỡ,
lốp xe, các chất độc hại (acqui, sơn…),…
+ Cơ quan (trường học, bệnh viện, các cơ quan hành chính,…): Giấy
carton, nhựa, thức ăn thừa, thủy tinh, kim loại, các chất độc hại (chất thải y tế,
mực in,…).
+ Xây dựng, di dời (các địa điểm xây dựng mới, sửa chữa đường xá,di dời
nhà cửa, cây cối, …): Gỗ, cành lá cây, thép, cát đá, bê tông, vữa, xi măng,…
+ Các nhà máy xử lý ô nhiễm (xử lý rác thải, nước thải, chất thải công
nghiệp,…): tro, bùn, cặn,…
+ Công nghiệp (xây dựng, chế tạo, công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng,
lọc dầu, nhà máy hóa chất, nhà máy điện,…): Chất thải từ quá trình công
nghiệp, chất thải không phải từ quá trình công nghiệp như thức ăn thừa, tro,
bã, chất thải xây dựng, các chất thải độc hại,…
+ Nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi,…): rơm rạ, phế thải nông nghiệp,
phế thải chăn nuôi, các chất độc hại như chai lọ, bao bì đựng phân bón, hóa
chất bảo vệ hực vật,…(Nguyễn Đình Hương, 2003) [13].
2.1.2.2. Phân loại chất thải rắn
6
Có nhiều cách phân loại CTR khác nhau. Phân loại CTR có thể dựa vào
nguồn gốc, trạng thái, tính chất của chất thải,…
+ Phân loại CTR theo nguồn gốc phát sinh:
- Chất thải sinh hoạt: là những chất thải liên quan đến hoạt động sinh
hoạt của con người, nguồn tạo thành chủ yếu từ các khu dân cư, cơ quan
trường học, các trung tâm dịch vụ thương mại,…
- Chất thải công nghiệp: là chất thải sinh ra do các hoạt động sản xuất
công nghiệp gây ra. Các chất thải này có thể ở dạng khí, lỏng, rắn. Lượng và
loại chất thải phụ thuộc vào loại hình công nghiệp, mức tiên tiến của công
nghiệp và thiết bị, qui mô sản xuất.
- Chất thải nông nghiệp: Là những chất thải thải ra từ các hoạt động
nông nghiệp như trồng trọt thu hoạch các loại cây trồng, từ quá trình chế biến
nông sản,…
- Chất thải y tế: Chất thải từ các bệnh viện, trạm y tế như: dây truyền
dịch, dây truyền máu, bình đựng dịch truyền, găng tay cao su,
- Chất thải xây dựng: Là các phế thải như đất, đá gạch ngói,… Các
chất thải từ các hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật như trạm xử lý nước thiên
nhiên, nước thải sinh hoạt, bùn từ các cống thoát nước,
+ Phân loại CTR theo trạng thái chất thải:
- Chất thải trạng thái rắn: Bao gồm chất thải sinh hoạt, chất thải nhà
máy chế tạo, xây dựng (kim loại, da, nhựa, thủy tinh,…).
- Chất thải lỏng: Phân bùn bể phốt, nước thải từ nhà máy lọc dầu, nước
thải từ nhà máy giấy và vệ sinh công nghiệp,…
- Chất thải trạng thái khí: bao gồm khí thải các động cơ đốt trong, máy
động lực, tàu hỏa, nhà máy nhiệt điện, sản xuất vật liệu,…
+ Phân loại theo tính chất nguy hại:
- Vật phẩm nguy hại sinh ra tại các bệnh viện, cơ sở y tế trong quá trình
điều trị người bệnh (các loại vật phẩm gây bệnh thông thường được xử lý ở
chế độ nhiệt cao, từ 1150
0
C trở lên, cá biệt có loại vsv gây bệnh bị tiêu diệt
khi nhiệt độ xử lý lên tới 3000
0
C, )
- Kim loại nặng: Các chất thải sinh ra trong quá trình sản xuất công nghiệp
có thành phần As, Pb, Hg, Cd,… là mầm móng gây bệnh ung thư cho con người.
7
- Các chất phóng xạ, các phế thải có phóng xạ sinh ra trong quá trình xử lý
giống cây trồng, bảo quản, khai khoáng,…( Nguyễn Xuân Nguyên, 2004) [8].
* Phân loại rác thải sinh hoạt
- Rác hữu cơ: Thực phẩm thừa, các sản phẩm làm từ giấy, sợi, gỗ, tre,
mây,chất dẻo, da và cao su,…
- Rác vô cơ: Các sản phẩm được làm từ kim loại, thủy tinh, nhựa,…
- Rác khác: là những sản phẩm không thuộc 2 loại trên.
2.2. Tình hình quản lý, xử lý rác thải trên thế giới và ở Việt Nam
2.2.1. Tình hình quản lý và xử lý rác thải trên thế giới
Trong vài thập kỉ vừa qua, do sự phát triển của khoa học kỹ thuật dẫn đến
sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, do sự bùng nổ dân số, vấn đề chất thải gây
ÔNMT sống đã trở thành vấn đề lớn của hầu hết các nước trên thế giới
(Hoàng Kim Cơ, 1999) [6].
Theo Nguyễn Thị Anh Hoa (2006), mức độ đô thị hóa cao thì lượng chất
thải tăng lên theo đầu người, ví dụ cụ thể ở một số quốc gia hiện nay: Canada
1,7 kg/người/ngày; Australia 1,6 kg/người/ngày; Thụy Sỹ 1,3 kg/người/ngày;
Thụy Điển 1,3 kg/người/ngày; Trung Quốc 1,3 kg/người/ngày.
Đô thị hóa và phát triển kinh tế thường đi đôi với mức tiêu thụ tài
nguyên và tỷ lệ phát sinh chất thải tăng lên tính theo đầu người. Dân thành thị
ở các nước phát triển phát sinh chất thải nhiều hơn các nước đang phát triển
gần 6 lần, cụ thể ở các nước phát triển là 2,8 kg/người/ngày; ở các nước đang
phát triển là 0,5 kg/người/ngày [12].
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, các nước có thu nhập cao chỉ có
khoảng 25 - 35% chất thải sinh hoạt trong toàn bộ dòng chất thải rắn đô thị.
+ Ở Anh: Các số liệu thống kê gần đây cho thấy hàng năm tạo ra 307
triệu tấn chất thải.
+ Theo số liệu thống kê mới đây của Bộ Môi trường Nhật Bản, hàng
năm nước này có khoảng 450 triệu tấn rác thải, trong đó phần lớn là rác công
nghiệp (397 triệu tấn). Trong tổng số rác thải trên, chỉ có khoảng 5% rác thải
phải đưa tới bãi chôn lấp, trên 36% được đưa đến các nhà máy để tái chế, số
còn lại được xử lý bằng cách đốt hoặc chôn tại các nhà máy xử lý rác. Với rác
thải sinh hoạt của các gia đình, khoảng 70% được tái chế thành phân bón hữu
cơ, góp phần giảm bớt nhu cầu sản xuất và nhập khẩu phân bón.
8
+ Mỗi ngày Singapore thải ra khoảng 16.000 tấn rác. Rác ở Singapore
được phân loại tại nguồn (từ nhà dân, nhà máy, xí nghiệp ). Nhờ vậy 56% số
rác thải ra mỗi ngày (khoảng 9.000 tấn) quay lại các nhà máy để tái chế
khoảng 41% (7.000 tấn) được đưa vào nhà thiêu rác để đốt thành tro. Như vậy
về khối lượng, từ 16.000 tấn rác mỗi ngày, sau khi đốt rác Singapore chỉ cần
bãi đổ rác cho hơn 10% lượng rác đó, xấp xỉ 2.000 tấn. Trong khi đó, mỗi
ngày ở TP.Hồ Chí Minh thải ra khoảng 8.000 tấn rác (chỉ bằng 1/2 Singapore)
nhưng lại phải tìm chỗ chôn lấp cho ngần ấy số rác (gấp 4 lần Singapore).
Chưa hết, nhiệt năng sinh ra trong khi đốt rác được dùng để chạy máy phát
điện đủ cung cấp 3% tổng nhu cầu điện của Singapore.
+ Ở Nga, mỗi người bình quân thải ra môi trường 300 kg/người/năm
rác thải. Tương đương một năm nước này thải ra môi trường khoảng 50 triệu
tấn rác, riêng thủ đô Matxcova là 5 triệu tấn/năm.
+ Theo Ngân hàng Thế giới, các đô thị của Châu Á mỗi ngày phát sinh
khoảng 760.000 tấn chất thải rắn đô thị. Đến năm 2025, dự tính con số này sẽ
tăng tới 1,8 triệu tấn/ngày.
Thành phần rác ở các nước trên thế giới là khác nhau tùy thuộc vào thu
nhập và mức sống của mỗi nước. Đối với các nước có nền công nghiệp phát
triển thì thành phần các chất vô cơ trong chất thải phát sinh chiếm đa số và
lượng rác này sẽ là nguyên liệu cho ngành công nghiệp tái chế. Hàng năm
toàn nước Mỹ phát sinh một khối lượng rác khổng lồ lên tới 10 tỷ tấn. Trong
đó, rác thải từ quá trình khai thác dầu mỏ và khí chiếm 75%; rác thải từ quá
trình sản xuất nông nghiệp chiếm 13%; rác thải từ hoạt động công nghiệp
chiếm 9,5%; rác thải từ cặn cống thoát nước chiếm 1%; rác thải sinh hoạt
chiếm 1,5% [18].
Vấn đề quản lý, xử lý rác thải ở các nước trên thế giới đang ngày càng
được quan tâm hơn. Đặc biệt tại các nước phát triển, công việc này được tiến
hành một cách rất chặt chẽ, từ ý thức thải bỏ rác thải của người dân, quá trình
phân loại tại nguồn, thu gom, tập kết rác thải cho tới các trang thiết bị thu
gom, vận chuyển theo từng loại rác. Các quy định đối với việc thu gom, vận
chuyển, xử lý từng loại rác thải được quy định rất chặt chẽ và rõ ràng với đầy
9
đủ các trang thiết bị phù hợp và hiện đại. Một khác biệt trong công tác quản
lý, xử lý rác thải của các nước phát triển là sự tham gia của cộng đồng.
+ Có thể nói, ngành tái chế rác ở Đức đang dẫn đầu thế giới hiện nay.
Việc phân loại rác đã được thực hiện nghiêm túc ở Đức từ năm 1991. Rác bao
bì gồm hộp đựng thức ăn, máy móc bằng nhựa, kim loại hay carton được gom
vào thùng màu vàng. Bên cạnh thùng vàng, còn có thùng xanh dương cho
giấy, thùng xanh lá cây cho rác sinh hoạt, thùng đen cho thủy tinh.
Những lò đốt rác hiện đại của nước Đức hầu như không thải khí độc ra
môi trường.
Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ nhỏ bắt đầu từ việc phân
loại rác là một trong những phương pháp mà những nhà quản lý tại Đức đã áp
dụng. Rác được phân loại triệt để là điều kiện để quá trình xử lý, tái chế trở
nên thuận lợi và dễ dàng hơn rất nhiều. Từ đó, khái niệm về rác thải dần được
thay thế bằng nguồn tài sản tiềm năng, mang lại lợi nhuận đáng kể với những
ai biết đầu tư vào việc cải tiến công nghệ.
+ Tại Nhật Bản, chuyển từ hệ thống quản lý chất thải truyền thống với
dòng nguyên liệu xử lý theo một hướng sang xã hội có chu trình xử lý nguyên
liệu theo mô hình 3R (reduce, reuse, recycle). Về thu gom chất thải rắn sinh
hoạt, các hộ gia đình được yêu cầu phân chia rác thành 3 loại: Rác hữu cơ dễ
phân hủy, rác khó tái chế nhưng có thể cháy và rác có thể tái chế. Rác hữu cơ
được thu gom hàng ngày đưa đến nhà máy sản xuất phân compots; loại rác
khó tái chế, hoặc hiệu quả tái chế không cao, nhưng cháy được sẽ đưa đến nhà
máy đốt rác thu hồi năng lượng; rác có thể tái chế thì được đưa đến các nhà
máy tái chế. Các loại rác này được yêu cầu đựng riêng trong những túi có
màu sắc khác nhau và các hộ gia đình phải tự mang ra điểm tập kết rác của
cụm dân cư vào giờ quy định, dưới sự giám sát của đại diện cụm dân cư.
Công ty môi trường thành phố sẽ đưa ô tô đến đem các túi rác đó đi. Sau khi
thu gom rác vào nơi quy định, công ty vệ sinh đưa loại rác cháy được vào lò
đốt để tận dụng nguồn năng lượng cho máy phát điện. Rác không cháy được
cho vào máy ép nhỏ rồi đem chôn sâu trong lòng đất. Cách xử lý rác thải như
vậy vừa tận dụng được rác vừa chống được ô nhiễm môi trường. Túi đựng rác
là do các gia đình bỏ tiền ra mua ở cửa hàng. Việc thu gom rác ở Nhật Bản
10
không giống như ở Việt Nam. Rác thải từ hộ gia đình thuộc trách nhiệm quản
lý của nhà nước, còn từ các công ty, nhà máy cho tư nhân đấu thầu hoặc các
công ty do chính quyền địa phương chỉ định. Các doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất phải tự chịu trách nhiệm về lượng rác thải công nghiệp của họ và điều
này được quy định bằng các điều luật về Bảo vệ môi trường.
+ Tại Singapore, nhiều năm qua đã hình thành một cơ chế thu gom rác
rất hiệu quả. Việc thu gom rác được tổ chức đấu thầu công khai cho các nhà
thầu. Công ty trúng thầu sẽ được thực hiện công việc thu gom rác trên một địa
bàn cụ thể trong thời hạn 7 năm. Singapore có 9 khu vực thu gom rác. Rác
thải sinh hoạt được đưa về một khu vực bãi chứa lớn, rác thải tái chế được thu
gom và xử lý theo trương trình Tái chế Quốc gia. Có thể nói Sigapore được
xem là một quốc gia có môi trường xanh - sạch - đẹp của thế giới. Chính phủ
rất coi trọng việc bảo vệ môi trường. Cụ thể là pháp luật về môi trường được
thực hiện một cách toàn diện là công cụ hữu hiệu nhất để đảm bảo môi trường
sạch đẹp của Singapore.
Tại các nước đang phát triển thì công tác thu gom rác thải còn nhiều
vấn đề bất cập. Việc bố trí mạng lưới thu gom, vận chuyển rs thải chưa hợp
lý, trang thiết bị còn thiếu và thô sơ dẫn đến chi phí thu gom tăng mà hiệu quả
lại thấp. Sự tham gia của các đơn vị tư nhân còn ít và hạn chế. So với các
nước phát triển thì tỷ lệ thu gom rác ở các nước đang phát triển như Việt Nam
và khu vực Nam Mỹ còn thấp hơn nhiều.
Đối với các nước Châu Á chôn lấp chất thải vẫn là phương pháp phổ
biến để xử lý chất thải vì chi phí rẻ. Các bãi chôn lấp chất thải được chia
thành 3 loại: Bãi lộ thiên, bãi chôn lấp bán vệ sinh (chỉ đổ đất phủ) và bãi
chôn lấp hợp vệ sinh. Chất lượng của các bãi chôn lấp liên quan mật thiết với
GDP. Các bãi chôn lấp hợp vệ sinh thường thấy ở các nước có thu nhập cao,
trong khi đó các bãi rác lộ thiên thấy phổ biến ở các nước đang phát triển. Tuy
vậy, các nước đang phát triển đã có nỗ lực cải thiện chất lượng các bãi chôn
lấp như Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ đã hạn chế chôn lấp các loại chất thải khó phân
hủy sinh học, chất thải trơ, các loại chất thải có thể tái chế.
Theo báo cáo Diễn biến môi trường Việt Nam 2004 cho biết, hầu hết các
nước Nam Á và Đông Nam Á rác thải được chuyển đến các bãi chôn lấp hoặc các
11
bãi lộ thiên để tiêu hủy. Các nước như Việt Nam, Bangladet, Hongkong, Srilanka
Ấn Độ, Trung Quốc và Hàn Quốc có tỷ lệ chôn lấp lớn nhất lên tới 90%. Đối với
chất thải hữu cơ, ủ phân compost là phương pháp tiêu hủy chủ yếu. Một số nước
như Ấn Độ, Philippin, Thái Lan áp dụng phương pháp này khá phổ biến. Tuy
nhiên, chưa có nước nào tận dụng hết tiềm năng sản xuất phân compost.
Bảng 2.1. Các phương pháp xử lý rác thải của một số nước ở Châu Á
(đơn vị %)
Quốc gia
Bãi rác lộ
thiên, chôn lấp
Thiêu đốt
Chế biến
phân compost
Phương pháp
khác
Việt Nam 96 - 4 -
Bangladet 95 - - 5
Hongkong 92 8 - -
Ấn Độ 70 - 20 10
Indonexia 80 5 10 5
Nhật Bản 22 74 0,1 3,9
Hàn Quốc 90 - - 10
Malayxia 70 5 10 15
Philipin 85 - 10 5
Srilaka 90 - - 10
Thái Lan 80 5 10 5
(Nguồn: Viện khoa học thủy lợi, 2006)
2.2.2. Tình hình quản lý và xử lý rác thải ở Việt Nam.
2.2.2.1. Tình hình quản lý rác thải ở Việt Nam
Theo số liệu điều tra năm 2008 của Tổng cục Môi trường chất thải sinh
hoạt trong cả nước phát sinh khoảng 17 triệu tấn, trong đó rác thải sinh hoạt tại
đô thị khoảng 6,5 triệu tấn (Bộ Tài Nguyên và Môi trường, 2009). Khoảng hơn
80% số này (tương đương 12,8 triệu tấn/năm) là chất thải phát sinh từ các hộ gia
đình, các nhà hàng, khu chợ và khu kinh doanh. Tổng lượng chất thải phát sinh
từ các cơ sở công nghiệp mỗi năm khoảng 2,6 triệu tấn (chiếm 17%), do vậy
công nghiệp có thể coi là nguồn phát sinh chất thải lớn thứ hai. Khoảng 160.000
tấn/năm (chiếm 1%) trong tổng lượng chất thải rắn phát sinh ở Việt Nam được
coi là chất thải nguy hại, trong đó bao gồm cả chất thải y tế nguy hại, các chất dễ
cháy và chất độc hại phát sinh từ các quá trình sản xuất công nghiệp, và các loại
thuốc trừ sâu, thùng chứa thuốc trừ sâu phục vụ các hoạt động nông nghiệp. Mặc
dù là phát sinh với lượng ít hơn rất nhiều, song nếu không được quản lý tốt thì
12
với các tính chất độc hại, khả năng gây ung thư, tính nguy hại đối với sức khoẻ
và các tính chất nguy hại khác, chất thải nguy hại đang là mối hiểm họa lớn đối
với sức khoẻ người dân và môi trường [3].
Chất thải sinh hoạt chủ yếu tập trung ở các vùng đô thị. Các khu đô thị
tuy có dân số chỉ chiếm 24% dân số của cả nước nhưng lại phát sinh đến hơn
6 triệu tấn chất thải sinh hoạt mỗi năm (tương ứng với 50% tổng lượng chất
thải sinh hoạt của cả nước) do có lối sống khá giả hơn, có nhiều các hoạt động
thương mại hơn và đô thị hoá cũng diễn ra ở cường độ cao hơn. Chất thải sinh
hoạt ở các vùng đô thị thường có tỷ lệ các thành phần nguy hại lớn hơn như
các loại pin, các loại dung môi sử dụng trong gia đình và các loại chất thải
không phân huỷ như nhựa, kim loại và thuỷ tinh. Ngược lại, lượng phát sinh
chất thải sinh hoạt của người dân ở các vùng nông thôn chỉ cỡ bằng một nửa
mức phát sinh của dân đô thị (0,3 kg/người/ngày so với 0,7 kg/người/ngày) và
phấn lớn chất thải đều là chất thải hữu cơ dễ phân huỷ (tỷ lệ các thành phần
dễ phân huỷ chiếm 99% trong phế thải nông nghiệp và 65% trong chất thải
sinh hoạt gia đình ở nông thôn, trong khi chỉ chiếm cỡ 50% trong chất thải
sinh hoạt ở các khu đô thị).
Chất thải công nghiệp chủ yếu tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm,
khu công nghiệp, đô thị phát triển. Khoảng 80% trong số 2,6 triệu tấn chất
thải công nghiệp phát sinh mỗi năm là từ các trung tâm công nghiệp lớn ở
miền Bắc và miền Nam. Khoảng 50% lượng chất thải công nghiệp của Việt
Nam phát sinh ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận và 30% phát
sinh ở các vùng đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Thêm vào đó, gần
1.500 làng nghề mà chủ yếu là tập trung ở các vùng nông thôn miền Bắc mỗi
năm phát sinh cỡ 774.000 tấn chất thải công nghiệp không nguy hại.
Chất thải nguy hại là mối hiểm họa ngày càng lớn. Nguồn phát sinh
chất thải nguy hại lớn nhất là các cơ sở công nghiệp (với 130.000 tấn/năm) và
các bệnh viện (21.000 tấn/năm). Ngoài ra, nông nghiệp cũng là nguồn phát
sinh chất thải nguy hại, mỗi năm phát sinh khoảng 8.600 tấn các loại thuốc trừ
sâu, bao bì và thùng chứa thuốc trừ sâu và khoảng 37.000 tấn tồn lưu các loại
hoá chất nông nghiệp bị thu giữ và thuốc trừ sâu quá hạn sử dụng. Lượng chất
thải nguy hại phát sinh ở các vùng khác nhau khác biệt rõ rệt, đặc biệt là đối
13
với chất thải nguy hại phát sinh từ hoạt động công nghiệp. Lượng chất thải
công nghiệp nguy hại phát sinh từ vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chiếm
tới 75% tổng lượng chất thải công nghiệp nguy hại của cả nước. 27% tổng
lượng chất thải y tế nguy hại phát sinh từ Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và
Thanh Hoá trong khi đó chất thải nguy hại từ nông nghiệp chủ yếu phát sinh ở
vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Năm 2010 có thêm khoảng 10 triệu cư dân sinh sống ở các vùng đô thị;
Tiêu dùng sẽ tăng lên và sản xuất cũng sẽ tăng mạnh với việc phát triển thêm
nhiều ngành công nghiệp có tiềm năng phát sinh nhiều chất thải nguy hại; và
các cơ sở y tế sẽ tiếp tục được hiện đại hoá. Những biến động này sẽ làm
lượng phát sinh chất thải sinh hoạt tăng thêm 60%; lượng phát sinh chất thải
công nghiệp sẽ tăng cỡ 50% và lượng phát sinh chất thải nguy hại sẽ tăng hơn
3 lần, mà chủ yếu là từ các nguồn công nghiệp. Nếu tính đến chi phí cao cho
các hoạt động thu gom và tiêu huỷ chất thải một cách an toàn thì việc triển
khai các sáng kiến nhằm giảm thiểu phát sinh chất thải như các chương trình
nâng cao nhận thức cộng đồng, sản xuất sạch hơn và áp dụng các biện pháp
khuyến khích về kinh tế dựa trên nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả
tiền”, chúng ta sẽ tiết kiệm đáng kể nguồn kinh phí. Ví dụ như, ước tính mỗi
năm sẽ tiết kiệm được 200 tỷ đồng chi cho hoạt động xử lý chất thải sinh hoạt
và 130 tỷ đồng chi cho xử lý chất thải y tế nguy hại nếu thực hiện giảm thiểu
được 10% lượng chất thải phát sinh.
Trong 20 năm qua, Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể về
phát triển kinh tế - xã hội. Từ năm 2005 đến nay, GDP liên tục tăng, bình
quân đạt trên 7%/năm. Năm 2005, tốc độ này đạt 8,43%, là mức tăng trưởng
cao nhất trong vòng 9 năm qua. Đến cuối năm 2005, dân số Việt Nam là
83.119.900 người. Từ năm 2000 - 2005, dân số Việt Nam tăng 5,48 triệu
người, trong đó tỉ lệ dân số thành thị tăng từ 24,18% năm 2000 - 26,97% năm
2005, tương ứng tỉ lệ dân số nông thôn giảm từ 75,82% xuống 73,93%. Dự
báo đến năm 2010, dân số thành thị lên tới 30,4 triệu người, chiếm 33% dân
số và đến năm 2020 là 46 triệu người, chiếm 45% dân số cả nước [3].
Năm 1990, Việt Nam có khoảng 500 đô thị lớn nhỏ. Tính đến tháng
6/2007 có tổng cộng 729 đô thị các loại, trong đó có 2 đô thị loại đặc biệt (Hà
14
Nội và TP. Hồ Chí Minh), 4 đô thị loại I (thành phố), 13 đô thị loại II (thành
phố), 43 đô thị loại III (thành phố), 36 đô thị loại IV (thị xã), 631 đô thị loại V
(thị trấn và thị tứ). Trong những năm qua, tốc độ đô thị hóa diễn ra rất nhanh
đã trở thành nhân tố tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích về kinh tế - xã hội, đô thị hóa quá nhanh đã
tạo ra sức ép về nhiều mặt, dẫn đến suy giảm chất lượng môi trường và phát
triển không bền vững. Lượng chất thải rắn phát sinh tại các đô thị và khu công
nghiệp ngày càng nhiều với thành phần phức tạp.
Lượng chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) tại các đô thị ở nước ta đang có
xu thế phát sinh ngày càng tăng, tính trung bình mỗi năm tăng khoảng 10%.
Tỷ lệ tăng cao tập trung ở các đô thị đang có xu hướng mở rộng, phát triển
mạnh cả về quy mô lẫn dân số và các khu công nghiệp, như các đô thị tỉnh
Phú Thọ (19,9%), thành phố Phủ Lý (17,3%), Hưng Yên (12,3%), Rạch Giá
(12,7%), Cao Lãnh (12,5%) Các đô thị khu vực Tây Nguyên có tỷ lệ phát
sinh CTRSH tăng đồng đều hàng năm và với tỷ lệ tăng ít hơn (5,0%).
Tổng lượng phát sinh CTRSH tại các đô thị loại III trở lên và một số đô
thị loại IV là các trung tâm văn hóa, xã hội, kinh tế của các tỉnh thành trên cả
nước lên đến 6,5 triệu tấn/năm, trong đó CTRSH phát sinh từ các hộ gia đình,
nhà hàng, các chợ và kinh doanh là chủ yếu. Lượng còn lại từ các công sở,
đường phố, các cơ sở y tế. Chất thải nguy hại công nghiệp và các nguồn chất
thải y tế nguy hại ở các đô thị tuy chiếm tỷ lệ ít nhưng chưa được xử lý triệt
để vẫn còn tình trạng chôn lấp lẫn với CTRSH đô thị [3].
Kết quả điều tra tổng thể năm 2006 - 2007 cho thấy, lượng CTRSH đô
thị phát sinh chủ yếu tập trung ở 2 đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh. Tuy chỉ có 2 đô thị nhưng tổng lượng CTRSH phát sinh tới 8.000
tấn/ngày (2.920.000 tấn/năm) chiếm 45,24% tổng lượng CTRSH phát sinh từ
tất cả các đô thị.
Bảng 2.2. Lượng CTRSH phát sinh ở các đô thị Việt Nam đầu năm 2007
STT
Loại đô
thị
Lượng CTRSH bình
quân trên đầu người
(kg/người/ngày)
Lượng CTRSH đô thị phát
sinh
Tấn/ngày Tấn/năm
15
1 Đặc biệt 0.84 8.000 2.929.000
2 Loại I 0.96 1.885 688.025
3 Loại II 0.72 3.433 1.253.045
4 Loại III 0.73 3.738 1.364.370
5 Loại IV 0.65 626 228.490
Tổng 6.453.930
(Nguồn: Cục bảo vệ môi trường, 2008) [3].
Tính theo vùng địa lý (hay vùng phát triển kinh tế - xã hội) thì các đô
thị vùng Đông Nam bộ có lượng CTRSH phát sinh lớn nhất tới 2.450.245
tấn/năm (chiếm 37,94% tổng lượng phát sinh CTRSH các đô thị loại III trở
lên của cả nước), tiếp đến là các đô thị vùng Đồng bằng sông Hồng có lượng
phát sinh CTRSH đô thị là 1.622.060 tấn/năm (chiếm 25,12%). Các đô thị
khu vực miền núi Tây Bắc bộ có lượng phát sinh CTRSH đô thị thấp nhất chỉ
có 69.350 tấn/năm (chiếm 1,07%), tiếp đến là các đô thị thuộc các tỉnh vùng
Tây Nguyên, tổng lượng phát sinh CTRSH đô thị là 237.350 tấn/năm (chiếm
3,68%). Đô thị có lượng CTRSH phát sinh lớn nhất là TP. Hồ Chí Minh
(5.500 tấn/ngày), Hà Nội (2.500 tấn/ngày); đô thị có lượng CTRSH phát sinh
ít nhất là Bắc Kạn - 12,3 tấn/ngày; Thị xã Gia Nghĩa 12,6 tấn/ngày, Cao Bằng
20 tấn/ngày; TP. Đồng Hới 32,0 tấn/ngày; TP Yên Bái 33,4 tấn/ngày và thị xã
Hà Giang 37,1 tấn/ngày.
Tỷ lệ phát sinh CTRSH đô thị bình quân trên đầu người tại các đô thị
đặc biệt và đô thị loại I tương đối cao (0,84 - 0,96kg/người/ngày); đô thị loại
II và loại III có tỷ lệ phát sinh CTRSH đô thị bình quân trên đầu người là
tương đương nhau (0,72 - 0,73 kg/người/ngày); đô thị loại IV có tỷ lệ phát
sinh CTRSH đô thị bình quân trên một đầu người đạt khoảng 0,65
kg/người/ngày [3].
Tỷ lệ phát sinh CTRSH tính bình quân lớn nhất tập trung ở các đô thị phát
triển du lịch như TP. Hạ Long 1,38kg/người/ngày; TP. Hội An
1,08kg/người/ngày; TP.Đà Lạt 1,06kg/người/ngày; TP. Ninh Bình
1,30kg/người/ngày. Các đô thị có tỷ lệ phát sinh CTRSH tính bình quân đầu
người thấp nhất là TP. Đồng Hới (Tỉnh Quảng Bình) chỉ 0,31kg/người/ngày;
Thị xã Gia Nghĩa 0,35kg/người/ngày; Thị xã Kon Tum 0,35kg/người/ngày;
16
Thị xã Cao Bằng 0,38kg/người/ngày. Trong khi đó tỷ lệ phát sinh bình quân
đầu người tính trung bình cho các đô thị trên phạm vi cả nước là
0,73kg/người/ngày.
Bảng 2.3. Lượng CTRSH đô thị theo vùng địa lý
ở Việt Nam đầu năm 2007
ST
T
Đơn vị hành chính
Lượng CTRSH
bình quân trên
đầu người
(kg/người/ngày)
Lượng CTRSH đô thị
phát sinh
Tấn/ngày Tấn/năm
1 Đồng bằng sông Hồng 0.81 4.444 1.622.060
2 Đông Bắc 0.76 1.164 424.860
3 Tây Bắc 0.75 190 69.350
4 Bắc Trung Bộ 0.66 755 275.575
5 Duyên hải Nam Trung Bộ 0.85 1.640 598.600
6 Tây Nguyên 0.59 650 237.250
7 Đông Nam Bộ 0.79 6.713 2.450.245
8 Đông Bằng Sông Cửu Long 0.61 2.136 779.640
Tổng cộng 0.73 17.629 6.457.580
(Nguồn: Cục bảo vệ môi trường, 2008) [3].
Với kết quả điều tra thống kê chưa đầy đủ như trên cho thấy, tổng
lượng phát sinh CTRSH tại các đô thị ở nước ta ngày càng gia tăng với tỷ lệ
tương đối cao (10%/năm) so với các nước phát triển trên thế giới. Tổng lượng
phát sinh CTRSH tại các đô thị loại III trở lên và một số đô thị loại IV lên
khoảng 6,5 triệu tấn/năm (năm 2004: tổng lượng chất thải sinh hoạt của tất cả
các đô thị Việt Nam là 6,4 triệu tấn/năm). Dự báo tổng lượng CTRSH đô thị
đến năm 2010 vào khoảng hơn 12 triệu tấn/năm và đến năm 2020 khoảng gần
22 triệu tấn/năm. Để quản lý tốt nguồn chất thải này, đòi hỏi các cơ quan hữu
quan cần đặc biệt quan tâm hơn nữa đến các khâu giảm thiểu tại nguồn, tăng
cường tái chế, tái sử dụng, đầu tư công nghệ xử lý, tiêu hủy thích hợp góp
phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường do CTRSH gây ra (Cục Bảo vệ môi
trường 2008) [3].
17
Quản lý rác thải sinh hoạt tại Việt Nam, nhất là tại các thành phố như
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng,…. đang là thách
thức lớn đối với các nhà quản lý. Tốc độ tăng rác thải không chỉ vì dân số
đô thị tăng, sản xuất, dịch vụ tăng, mà còn vì mức sống của người dân đang
ngày một tăng lên. Tỷ lệ thu gom chất thải sinh hoạt các quận nội thành đạt
khoảng 95%, còn các huyện ngoại thành tỷ lệ này chỉ đạt 60%; Lượng CTR
công nghiệp được thu gom đạt 85 - 90% và chất thải nguy hại mới chỉ đạt
khoảng 60 - 70%.
Cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động thu gom rác thải chủ yếu dựa
vào kinh phí bao cấp từ ngân sách nhà nước, chưa huy động được các thành
phần kinh tế tham gia, tính chất xã hội hoá hoạt động thu gom còn thấp, người
dân chưa thực sự chủ động tham gia vào hoạt động thu gom cũng như chưa
thấy rõ được nghĩa vụ đóng góp kinh phí cho dịch vụ thu gom rác thải.
Theo nghiên cứu của URENCO thì nhiều nước đang phát triển trên thế
giới, chi phí cho công tác quản lý CTR đô thị chiếm xấp xỉ 20% tổng chi ngân
sách đô thị. Ở nước ta, các nhà chuyên môn đánh giá, tổng chi cho quản lý
CTR cũng chiếm khoảng 6,7% tổng chi phí ngân sách đô thị. Tuy nhiên vẫn
có từ 5 - 7% lượng chất thải sinh hoạt hàng ngày chưa được thu gom, xử lý.
Hơn nữa, các biện pháp xử lý rác thải hiện nay vẫn chủ yếu là chôn lấp.
Nhưng bãi rác Nam Sơn cũng chỉ xử lý được khoảng 1.603 tấn/ngày (xử lý
bằng phương pháp chôn lấp).Các nhà khoa học đã đưa ra nhiều giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý CTR ở Hà Nội, trong đó việc đầu tư sản xuất
phân compost từ chất thải được đặt lên hàng đầu.
Tại các thành phố, việc thu gom và xử lý chất thải đô thị thường do
Công ty Môi trường đô thị (URENCO) đảm nhận. Tuy nhiên đã xuất hiện các
tổ chức tư nhân tham gia công việc này (Công ty Huy Hoàng, TP. Lạng Sơn ).
Hầu hết rác thải không được phân loại tại nguồn, thường thu gom lẫn lộn và
vận chuyển đến bãi chôn lấp. Tỷ lệ thu gom tăng từ 40 - 67% năm 2002 lên đến
70 - 75% năm 2007 ở các thành phố lớn, còn ở các đô thị nhỏ tỷ lệ này tăng lên
tới 30 - 50% tỷ lệ thu gom bình quân toàn quốc vào khoảng 55%.
2.2.2.2. Tình hình xử lý rác thải tại Việt Nam
18
Từ trước tới nay, phần lớn rác thải sinh hoạt đô thị ở nước ta không
được tiêu hủy một cách an toàn, chủ yếu vẫn là đổ ở các bãi thải lộ thiên
không có sự kiểm soát, gây ra nhiều vẫn đề môi trường cho dân cư quanh
vùng, mùi hôi và nước rác là nguồn gây ô nhiễm cho môi trường đất, nước,
không khí và là ổ phát sinh ruồi, muỗi, chuột, bọ.
Các biện pháp thông dụng đơn giản, dễ thực hiện sử dụng trong thực tế
để xử lý chất thải rắn ở Việt Nam và trên thế giới hiện nay như: đổ đống, chôn
lấp, thiêu đốt, chế biến phân bón Hiệu quả xử lý cũng như những tác động
về mặt môi trường phụ thuộc rất nhiều vào thành phần chất thải và biện pháp
sử dụng.
Việc chôn lấp rác thải đã và đang gây tác động nhiều mặt đến môi
trường sống của cộng đồng: tốn diện tích đất rất lớn để chôn rác; gây mùi hôi
thối, ô nhiễm môi trường sống cho dân chúng sống cạnh hố chôn rác; nước
thải từ các đống rác chứa nhiều chất độc hại, kim loại nặng gây ô nhiễm đất
và ô nhiễm môi trường sản xuất nông nghiệp; những bãi chôn rác thường ở xa
các đô thị nên tốn kém cho công đoạn chuyên chở rác và các loại túi ni lông
đựng rác khi chôn không bị phân hủy, tồn tại rất lâu trong đất dẫn đến làm
giảm độ phì nhiêu đất. Từ đặc điểm này cho thấy muốn tận dụng các chất thải
hữu cơ sinh hoạt làm phân bón, cần thiết phải tiến hành thu gom và phân loại
rác tại nguồn. Theo báo cáo của Sở Khoa học công nghệ và Môi trường các
tỉnh, thành và theo kết quả quan trắc của 3 vùng mới chỉ có 32/64 tỉnh thành
có dự án đầu tư xây dựng bãi chôn lấp hợp vệ sinh, trong đó 13 đô thị đã được
đầu tư xây dựng. Tuy nhiên, trừ bãi chôn lấp chất thải rắn tại Khu Liên hợp
Xử lý chất thải Nam Sơn, Hà Nội và bãi chôn lấp chất thải rắn tại thành phố
Huế đang hoạt động trong sự tuân thủ các yêu cầu đảm bảo môi trường một
cách tương đối, còn các bãi khác, kể cả bãi chôn lấp rác thải hiện đại như Gò
Cát ở TP. Hồ Chí Minh, cũng đang ở trong tình trạng hoạt động không hợp vệ
sinh. Thành phố Hà Nội là địa phương đầu tiên tiến hành xử lý chất thải sinh
hoạt bằng phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh tại Khu Liên hợp Xử lý chất thải
Nam Sơn kể từ năm 1999 đến nay với tổng năng lực chôn lấp khoảng 13 triệu
tấn chất thải sinh hoạt trên tổng diện tích 83 ha.
19
Theo số liệu của Bộ Xây dựng, gần đây, đã có một số công nghệ trong
nước được nghiên cứu, phát triển với nhiều ưu điểm như khả năng phân loại
rác tốt hơn, đặc biệt là đã tái chế, tái sử dụng được phần lớn lượng chất thải,
đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường như công nghệ SERAPHIN, ANSINH-
ASC và MBT-CD.08 với sản phẩm là phân hữu cơ, các sản phẩm nhựa tái chế
làm nhiên liệu, đã được triển khai áp dụng tại Nhà máy xử lý rác Đông Vinh
(Nghệ An), Nhà máy xử lý rác Sơn Tây (Hà Nội); Nhà máy xử lý rác Thủy
Phương (TT-Huế); Nhà máy xử lý rác Đồng Văn (Hà Nam), bước đầu đã đạt
kết quả nhất định. Tuy nhiên, các công nghệ trong nước đều do doanh nghiệp
tư nhân tự nghiên cứu phát triển nên việc hoàn thiện công nghệ cũng như triển
khai ứng dụng trong thực tế còn gặp một số khó khăn (Báo cáo hiện trạng môi
trường Việt Nam, 2009) [2].
Vì vậy, vừa qua Bộ Xây dựng đã xây dựng chương trình xử lý chất thải rắn
sinh hoạt áp dụng công nghệ hạn chế chôn lấp giai đoạn 2009 - 2020, với
quan điểm kết hợp đầu tư của Nhà nước và khuyến khích, huy động các thành
phần kinh tế tham gia đầu tư trong lĩnh vực xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô
thị, đảm bảo đáp ứng mục tiêu đến năm 2020 các địa phương đều được đầu tư
xây dựng các nhà máy xử lý chất thải rắn sinh hoạt áp dụng công nghệ xử lý
hạn chế chôn lấp, đặc biệt đối với các khu xử lý chất thải rắn có tính chất
vùng bằng các nguồn vốn khác nhau nhằm giải quyết triệt để vấn đề bức xúc
về ô nhiễm môi trường do chất thải rắn sinh hoạt đô thị trong toàn quốc.
Giai đoạn 2009 đến 2015 sẽ có 85% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt đô
thị phát sinh được thu gom và xử lý đảm bảo môi trường, trong đó khoảng 60%
được tái chế, tái sử dụng, sản xuất phân hữu cơ hoặc đốt rác thu hồi năng lượng.
Giai đoạn 2016 đến 2020 sẽ có 90% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt đô thị
phát sinh được thu gom và xử lý đảm bảo môi trường, trong đó 85% được tái
chế, tái sử dụng, sản xuất phân hữu cơ hoặc đốt rác thu hồi năng lượng.
Việc thực hiện chương trình xử lý chất thải rắn sinh hoạt áp dụng công
nghệ hạn chế chôn lấp giai đoạn 2009 - 2020 có ý nghĩa to lớn đối với nước ta
trong giai đoạn hiện nay nhằm phát huy mọi nguồn lực tham gia giải quyết
những bức xúc về chất thải rắn, góp phần thực hiện chủ trương xã hội hóa
công tác quản lý chất thải rắn trong cả nước. Các nhà máy xử lý rác thải của
20
chương trình được xây dựng sẽ góp phần thực hiện mục tiêu hạn chế chôn lấp
rác thải, tiết kiệm kinh phí, đất đai, hạn chế gây ô nhiễm môi trường và giải
quyết triệt để vấn đề.
2.2.3. Tình hình quản lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
Hà Tĩnh là một tỉnh ven biển thuộc vùng Bắc Trung Bộ, với điều kiện
tự nhiên khá đa dạng, có nhiều khu di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng. Trong
những năm gần đây nền kinh tế đã có những bước chuyển biến đáng kể, tốc
độ đô thị hóa và công nghiệp hóa phát triển mạnh mẽ. Nhiều dự án phát triển
kinh tế được đầu tư; nhiều nhà máy, xí nghiệp được xây dựng; các trung tâm
thương mại, dịch vụ, khu vui chơi giải trí,… mọc lên ngày càng nhiều. Kéo
theo đó là lượng rác thải sinh hoạt phát sinh ngày càng nhiều, đây là một
trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường, mất mỹ quan, ảnh hưởng
tới sức khỏe cộng đồng.
Theo số liệu thống kê năm 2009 của sở Tài Nguyên Môi Trường Hà Tĩnh,
lượng chất thải sinh hoạt phát sinh trên địa bàn tỉnh khoảng trên 450 tấn/ ngày
đêm. Trong đó, lượng rác thải sinh hoạt phát sinh trong thành phố khoảng 60 tấn/
ngày đêm (lượng phát thải bình quân hằng ngày là 0,7 kg/người/ngày), thị xã
Hồng Lĩnh khoảng 45 tấn, còn lại là của các thị trấn huyện lỵ.
Theo báo cáo của các ngành chức năng, trừ hai khu đô thị lớn (TP. Hà
Tĩnh và thị xã Hồng Lĩnh), lượng rác được thu gom, xử lý đạt hơn 90%,
huyện Kỳ Anh đạt 54%; chín huyện còn lại lượng rác thải thu gom chỉ đạt từ
30 đến 45%. Huyện Thạch Hà với 30 xã và một thị trấn, nhưng chỉ thu gom
khoảng 1,5 tấn rác/ngày (tỷ lệ 1,4%). Bên cạnh đó, phương tiện và lao động
tham gia công tác thu gom rác thải bất cập so với yêu cầu. Hiện Hà Tĩnh mới
có 29 đơn vị (gồm 15 HTX, 9 đội, 2 tổ vệ sinh ) tham gia thu gom, vận
chuyển, xử lý rác thải với 399 lao động tham gia. Hầu hết các địa phương
khác tự phát thành lập tổ thu gom rác tại thôn, xóm, nguồn kinh phí hạn hẹp,
chủ yếu do người dân đóng góp và vận chuyển rác chủ yếu bằng xe thô sơ
hoặc công nông.
Nguồn phát sinh chất thải (CTR sinh hoạt, CTR xây dựng, CTR bệnh
viện, CTR công nghiệp) trên địa bàn tỉnh tương đối lớn và đa dạng, phân bố
khắp các địa phương. Mặc dù khối lượng rác thải phát sinh ngày càng lớn
nhưng hiện tại trên địa bàn 14 huyện thị trong tỉnh mới chỉ có 4 bãi rác được
21
đầu tư xây dựng (ở thành phố Hà Tĩnh, thị xã Hồng Lĩnh, khu du lịch Thiên
Cầm và Xuân Thành); các huyện còn lại chỉ có bãi rác tạm, không đảm bảo vệ
sinh, gây ô nhiễm môi trường.
Trong thực tế, mỗi năm lượng rác thải sinh hoạt, chất thải rắn các loại mới
chỉ thu gom được 70% để đưa về các bãi chứa và xử lí rác; 30% còn lại nằm ở
khắp các xó xỉnh, gây ảnh hưởng đến môi trường [16].
Hiện nay, Hà Tĩnh đã có qui hoạch bãi chứa và xử lí rác thải ở các đô
thị đến năm 2020 (Quyết định số 3531/QĐ-UBND ngày 9/12/2008 của
UBND tỉnh Hà Tĩnh và đang thực hiện đề án “quản lý chất thải rắn trên địa
bàn tỉnh đến năm 2015 và định hướng những năm tiếp theo”. Theo đó, nhiệm
vụ trước mắt là đẩy mạnh công tác tuyên truyền phân loại rác tại nguồn, xã
hội hóa công tác thu gom, vận chuyên, xử lý chất thải rắn trên địa bàn; các
huyện, thị, thành phố rà soát, đánh giá tình hình hoạt động của bãi rác trên địa
bàn và tiến hành định hướng vị trí đặt trạm trung chuyển hoặc khu xử lý; tập
trung cải tạo, nâng cấp xây dựng nhà máy chế biến rác thành phân vi sinh ở
Cẩm Quan (Cẩm Xuyên); xây dựng Nhà máy chế biến rác thải ở các huyện
Kỳ Anh, Thạch Hà, Hồng Lĩnh trong năm 2011- 2012. Xây dựng các bãi chôn
lấp chất thải hợp vệ sinh ở các huyện.
2.3. Cơ sở pháp lí của đề tài
- Hiến pháp 1992 nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Luật bảo vệ môi trường 2005 được Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005 và chính thức có hiệu lực từ
ngày 01/07/2006.
- Nghị định số 80/2006/NĐ - CP ngày 09/8/2006 của chính phủ về quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều luật BVMT 2005.
- Nghị định số 21/2008/NĐ - CP ngày 28/02/2008 của Chính phủ sủa
đổi bổ sung một số điều NĐ 80/2006/NĐ - CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ
về qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều luật BVMT.
- Nghị định số 81/2006/NĐ - CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT.
- Nghị định số 117/2009Đ - CP gày 31/12/2009 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BVMT.
22
- Nghị định số 59/2007/NĐ - CP ngày 09/04/2007 của Chính phủ về
quản lý chất thải rắn (CTR).
- Nghị định số 174/2007/NĐ - CP ngày 29/11/2007 của Chính phủ về
phí BVMT đối với CTR.
- Nghị định số 04/2009/NĐ - CP ngày 14/01/2009 của chính phủ về ưu đãi,
hỗ trợ hoạt động BVMT.
- Chỉ thị số 36 - CT/TW ngày 25/06/1998 của Ban chấp hành Trung
ương về việc tăng cường BVMT trong giai đoạn công nghiệp hóa và hiện đại
hóa đất nước.
- Nghị quyết số 41 - NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ chính trị về
BVMT trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
- Quyết định số 2149/QĐ - TTg ngày 17/02/2009 của thủ tướng chính phủ
về duyệt chiến lược quốc gia về quản lý tổng thể CTR đến năm 2025 và tầm
nhìn đến năm 2050.
- Chỉ thị số 23/2005/CT - TTg ngày 21/06/2005 của thủ tướng chính phủ
về việc đẩy mạnh công tác quản lý CTR tại các đô thị và khu công nghiệp.
- Thông tư số 13/2007/TT - BXD ngày 31/12/2007 của Bộ trưởng Bộ
Xây dựng về hướng dẫn một số điều của Nghị định 59/2007/NĐ - CP ngày
09/04/2007 của Chính phủ về Quản lý CTR.
- Thông tư số 39/2008/TT - BTC ngày 19/05/2008 về việc hướng dẫn
thực hiện Nghị định số 174/2007/NĐ - CP ngày 29/11/2007 của Chính phủ về
phí BVMT đối với CTR.
- Thông tư số 121/2008/TT - BTC ngày 12/12/2008 của Bộ tài chính
hướng dẫn cơ chế ưu đãi và hỗ trợ tài chính đối với hoạt động dầu tư cho
quản lý CTR.
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
23
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Hương Khê - Hương Khê - Hà Tĩnh.
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên địa bàn thị trấn Hương Khê - huyện Hương
Khê - tỉnh Hà Tĩnh từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2012.
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của thị trấn Hương Khê.
3.3.2. Hiện trạng rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Hương Khê
- Nguồn phát sinh rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Hương Khê
- Thành phần rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Hương Khê
- Lượng phát sinh rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Hương Khê
3.3.3. Tình hình quản lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Hương Khê
- Cơ cấu tổ chức của HTX bảo vệ môi trường
- Phương tiện thu gom và vận chuyển rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị
trấn Hương Khê
- Tình hình thu gom rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Hương Khê
- Tình hình phân loại, xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Hương
Khê
- Dự báo lượng rác thải sinh hoạt phát sinh trên địa bàn thị trấn Hương
Khê đến năm 2020
3.3.4. Đánh giá nhận thức của cộng đồng về công tác quản lý rác thải sinh
hoạt
3.3.5. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản
lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Hương Khê
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu
- Thu thập số liệu thứ cấp: Tại HTX BVMT thị trấn Hương Khê, Phòng
TN&MT huyện Hương Khê, UBND thị trấn Hương Khê, từ các phương tiện
thông tin đại chúng,…
- Thu thập số liệu sơ cấp:
+ Điều tra, khảo sát thực tế để lấy được tình hình chung về công tác quản
lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn.
+ Phỏng vấn bằng phiếu điều tra nhằm thu thập ý kiến của người dân
về tình hình quản lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn.
3.4.2. Phương pháp điều tra, phỏng vấn.
- Lập phiếu điều tra, phỏng vấn với các nội dung sau:
24
+ Nhận thức của người dân về các hình thức thu gom, phân loại và xử
lý rác thải.
+ Mức độ quan tâm của người dân đến công tác quản lý rác thải sinh
hoạt.
+ Việc theo dõi các thông tin về VSMT của người dân,….
- Đối tượng phỏng vấn: Hộ gia đình, các nhân.
- Phạm vi phỏng vấn: Phỏng vấn 50 hộ tại 5 khối (xóm) nội thị của thị
trấn Hương Khê.
- Hình thức phỏng vấn:
+ Tiến hành điều tra: chọn hộ phỏng vấn ngẫu nhiên tại 5 khối (xóm),
tiến hành điều tra (1 phiếu/hộ).
+ Phỏng vấn trực tiếp: Ngoài những câu hỏi trong phiếu điều tra cần
hỏi thêm những vấn đề liên quan nhằm có kết quả khách quan hơn.
3.4.3. Phương pháp xác định khối lượng, thành phần rác thải
- Phương pháp định tính: tiến hành kiểm tra, khảo sát tại các điểm như:
+ Tại chợ trung tâm (chợ Sơn).
+ Khảo sát trên các trục đừng chính trong thị trấn
+ Khảo sát tại các nhà hàng, cửa hàng,
- Phương pháp định lượng:
Tiến hành xác định khối lượng rác thải phát sinh từ đó xác định được
tỷ lệ thành phần rác thải từ các hộ gia đình: chọn ngẫu nhiên 50 hộ gia đình
trong 10 khối (xóm) trên địa bàn thị trấn. Mỗi khối chọn ngẫu nhiên 5 hộ để
tiến hành việc xác định khối lượng và thành phần rác thải phát sinh trong
ngày tại gia đình. Trước khi tới cân rác sẽ phát cho mỗi hộ gia đình 1 túi
nilon, họ sẽ thu gom toàn bộ rác thải phát sinh trong ngày tại gia đình lại.
Mình sẽ đến từng hộ gia đình đã phát túi nilon trước đó thí điểm phân loại rác
và cân rác theo từng loại khác nhau, ghi lại kết quả. Tiến hành cân rác vào giờ
cố định trong ngày. Số lần cân rác của mỗi hộ gia đình lặp lại 2 lần/tháng (cân
rác trong 3 tháng). Giữa các ngày cân rác trong tuần, trong tháng có sự luân
chuyển để cân được vào các ngày đầu tuần, giữa tuần, cuối tuần trong tháng.
Từ kết quả cân rác thực tế tại các hộ gia đình ta tính được lượng rác thải bình
25
quân đầu người và tỷ lệ thành phần rác thải phát sinh tại các hộ gia đình. Rác
sau khi được cân thì được cho ra các điểm tập kết.
3.4.4. Phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia
Tham khảo ý kiến của thầy cô giáo, những người có liên quan, ý kiến đóng
góp của các cô chú ở phòng TN&MT huyện Hương Khê.
3.4.5. Phương pháp tổng hợp, phân tích và xử lý số liệu
Từ các số liệu thu thập được, thống kê lại toàn bộ các số liệu phục vụ việc
đánh giá hiện trạng rác thải sinh hoạt, công tác quản lý rác thải sinh hoạt phát
sinh trên địa bàn thị trấn. Bên cạnh đó đánh giá nhận thức của người dân về
công tác quản lý rác thải sinh hoạt và đề xuất một số giải pháp quản lý thiết
thực phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.